Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

Nghiên cứu biện pháp nâng cao năng lực nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên chuyên ngành Điền Kinh trường Đại học TDTT Bắc Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (340.04 KB, 87 trang )

MỞ ĐẦU
* Tính cấp thiết của đề tài.
Hiệu quả của quá trình giáo dục phụ thuộc phần lớn vào trình độ năng lực sư
phạm của người giáo viên. Người thầy có đầy đủ kiến thức chun mơn mới đáp
ứng được một nửa nhiệm vụ của mình nếu thiếu phần quan trọng có tính tất yếu
đó là năng lực sư phạm, năng lực truyền đạt kiến thức đến người học. Mặt khác
năng lực sư phạm của người thầy luôn phải được nâng cao và hoàn thiện phù
hợp với quy luật phát triển của xã hội. Đó chính là mục tiêu đổi mới đào tạo của
các trường có chuyên ngành sư phạm nhằm nâng cao năng lực sư phạm cho sinh
viên trong q trình đào tạo để nhanh chóng thích ứng với các yêu cầu từ thực
tế.
Trong những năm gần đây, trường Đại học TDTT Bắc Ninh đã không ngừng
đổi mới nhằm nâng cao chất lượng đào tạo từ khâu tuyển sinh đầu vào đến việc
tăng cường đầu tư cơ sở vật chất phục vụ cho giảng dạy và tập luyện.. Đặc biệt
là nhà trường thường xuyên tổ chức các hội thảo, thực hiện các đề tài nghiên cứu
khoa học nhằm đổi mới chương trình, cải tiến phương tiện, phương pháp dạy
học để trước hết, từng bước nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường và giúp
sinh viên sau khi ra trường có được vốn kiến thức chun mơn và các kỹ năng
sư phạm tốt nhất phục vụ cho quá trình cơng tác. Do đó việc nâng cao năng lực
sư phạm cho sinh viên của trường là một trong những nhiệm vụ cấp bách có ý
nghĩa khoa học và thực tiễn cao đối với sự phát triển của nhà trường.
Điền kinh được đưa vào chương trình giáo dục phổ thơng là một môn thể
thao không thể thiếu, trong những năm tới lực lượng giáo viên, hướng dẫn viên
môn Điền kinh sẽ cần rất nhiều. Như vậy yêu cầu cao về các kỹ năng sư phạm
của người giáo viên, hướng dẫn viên môn Điền kinh là rất cần thiết. Đối với các
sinh viên đang học tập tại trường, việc học tập nâng cao năng lực chuyên môn
được quan tâm nhiều hơn do đa số các sinh viên mới vào trường bắt đầu học sâu
1


vào môn Điền kinh nên việc rèn luyện các kỹ thuật, chiến thuật... được chú trọng


hơn là việc rèn luyện nâng cao nghiệp vụ sư phạm, truyền đạt các kiến thức đến
người học. Tuy nhiên chúng ta lại chưa nhận thấy được việc nâng cao nghiệp vụ
sư phạm mới chính là việc làm cần thiết để giúp sinh viên có được những vốn
kiến thức chuyên môn đã học cho học sinh.
Năng lực sư phạm thực hành là một trong những yếu tố cơ bản để đánh giá
chất lượng đào tạo của sinh viên ngành giáo dục thể chất (GDTC). Tuy nhiên
qua thực tế tìm hiểu, Trong quá trình đào tạo ngành GDTC thì năng lực sư phạm
của sinh viên hiện nay còn bộc lộ nhiều hạn chế. Sinh viên tốt nghiệp ra trường
cịn lúng túng và gặp nhiều khó khăn khi thực hiện các thao tác, kỹ năng, tổ
chức quá trình lên lớp, soạn giáo án, đặc biệt là năng lực sư phạm còn yếu. Điều
này đặt ra cho nhà trường, các khoa, các bộ môn những thách thức rất lớn trong
công tác đào tạo, làm thế nào để từng bước nâng cao năng lực sư phạm cho sinh
viên là một trong những nhiệm vụ cấp bách có ý nghĩa khoa học và thực tiễn
cao.
Đứng trước thực trạng đó, gần đây một số tác giả, nhà khoa học có quan tâm
và đề cập tới vấn đề nghiên cứu biện pháp nâng cao năng lực sư phạm cho sinh
viên cho sinh viên trường Đại học TDTT Bắc Ninh như: Nguyễn Văn Đức
(2013), Vũ Ngọc Tuấn (2014)… Các nghiên cứu này đã đánh giá được thực
trạng cũng như đưa ra được một số biện pháp nâng cao năng lực sư phạm cho
sinh viên chuyên ngành Cầu lông và Cờ vua. Các công trình trên đã đóng góp
một phần khơng nhỏ vào việc nâng cao chất lượng công tác giảng dạy và học tập
trong nhà trường. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có tác giả nào nghiên cứu
cho sinh viên chuyên ngành Điền kinh.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Nghiên cứu biện pháp nâng cao năng lực nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên
chuyên ngành Điền kinh ngành giáo dục thể chất trường Đại học TDTT Bắc
Ninh”
2



*Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, thông qua đánh giá về thực trạng, đề tài đã lựa
chọn được biện pháp nâng cao năng lực nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên
chuyên ngành Điền kinh ngành giáo dục thể chất trường Đại học TDTT Bắc
Ninh.
*Mục tiêu nghiên cứu:
Mục tiêu 1: Đánh giá thực trạng công tác bồi dưỡng năng lực nghiệp vụ sư
phạm của sinh viên chuyên ngành Điền kinh ngành giáo dục thể chất trường Đại
học TDTT Bắc Ninh.
+ Xác định tiêu chí đánh giá nghiệp vụ sư phạm của sinh viên chuyên ngành
Điền kinh ngành giáo dục thể chất trường Đại học TDTT Bắc Ninh.
+ Đánh giá thực dụng nghiệp vụ sư phạm của sinh viên chuyên ngành Điền
kinh ngành giáo dục thể chất trường Đại học TDTT Bắc Ninh.
+ Các yếu tố ảnh hưởng tới khả năng nghiệp vụ sư phạm của sinh viên
chuyên ngành Điền kinh ngành giáo dục thể chất trường Đại học TDTT Bắc
Ninh.
Mục tiêu 2: Lựa chọn, ứng dụng và đánh giá hiệu quả các biện pháp nâng cao
năng lực nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên chuyên ngành Điền kinh ngành giáo
dục thể chất trường Đại học TDTT Bắc Ninh.
+ Căn cứ lựa chọn và xây dựng biện pháp.
+ Ứng dụng và đánh giá hiểu quả các biện pháp nâng cao nghiệp vụ
sư phạm cho sinh viên chuyên ngành Điền kinh trường TDTT Bắc Ninh.
*Nội dung nghiên cứu:
- Xác định vấn đề nghiên cứu, xây dựng thuyết minh đề tài, bảo vệ kế hoạch
nghiên cứu.
3


- Thu thập các tài liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
-Tiến hành thu thập số liệu nghiên cứu. Lập phiếu và tiến hành phỏng vấn.

- Đánh giá thực trạng năng lực sư phạm thực hành của chuyên ngành Điền
kinh trường Đại học TDTT Bắc Ninh.
- Tổ chức hội thảo
- Lựa chọn, ứng dụng và đánh giá hiệu quả các biện pháp nâng cao năng
lực sư phạm thực hành cho sinh viên chuyên ngành Điền kinh trường Đại học
TDTT Bắc Ninh.
- Xử lý số liệu. Viết và hoàn thiện đề tài.
* Ý nghĩa khoa học của đề tài:
1. Ý nghĩa lý luận của đề tài:
Đề tài nghiên cứu cơ sở lý luận, cơ sở khoa học cho việc đánh giá thực trạng
và tìm hiểu biện pháp nhằm nâng cao năng lực sư phạm thực hành cho sinh
viên chuyên ngành Điền kinh trường Đại học TDTT Bắc Ninh.
2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài:
Đề tài sẽ lựa chọn các biện pháp có hiệu quả để ứng dụng vào thực tiễn giảng
dạy nhằm nâng cao năng lực sư phạm thực hành cho sinh viên chuyên ngành
Điền kinh, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo trong trương Đại học TDTT
Bắc Ninh.

4


Chương 1

TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Những quan điểm của Đảng và Nhà nước về vấn đề cán bộ và đào tạo
cán bộ thể dục thể thao
1.1.1. Vai trò của hoạt động TDTT và yêu cầu phát triển TDTT
Quan điểm phát triển TDTT của Đảng và Nhà nước ta xuất phát từ các
quan điểm phát triển TDTT của chủ nghĩa Mác - Lê nin và căn cứ vào điều
kiện lịch sử , kinh tế xã hội cụ thể của nước ta. Nó được xây dựng và phát triển

theo các giai đoạn cách mạng và lịch sử nhất định nhằm phục vụ chiến lược
của Đảng và dân tộc ta.
Chủ nghĩa Mác - Lê nin nhấn mạnh: Tất cả tập trung cho con người, vì
“Con người là quyền lực tự nhiên trước một vật tự nhiên với sức lực tự nhiên
của bản thân, chân tay đầu óc con người vận động để thích nghi với tự nhiên
cần thiết cho cuộc sống của mình”. Như vậy Mác cho rằng, con người cần phát
triển cả về thể lực và trí tuệ. Anghen phê phán mạnh mẽ quan điểm tách rời
việc đào tạo thể chất với trí lực: “Sự đào tạo chỉ một hoạt động đơn thuần sẽ
làm tổn thương đến tất cả kỹ năng về thể chất và trí tuệ của con người”.
Trong chương trình xây dựng Đảng cơng nhân xã hội Nga, Lê nin nói:
“Thể thao lành mạnh - thể dục, bơi, đi bộ và các bài tập thể chất đa dạng về
sở thích, cơng tác tư tưởng, học tập, nghiên cứu khoa học và nhiều cái nữa rất
cần thiết cho thanh niên”.
Lê nin - Người sáng lập Nhà nước XHCN đầu tiên trên thế giới và là một
lãnh tụ thiên tài của giai cấp vô sản, là người coi trọng hoạt động thể dục thể
thao. Người coi sự phát triển TDTT là hết sức cần thiết cho xã hội, cho bảo vệ
thành quả của cách mạng, cho giáo dục toàn dân, cho sự phát triển các điều
kiện sống và lao động. Quan điểm của Người là kết hợp giữa giáo dục và đào
5


tạo tồn diện, là biện pháp để nâng cao trình độ văn hóa, trình độ chun mơn
và nâng cao năng suất lao động nói chung. Lê nin rất coi trọng sự phát triển thể
chất, trước hết là thế hệ trẻ. Người nói:” Thanh niên cần sự vui vẻ trong cuộc
sống và cần có sức sống cao. Thể thao lành mạnh - thể dục - bơi lội - đi bộ,
các loại bài tập thể chất đa dạng về sở thích, cơng tác tư tưởng, học tập,
nghiên cứu khoa học và nghiên cứu nhiều cái khác nữa rất cần cho họ”.
Vậy theo các nhà sáng lập ra học thuyết Mác - Lê nin thì TDTT là một bộ
phận khơng thể thiếu được trong đời sống của con người. Người khẳng định
TDTT là phương thức để đào tạo và phát triển con người tồn diện, nó là

phương tiện phục vụ lợi ích giai cấp, lợi ích xã hội.
Tiếp thu chủ nghĩa Mác- Lê nin, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi nhân tố phát
triển xã hội là con người. Người khằng định TDTT là phương thức để đào tạo
con người tồn diện, nó là phương tiện phục vụ lợi ích giai cấp, lợi ích xã hội.
Người đã khẳng định: “có sức khỏe là có tất cả, muốn có sức khỏe phải tập
luyện TDTT vì nó cũng là một cơng tác trong những cơng tác cách mạng
khác” và “ giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì có
sức khỏe mới thành công” . Bác xem: “Tập luyện thể thao, bồi bổ sức khỏe là
bổn phận của mỗi người dân yêu nước”. Bác khẳng định “Mỗi người dân mạnh
khỏe tức là góp phần cho cả nước mạnh khỏe”. Câu khẳng định đó cho ta thấy
tầm quan trọng của việc tập TDTT trong việc nâng cao sức khỏe toàn dân phục
vụ cách mạng trong từng giai đoạn.Thủ tướng Phạm Văn Đồng khẳng định:
”Đức dục, trí dục rất quan trọng nhưng thiếu thể dục không thể được, không
phục vụ công tác cách mạng, phục vụ sản xuất được”.
Chỉ thị 36/CT-TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng chỉ rõ : ”Phát triển
TDTT là một bộ phận quan trọng trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội
của Đảng và Nhà nước, nhằm bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người, cơng
tác TDTT phải góp phần nâng cao sức khỏe, thể lực, giáo dục nhân cách, đạo
đức, lối sống lành mạnh làm phong phú đời sống văn hóa, tinh thần của nhân
6


dân, nâng cao năng suất lao động xã hội và chiến đấu của lực lượng vũ
trang… Phát triển TDTT là trách nhiệm của các cấp ủy Đảng chính quyền, các
đồn thể nhân dân và tổ chức xã hội, là nhiệm vụ của tồn xã hội. Trong đó
ngành TDTT giữ vai trị nịng cốt. Xã hội hóa hoạt động TDTT dưới sự thống
nhất quản lý của nhà nước”.
Những quan điểm của Đảng và Nhà nước về TDTT, được xuất phát từ
những cơ sở tư tưởng, lý luận của học thuyết Mác – Lên nin về con người và
sự phát triển con người toàn diện, về giáo dục thế hệ trẻ trong XHCN, về

những nguyên lý giáo dục thể chất Mác - xít, từ quan điểm của Hồ Chí Minh
về TDTT nói chung và gióa dục thể chất cho thế hệ trẻ nói riêng.
Với vị trí và tầm quan trọng của TDTT trong sự nghiệp cách mạng giải
phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội Đảng và Nhà nước ta đã xác định
mục tiêu trước mắt và lâu dài của TDTT.
- Về nhiệm vụ trước mắt TDTT phải góp phần trực tiếp nâng cao sức khỏe
cho toàn dân để thiết thực phục vụ cho sản xuất, công tác, học tập và sẵn sàng
bảo vệ tổ quốc.
- Về mục tiêu lâu dài của TDTT là góp phần cải tạo giống nịi, làm cho
người ngày càng cường tráng, có sức khỏe tốt, tăng về chiều cao và cân nặng,
khả năng chống lại bệnh tật và tăng tuổi thọ…
Quan điểm TDTT của Đảng và Nhà nước ta được phản ánh trong điều 48
(Hiến pháp 1980) và điều 41 (Hiến pháp 1992). Tuy nhiên, các quan điểm cẩn
phải được cụ thể hóa thành các chủ trương chính sách cụ thể và thực thi trong
thực tiễn. Khái quát các quan điểm đó như sau:
- Một là: Thể dục thể thao là một bộ phận công tác cách mạng. Trong giai
đoạn hiện nay, phát triển TDTT là một bộ phận quan trọng không thể thiếu

7


trong chính sách phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước tồn diện, vì
đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển xã hội.
- Hai là: TDTT nước ta phải là một nền thể dục thể thao phát triển có tính
khoa học và nhân dân. TDTT phải góp phần bảo vệ và phát huy bản sắc, truyền
thống văn hóa dân tộc, đồng thời phát triển thể dục thể thao hiện đại phù hợp
với đặc điểm của nước ta.
- Ba là: TDTT phải xuất phát từ dân và vì dân, phải coi trọng phát triển
TDTT ở các đối tượng tầng lớp nhân dân, trong đó tập trung hàng đầu vào thế
hệ trẻ, đặc biệt là thanh niên, học sinh.

- Bốn là: TDTT là sự nghiệp của quần chúng, là bổn phận của mỗi người dân
yêu nước, là trách nhiệm của toàn xã hội. Mỗi tổ chức Đảng, chính quyền tổ
chức xã hội ở cac cấp, mỗi gia đình, mỗi cá nhân đều coi phát triển TDTT là
trách nhiệm của đơn vị và bản thân mình.
Để đảm bảo cho TDTT phát triển đúng hướng, cần tạo sự quản lý thống
nhất của Nhà nước và xúc tiến quá trình xã hội hóa TDTT trong các tổ chức và
cơ sở hoạt động.
1.1.2. Công tác cán bộ và nâng cao chất lượng yêu cầu đào tạo cán bộ
nói chung và cán bộ làm cơng tác TDTT nói riêng hiện nay.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc” và “
công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”.
Đảng ta khẳng định: “Con người là vốn quý nhất, chăm lo hạnh phúc của
con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta và cố gắng làm nhiều
việc theo hướng đó. Con người được phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về
thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức, là động lực của xây
dựng xã hội mới…”.

8


Trong bối cảnh hiện nay, nền giáo dục nước ta đang bộc lộ nhiều yếu kém
đáng lo ngại, yếu kém chủ yếu nhất là chậm chuyển biến với nền kinh tế đang
đổi mới, sự lạc hậu của giáo dục, thể hiện từ hệ thống đến mục tiêu, chương
trình và nội dung, phương phát giáo dục trên cả ba phương diện: Quy mô, chất
lượng và hiệu quả, nên không đạt được yêu cầu phát triển của đất nước.
Nguyên nhân chủ yếu là các cấp ủy Đảng, chính quyền đến tồn xã hội coi
trọng nhưng thực tế chưa nhận thức đúng mực về tầm quan trọng về vai trị, vị
trí của giáo dục, chưa có chủ trương, chính sách cụ thể và kịp thời để thúc đẩy
giáo dục phát triển.
Nguyên nhân thứ hai là ngành Giáo dục và Đào tạo chậm đổi mới từ tư duy

đến giải pháp, từ chủ trương đến cơ chế quản lý.
Nguyên nhân thứ ba là chất lượng đội ngũ giáo viên các cấp học hiện nay
rất bất cập so với yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo. Động lực của một số ít
người bị giảm sút. Vì vậy với ý nghĩa “ Giáo dục là quốc sách hàng đầu” và “
Giáo dục đóng vai trị then chốt trong toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ Tổ quốc là một động lực đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc
hậu vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới” .
Đối với đội ngũ cán bộ chuyên ngành TDTT, Đảng và Nhà nước ta cũng rất
coi trọng công tác đào tạo, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ hiện nay, công
việc này phải được tiến hành ngay từ khâu đào tạo tại các nhà trường.
Để có nguồn nhân lực hoạt động, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, giáo
viên thể dục, trọng tài… của ngành được coi trọng. Hiện nay hệ thống nhà
trường đào tạo cán bộ ngành về cơ bản đã được mở rộng tại ba miền với năng
lực đào tạo cán bộ các loại ước khoảng 4.500 người/năm.
Tuy nhiên những nhược điểm của nhà trường hiện nay là: Cơ sở vật chất kỹ
thuật còn yếu kém, trang thiết bị giảng dạy lạc hậu, đội ngũ giáo viên thiếu và
9


yếu. Công tác khoa học tại các trường đại học của ngành cũng còn hạn chế. Sự
phối hợp giữa các đơn vị còn rời rạc, hiệu quả ngiên cứu chưa cao.
Trong cơng tác cán bộ, cịn một số điểm cần lưu ý như sau:
- Tình hình phân bố cán bộ TDTT trong vùng và lãnh thổ chưa đồng đều
trong phạm vi cả nước, nhiều nơi có nhu cầu cán bộ nhưng khơng bố trí được.
- Cán bộ TDTT cịn thiếu về số lượng yếu về trình độ chính trị, chun môn,
năng lực điều hành và ngoại ngữ. Cán bộ TDTT ở các địa phương còn hạn chế
nhiều so với lực lượng cán bộ ở trung ương về trình độ chuyên mơn, phần lớn
chỉ ở trình độ cao đẳng, trung học (63.73%), một số đạt trình độ đại học
(23,87%), số trình độ trên đại học rất thấp (0,4%) đặc biệt đối với ngành giáo
dục. Số lượng giáo viên TDTT đặc biệt thiếu ở các trường tiểu học và mẫu

giáo. Nhìn chung mới chỉ đảm bảo trên 30% so với yêu cầu.
1.2. Quan điểm chỉ đạo “Về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại
học Việt Nam giai đoạn 2006 – 2020”.
Sau 20 năm đổi mới và 5 năm thực hiện “Chiến lược phát triển giáo dục
2001 – 2010”, giáo dục đại học nước ta đã phát triển rõ rệt về quy mơ, đa dạng
hóa về loại hình và các hình thức đào tạo và huy động được nhiều nguồn lực xã
hội. Chất lượng giáo dục đại học ở một số ngành, lĩnh vực, cơ sở giáo dục đại
học có những chuyển biến tích cực, từng bước đáp ứng yêu cầu phát triển kinh
tế - xã hội. Đội ngũ cán bộ có trình độ đại học và trên đại học mà đại đa số
được đào tạo tại các cơ sở trong nước đã góp phần quan trọng trong việc đổi
mới và xây dựng đất nước.
Tuy nhiên, những thành tựu nói trên của giáo dục đại học chưa vững chắc,
chưa mang tính hệ thống và cơ bản, chưa đáp ứng được những địi hỏi của sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhu cầu học tập của nhân dân
và yêu cầu hội nhập quốc tế trong giai đoạn mới. Nhũng yếu kém, bất cập về
10


cơ chế quản lý, cơ cấu hệ thống, cơ cấu ngành nghề, mạng lước cơ sở giáo dục
hệ thống đai học, quy trình đào tạo, phương pháp dạy và học, đội ngũ giảng
viên và cán bộ quản lý giáo dục, hiệu quả sử dụng nguồn lực và những tiêu cực
trong thi cử, cấp bằng và một số hoạt động giáo dục khác cần sớm được khắc
phục.
Để nhanh chóng đáp ứng yêu cầu của đất nước trong giao đoạn mới, giáo
dục đại học nước ta phải đổi mới một cách mạnh mẽ, cơ bản và tồn diện. Tại
phiên họp Chính phủ tháng 7 năm 2005, Chính phủ đã ra nghị quyết về Đề án
đổi mới giáo dục đại học Việt Nam với những nội dung sau:
Quan điểm chỉ đạo:
- Gắn kết chặt chẽ đổi mới giáo dục đại học với chiến lược phát triển kinh tế
- xã hội, quốc phòng, an ninh.

- Hiện đại hóa hệ thống giáo dục đại học trên cơ sở kế thừa những thành quả
giáo dục đào tạo của đất nước, phát huy bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa nhân
loại, nhanh chóng tiếp cận xu thế phát triển giáo dục đại học tiên tiến trên thế
giới.
- Đổi mới giáo dục đại học phải đảm bảo tính thực tiễn, hiệu quả và đồng bộ.
Việc mở rộng quy mô phải đi đôi với nâng cao chất lượng, thực hiện công bằng
xã hội phải đi đôi với bảo đảm hiệu quả đào tạo, phải tiến hành đổi mới từ mục
tiêu, quy trình, nội dung đến phương pháp, gắn bó chặt chẽ và tạo động lực để
tiếp tục đổi mới giáo dục phổ thông và giáo giáo dục nghề nghiệp.
- Đổi mới quản lý giáo dục đại học theo hướng nâng cao tính tự chủ, tăng
cường trách nhiệm xã hội, tính minh bạch của các cơ sở giáo dục đại học. Phát
huy tính tích cực và chủ động của các cơ sở giáo dục đại học trong công việc
đổi mới mà nòng cốt là đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý và sự hưởng ứng,
tham gia tích cực của toàn xã hội.
11


- Đổi mới giáo dục đại học là sự nghiệp của toàn dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng và quản lý của Nhà nước. Nhà nước tăng cường cho đầu tư giáo dục đại
học, đồng thời đẩy mạnh hóa giáo dục.
Mục tiêu.
- Mục tiêu chung:
Đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học, tạo được chuyển biến cơ bản
về chất lượng về quy mô, đáp ứng yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế và nhu
cầu học tập của nhân dân. Đến năm 2020, giáo dục đại học Việt Nam đạt trình
độ tiên tiến trong khu vực và tiếp nhận trình độ tiên tiến trên thế giới.
- Mục tiêu cụ thể:
+ Hoàn chỉnh mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học trên phạm vi tồn quốc,
có sự phân tầng về chức năng, nhiệm vụ đào tạo, bảo đảm hợp lý cơ cấu trình
độ, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng miền, phù hợp với chủ trương cơ hội hóa

giáo dục và quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội của nhà nước và của
địa phương.
+ Phát triển các chương trình giáo dục đại học theo định hướng nghiên cứu
và định hướng nghề nghiệp - ứng dụng. Bao đảm sự liên thơng giữa các
chương trình trong hệ thống. Xây dựng và hoàn thiện các giải pháp bảo đảm
chất lượng cấp quốc tế.
+ Mở rộng quy mô đào tạo, đạt tỉ lệ 200 sinh viên/ 1 vạn dân vào năm 2010
và 450 sinh viên/ 1 vạn dân vào năm 2020, trong đó khoảng 70 – 80% tổng số
các sinh viên theo chương trình nghề nghiệp - ứng dụng và khoảng 40% tổng
số các sinh viên thuộc các cơ sở giáo dục đại học ngồi cơng lập.
+ Xây dựng đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục đại học đủ về số
lượng, có phẩm chất đạo đức và lương tâm nghề nghiệp, có trình độ chun mơn
cao, phong cách giảng dạy và trình độ quản lý tiên tiến, bảo đảm tỉ lệ sinh
12


viên/giảng viên của cả hệ thống giáo dục đại học khơng q 20. Đến năm 2010
có ít nhất 40% giảng viên đạt trình độ thạc sĩ và 25% đạt trình độ tiến sĩ, đến
năm 2020 có ít nhất 60% giảng viên đạt trình độ thạc sĩ và 35% giảng viên đạt
trình độ tiến sĩ.
+ Nâng cao rõ rệt quy mơ và hiệu quả hoạt động khoa học và công nghệ
trong các cơ sở giáo dục đại học. các trường đại học lớn phải là các trung tâm
nghiên cứu khoa học mạnh của nhà nước, nguồn thu từ các hoạt động khoa học
và công nghệ, sản xuất và dịch vụ đạt tối thiểu 15% tổng nguồn thu của các cơ
sở giáo dục đại học vào năm 2010 và 25% vào năm 2020.
+ Hồn thiện chính sách phát triển giáo dục đại học theo hướng bảo đảm
quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục đại học, sự quản lý
của Nhà nước và vai trò giám sát, đánh giá của xã hội đối với giáo dục đại học.
Nhiệm vụ và giải pháp đổi mới.
- Đổi mới cơ cấu đào tạo và hoàn thiện mạng lưới cơ sở giáo dục đại học:

+ Rà soát, đánh giá mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học hiện có, đổi mới
các quy hoạch phát triển mạng lưới, bảo đảm thực hiện đúng các mục tiêu phát
triển giáo dục.
+ Ưu tiên mở rộng quy mơ các chương trình định hướng nghề nghiệp - ứng
dụng , áp dụng quy trình đào tạo mềm dẻo, liên thơng, kết hợp mơ hình truyền
thống với mơ hình đa giai đoạn để tăng cơ hội học tập và phân tầng trình độ
nhân lực.
+ Chuyển cơ sở giáo dục đại học bán công và một số cơ sở giáo dục đại học
cơng lập sang loại hình giáo dục tư thục, hồn thiện mơ hình trường cao đẳng
cộng đồng và xây dựng quy chế chuyển tiếp đào tạo với các trường đại học,
củng cố các đại học mở để có thể mở rộng quy mơ của hai loại trường này.
Khuyến khích mở cơ sở giáo dục đại học trong các tập đoàn, các doanh nghiệp
13


lớn. Nghiên cứu mơ hình tổ chức và có kế hoạch cụ thể sáp nhập cơ sở giáo dục
đại học với các cơ sở nghiên cứu khoa học để gắn kết chặt chẽ đào tạo với
nghiên cứu khoa học và sản xuất, kinh doanh.
+ Tập trung đầu tư, huy động chun gia trong và ngồi nước và có cơ chế
phù hợp để xây dựng trường đại học đẳng cấp quốc tế.
- Đổi mới nội dung, phương pháp và quy trình đào tạo:
+ Cơ cấu lại khung chương trình, bảo đảm sự liên thông giữa các cấp học.
Đổi mới nội dung đào tạo, gắn kết chặt chẽ với thực tiễn nghiên cứu khoa
học,phát triển công nghệ và nghề nghiệp trong xã hội phục vụ yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội của từng ngành, từng lĩnh vực, tiếp cận trình độ tiên tiến của thế
giới. Phát triển tiềm năng nghiên cứu sáng tạo, kỹ thuật nghề nghiệp, năng lực
hoạt động trong cộng đồng và khả năng lập nghiệp của người học.
+ Triển khai đổi mới phương pháp đào tạo theo ba tiêu chí: trang bị các học,
phát huy tính chủ động của người học, sử dụng công nghệ thông tin và truyền
thông trong học hoạt động dạy và học. Khai thác các nguồn tư liệu giáo dục mở

và nguồn tư liệu trên mạng Internet. Lựa chọn, sử dụng các chương trình, giáo
trình tiên tiến của các nước.
+ Xây dựng và thực hiện lộ trình chuyển sang chế độ đào tạo theo hệ thống tín
chỉ, tạo điều kiện thuận lợi để người học tích lũy kiến thức, chuyển đổi nghành,
liên thơng, chuyển tiếp tới các cấp học tiếp theo ở trong nước và ở ngoài nước.
+ Đổi mới cơ chế giao chỉ tiêu tuyển sinh theo hướng gắn với điều kiện bảo
đảm chất lượng đào tạo, yêu cầu sử dụng nhân lực, nhu cầu học tập của nhân
dân và tăng quyền tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học.
+ Cải tiến tuyển sinh theo hướng áp dụng công nghệ đo lường giáo dục hiện
đại. Mở rộng nguồn tuyển, tạo thêm cơ hội học tập cho các đối tượng khó khăn,
bảo đảm công bằng xã hội trong tuyển sinh.
14


+ Chấn chỉnh công tác tổ chức đào tạo, đổi mới nội dung, phương pháp đào
tạo để nâng cao chất lượng đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ.
- Đổi mới công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng giảng viên và
cán bộ quản lý:
+ Xây dựng và thực hiện quy hoạch đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý giáo
dục đại học, bảo đảm đủ về số lượng, nâng cao chất lượng, đáp ứng yêu cầu đổi
mới giáo dục đào tạo.
+ Đổi mới mạnh mẽ nội dung, chương trình và phương pháp đào tạo, bồi
dưỡng giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục đại học. chú trọng nâng cao trình
độ chun mơn và nghệp vụ sư phạm của giảng viên, tầm nhìn chiến lược, năng
lực sáng tạo và tính chuyên nghiệp của cán bộ lãnh đạo, quản lý.
+ Đổi mới phương thức tuyển dụng theo hướng khách quan, cơng bằng và có
yếu tố cạnh tranh. Hồn thiện và thực hiện cơ chế hợp đồng dài hạn, bảo đảm sự
bình đẳng giữa giảng viên biên chế và hợp đồng, giữa giảng viên ở cơ sở giáo
dục công lập và cơ sở giáo dục ngồi cơng lập.
+ Xây dựng và ban hành sách mới đối với giảng viên bao gồm: tiêu chuẩn

giảng viên, định mức lao động, điều kiện làm việc, nhiệm vụ khoa học và công
nghệ, chế độ nghỉ dạy dài hạn để trao đổi học thuật và cơ chế đánh giá khách
quan kết quả công việc. Ban hành chính sách, chế độ kiêm nghiệm giảng dạy.
+ Đổi mới quy trình bổ nhiệm, miễn nhiệm chưc danh giáo sư, phó giáo sư
theo hướng giao cho các cơ sở giáo dục đại học thực hiện dựa trên các tiêu
chuẩn và điều kiện chung do nhà nước quy định. Định kỳ đánh giá để bổ nhiệm
lại hoặc miễn nhiệm các chức danh giáo sư, phó giáo sư. Cải cách thủ tục hành
chính xét cơng nhận giảng viên, giảng viên chính.
- Đổi mới tổ chức triển khai các hoạt động và công nghệ:

15


+ Nhà nước đầu tư nâng cấp, xây dựng mới một số cơ sở nghiên cứu mạnh
trong các cơ sở giáo dục đại học, trức mắt tập trung cho các trường trọng điểm.
Khuyến khích thành lập các cơ sở nghiên cứu, các doanh nghiệp khoa học và
công nghệ trong các cơ sở giáo dục đại học.
+ Đây mạnh nghiên cứu khoa học giáo dục. Thực thi pháp luật về sở hữu trí
tuệ.
+ Quy định cụ thể nhiệm vụ nghiên cứu khoa học của giảng viên, gắn việc
đào tạo nghiện cứu sinh với việc thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học và cơng
nghệ. Có chính sách phù hợp để sinh viên, học viên cao học tích cực tham gia
nghiên cứu khoa học.
+ Bố trí tối thiểu 1% ngân sách nhà nước hàng năm để các cơ sở giáo dục
đại học thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ được quy định trong
Luật khoa học và Công nghệ.
- Đổi mới việc huy động nguồn lực cơ chế tài chính:
+ Nhà nước tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng cho giáo dục đại học, tập chung
đầu tư một số cơ sở dung chung. Các địa phương điề chỉnh quy hoạch, dành quỹ
đất để xây dung cơ sở giáo dục đại học hiện đại, đạt tiêu chuẩn khu vực và quốc

tế.
+ Nhà nước có chính sách ưu đãi, hỗ trợ, khuyến khích các nhà đầu tư trong
nước và nước ngồi đầu tư vào lĩnh vực giáo dục đại học, bảo đảm quyền sở hữu
theo pháp luật và các quyền lợi về vật chất và tinh thần của nhà đầu tư.
+ Các cơ sở giáo dục đại dục học chủ động thực hiện đa dạng hóa nguồn thu
từ các hợp đồng đào tạo, nghiên cứu và triển khai, chuyển giao công nghệ, các
hoạt động dịch vụ, sản xuất, kinh doanh.

16


+ Xây dựng lại chính sách học phí, học bổng, tín dụng sinh viên. Nhà nước
thực hiện sự trọ giúp tồn bộ hoặc một phần học phí đối với các đối tượng chính
sách, người nghèo và cấp trực tiếp cho người học.
+ Đổi mới chính sách tài chính nhằm tăng hiệu quả đầu tư từ ngân sách và
khai thác các nguồn đầu tư khác cho giáo dục đại học.
+ Tạo cơ chế và điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư, các cơ sở giáo dục đại
học có uy tín trên thế giới mở cơ sở giáo dục đại học quốc tế tại Việt Nam hoặc
liên kết đào tạo với các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam.
Tổ chức thực hiện.
-Thành lập ban chỉ đạo đổi mới giáo dục đại học do một Phó thủ tướng đứng
đầu để chỉ đạo việc đổi mới giáo dục đại học.
- Xây dựng các đề án chi tiết để chiển khai thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ
và giải pháp đổi mới giáo dục đại học.
- Kinh phí thực hiện đổi mới giáo dục đại học được bố trí từ ngân sách Nhà
nước.
- Trách nhiệm của các cơ quan quản lý Nhà nước.
+ Tổ chức triển khai thực hiện các đề án chi tiết đổi mới giáo dục đại học.
+ Xây dựng kế hoạch, lộ trình cụ thể theo các giai đoạn của kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội 5 năm, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát, tổng hợp tình hình

đổi mới giáo dục đại học và định kỳ báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
+ Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với bộ tài chính, Bộ Giáo dục và
Đào tạo, Bộ Khoa học và Công nghệ xây dựng cơ chế huy động các nguồn lực
đầu tư trịn và ngồi nước, trình Quốc hội việc bố trí ngân sách nhà nước hàng
năm.

17


+ Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Giáo dục và
Đào tạo và các Bộ, ngành liên quan hồn thiện chính sách tài chính đối với giáo
dục đại học, cơ chế tự chủ tài chính đối với giáo dục đại học, cơ chế tự chủ tài
chính đối với cơ sở giáo dục đại học.
+ Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với Bộ giáo dục và Đào tạo, Bộ Khoa học và
Công nghệ và các Bộ, nghành liên quan xây dựng cơ chế tự chủ của các cơ sở
giáo dục đại học cơng lập, chính sách đối với giảng viên đại học, đề xuất mơ
hình tổ chức cụ thể sát nhập cơ sở giáo dục đại học với các cơ sở nghiên cứu
khoa học.
+ Thực hiện hoạch toán thu - chi đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập.
Bổ sung, hồn chỉnh các quy chế về tài chính đối với các cơ sở giáo dục đại học
ngồi cơng lập.
- Đổi mới cơ chế quản lý:
+ Chuyển các cơ sở giáo dục đại học công lập sang hoạt động theo cơ chế tự
chủ, có pháp nhân đầy đủ, cố quyền quyết định và chịu trách nhiệm về đào tạo,
nghiên cứu, tổ chức, nhân sự và tài chính.
+ Xóa bỏ cơ chế chủ quản, xây dựng cơ chế đại diện sở hữu nhà nước đối với
các cơ sở giáo dục đại học công lập.
+ Quản lý nhà nước tập trung vào việc xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến
lược phát triển, chỉ đạo triển khai hệ thống bảo đảm chất lượng và kiểm định
giáo dục đại học, hồn thiện mơi trường pháp lý, tăng cường công tác kiểm tra,

điều tiết vĩ mô cơ cấu và quy mô giáo dục đại học, đáp ứng nhu cầu nhân lực
của đất nước trong từng thời kỳ.
+Xây dựng luật giáo dục đại học.
- Về nội dung hội nhập quốc tế:
18


+ Xây dựng chiến lược hội nhập quốc tế, nâng cao năng lực hợp tác và sự
cạnh tranh của giáo dục đại học Việt Nam thực hiện các hiệp định và cam kết
quốc tế.
+ Triển khai việc day học bằng tiếng nước ngồi, nâng cao các trương trình
đào tạo và nghiên cứu có khả năng thu hút người nước ngồi, tiếp thu có chọn
lọc các trương trình đào tạo tiên tiến của thế giới, đạt được thỏa thuận về tương
đương văn bằng chương trình đào tạo với các cơ sở giáo dục đại học trên thế
giới, khuyến khích các hình thức liên kết đào tạo chất lượng cao, trao đổi giảng
viên, chun gia với nước ngồi, khuyến khích giảng viên là người Việt Nam,
tăng số lượng lưu học sinh nước ngoài tại Việt Nam.
1.3. Vấn đề đào tạo giáo viên nói chung và giáo viên TDTT nói riêng trong
các nhà trường hiện nay.
Hiện nay, khơng riêng gì nước ta mà hầu hết các nước trên thế giới đều chú
trọng nâng cao chất lượng dạy và học. Đây là vấn đề khó khăn nhất đối với sự
nghiệp phát triển giáo dục đào tạo nhằm đáp ứng địi hỏi của cơng cuộc cơng
nghiệp hóa, hện đại hóa đất nước trong thế kỷ XXI. Muốn nâng cao chất lượng
dạy học, điều quan trọng bậc nhất là đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên – một
yếu tố có yếu tố quyết định chất lượng, hiệu quả dạy học – làm sao cho họ có đủ
bản lĩnh chính trị, trình độ chun mơn và năng lực nghiệp vụ sư phạm để đáp
ứng tốt với yêu cầu đổi mới nội dung và phương pháp dạy học ở phổ thơng, góp
phần thiết thực nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục mà hiện nay đang giảm
sút một cách đáng lo ngại. Vấn đề này không thể khơng bắt đầu từ nhận thức về
lý luận, trong đó cần thiết xác định một quan niệm và nguyên tắc đào tạo cho

đúng đắn, phù hợp.
Quan niệm về đào tạo giáo viên sẽ quy định nội dung và hình thức đào tạo.
Một quan niệm đào tạo truyền thống hay hiện đại sẽ dẫn đến việc xác định nội
dung, phương thức đào tạo cũ hay mới. Trước đây, theo cách tiếp cận truyền
19


thống, việc giáo dục giáo viên ở trường sư phạm chỉ chú trọng trang bị kiến thức
chuyên môn, rồi thứ đến mới chú ý tới việc truyền đạt ý thức, còn việc thực
hành nghề nghiệp trong thực tế học tập hang ngày thì rất ít được coi trọng. Ở
đây, mơ hình đào tạo giáo viên là những chuyên gia về mơn học. Mơ hình này
xuất phát từ triết lý giáo dục lấy người học làm trung tâm, từ cách tiếp cận việc
dạy bằng chính hoạt động dạy.
Theo tư tưởng sư phạm hiện đại, việc đào tạo giáo viên được xác định trước
hết không phải bằng hoạt động dạy mà phải bằng các hoạt động học của người
học. Nói cách khác, cách tiếp cận hoạt động dạy phải xuất phát từ cách đặt vấn
đề về cách thức học sinh như thế nào. Bởi vì, mọi hành động của giáo viên đều
nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc học của học sinh. Đây là quan niệm đào
tạo giáo viên theo triết lý giáo dục lấy người học làm trung tâm. Đặt học sinh
vào vị trí trung tâm của q trình dạy học đòi hỏi giáo viên phải chú ý quan tâm
và hướng hành động sư phạm của mình vào học sinh, tạo điều kiện thuận lợi cho
việc học để học sinh tự tìm tịi, chiếm lĩnh tri thức, tự phát triển năng lực và
nhân cách. Như vậy, năng lực sư phạm của giáo viên không chỉ là nắm vững nội
dung học và khả năng truyền đạt tri thức, mà còn tổ chức việc học của học sinh,
giúp học sinh hình thành một quan điểm học và cách thức học thích hợp với nhu
cầu và khả năng của mỗi người. Ở đây, giáo viên không chỉ đơn thuần truyền đạt
kiến thức chuyên môn mà phải giúp học sinh biết cách học, biết nắm lấy phương
pháp tìm kiếm, chiếm lĩnh tri thức. Người giáo viên từ chỗ là chuyên gia về môn
học đã trở thành chuyên gia về việc học của học sinh. Như vậy, năng lực sư
phạm của giáo viên thể hiện ở khả năng vừa đi sâu vào nội dung môn học, vừa

đi sâu vào vào việc học. Một giáo viên giảng dạy có hiệu quả phải là người am
tường tri thức và hiểu biết khoa học, phương pháp luận thuộc lĩnh vực bộ môn
giảng dạy, đồng thởi nắm vững một hệ thống đầy đủ các cách thức, biện pháp sư
phạm để có thể lựa chọn cách thức này hay cách thức khác trong xử lý các tình
huống dạy học cụ thể nhằm đạt được hiệu quả tối ưu. Đay là một đặc trưng cơ
20


bản của nghề dạy học và là cơ sở lý luận để quy chiếu cá năng lực sư phạm đòi
hỏi phải hình thành và phát triển quá trình đào tạo người giáo viên.
Công việc dạy học không thể là một việc làm chỉ cần nắm kiến thức chuyên
môn là đủ để có thể thực hiện được. Kiến thức chun mơn chỉ là điều kiện cần
chứ chưa đủ để người giáo viện có thể giảng dạy. Dạy học cũng khơng thể là
một cơng việc hồn tồn phụ thuộc vào năng khiếu, khả năng sư phạm có tính
chất thiên phú của người giáo viên mà đòi hỏi một loạt các năng lực, kỹ năng
nghiệp vụ có tính đặc trưng cho nghề nghiệp. Chính những năng lực này và cùng
với nó là kiến thức chuyên môn cũng như những tri thức cần thiết thuộc phạm vi
khác cần được hình thành, phát triển cho người giáo viên trong quá trình đào
tạo. Bởi vì những năng lực nghề nghiệp khơng phải là cái có sẵn mà đang đươc
hình thành thơng qua hoạt động thực hành, rèn luyện nghiệp vụ trong suốt quá
trình đào tạo cũng như hoạt động nghề nghiệp sau này.
Như vậy, việc đào tạo giáo viên cần dựa trên một quan niệm cân đối giữa
trang bị kiến thức và phương pháp luận cũng như những hiểu biết khác với hình
thành một hệ thống năng lực, kỹ năng nghề nghiệp có tính chun mơn hóa.
Xuất phát từ quan niệm này, việc đào tạo giáo viên nói chung và giáo viên
TDTT trong các nhà trường nhất thiết phải thơng qua một chương trình thực
hành nghiệp vụ với một hệ thống các thao tác, kỹ năng cụ thể với những chỉ dẫn
sư phạm cần thiết, tỉ mỉ, nhằm giúp sinh viên thực hành luyện tập, nhờ đó đạt
được những kỹ năng và sự thành thạo nhất định để có thể thực hiện các nhiệm
vụ, yêu cầu do hoạt động nghề nghiệp đòi hỏi khi họ đi vào công tác sau này.

Để giúp cho sinh viên đi sâu vào các tri thức chuyên môn và thành thạo trong
thực hành, luyện tập kỹ năng nghề nghiệp, cần xác định một số vấn đề có tính
ngun tắc phù hợp với quan niệm trên đây.

21


- Thứ nhất: Đào tạo giáo viên phải kết hợp đi sâu vào kiến thức chuyên môn
và kiến thức tâm lý, giáo dục, lý luận và phương pháp dạy học với những kỹ
năng sư phạm cần thiết để tổ chức, hướng dẫn hoạt động cho học sinh.
Trong quá trình đào tạo khơng nên tuyệt đối hóa hay đề cao đến mức cực
đoan kiến thức và phương pháp luận chuyên môn mà giáo sinh sẽ dạy. Song
cũng cần thấy rằng: Sự thiếu hiểu biết, đi sâu vào nội dung môn học sẽ không
cho phép người giáo viên hướng dẫn học sinh tiếp cận, chiếm lĩnh kiến thức
chuyên môn một cách chắc chắn và sáng tạo. Một điều không thể chối cãi là
trình độ, năng lực giảng dạy của giáo viên một phần phụ thuộc vào việc nắm
chắc, làm chủ một tổng thể tri thức chuyên môn giảng dạy và những hiểu biết
thấu đáo về phương pháp luận chun mơn đó. Thế nhưng, là một chuyên gia về
giảng dạy, người giáo viên khơng thể tính tốn đến những câu hỏi: Nên ưu tiên
những kiến thức nào trong giảng dạy? Để học sinh chiếm lĩnh được những kiến
thức đó cần phải tổ chức, hướng dẫn học sinh tiếp cận theo những cách thức,
quy trình nào? Cái gì có thể xảy ra trong đầu học sinh khi họ có hành động theo
cách thức như vậy? Con đường nào sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh vận
hành việc học để lĩnh hội tri thức một cách tích cực và sáng tạo?... Tất cả những
vấn đề đó địi hỏi người giáo viên phải nắm chắc và làm chủ kiến thức nghề
nghiệp, hiểu biết về tâm lý – giáo dục, về lý luận học và phương pháp giảng dạy
chuyên môn. Những kiến thức nghề nghiệp này không phải biết để biết mà biết
để làm, để sử dụng một cách có hiệu quả trong cơng việc tổ chức dạy học ở
trường phổ thơng sau này. Vì vậy, trong quá trình đào tạo ở trường, sinh viên cần
phải được tập luyện, thực hành những kỹ năng nghiệp vụ thiết thực dựa trên sự

hiểu biết và phương pháp giảng dạy, để khi ra trường có thể làm chủ một hệ
thống tương đối đầy đủ, chắc chắn các năng lực nghề nghiệp, các cách thức,
thao thác thực hành sư phạm nhằm tổ chức hướng dẫn việc học cho học sinh
một cách có hiệu quả.

22


- Thứ hai: Đào tạo giáo viên phải kết hợp chặt chẽ giữa thực hành sư phạm
với phân tích lý thuyết làm cơ sở cho thực hành.
Việc đào tạo giáo viên trong các nhà trường chẳng những phải kết hợp chặt
chẽ giữa kiến thức chuyên môn và kiến thức tâm lý, giáo dục, lý luận và phương
pháp dạy học với những kỹ năng nghề nghiệp cần thiết để tổ chức, điều khiển
hoạt động dạy học mà còn phải ưu tiên kết hợp giữa thực hành sư phạm với
phân tích lý thuyết làm cơ sở cho thực hành, luyện tập. Đây là hai nguyên tắc
đào tạo có quan hệ thống nhất, chứ tuyệt nhiên không phải là các cách diễn đạt
khác nhau về cùng một luận điểm. Nguyên tắc thứ nhất là sự nhận thức toàn
diện, cân đối về mối quan hệ hữu cơ giữa kiến thức chuyên môn và hiểu biết lý
thuyết về tâm lý - giáo dục, về lý luận và phương pháp dạy học với những kỹ
năng nghề nghiệp tương ứng. Còn nguyên tắc thứ hai là sự nhìn nhận đúng đắn
về mối quan hệ qua lại giữa hoạt động luyện tập, thực hành sư phạm với sự hiểu
biết và phân tích lý thuyết làm cơ sở cho hoạt động thực hành đó trong thực tế
đào tạo khơng phải khơng cịn gặp hiện tượng sinh viên có thể nắm vững những
hiếu biết về lý thuyết nhưng chỉ biết để biết chứ khơng phải để làm, vì những
hiểu biết đó khơng gắn kết với các kỹ năng, thao tác thực hành, khơng ứng dụng
được vào những tình huống dạy học trong thực tiễn. Ngược lại, có trường hợp
thực hành của sinh viên chỉ là mô phỏng, bắt trước đơn giản, có tính chất kinh
nghiệm chủ nghĩa các hoạt động thực hành mà thiếu sự phân tích cơ sở lý thuyết
tương ứng vốn được coi là mơ hình hóa hoạt động thực hành.
Trong quá tình đào tạo giáo viên, phải thường xuyên chú ý kết hợp giữa hiểu

biết lý thuyết và thực hành, không nên chỉ coi trọng thực hành. Việc thực hành
phải thực sự là vận dụng lý thuyết vào thực tiễn. Mặt khác, những hiểu biết lý
luận cần phải sản sinh ra những hoạt động thực hành và suất phát từ sự phân tích
thực hành, làm cho việc thực hành trở nên sáng rõ và có thể phân tích được bằng
những hiểu biết lý thuyết. Như vậy, sự kết hợp này địi hỏi lý thuyết phải có đầy
đủ ý nghĩa thực tiễn và thực hành mang đầy đủ ý nghĩa lý luận. nói cách khác,
23


sự hiểu biết lý thuyết dẫn đến thực hành, định hình cho thực hành và việc thực
hành có thể làm này sinh nhu cầu hiểu biết lý thuyết, mang lại thông tin cho lý
thuyết. Song cũng cần thấy rằng: Việc thực hành, giảng dạy không chỉ quy về sự
áp dụng một mơ hình lý thuyết, bởi vì nó khơng thể bao trùm toàn bộ việc thực
hành được. Do vậy, trong quá trình thực hành cần kết hợp hành động với suy
nghĩ bằng lý luận hành động. Đây là một đòi hỏi rất cần thiết, vì như vậy việc
thực hành sẽ được mơ hình hóa bằng lý thuyết, được phân tích bằng hiểu biết lý
thuyết, tránh được sự bắt chước giản đơn. Hơn nữa, lý thuyết và thực hành luôn
được đặt trong mối quan hệ thường xuyên và điều chỉnh lẫn nhau.
Những vấn đề trên đây chứng tỏ sự cần thiết phải đưa vào chương trình đào
tạo một hệ thống kỹ năng, thao tác thực hành nghiệp vụ cụ thể dựa trên quan
niệm mơ hình lý thuyết tương ứng. Trong q trình đào tạo, bên cạnh trang bị
cho giáo sinh những tri thức chuyên môn và kiến thức nghề nghiệp, nhất thiết
phải tổ chức, hướng dẫn họ thực hành, luyện tập để đạt được ở một mức độ
thành thạo nhất định những kỹ năng, thao tác nghiệp vụ này, giúp họ có thể làm
chủ được hoạt động dạy học ở phổ thông sau khi ra trường.
- Thứ ba: Cần tạo sự gắn kết chặt chẽ giữa luyện tập, thực hành sư phạm với
hoạt động nghề nghiệp của giáo viên.
Việc đào tạo ở trường sư phạm chẳng những chuẩn bị cho hoạt động nghề
nghiệp trong tương lai của sinh viên mà còn là cơ hội giúp họ trải qua các kinh
nghiệm trong việc “hành nghề”. Vì vậy, bên cạnh trang bị kiến thức chuyên

môn, những hiểu biết thuộc lĩnh vực giáo dục và dạy học, còn phải giúp sinh
viên nắm vững những kỹ năng nghề nghiệp thông qua luyên tập thường xuyên
và có hệ thống. Song, phải thừa nhận rằng: Khơng có một chỉ dẫn thực hành sư
phạm nào là vạn năng, bởi vì khơng thể nào lường trước được hết tất cả những
tình huống đặc thù trong khi “hành nghề”. Bởi vậy, trong quá trình đào tạo cần
chú ý kết hợp chặt chẽ giữa việc thực hành sư phạm với hoạt động nghề nghiệp
của giáo viên. Nói khác đi, việc tập luyện, thực hành sư phạm không nhằm mục
24


đích chỉ để thực hành, mà cần gắn kết với những nhiệm vụ, tình huống dạy học
sau này sinh viên sẽ phải đảm nhận, thực thi trên lớp học.
Thế nhưng, việc thực hành gắn với hoạt động nghề nghiệp của giáo viên cũng
khơng có nghĩa là giúp sinh viên quen với mơ hình có sẵn, hay dập khn máy
móc theo lề lối cũ mà cần giúp người giáo viên tương lai bằng sự suy nghĩ sáng
tạo, biết phân tích, quy chiếu với mơ hình lý thuyết, thực hành được đào tạo. Từ
đó, có thể làm thay đổi tầm nhìn về hoạt động nghề nghiệp sau này. Đồng thời
làm cho việc tập luyện thực hành hợp lý hơn.
Tuy nhiên, việc thực hành ở trường sư phạm có thể khơng cho phép sinh viên
quan sát, phân tích được sự vận hành của hoạt động học, vì thiếu vắng những
chủ thể học sinh, thiếu vắng một cộng đồng có nhân cách của lớp học. Điều đó
làm cho hoạt động thực hành của sinh viên thường tập trung vào việc dạy mà
chưa hướng đến việc học của học sinh, chưa chú ý sử lý mối quan hệ tương tác
đa chiều giữa giáo viên, học sinh, tri thức. Vì vậy, trong quá trình đào tạo nói
chung và thực hành sư phạm nói riêng, phải chú ý đúng mức đến hoạt động nghề
nghiệp tương lai của sinh viên. Chúng ta khơng thể địi hỏi sinh viên sự vận
dụng thành tạo những kỹ năng nghề nghiệp để thực hiện những nhiêm vụ, xử lý
các tình huống dạy học khi “ hành nghề “ nếu chưa giúp họ thực hành, phân tích
và trải nghiệm được những nhiệm vụ, tình huống đó trong q trình đào tạo. Bởi
vậy, một địi hỏi có tính ngun tắc là trong q trình đào tạo, cần phải thông

qua thực hành, rèn luyện nghiệp vụ để giúp cho giáo viên tương lai làm chủ
được những năng lực, kỹ năng nghề nghiệp tương ứng với những nhiệm vụ, tình
huống dạy học cụ thể mà khi ra trường họ phải đảm nhiệm và xử lý hàng ngày
trên lớp học.
1.4. Khái quát về năng lực sư phạm và đánh giá năng lực sư phạm.
Trong quá trình đổi mới giáo dục đại học nói chung và đổi mới phương pháp
dạy học ở bậc đại học nói riêng, việc rèn luyện nghiệp vụ sư phạm phải được coi
25


×