Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

Các biện pháp tổ chức, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho giảng viên các trường đại học khối kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (443.8 KB, 87 trang )

Phần Mở đầu
1. Lí do chọn đề tài
Giáo dục và Đào tạo có vai trị quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu
chung của toàn Đảng, Toàn dân là: “Nâng cao dân trí, Đào tạo nhân lực, Bồi
dưỡng nhân tài cho đất nước.” Nhiệm vụ nặng nề đó đặt lên vai Ngành Giáo
dục vì làm được điều này Giáo dục và Đào tạo đã thực sự góp phần đắc lực
cho sự nghiệp: Cơng nghiệp hóa- Hiện đại hóa đất nước, xây dựng và thực
hiện mục đích của Đảng và Nhà nước là: Làm cho dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Nhà nước Việt Nam đã xác định rõ: “Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho
sự phát triển của xã hội.” Một đất nước muốn phát triển hay khơng người ta
đánh giá và nhìn vào nền giáo dục của nước đó có bền vững và phát triển ổn
định hay khơng.
Trong bài nói chuyện với lớp đào tạo hướng dẫn viên các trại hè cấp I
(ngày 12 tháng 6 năm 1956) Bác Hồ đã nói: “Nhiệm vụ giáo dục rất quan
trọng và rất vẻ vang, vì nếu khơng có thầy giáo thì khơng có giáo dục. Khơng
có giáo dục, khơng có cán bộ thì cũng khơng thể nói gì đến nền kinh tế, văn
hóa.” [26]
Văn kiện Hội nghị lần thứ IV Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng
sản Việt Nam khóa VII có ghi: “ Để đảm bảo chất lượng của giáo dục và đào
tạo phải giải quyết tốt vấn đề thầy giáo.’’ Có nghĩa là Người thầy giáo dù dạy
ở bất cứ bậc học, ngành học nào địi hỏi phải có trình độ, phải được đào tạo
chuẩn cả về chuyên môn và nghiệp vụ, phải có tay nghề cao, phải năng động
sáng tạo, khơng ngừng trau dồi và nâng cao tri thức.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 2
khóa VIII cũng đã chỉ ra: “Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng giáo
dục và đào tạo.”

1



Điều 70 Luật Giáo dục đã khẳng định: “...Nhà giáo phải có những tiêu
chuẩn sau đây”:
+ Có phẩm chất đạo đức tốt
+ Có tư tưởng tốt
+ Đạt trình độ chuẩn, được đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ...”
Đồng thời nhấn mạnh vai trò, tầm quan trọng của đội ngũ giảng viên,
cán bộ công nhân viên của các trường đại học trong công cuộc phát triển giáo
dục của nước nhà. Trải qua hơn nửa thế kỷ xây dựng và phát triển các trường
đại học trong cả nước đã đào tạo được một số đơng đảo các nhà giáo, cán bộ
quản lí giáo dục, có phẩm chất đạo đức, có bản lĩnh chính trị, có tinh thần
trách nhiệm và tận tụy với nghề, có trình độ chun mơn và nghiệp vụ ngày
càng được nâng cao, đã cơ bản đáp ứng được yêu cầu nâng cao dân trí, đào
tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, kịp thời phục vụ có hiệu quả cho sự
nghiệp giáo dục trong từng giai đoạn phát triển của đất nước. Trước yêu cầu
ngày càng cao của sự nghiệp phát triển giáo dục trong bối cảnh toàn cầu hóa
và hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là khi Việt Nam đã trở thành thành viên
chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO, đòi hỏi các tổ chức giáo
dục, các trường đại học trong cả nước phải phấn đấu nâng cao chất lượng
đào tạo và hiệu quả nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội, bằng
nhiều cách khác nhau một mặt phải tiếp tục phát huy những thành tích đã đạt
được, mặt khác phải khắc phục nhanh chóng và kiên quyết xóa bỏ những
hạn chế, yếu kém tận dụng tối đa các cơ hội, vượt qua những thách thức
trong quá trình hội nhập để phát triển và nâng cao chất lượng đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ giáo viên, nhà quản lí giáo dục, thực hiện triệt để “Hai không
trong giáo dục, Bửnh thành tích trong giáo dục” góp phần thúc đẩy việc phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước. Xây dựng định hướng phát triển nhiệm
vụ cụ thể trọng tâm qua từng giai đoạn 2007 - 2010, thống nhất định hướng
phát triển giai đoạn 2011 - 2020.

2



Trong thời đại ngày nay, giáo dục không phải chỉ là tích tụ tri thức mà
cịn làm thức tỉnh tiềm năng sáng tạo to lớn trong mỗi con người, đòi hỏi
người thầy giáo khơng những phải có vốn kiến thức sâu, rộng, phong phú mà
cịn phải có phương pháp sư phạm, có nghệ thuật sư phạm, có kĩ năng sư
phạm và có tay nghề sư phạm.
Như vậy nghề dạy học khơng chỉ là cơng việc lao động thuần túy mà
đó là một nghề sáng tạo đòi hỏi yêu cầu cao, có tính nghệ thuật.
Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã khẳng định: “Nghề dạy học là nghề
sáng tạo nhất trong các nghề sáng tạo.”
Khi nói đến vai trị quan trọng của nghiệp vụ sư phạm nguyên tổng bí
thư Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam Lê Khả Phiêu đã
nhấn mạnh: “Nghề thầy giáo là nghề có nghiệp vụ cao, tinh tế chứ không phải
nghề phổ thông.’’
Đặc biệt càng ở các bậc học cao như: cao đẳng, đại học thì người giảng
viên đại học lại càng cần được đào tạo công phu về cả chuyên môn và nghiệp
vụ sư phạm vì ở các cấp học này địi hỏi người giảng viên với những yêu cầu
cao hơn, chuyên nghiệp hơn.
Thực tế giáo dục ở Việt Nam hiện nay nói chung và đội ngũ giảng viên
các trường đại học thuộc thành phố Hà Nội nói riêng ngày càng phát triển
đơng đảo về số lượng và không ngừng được nâng cao về trình độ chun mơn
nghiệp vụ. (Số giảng viên tại các trường đại học có trình độ từ thạc sĩ trở lên
chiếm 90%, đội ngũ giảng viên có trình độ tiến sĩ, phó giáo sư, giáo sư ở các
trường đại học chiếm một tỉ lệ khá cao).
Tuy nhiên, một bất cập đang tồn tại hiện nay là đội ngũ giáo viên trong
các trường từ Mầm non, Tiểu học đến Trung học cơ sở, Trung học phổ thông
đều được đào tạo trong hệ thống các trường sư phạm từ Trung học sư phạm,
Cao đẳng sư phạm, Đại học sư phạm... được trang bị đầy đủ kiến thức về
chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm, các kĩ năng sư phạm. Còn ở các trường từ


3


Trung học chuyên nghiệp đến cao đẳng, đại học số giảng viên đang trực tiếp
giảng dạy không được đào tạo từ các trường sư phạm lại chiếm một tỉ lệ khá
cao (47,7%). Đã có một thời gian dài chúng ta đã q coi trọng trình độ, năng
lực chun mơn và cho rằng chỉ cần có đủ điều kiện về chuyên mơn là có thể
làm tốt cơng tác giảng dạy. Vì vậy, có nhiều giảng viên có trình độ chun
mơn tốt có học hàm học vị từ Thạc sĩ đến Tiến sĩ, phó giáo sư, Giáo sư, Giáo
sư Tiến sĩ khoa học, Nhà giáo ưu tú, Nhà giáo nhân dân nhưng chưa được chú
trọng về đào tạo nghiệp vụ sư phạm nên đã gặp nhiều khó khăn trong cơng
tác giảng dạy. (Các môn như : Giao tiếp sư phạm đại học, Lý luận giáo dục
đại học, Lý luận dạy học đại học, Tâm lý học đại học, Phương pháp nghiên
cứu khoa học giáo dục đại học, Tổ chức quản lí giáo dục đại học, Kiểm định
và Đánh giá kết quả giáo dục đại học).
Đứng trước thực trạng đó việc tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm
cho đội ngũ giáo viên và giảng viên các trường cao đẳng, đại học trong cả
nước nói chung và các trường Cao đẳng, Đại học thuộc khối kinh tế trên địa
bàn thành phố Hà Nội nói riêng là một trong những giải pháp thiết thực nhằm
nâng cao chất lượng giảng dạy đại học của đội ngũ giảng viên nói riêng, và
chất lượng Giáo dục - Đào tạo nói chung, phấn đấu hồn thành tốt nhiệm vụ,
mục tiêu giáo dục từ nay đến 2010. Đó là lý do tôi lựa chọn đề tài:
“Các biện pháp tổ chức, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho giảng
viên các trường đại học khối kinh tế”
Để làm luận văn tốt nghiệp cho mình với mong muốn sẽ góp thêm tiếng
nói trong sự nghiệp đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, giảng viên có chất
lượng cao phục vụ cho nhu cầu đất nước trong thời kỳ đổi mới, thời kỳ cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước khi chúng ta đã trở thành thành viên thứ 150
của WTO.

2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn làm công tác quản lý việc tổ
chức, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho hàng ngàn lớp, lớp học viên của các

4


trường đại học ngoài sư phạm của các tỉnh, thành phố khác nhau trong cả
nước để giúp cho học viên chuyển đổi ngành, nghề công tác, tôi xin được đề
xuất một số biện pháp tổ chức quản lý, nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng
của công tác tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm nói chung và bồi dưỡng
nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ giảng viên các trường đại học khối kinh tế
trên địa bàn Thành phố Hà Nội nói riêng.
3. Đối tượng nghiên cứu và khách thể nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Hoạt động bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ giảng viên các
trường Đại học.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho giảng viên các trường đại
học khối kinh tế.
4. Giả thuyết khoa học
Công tác tổ chức hoạt động bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho giảng
viên các trường đại học trong những năm qua dù có những thành tựu, xong
trong thực tế cịn gặp khơng ít khó khăn và hạn chế trong công tác tổ chức bồi
dưỡng. Nếu đề xuất được những biện pháp tổ chức, bao quát những vấn đề sư
phạm và kịp thời cung cấp những điều kiện hỗ trợ thì góp phần nâng cao kết
quả trong công tác bồi dưỡng, đào tạo về nghiệp vụ sư phạm
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của vấn đề tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ sư
phạm cho đội ngũ giảng viên các trường đại học.

5.2. Nghiên cứu thực trạng vấn đề tổ chức, đào tạo, bồi dưỡng về nghiệp vụ sư
phạm của đội ngũ giảng viên các trường đại học khối kinh tế trên địa bàn thành
phố Hà Nội.
5.3. Đề xuất các giải pháp tổ chức tốt quá trình bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm
cho đội ngũ giảng viên các trường Đại học.

5


6. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu, chúng tơi sử dụng phối hợp các
nhóm phương pháp sau:
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Sử dụng các phương pháp như: phân tích; tổng hợp; khái quát hoá;…..
để làm sáng tỏ cơ sở lý luận của đề tài nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu lý luận là thu thập những căn cứ, những thông
tin khoa học trên cơ sở nghiên cứu các văn bản, tài liệu đã có và bằng các
thao tác tư duy logic để rút ra những kết luận khoa học cần thiết.
Mục đích của việc sử dụng nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận là
nhằm tích lũy những tri thức lí luận về sự thích ứng nói chung với hoạt động
bồi dưỡng rèn luyện nghiệp vụ sư phạm nói riêng. Để từ đó xây dựng một số
khái niệm công cụ, để giải quyết nhiệm vụ một đề tài, làm cơ sở cho việc
nghiên cứu các vấn đề về thực tiễn . Bao gồm các phương pháp cụ thể sau:
- Phương pháp phân tích và tổng hợp lí thuyết: Thơng qua phương pháp
này nhằm phân tích lí thuyết thành từng bộ phận, từng mặt theo thời gian, không
gian để dễ hiểu chúng một cách đầy đủ, toàn diện, nhằm phát hiện ra những xu
hướng, những trường phái nghiên cứu của từng tác giả, từ đó chọn lọc những
thơng tin có ích về sự thích ứng nói chung và sự thích ứng trong bồi dưỡng
nghiệp vụ sư phạm nói riêng nhằm phục vụ cho việc nghiên cứu của đề tài.
Đồng thời thơng qua đó để tổng hợp lại, liên kết từng mặt của từng thơng tin lí

thuyết về sự thích ứng và thích ứng về rèn luyện bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm
để có một tài liệu toàn diện, khái quát về các đối tượng cần được nghiên cứu.
- Phương pháp phân loại, hệ thống hóa lí thuyết: Đây là hai phương
pháp đi liền với nhau, nhằm sắp xếp tri thức khoa học thành một hệ thống
tri thức khoa học chặt chẽ, logic theo từng đơn vị kiến thức và thành hệ
thống nhằm tạo ra hệ thống lí luận sâu sắc tồn diện....Trên cơ sở các mơ
hình lí thuyết.

6


6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Nhóm phương pháp nghiên
cứu thực tiễn là nhóm phương pháp nghiên cứu trực tiếp tác động vào đối
tượng có trong thực tiễn để làm bộc lộ rõ bản chất và các quy luật vận động
của các đối tượng ấy
6.2.1. Phương pháp điều tra viết: Là phương pháp điều tra xã hội học
mà quan trọng nhất là lập một hệ thống câu hỏi bằng văn bản, nhằm giúp
người được hỏi trả lời câu hỏi theo quan niệm và nhận thức của mình.
Phương pháp điều tra viết là phương pháp nghiên cứu sử dụng phiếu
trưng cầu ý kiến với một hệ thống câu hỏi đã được soạn sẵn nhằm thu thập
những thông tin cần thiết về những vấn đề cần được nghiên cứu
6.2.2. Phương pháp phỏng vấn: Sử dụng phương pháp phỏng vấn đối với
các giảng viên không được đào tạo nghiệp vụ sư phạm để làm rõ những khó
khăn vướng mắc có thể gặp phải trong q trình gỉang dạy( Thơng qua phiếu
hỏi)
6.2.3. Phương pháp quan sát: Quan sát khoa học là phương pháp tri
giác đối tượng một cách có hệ thống để thu thập thông tin cần thiết về đối
tượng. Trong quá trình làm đề tài chúng tơi đã tiến hành quan sát 200 giảng
viên của các trường đại học thuộc khối kinh tế trên địa bàn Hà Nội về công
tác tổ chức, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm, những buổi lên lớp trực tiếp giảng

dạy, những buổi thi nghiệp vụ sư phạm (Trong tuần lễ rèn luyện nghiệp vụ sư
phạm nhằm lấy thành tích chào mừng những ngày lễ lớn trong năm như:
20.11, 8.3, 26.3 thông qua phong trào đổi mới phương pháp dạy học do Cơng
đồn các trường đại học, Đồn thanh niên…. các trường phát động tổ chức).
Mục đích: Nhằm thu thập thông tin thực tiễn về nhận thức thái độ và
kết quả của công tác tổ chức, bồi dưỡng, rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho đội
ngũ giảng viên các trường đại học khối kinh tế trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Đặc biệt đội ngũ cán bộ giảng viên trẻ
6.2.4. Ngoài ra sử dụng các phương pháp bổ trợ khác như:

7


Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động giáo dục;
Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia... để làm sáng tỏ hơn những vấn đề
cần nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu các sản phẩm hoạt động là phương pháp phân
tích sản phẩm hoạt động (Những giờ lên lớp) của giảng viên để tìm ra những
thơng tin về đối tượng nghiên cứu mà khơng thể nhận thức nó một cách trực
tiếp được.
Mục đích: Qua việc phân tích kết quả của cơng tác tổ chức bồi dưỡng
rèn luyện nghiệp vụ sư phạm trong các hoạt động lên lớp của người giảng
viên, trong việc giải quyết các tình huống sư phạm, qua phân tích tình hình
thực tiễn việc tích cực, chủ động tham gia vào quá trình bồi dưỡng rèn
luyện nghiệp vụ sư phạm để tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của đội ngũ
giảng viên, thái độ của họ, nhận thức của họ về tầm quan trọng, nội dung,
ý nghĩa của công tác tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm trong quá trình
giảng dạy tại các trường đại học, những thuận lợi, khó khăn, nguyện vọng,
ý kiến đề nghị với Ban giám hiệu, với Bộ giáo dục và Đào tạo và các ban
ngành có liên quan.

Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia: Là phương pháp sử dụng trí tuệ
của đội ngũ chun gia có trình độ cao của một số chuyên ngành, nhằm xem
xét, nhận định bản chất của sự kiện khoa học hay thực tiễn để tìm ra giải pháp
tối ưu nhất cho các sự kiện đó, hay phân tích đánh giá một sản phẩm khoa
học.
Sử dụng các cơng thức tốn học thống kê SPSS để xử lý các số liệu đã
thu được (Thơng qua phiếu hỏi)
Ngồi ra trong q trình làm thực nghiệm chúng tơi cịn sư dụng
phương pháp trị chuyện để hỗ trợ cho phương pháp điều tra, phương pháp
quan sát và phân tích sản phẩm của hoạt động nghiệp vụ sư phạm, đồng
thời thơng qua đó cũng để kiểm chứng lại độ tin cậy của các kết quả nghiên

8


cứu, việc trao đổi với ban Giám hiệu các trường đại học, với đội ngũ giảng
viên về tính cấp thiết của công tác tổ chức bồi dưỡng, rèn luyện nghiệp vụ
sư phạm cho đội ngũ giáo viên nói chung và giảng viên các trường cao
đẳng, đại học nói riêng, về nội dung, hình thức và kinh nghiệm của cơng
tác tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm. Đặc biệt trong việc giải quyết
các tình huống sư phạm, ngồi ra chúng tơi cũng tranh thủ lấy ý kiến đóng
góp của đội ngũ lãnh đạo các trường về chất lượng, ý thức, sự ủng hộ quan
tâm của đội ngũ cán bộ lãnh đạo đối với tính cấp thiết của cơng tác tổ chức
bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ giáo viên nói chung và giảng
viên các trường đại học nói riêng. Đặc biệt là đội ngũ giảng viên các trường
đại học khối kinh tế.
7. Phạm vi nghiên cứu
200 giảng viên các trường Đại học thuộc khối kinh tế trên địa bàn
Thành phố Hà Nội: Đại học Thương mại, Đại học Ngoại Thương, Học viện
Ngân hàng, Học viện Tài chính.

8. Cấu trúc của luận văn
Luận văn gồm phần mở đầu và phần kết quả nghiên cứu chủ yếu gồm
có 83 trang
Phần kết quả nghiên cứu chủ yếu có 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu có 23 trang
Chương 2: Thực trạng công tác tổ chức, bồi dưỡng, đào tạo Nghiệp vụ
Sư phạm cho đội ngũ giảng viên các trường Đại học khối kinh tế trên địa bàn
Thành phố Hà Nội gồm có 24 trang
Chương 3: Đề xuất các giải pháp tổ chức hoạt động bồi dưỡng nghiệp
vụ sư phạm cho đội ngũ giảng viên các trường đại học khối kinh tế trên địa
bàn thành phố Hà Nội có 24 trang
Sau mỗi chương là phần kết luận của chương.
Cuối luận văn có kết luận, khuyến nghị, phụ lục và tài liệu tham khảo

9


Phần nội dung
Chương 1
Cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu
1.1. Sơ lược lịch sử vấn đề nghiên cứu
Giáo dục ở bất kỳ xã hội nào, trong bất cứ thời đại nào cũng phục vụ
cho sự phát triển của xã hội đó. Vì vậy hoạt động giáo dục phải ln ln đổi
mới khơng ngừng để góp phần vào sự tiến bộ của xã hội.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã chỉ rõ “Muốn tiến
hành Cơng nghiệp hóa - Hiện đại hóa thắng lợi phải phát triển Giáo dục - Đào
tạo, phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản của việc phát triển nhanh
chóng, bền vững”.
Nghị quyết Trung ương II, tại Đại hội lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt
Nam đã nêu rõ mục đích giáo dục của Việt Nam trong giai đoạn Cơng nghiệp

hóa - Hiện đại hóa hiện nay là: “Xây dựng những con người và thế hệ trẻ thiết
tha, gắn bó với lí tưởng độc lập của dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức
trong sáng, có ý chí kiên cường để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện vào
cơng cuộc Cơng nghiệp hố - Hiện đại hố đất nước, biết giữ gìn và phát huy
truyền thống các giá trị văn hố dân tộc, có năng lực tiếp thu và bảo tồn
những tri thức tinh hoa văn hố nhân loại...”.
Để thực hiện tốt mục đích giáo dục mà văn kiện Đại hội Đảng đã đề ra,
Ngành Giáo dục cần nỗ lực đầu tư hơn nữa về tất cả các mặt: Nhân lực, vật
lực, Tài lực, huy động mọi tiềm năng sẵn có của xã hội cùng với nội lực của
đội ngũ cán bộ, giáo viên nói chung và giảng viên các trường đại học nói
riêng trong toàn Ngành Giáo dục.
Từ trước đến nay, nhất là kể từ khi đất nước đổi mới đến nay, đã có khá
nhiều đề tài nghiên cứu việc tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho giảng
viên và sinh viên các trường thuộc khối sư phạm.

10


Ví dụ đề tài "Tổ chức và quản lý cơng tác rèn luyện nghiệp vụ sư
phạm cho giáo sinh trường THSP tỉnh Thanh Hoá" của Nguyễn Xuân Thái,
Hà Nội, l999; Đề tài “Thực trạng và các biện pháp tổ chức hoạt động rèn
luyện nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên trường CĐSP Hải Phịng” của Hồng
Thị Lệ Khanh, Hà Nội, 2000; Đề tài “Biện pháp quản lý hoạt động rèn luyện
nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên khoa Mầm non trường ĐHSP Hải
Phịng”... Tuy nhiên, chưa có cơng trình, tài liệu nào nghiên cứu về việc tổ
chức bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho giảng viên các trường đại học và
giảng viên các trường đại học khối kinh tế.
1.2. Lý luận chung về quản lý
1.2.1. Khái niệm về tổ chức quản lý
Quản lý là nhân tố không thể thiếu được trong đời sống và sự phát triển

của xã hội. Loài người đã trải qua nhiều thời kỳ phát triển với nhiều hình thái
xã hội khác nhau nên cũng đã trải qua nhiều hình thức quản lý khác nhau. Các
triết gia, các nhà chính trị từ thời cổ đại đến nay đều rất coi trọng vai trò của
quản lý trong sự ổn định và phát triển của xã hội. Nó là một phạm trù tồn tại
khách quan và là một tất yếu lịch sử. ở mỗi góc độ tiếp cận và hoạt động,
người ta có thể đưa ra một quan niệm về quản lý khác nhau.
Các Mác viết: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung
nào tiến hành trên quy mơ tương đối lớn, thì ít nhiều cũng đều cần đến một sự
chỉ đạo để điều hoà những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng
chung phát sinh từ vận động của toàn bộ cơ thể khác với sự vận động của
những khí quan độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm tự điều khiển lấy
mình, cịn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng” [1].
Hoạt động quản lý bắt nguồn từ phân cơng lao động của xã hội lồi
người nhằm đạt mục đích, hiệu quả cao hơn, năng xuất cao hơn. Đó chính là
hoạt động giúp cho người đứng đầu tổ chức phối hợp sự nỗ lực các thành viên
trong nhóm, trong cộng đồng nhằm đạt mục tiêu đề ra.

11


Trong quá trình tồn tại và phát triển của quản lý, đặc biệt trong quá
trình xây dựng lý luận về quản lý, khái niệm quản lý được nhiều nhà lý
luận đưa ra, nó thường phụ thuộc vào lĩnh vực hoạt động, nghiên cứu của
mỗi người.
Chẳng hạn:
- Theo quan điểm triết học, quản lý được xem như một quá trình liên
kết thống nhất giữa chủ quan và khách quan để đạt mục tiêu đề ra.
- Theo quan điểm kinh tế học, nhà kinh tế học người Mỹ - Frederic
Wiliam Taylor (1856 - 1915) cho rằng: “Quản lý là nghệ thuật biết rõ ràng,
chính xác cái gì cần làm và làm cái đó thế nào bằng phương pháp tốt nhất và

rẻ tiền nhất” [18].
Với nhà lý luận quản lý kinh tế Pháp A. Fayon (1841 - 1925) thì:
“Quản lý là đưa xí nghiệp tới đích, cố gắng sử dụng các nguồn lực (nhân, tài,
vật, lực) của nó” [17].
- Dưới góc độ điều khiển học, A.I. Beng cho rằng: Quản lý là quá trình
chuyển một hệ động lực phức tạp từ trạng thái này sang trạng thái khác nhờ
sự tác động vào các phần tử biến thiên của nó [35].
- Nhà tốn học A.N. Kolmogorov cho rằng: Quản lý là q trình gia
cơng thơng tin thành tín hiệu điều chỉnh hoạt động của máy móc hay cơ thể
sống [35].
- Khi nói về vai trò của quản lý trong xã hội, ý kiến của Paul Hersey và
Ken Blanc Heard trong cuốn “Quản lý nguồn nhân lực” là: “Quản lý là một
quá trình cùng làm việc giữa nhà quản lý với người bị quản lý, nhằm thơng
qua hoạt động của cá nhân, của nhóm, huy động các nguồn lực khác để đạt
mục tiêu của tổ chức [32].
- Theo quan điểm của hệ thống thế giới quan Mác - Lê Nin cho rằng:
Toàn bộ thế giới vật chất đang tồn tại, mọi sự vật, hiện tượng là một chỉnh
thể, một hệ thống. Trong công tác điều hành xã hội thì quản lý cũng vậy, cũng

12


là hệ thống. Theo quan điểm này thì quản lý một đơn vị với tư cách là hệ
thống xã hội là khoa học và nghệ thuật tác động vào hệ thống, vào từng thành
tố của hệ thống bằng các phương pháp thích hợp nhằm đạt mục tiêu đặt ra
trong điều kiện biến đổi của môi trường”.
- Quan niệm về quản lý của một số nhà khoa học Việt Nam:
+ Hà Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt cho rằng: “Quản lý là một q trình
định hướng, q trình có mục tiêu, quản lý một hệ thống nhằm đạt được
những mục tiêu nhất định [19].

+ Theo tác giả Nguyễn Minh Đạo: “Quản lý là q trình tác động liên
tục có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý
(S - O) về các mặt chính trị, xã hội, kinh tế, văn hoá bằng một hệ thống
các nguyên tắc pháp luật, chính sách, phương pháp và giải pháp quản lý tạo ra
những điều kiện cho sự phát triển của khách thể và tạo ra uy tín [16].
+ Tác giả Hồ Văn Vĩnh cho rằng: “Quản lý là sự tác động có tổ chức,
có hướng đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu đã
đề ra” [43].
+ Theo quan điểm của Nguyễn Quang Toản - Trung tâm quản lý chất
lượng quốc tế (IQC) thì: Quản lý là các hoạt động có phối hợp để định hướng
và kiểm soát một tổ chức trong việc đạt mục đích đề ra [34].
+ Theo tác giả Nguyễn Đức Trí: Quản lý là một q trình tác động có
định hướng (có chủ đích), có tổ chức, có lựa chọn trong số các tác động có
thể có, dựa trên các thơng tin về tình trạng và mơi trường, nhằm giữ cho sự
vận hành của đối tượng được ổn định và làm cho nó phát triển tới mục tiêu
đã định [35].
Nhìn chung các tác giả đã nêu quan niệm của mình về quản lý với
những cách tiếp cận khác nhau nhưng từ những quan niệm đó có thể thấy rõ
được nội hàm khái niệm quản lý như sau:
- Quản lý là hoạt động lao động, hoạt động này để điều khiển lao động.

13


- Trong quản lý, bao giờ cũng có chủ thể quản lý và đối tượng quản lý
quan hệ với nhau bằng những tác động quản lý. Những tác động quản lý
chính là những quyết định quản lý, là những nội dung mà chủ thể quản lý yêu
cầu đối với đối tượng quản lý.
- Quản lý là một thuộc tính bất biến nội tại của mọi quá trình lao động
xã hội. Lao động quản lý là điều kiện quan trọng để làm cho xã hội loài người

tồn tại, vận hành.
- Quản lý là một hệ thống xã hội trên nhiều phương diện. Điều đó cũng
xác lập rằng quản lý phải có một cấu trúc và vận động trong một môi trường
xác định.
Hoạt động "quản lý" bao giờ cũng gắn với hoạt động có ý thức của con
người và tồn xã hội dưới tác động của hoàn cảnh nhằm định hướng sự vận
động và phát triển của đối tượng cần quản lý theo một mục đích nhất định.
Khái niệm đó phải bao quát được tất cả mọi hoạt động của con người. Đồng
thời khái niệm “quản lý" cũng như bất kỳ một khái niệm nào khác cũng phải
xây dựng theo những quy tắc khái niệm và khơng phạm phải sai lầm có thể có
khi khái niệm sẽ thuộc loại khái niệm chính xác.
Trong các quan điểm về quản lý đã nêu trên ta nhận thấy hầu như các
quan điểm đó chưa bao quát được mọi hoạt động của con người. Có định
nghĩa chưa nêu được khuynh hướng vận động của đối tượng quản lý theo mục
đích hoạt động của con người. Theo chúng tơi, chỉ có quan niệm của Nguyễn
Đức Trí về “quản lý" đầy đủ, hợp lý hơn cả:
Quản lý là một q trình tác động có định hướng (có chủ đích), có tổ
chức, có lựa chọn trong số các tác động có thể có, dựa trên các thơng tin về
tình trạng và môi trường, nhằm giữ cho sự vận hành của đối tượng được
ổn định và làm cho nó phát triển tới mục tiêu đã định [35].
1.2.2. Chức năng của quản lý
a. Chức năng kế hoạch hoá

14


Peter Drucker, một trong những chuyên gia quản lý hàng đầu đương đại
đã đề xuất tiêu chuẩn về tính hiệu nghiệm (tức là khả năng làm những việc
"đúng") và tính hiệu quả (tức là khả năng làm đúng việc). ông cho rằng tính
hiệu nghiệm là quan trọng hơn, bởi vẫn có thể đạt được hiệu quả khi chọn sai

mục tiêu. Hai tiêu chuẩn này song hành cùng với hai khía cạnh của kế hoạch:
xác định những mục tiêu "đúng" và lựa chọn những giải pháp "đúng" để đạt
các mục tiêu này. Cả hai khía cạnh đó đều có ý nghĩa sống cịn đối với q
trình quản lý.
Để phản ánh bản chất của khái niệm chức năng kế hoạch hoá, chúng ta
có thể định nghĩa như sau: Chức năng kế hoạch hố là q trình xác định mục
tiêu và quyết định những giải pháp tốt nhất để thực hiện mục tiêu đó.
Như vậy: Thực chất của kế hoạch hố là đưa tồn bộ những hoạt động
vào cơng tác kế hoạch hố với mục đích, giải pháp rõ ràng, bước đi cụ thế và
ấn định tường minh các điều kiện cung ứng cho việc thực hiện mục tiêu.
Nhiều lý thuyết gia quản lý cho rằng, kế hoạch là cái khởi nguyên của
mọi hoạt động, mọi chức năng quản lý khác. Họ ví: Kế hoạch như một chiếc
đầu tầu kéo theo các toa "tổ chức", "chỉ đạo", "kiểm tra". Như vậy, người
quản lý, nếu khơng có kế hoạch thì khơng biết phải tổ chức nhân lực và các
nguồn nhân lực khác như thế nào, thậm chí họ cịn khơng rõ phải tổ chức cái
gì nữa. Khơng có kế hoạch, người quản lý khơng thế chỉ dẫn, lãnh đạo người
thuộc quyền hành động một cách chắc chắn với những kỳ vọng đặt vào kết
quá mong đạt tới.
Cũng vậy, khơng có kế hoạch thì cũng không xác định định được tổ
chức hướng tới đúng hay chệch mục tiêu, không biết khi nào đạt được mục
tiêu và sự kiểm tra trở thành vô căn cứ.
Kế hoạch hố là một chức năng quan trọng của q trình quản lý vì trên
cơ sở phân tích các thơng tin quản lý, căn cứ vào những tiềm năng đã có và
những khả năng sẽ có mà xác định rõ hệ thống mục tiêu, nội dung hoạt động,

15


các giải pháp cần thiết để chỉ rõ trạng thái mong muốn của đối tượng khi kết
thúc các hoạt động.

Kế hoạch hố có vai trị to lớn như vậy bởi bản thân nó có những chức
năng cơ bản cụ thể sau:
* Chức năng chẩn đoán: Bao gồm việc xác định trạng thái xuất phát và
những phân tích về trạng thái đó.
* Chức năng dự báo: Bao gồm việc xác định nhu cầu và các mục tiêu
để suy ra những hướng phát triển cơ bản, trong đó có tính tới nhu cầu bên
ngoài và bên trong. Lựa chọn những hướng ưu tiên, dự kiến những mục tiêu
cần đạt và các tiêu chuẩn đánh giá.
* Chức năng dự đoán: Bao gồm việc phát hiện các phương án chọn lựa
có tính đến tiềm năng của nguồn lực dự trữ và những mong muốn chủ quan.
b. Chức năng tổ chức
Bamard định nghĩa tổ chức như là “hệ thống các hoạt động hay tác
động có ý thức của hai hay nhiều người". Cuốn “Cơ sở khoa học của quản lý"
đã xác định: “Tổ chức là hoạt động hướng tới hình thành cấu trúc tối ưu của
hệ thống quản lý và phối hợp tốt nhất giữa các hệ thống lãnh đạo và bị lãnh
đạo (chấp hành)"[16].
Nhờ chức năng tổ chức mà hệ thống quản lý trở nên có hiệu quả, cho
phép các cá nhân góp phần tốt nhất vào mục tiêu chung. Tổ chức được coi là
điều kiện của quản lý, đúng như V.I. Lê-Nin đã khẳng định: “Chúng ta phải
hiểu rằng muốn quản lý tốt - còn phải biết tổ chức về mặt thực tiễn nữa".
Thực chất của tổ chức là thiết lập mối quan hệ bền vững giữa con người, giữa
các bộ phận trong hệ thống quản lý. Tổ chức tốt sẽ khơi nguồn các động lực,
tổ chức không tốt sẽ làm triệt tiêu động lực và giảm sút hiệu quả quản lý.
c. Chức năng chỉ đạo
Chỉ đạo là quá trình tác động ảnh hưởng của chủ thể quản lý đến hành
vi và thái độ của những người khác nhằm đạt các mục tiêu đã đề ra. Chỉ đạo

16



thể hiện quá trình ảnh hướng qua lại giữa chủ thể quản lý và mọi thành viên
trong tổ chức nhằm góp phần thực hiện hố các mục tiêu đã đặt ra.
Chức năng chỉ đạo, xét cho cùng là sự tác động lên con người, khơi dậy
động lực của nhân tố con người trong hệ thống quản lý, thể hiện mối quan hệ
giữa con người với con người và quá trình giải quyết những mối quan hệ đó
do họ tự nguyện và nhiệt tình phấn đấu.
d. Chức năng kiểm tra
Sau khi xác định các mục tiêu, quyết định những giải pháp tốt nhất để
đạt tới các mục tiêu và triển khai các chức năng tổ chức, chỉ đạo để hiện thực
hoá các mục tiêu đó cần phải tiến hành những hoạt động kiểm tra để xem xét
việc triển khai các quyết định trong thực tiễn, từ đó có những điều chỉnh cần
thiết trong các hoạt động để góp phần đạt tới mục tiêu đã xác định.
Như vậy, kiểm tra có vị trí quan trọng trong việc đổi mới cơng tác quản
lý như: đổi mới cơng tác kế hoạch hố, cơng tác tổ chức, chỉ đạo cũng như đối
với cơ chế quản lý, phương pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng và hiệu
quả quản lý.
Tóm lại:
Sự phân cơng và chun mơn hố trong hoạt động quản lý đã hình
thành nên các chức năng quản lý. Đó là chức năng kế hoạch hoá, chức năng tổ
chức, chức năng chỉ đạo và chức năng kiểm tra.
Qua phân tích các chức năng quản lý, chúng ta thấy rằng các chức năng
này có mối quan hệ chặt chẽ tác động qua lại với nhau, chi phối lẫn nhau tạo
thành một thể thống nhất của hoạt động quản lý. Mối quan hệ đó, chúng tơi
thể hiện ở sơ đồ sau đây:

17


Kế hoạch
hoá


Kiểm tra

Tổ chức

Chỉ đạo

1.2.3. Quản lý giáo dục
* Quản lý giáo dục: Là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý đến
khách thể quản lý nhằm đưa hoạt động sư phạm của hệ thống giáo dục đạt tới
kết quả mong muốn bằng cách hiệu quả nhất. Quản lý giáo dục theo nghĩa
tổng quan là một hoạt động điều hành, phối hợp giữa các lực lượng trong xã
hội nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển ngày
càng cao của xã hội.
Theo Phạm Minh Hạc: Quản lý giáo dục là tổ chức các hoạt động dạy
học. Có tổ chức được các hoạt động dạy học, thực hiện được các tính chất của
nhà trường phổ thông Việt Nam xã hội chủ nghĩa mới quản lý được giáo dục,
tức là cụ thể hóa đường lối của Đảng và biến đường lối đó thành hiện thực,
đáp ứng nhu cầu của nhân dân, của đất nước
Theo Nguyễn Quang Học: Quản lý giáo dục là hệ thống tác động có mục
đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm làm cho hệ vận
hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính
chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ là quá
trình dạy học

18


Tóm lại: Quản lý giáo dục chứa đựng những đặc trung sau:
- Chủ thể quản lý giáo dục ở tầm vĩ mô là quản lý của nhà nước mà cơ

quan quản lý trực tiếp là Bộ Giáo dục, Sở giáo dục, Phòng giáo dục
- Chủ thể quản lý ở tầm vi mô: Là quản lý của Hiệu trưởng các trường
dưới hiệu trưởng là hiệu phó và tổ trưởng phụ trách chun mơn.
Quản lý giáo dục có tính chất xã hội cao bởi vì ln ln trong nó
cần phải được tập trung giải quyết các vấn đề có tính thời sự như: Kinh tế,
Chính trị, Văn hóa, Xã hội, An ninh quốc phịng... để phục vụ tốt cho cơng
tác giáo dục.
- Khách thể quản lý giáo dục đội ngũ giáo viên và học sinh, có thể nói
trong giáo dục và đào tạo thì đây là đối tượng khách thể quan trọng nhất
nhưng đồng thời ở một lĩnh vực nào đó đội ngũ này cũng là chủ thể quản lý
trực tiếp quản lý quá trình giáo dục. Khách thể quản lý là những con người cụ
thể, trong họ có rất nhiều mối quan hệ đan xen, phức tạp, đa dạng mà người
quản lý phải đối phó, sử lý khi thực hiện chức năng quản lý của mình.
Vì vậy người quản lý phải biết biến các mối quan hệ trên trở thành các
yếu tố tích cực tạo nên mơi trường thuận lợi nhất để hướng tới hoàn thành
mục tiêu chung
Như vậy: Quản lý giáo dục là sự tác động có định hướng, có mục đích
vào khách thể quản lý. Đó là việc tổ chức, định hướng và duy trì các hoạt
động giáo dục nhằm làm cho bộ máy, cho cá nhân và tổ chức các thầy giáo cô
giáo và tập thể nhà trường, học sinh và cả cộng đồng xã hội thực hiện đầy đủ,
đúng đắn những đường lối, chủ trương và quan điểm giáo dục của Đảng và
Nhà nước Việt Nam XHCN. Với phương pháp quản lý nghệ thuật, Người
quản lý giáo dục phải biết tổ chức các hoạt động giáo dục đi đến mục đích
bằng nhiều cách, nhiều con đường, biết ứng xử các tình huống trong quản lý
giáo dục một cách linh hoạt mau lẹ và tinh tế, biết tìm ra phương án tối ưu để
giải quyết mọi công việc có liên quan đến giáo dục của nhà trường nơi mình

19



quả lí, biết cách huy động mọi lực lượng cả về vất chất và tinh thần phục vụ
cho công tác giáo dục và phát triển giáo dục.
Quản lý giáo dục là một hoạt động khó khăn, phức tạp bởi vì sản phẩm
giáo dục là : “con người” và phục vụ chính cho “ con người”.
Do vậy người cán bộ quản lý giáo dục( Nhà quản lí) cần phải có nhân
cách quản lý: Vì con người, cho con người và xuất phát từ con người.
Quản lý giáo dục trong giai đoạn cách mạng hiện nay, khi mà đất
nước chúng ta đang tiến hành tiến trình cơng nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất
nước. Đặc biệt khi Việt Nam đã trở thành nước thứ 150 của WTO, thì Người
lãnh đạo, Người quản lý giáo dục khơng chỉ có dựa vào tinh thần, ý chí, kinh
nghiệm mà phải lãnh đạo bằng trí tuệ, khối óc, dựa trên những cơ sở khoa
học năng động, sáng tạo, biết khơi dạy nguồn lực trong mỗi trập thể nhà
trường, cơ sơr giáo dục, phát huy tài năng trong đội ngũ giáo viên mình quản
lý, để thực hiện và làm tốt cơng tác quản lý của mình, phải linh hoạt, biết
vận dụng khoa học công nghệ tiến tiến của nhân loại vào công việc quản lý
giáo dục của mình.
Hệ thống quản lý giáo dục như là hệ thần kinh của con người nó điều
khiển tồn Ngành giáo dục, mỗi cán bộ quản lý là đại diện cho một tế bào của
hệ thần kinh đó. Nếu một tế bào nào đó khơng lành mạnh, khơng tích cực hoạt
động thì cả hệ thống thần kinh sẽ bị giảm sút, guồng máy hoạt động sẽ bị trì trệ.
Mỗi cán bộ quản lý ngoài việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ đã
được định sẵn trong hệ thống cịn phải góp phần làm cho hệ thống đó ngày
càng hồn thiện và phát triển .
Do vậy: yêu cầu đặt ra đối với người quản lý giáo dục là hết sức quan
trọng. Đóng vai trò then chốt và quyết định cho sự nghiệp giáo dục. Chúng ta
phải coi quản lý giáo dục cũng là một nghề cũng phải được đào tạo công phu,
bài bản, như chúng ta đào tạo để làm người giáo viên khi đứng trên bực giảng.
Có làm được như vậy chúng ta mới tạo ra được những nhà cán bộ quản lý

20




×