Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Quyền tác giả trong hoạt động thư viện tại trường đại học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.34 KB, 19 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT DÂN SỰ

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
MƠN: LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ

TÊN ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN
QUYỀN TÁC GIẢ TRONG HOẠT ĐỘNG THƯ VIỆN TẠI CÁC TRƯỜNG ĐẠI
HỌC TẠI VIỆT NAM

Người thực hiện: Mai Thị Cẩm Hà
MSSV: 1853401020054
Lớp: QTL43A1

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - NĂM 2021


MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT................................................................................................................
LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................................................................... 1
CHƯƠNG I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TÁC GIẢ TRONG HOẠT ĐỘNG THƯ
VIỆN TẠI CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TẠI VIỆT NAM....................................................................2
1.1. Một số khái niệm chung về Quyền tác giả....................................................................................2
1.1.1. Khái niệm Quyền tác giả...........................................................................................................2
1.1.2. Nội dung Quyền tác giả.............................................................................................................3
1.2. Một số nội dung về Quyền tác giả trong hoạt động thư viện tại các trường đại học tại Việt Nam 4
1.2.1. Khái quát về Quyền tác giả trong hoạt động thư viện tại các trường đại học............................4
1.2.2. Các Quyền tác giả liên quan đến hoạt động thư viện tại các trường đại học tại Việt Nam........4
Kết luận Chương 1.............................................................................................................................. 5


CHƯƠNG II. NHỮNG QUY ĐỊNH HIỆN HÀNH VỀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ TRONG
HOẠT ĐỘNG THƯ VIỆN TẠI CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TẠI VIỆT NAM, MỘT SỐ THỰC
TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT...................................................................6
2.1. Những quy định hiện hành và thực trạng về bảo hộ quyền tác giả trong hoạt động thư viện tại
các trường đại học tại Việt nam...........................................................................................................6
2.1.1. Đối tượng và chủ thể đươc bảo hộ Quyền tác giả......................................................................6
2.1.2. Quy định cụ thể về một số Quyền tác giả và thực trạng bảo hộ Quyền tác giả trong hoạt động
thư viện tại các trường đại học............................................................................................................7
2.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo hộ Quyền tác giả trong hoạt động của thư viện
trường đại học................................................................................................................................... 12
Kết luận Chương 2............................................................................................................................ 13
KẾT LUẬN....................................................................................................................................... 14
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................................


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

QTG

Quyền tác giả

QNT

Quyền nhân thân

QTS

Quyền tài sản

SHTT


Sở hữu trí tuệ

QTĐ

Quyền truyền đạt

QPP

Quyền phân phối


1

LỜI MỞ ĐẦU

Thư viện có chức năng, nhiệm vụ vơ cùng quan trọng là thu thập, lưu giữ, xử lý, tổ chức, bảo
quản tài liệu để bảo tồn và phổ biến vốn tài liệu, đáp ứng nhu cầu học tập, nghiên cứu, thơng tin và
văn hóa của mọi tầng lớp nhân dân, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài trong mọi lĩnh vực, ngành
nghề. Xuất phát từ chính chức năng này, các hoạt động của thư viện luôn gắn liền với vấn đề khai
thác quyền tác giả. Điều này đòi hỏi, hệ thống pháp luật về quyền tác giả bên cạnh việc bảo hộ và
tôn trọng sự sáng tạo của tác giả, còn cần tạo điều kiện để các thư viện thực hiện các chức năng,
nhiệm vụ của mình, bảo đảm cơng chúng có thể khai thác hiệu quả nguồn tài nguyên thư viện. Đề
tài nhằm làm rõ một số vấn đề lý luận, quy định hiện hành và thực tiễn về quyền tác giả trong hoạt
động thư viện tại các trường đại học tại Việt Nam, từ đó đề xuất một số biện pháp khắc phục thực
trạng trên.


2


CHƯƠNG I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TÁC GIẢ TRONG HOẠT
ĐỘNG THƯ VIỆN TẠI CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TẠI VIỆT NAM
1.1. Một số khái niệm chung về Quyền tác giả
1.1.1. Khái niệm Quyền tác giả
“Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở
1

hữu” .
Chủ thể của QTG bao gồm tác giả và chủ sở hữu QTG. Trong đó, nếu chủ thể là cá nhân thì
có thể là tác giả hoặc chủ sở hữu QTG, hoặc cả hai; cịn chủ thể là tổ chức thì chỉ có thể có tư cách
là chủ sở hữu QTG.
QTG đối với các tác phẩm nói chung có đặc điểm là:
Thứ nhất, pháp luật về QTG bảo hộ hình thức sáng tạo, không bảo hộ nội dung, ý tưởng sáng
tạo. Pháp luật chỉ bảo hộ cho hình thức thể hiện tác phẩm chứ không bảo hộ cho nội dung thể hiện
trong các tác phẩm đó. Các ý tưởng, nội dung trong các tác phẩm khác nhau có thể tương tự nhau,
nhưng nếu hình thức, cách thức thể hiện, sắp xếp ngơn từ khác nhau thì tất cả các tác phẩm này đều
được bảo hộ QTG. Điều này bắt nguồn từ việc, nếu bảo hộ cho nội dung sáng tạo tác phẩm thì sẽ
xảy ra việc độc quyền về nội dung, làm hạn chế đi sự sáng tạo của những người còn lại. Do đó,
QTG tập trung bảo hộ hình thức sáng tạo mà không bảo hộ ý tưởng và nội dung sáng tạo.
Thứ hai, QTG bảo hộ tác phẩm không phân biệt nội dung và chất lượng của tác phẩm đó.
QTG bảo hộ tác phẩm mà không cần thiết xem xét tới nội dung và chất lượng của tác phẩm đó. Tuy
nhiên, theo khoản 1 Điều 8 Luật SHTT quy định thì khơng phải bất kỳ tác phẩm nào cũng đều được
bảo hộ QTG, Nhà nước sẽ không bảo hộ những tác phẩm có nội dung trái pháp luật, đạo đức xã hội
hay đi ngược lại với những lợi ích của Nhà nước, của chung cộng đồng.
Thứ ba, tác phẩm cần phải được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định. Theo Luật
SHTT quy định thì QTG bắt đầu phát sinh khi nó “được sáng tạo và được thể hiện dưới một hình
thức vật chất nhất định, khơng phân biệt nội dung, chất lượng, hình thức, phương tiện, ngơn ngữ, đã
công bố hay chưa công bố, đã đăng ký hay chưa đăng ký”. 2 Việc thể hiện tác phẩm dưới một hình
thức vật chất nhất định là một điều kiện tiên quyết để tác phẩm được bảo hộ QTG.
Thứ tư, tính nguyên gốc của tác phẩm. Tính nguyên gốc thể hiện ở sự trực tiếp sáng tạo của

chính tác giả mà không phải là sự sao chép của người khác. Có thể nói “tính ngun góc chính là
dấu ấn cá nhân của tác giả trong tác phẩm” 3, thể hiện qua cách sắp xếp bố cục, cách sử dụng ngôn từ
để biểu đạt thông diệp và nội dung mà tác giả muốn truyền tải. Đây không chỉ là tiêu chí để xem xét

1 Khoản 2 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ Luật số 50/2005/QH11, được sửa đổi, bổ sung bởi Luật số 36/2009/QH12 ngày 19/6/2009
(Sau đây gọi tắt là Luật Sở hữu trí tuệ)
2 Khoản 1 Điều 6 Luật Sở hữu trí tuệ

3 Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2021), Giáo trình Luật Sở hữu trí tuệ, Nxb. Hồng Đức, tr. 67.


3

chấp nhận hay từ chối bảo hộ đối với một tác phẩm, mà còn là một yếu tố quan trọng để định nghĩa
tác phẩm.4
Thứ năm, QTG được bảo hộ theo cơ chế tự động. Nghĩa là, QTG phát sinh ngay sau khi tác
phẩm được hình thành và được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định, bất kể tác phẩm đã
công bố hay chưa công bố, đã đăng ký hay chưa đăng ký.
Tóm lại, QTG là tổng hợp tất cả các QNT và QTS được pháp luật quy định và bảo hộ cho tác
giả, chủ sở hữu QTG đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học do chính mình sáng tạo ra
hoặc sở hữu.
1.1.2. Nội dung Quyền tác giả
Hiện nay, QTG được phân thành hai nhóm quyền lớn: QNT và QTS.
* Quyền nhân thân
QNT bao gồm QNT không gắn với tài sản và QNT gắn với tài sản. Các QNT không gắn với
tài sản là những quyền gắn liền với các giá trị nhân thân của tác giả và không thể chuyển giao, bao
gồm ba quyền: quyền được đặt tên tác phẩm, đứng tên tác phẩm và bảo vệ sự toàn vẹn của nội dung
tác phẩm. Do QNT khơng được chuyển giao nên nó chỉ được dành cho tác giả (cho dù đồng thời hay
không đồng thời là chủ sở hữu QTG). Các quyền này ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín và danh dự của
tác giả, tồn tại một cách độc lập đối với QTS, gắn liền với tác giả kể cả khi quyền sử dụng, định đoạt

tác phẩm đã được chuyển giao. Các QNT không gắn với tài sản được bảo hộ vô thời hạn. Mặc dù
QNT không gắn với tài sản cũng là quyền quan trọng, nhưng quyền quan trọng nhất trong tất cả các
nội dung của QTG là các QNT gắn với tài sản. Đó là quyền cho hay khơng cho người khác sử dụng
tác phẩm.
* Quyền tài sản
Theo pháp luật Việt Nam, QTS bao gồm quyền sử dụng và quyền được khai thác tác phẩm
dưới các hình thức do pháp luật quy định và chuyển giao các quyền này cho những người khác.
Quyền sử dụng bao gồm quyền làm tác phẩm phái sinh như cái biên, chuyển thể; biểu diễn tác phẩm
trước cơng chúng, cơng bố, phổ biến, trình diễn; sao chép; truyền đạt bằng các phương tiện hữu
tuyến hoặc vô tuyến, mạng thông tin điện tử bằng cách ghi âm, ghi hình, phát thanh truyền hình, cho
thuê tác phẩm. Các quyền này do tác giả, chủ sở hữu QTG độc quyền thực hiện hoặc cho phép
người khác thực hiện. Về nguyên tắc, mọi hành vi khai thác, sử dụng một, một số hoặc toàn bộ các
quyền nêu trên đều phải xin phép và trả tiền nhuận bút, thù lao, các quyền lợi vật chất khác cho chủ
sở hữu QTG.

4 Michel Vivant, Jean-Michel Brugière (2013), Droit d’auteur et droits voisins, Dalloz, 2e éd., tr.232.


4

1.2. Một số nội dung về Quyền tác giả trong hoạt động thư viện tại các trường đại học
tại Việt Nam
1.2.1. Khái quát về Quyền tác giả trong hoạt động thư viện tại các trường đại học
Thư viện được hình thành và hoạt động với chức năng, nhiệm vụ chính là “giữ gìn di sản thư
tịch của dân tộc; thu thập, tàng trữ, tổ chức việc khai thác và sử dụng chung vốn tài liệu trong xã hội
nhằm truyền bá tri thức, cung cấp thông tin phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu, cơng tác và giải trí
của mọi tầng lớp nhân dân; góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, phát
triển khoa học, cơng nghệ, kinh tế, văn hóa, phục vụ cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước”5. Để thực hiện được các chức năng, nhiệm vụ trên, các hoạt động của thư viện không thể tách
rời các vấn đề liên quan đến QTG, do “bản thân nguồn tài nguyên thông tin của thư viện là các đối

tượng được bảo hộ quyền tác giả”6, đồng thời các hoạt động thu thập, cung cấp thông tin của thư
viện đều gắn với vấn đề khai thác QTG.
Bên cạnh đó khái niệm cơ sở giáo dục đại học được giải thích là: “Cơ sở giáo dục thuộc hệ
thống giáo dục quốc dân, thực hiện chức năng đào tạo các trình độ của giáo dục đại học, hoạt động
khoa học và công nghệ, phục vụ cộng đồng”. Như vậy, có thể hiểu trường đại học là nơi cung cấp
kiến thức cho sinh viên ở mức độ cao, có sứ mệnh đào tạo và cung cấp nguồn nhân lực chất lượng
phục vụ sự phát triển của xã hội.
Chính vì vậy có thể hiểu bảo hộ QTG trong hoạt động thư viện của các trường đại học là
tổng hợp các chế định pháp lí nhằm bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp của tác giả, chủ sở hữu QTG đối
với tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học tại cơ sở giáo dục đại học được cơ cấu tổ chức theo Luật
Giáo dục đại học. Nhằm mục đích tạo điều kiện cần thiết các chủ thể QTG được hưởng đầy đủ
quyền và lợi vật chất, đồng thời còn giúp cho chủ thể quyền tránh khỏi những hành vi xâm phạm có
thể xảy ra tại các cơ sở giáo dục, tạo động lực để thực hiện sứ mệnh phát triển nền kinh tế tri thức.
1.2.2. Các Quyền tác giả liên quan đến hoạt động thư viện tại các trường đại học tại Việt
Nam
* Quyền sao chép tác phẩm
Theo khoản 10 Điều 4 Luật SHTT, “sao chép" được hiểu là việc tạo ra một hoặc nhiều bản
sao của tác phẩm hoặc bản ghi âm, ghi hình bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào, bao gồm cả
việc tạo bản sao dưới hình thức điện tử. Việc sao chép có thể được tiến hành một cách trực tiếp tạo
ra bản sao từ chính các tác phẩm, bản ghi âm, ghi hình, hoặc gián tiếp tạo ra các bản sao khác khơng
từ chính các tác phẩm, bản ghi âm, ghi hình, như sao chép từ mạng thơng tin điện tử, chương trình
phát sóng, dịch vụ mạng bưu chính viễn thơng liên quan và các hình thức tương tự khác.
QSC là một trong những QTS quan trọng nhất của chủ sở hữu QTG, được pháp luật thừa
nhận và bảo vệ trong suốt thời hạn tác phẩm được bảo hộ. Xuất phát từ tính vơ hình của các tài sản
5 Điều 1 Pháp lệnh Thư viện Số 31/2000/PL-UBTVQH10 ngày 28/12/2000 (Sau đây gọi tắt là Pháp lệnh Thư viện Việt Nam).
6 Lê Thị Nam Giang (2015), Bảo hộ quyền tác giả trong hoạt động của thư viện, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 3/2015, tr. 14.


5


trí tuệ, các tác phẩm cũng như các tài sản trí tuệ khác có khả năng cho phép nhiều người cùng có thể
khai thác cùng một thời điểm ở nhiều địa điểm khác nhau mà không làm mất hay giảm giá trị của
các tài sản này. Cũng xuất phát từ tính vơ hình này, các tác phẩm khi bị cơng bố có thể bị truyền đạt,
bị sao chép, phân phối một cách rất dễ dàng với số lượng lớn mà chủ sở hữu rất khó kiểm sốt hiệu
quả. Việc cho phép sao chép tác phẩm và thu lợi ích kinh tế từ hành vi này là một trong những hình
thức khai thác tác phẩm phổ biến nhất, mang lại cho các tác giả, chủ sở hữu QTG những lợi ích kinh
tế to lớn. Do đó, việc sao chép trái phép các tác phẩm sẽ làm chủ thể QTG bị thiệt hại. Vì vậy, quyền
sao chép được coi là QTS quan trọng nhất của chủ sở hữu QTG, được độc quyền cho phép hay ngăn
cấm người khác sao chép tác phẩm của mình.
* Quyền truyền đạt, phân phối tác phẩm
Theo pháp luật Việt Nam, QTĐ tác phẩm tới công chúng được hiểu là quyền độc quyền của
chủ sở hữu QTG thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện để đưa tác phẩm hoặc bản sao tác
phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ
phương tiện kỹ thuật nào khác mà cơng chúng có thể tiếp cận được. QPP bản gốc, bản sao tác phẩm
là độc quyền của chủ sở hữu QTG do chủ sở hữu thực hiện hoặc cho người khác thực hiện bằng việc
sử dụng bất kỳ hình thức, phương tiện kỹ thuật nào mà cơng chúng có thể tiếp cận được để bán, cho
thuê hoặc các hình thức chuyển nhượng khác.
Kết luận Chương 1
Trong Chương 1 tác giả tập trung vào các vấn đề lý luận làm tiền đề cho việc phân tích thực
trạng và đưa ra giải pháp ở Chương 2. Trong đó, tác giả chủ yếu đưa ra khái niệm và lý thuyết về
QTG trong hoạt động thư viện của trường đại học tại Việt Nam. Bên cạnh đó, chương 1 cũng đưa ra
một số lý luận về nội dung một số quyền, nhằm làm cơ sở cho việc phân tích các quy định pháp luật
ở phần sau.


6

CHƯƠNG II. NHỮNG QUY ĐỊNH HIỆN HÀNH VỀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ TRONG
HOẠT ĐỘNG THƯ VIỆN TẠI CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TẠI VIỆT NAM, MỘT SỐ THỰC
TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT

2.1. Những quy định hiện hành và thực trạng về bảo hộ quyền tác giả trong hoạt động
thư viện tại các trường đại học tại Việt nam
2.1.1. Đối tượng và chủ thể đươc bảo hộ Quyền tác giả
* Tác phẩm khoa học
Tác phẩm là “sản phẩm sáng tạo trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa học thể hiện
bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào.” 7 Tác phẩm khoa học có thể hiểu là kết quả của hoạt
động sáng tạo trong nghiên cứu khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, chính trị… bao gồm các bài
viết, cơng trình nghiên cứu, sách giáo khoa, bài giảng, sách tham khảo, sách chuyên khảo…
Theo Nghị định số 22/2018/NĐ-CP, tác giả là người trực tiếp sáng tạo ra một phần hoặc toàn
bộ tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học, đồng tác giả là những tác giả cùng trực tiếp sáng tạo
ra một phần hoặc toàn bộ tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học. Trong trường hợp này, tác giả
của nhóm đối tượng trên là các giảng viên, sinh viên.
* Khóa luận, đồ án, luận văn, luận án
Khóa luận, đồ án, luận văn, luận án có thể hiểu là bài nghiên cứu lý luận và thực tiễn về một
đề tài cụ thể, bên cạnh đó, mức độ chun sâu và loại hình của bài nghiên cứu phụ thuộc vào cấp
học của chủ thể sáng tạo và mục đích của việc thực hiện bài nghiên cứu đó.
Hiện nay, dựa trên quy định cụ thể của các trường đại học, có thể thấy rằng tác giả của các
bài khóa luận, đồ án, luận văn, luận án là sinh viên, học viên, nghiên cứu sinh tại các cơ cở giáo dục
trên. Người hướng dẫn khoa học có thể là giảng viên của cơ sở giáo dục hoặc cũng có thể là người
có trình độ chun mơn ở ngồi cơ sở đào tạo được mời hướng dẫn cho sinh viên, học viên, nghiên
cứu sinh thực hiện khóa luận, luận văn, luận án. Tuy nhiên, theo khoản 3 Điều 6 Nghị định
22/2018/NĐ-CP quy định thì các chủ thể kể trên không được công nhận là tác giả hay đồng tác giả
của các bài khóa luận, luận văn, luận án mà họ hỗ trợ, góp ý hay cung cấp tư liệu.
* Đề tài nghiên cứu khoa học
Khoa học là quá trình nghiên cứu nhằm khám phá ra những kiến thức mới, học thuyết mới,…
về tự nhiên và xã hội. Nghiên cứu khoa học là các hoạt động, có thể bao gồm việc tìm kiếm, xem
xét, điều tra hoặc thử nghiệm. Dựa trên những số liệu, tài liệu… đạt được từ các hoạt động trên, từ
đó phát hiện ra những cái mới về bản chất sự vật, thế giới tự nhiên và xã hội, đồng thời sáng tạo ra
phương pháp và phương tiện kỹ thuật tiên tiến hơn, phục vụ cho cuộc sống.


7 Khoản 7 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ.


7

Khoản 4 Điều 3 Luật Khoa học và Công nghệ định nghĩa như sau “Nghiên cứu khoa học là
hoạt động khám phá phát hiện, tìm hiểu bản chất, quy luật của sự vật, hiện tương tự nhiên xã hội và
tư duy, sáng tạo giải pháp nhằm ứng dụng vào thực tiễn”.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 14 Luật SHTT và Khoản 1 Điều 2 Công ước Berne về bảo
hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật, nội dung của kết quả nghiên cứu cơ bản không được bảo hộ
theo pháp luật về sáng chế, nhưng bản viết về nó lại là tác phẩm khoa học và được bảo hộ. Cụ thể:
Điểm a Khoản 1 Điều 14 Luật SHTT quy định “Tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học”
được bảo hộ bao gồm: a) Tác phẩm văn học, khoa học, sách giáo khoa giáo trình và tác phẩm khác
được thể hiện dưới dạng chữ viết hoặc ký tự khác.
Khoản 1 Điều 2 Công ước Berne quy định thuật ngữ “Các tác phẩm văn học và nghệ thuật”
bao gồm tất cả các sản phẩm trong lĩnh vực văn học, khoa học và nghệ thuật bất kỳ được biểu hiện
theo phương thức hay dưới hình thức nào, chẳng hạn như sách, tập in nhỏ và các bản viết khác, các
bài giảng bài phát biểu, bài thuyết giáo và các tác phẩm cùng loại. Trong hoạt động nghiên cứu khoa
học, việc xác định chủ sở hữu kết quả nghiên cứu không chỉ có ý nghĩa trong việc thương mại hóa
kết quả nghiên cứu mà cịn có ý nghĩa đối với danh dự và uy tín của tác giả - người sáng tạo ra kết
quả nghiên cứu.
Theo quy định tại Điều 41, Điều 42 Luật Khoa học và Công nghệ quy định thì về nguyên tắc,
tổ chức hoặc cá nhân đầu tư tài chính, cơ sở vật chất để cho các cá nhân tạo ra kết quả nghiên cứu
khoa học thì là chủ sở hữu QTG. Việc phân định giữa tác giả và chủ sở hữu QTG khơng chỉ có ý
nghĩa rất quan trọng trong việc xác định các QNT nghiên cứu mà cịn có ý nghĩa đối với danh dự và
uy tín của tác giả - người sáng tạo ra kết quả nghiên cứu.
2.1.2. Quy định cụ thể về một số Quyền tác giả và thực trạng bảo hộ Quyền tác giả trong
hoạt động thư viện tại các trường đại học
2.1.2.1. Quyền sao chép tác phẩm
QSC được quy định trong rất nhiều các điều ước quốc tế về QTG mà điển hình là Cơng ước

Berne và trong pháp luật các quốc gia. Tại Việt Nam, QSC được quy định trong Điều 20 Luật SHTT
và khoản 2 Điều 21 Nghị định 22/2018/NĐ-CP. Cung cấp dịch vụ sao chép là một trong những hoạt
động phổ biến của các thư viện tại Việt Nam cũng như các nước trên thế giới. Như đã được phân
tích ở trên, pháp luật về QTG của Việt Nam quy định QSC tác phẩm là QTS mang tính độc quyền
của chủ sở hữu QTG. Do đó, về nguyên tắc, các hoạt động sao chép tác phẩm, dù được thực hiện
dưới hình thức nào, tồn bộ hay một phần của tác phẩm, đều phải được sự cho phép của chủ sở hữu
QTG và phải trả thù lao.
* Một số trường hợp sao chép tác phẩm không phải xin phép, không phải trả thù lao
Thứ nhất, sao chép không quá một bản nhằm mục đích nghiên cứu, giảng dạy.


8

Bên cạnh việc bảo hộ QTG, bảo vệ chủ sở hữu QTG giữ độc quyền đối với việc sao chép tác
phẩm, pháp luật SHTT Việt Nam cũng như pháp luật các nước đều cho phép sử dụng tác phẩm, bao
gồm sao chép tác phẩm trong những trường hợp nhất định mà không phải xin phép, không phải trả
thù. Một trong số đó được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 25 Luật SHTT Việt Nam “Tự sao chép
một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân”. Theo đó, việc sao chép tác
phẩm khơng phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút và thù lao chỉ được tiến hành khi đáp ứng
được các điều kiện sau: (i) tự thực hiện hành vi sao chép; (ii) và số lượng bản sao chép không quá
một bản; (iii) chỉ nhằm mục đích nghiên cứu khoa học và giảng dạy; (iv) việc sao chép phải không
được làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm, khơng gây phương hại đến các quyền
của tác giả, chủ sở hữu QTG8. Quy định trên được đưa ra trên cơ sở quy định của Công ước Berne
1886 cho phép các quốc gia thành viên được quyền quy định về các trường hợp sử dụng ngoại lệ
QTG với ba điều kiện: (i) các trường hợp này phải được quy định trong pháp luật quốc gia; (ii)
không phương hại đến quyền của tác giả; (iii) không ảnh hưởng đến sự khai thác bình thường tác
phẩm.
Xét thấy, Luật SHTT Việt Nam đã thu hẹp các trường hợp sao chép tác phẩm không cần xin
phép, không cần trả thù lao, ảnh hưởng việc khai thác tác phẩm của công chúng. Một là, quy định
của pháp luật về hành vi “tự sao chép” chưa được hướng dẫn, giải thích cụ thể, gây khó khăn trong

việc áp dụng pháp luật. Phải hiểu “tự sao chép” là một người phải tự mình thực hiện hành vi sao
chép như in ấn, chép tay… hay người sao chép tự mình mang tác phẩm đến một cơ sở photocopy,
yêu cầu photocopy tác phẩm cũng được hiểu là hành vi “tự sao chép”. Nếu hiểu theo quan điểm thứ
nhất thì thư viện không thể cung cấp dịch vụ cung cấp các bản sao của tác phẩm dù phục vụ cho
mục đích nghiên cứu khoa học và giảng dạy, nếu chưa được sự cho phép của chủ sở hữu QTG. Hai
là, mục đích sao chép chỉ giới hạn ở mục đích nghiên cứu và giảng dạy. Như vậy, các mục đích nằm
ngồi mục đích nghiên cứu khoa học và giảng dạy, ví dụ như mục đích học tập, mục đích giải trí …
cũng không thuộc trường hợp không cần xin phép, không cần trả thù lao. Trong điều kiện hiện nay,
khi mà việc quản lý nhà nước đối với hoạt động photocopy chưa được thắt chặt thì quy định này
chưa thực sự gây trở ngại tới việc sử dụng tác phẩm của công chúng. Tuy nhiên, trong tương lai gần,
khi mà các hoạt động nhằm đảm bảo thực thi QTG được đẩy mạnh, các hoạt động sao chép sẽ phải
thực thi theo đúng quy định của pháp luật QTG thì quy định này sẽ trở thành rào cản đối với việc sử
dụng tác phẩm và xa hơn là đối với mục đích của pháp luật QTG là nhằm khuyến khích hoạt động
sáng tạo, phổ biến tác phẩm có giá trị phục vụ cho mục đích phát triển văn hóa, giáo dục.
Thứ hai, sao chép tác phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu
Điểm đ khoản 1 Điều 25 Luật SHTT quy định trong trường hợp sao chép tác phẩm để lưu trữ
trong thư viện với mục đích nghiên cứu thì sẽ khơng phải xin phép, khơng phải trả tiền nhuận bút,
không phải trả thù lao. Khoản 2 Điều 22 Nghị định 22/2018/NĐ-CP quy định “Sao chép tác phẩm
để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 25 của Luật sở
hữu trí tuệ là việc sao chép khơng q một bản. Thư viện không được sao chép và phân phối bản sao
8 Lê Thị Nam Giang (2015), Bảo hộ quyền tác giả trong hoạt động của thư viện, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 3/2015, tr. 17.


9

tác phẩm tới công chúng, kể cả bản sao kỹ thuật số”. Tuy nhiên, trong trường hợp nào thư viện được
phép sao chép để lưu trữ hiện nay vẫn còn là vấn đề tranh cãi. Pháp luật Việt Nam chỉ quy định
nguyên tắc chung là thư viện được quyền sao chép tác phẩm để lưu trữ nhằm mục đích nghiên cứu
mà không quy định cụ thể, chi tiết về vấn đề này. Trong phiên họp của Ủy ban Quyền tác giả và 19
quyền liên quan của WIPO vào tháng 12/2013, vấn đề này được đưa ra thảo luận và nhận được rất

nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng quyền này chỉ được phép khi bản gốc không thể lưu trữ
được, nhưng đa số các ý kiến đều cho rằng thư viện chỉ được quyền lưu trữ nhằm mục đích cơng
cộng, phi lợi nhuận, nhằm bảo tồn di sản văn hóa.
Với quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, các hoạt động sao chép tác phẩm theo yêu
cầu của người đọc của các thư viện trường đại học tại Việt Nam đều phải được sự cho phép của chủ
sở hữu QTG. Thực tế, trong nhiều trường hợp độc giả chỉ có nhu cầu sử dụng một phần tác phẩm và
đa số các trường hợp yêu cầu photocopy tài liệu tại thư viện là nhằm mục đích nghiên cứu khoa học
hoặc mục đích học tập, giảng dạy chứ khơng phải mục đích thương mại. Do đó, điều này thực sự
gây khó khăn cho hoạt động của các thư viện trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình.
Điều này địi hỏi pháp luật Việt Nam phải hồn thiện các quy định về quản lý hoạt động của các tổ
chức này cũng như bản thân các tổ chức này cũng phải tự hồn thiện mình.
Tóm lại, các quy định hiện hành của pháp luật cho thấy, nếu tuân thủ đúng quy định của pháp
luật QTG, thư viện sẽ không được phép cung cấp dịch vụ sao chép khi chưa có sự cho phép của chủ
sở hữu quyền tác giả, dù có thu phí hay khơng thu phí. Nhằm giải quyết vấn đề này, nhiều thư viện
hiện nay tự đưa ra quy định cho phép photocopy 10% hoặc 15% tác phẩm và tiến hành thu phí đối
với dịch vụ này. Tuy nhiên các giải pháp này chỉ mang tính chất tạm thời, không phù hợp với pháp
luật SHTT VIệt Nam hiện hành.
2.1.2.2. Quyền truyền đạt, phân phối tác phẩm
Trong các thư viện hiện nay, trong kho tác phẩm của thư viện bao gồm các nguồn sách do thư
viện đặt mua, các nguồn sách do được tặng cho từ tổ chức, cá nhân có thể là chủ sở hữu QTG, có thể
khơng phải chủ sở hữu QTG, các sách được nộp lưu chiểu. Các tác phẩm này được lưu giữ có thể
chỉ là một bản duy nhất, có thể nhiều bản. Các độc giả đến thư viện đều được quyền tự do đọc tại
chỗ, thậm chí một số trường hợp, nếu có nhiều đầu sách trên một tác phẩm, độc giả có thể mượn
mang về nhà mà khơng bị tính phí. Thực chất trong trường hợp này, hành vi này cũng cần được xem
xét dưới góc độ pháp luật QTG. Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay, đây được xem như một hoạt động
bình thường của thư viện truyền thống nhằm thực hiện chức năng của mình mà khơng có bất cứ một
sự phản đối nào từ phía chủ sở hữu QTG hay từ cá nhân, tổ chức khác. Tuy nhiên nếu thư viện số
hóa các nguồn sách này, lưu trữ và cho phép truy cập hoặc phân phối trên Internet thì đây là hành vi
xâm phạm quyền.
Vấn đề đặt ra là việc cho thuê, cho mượn tác phẩm của thư viện có nằm trong quyền tác giả

được pháp luật bảo hộ không?


10

Theo quy định tại Điều 20 Luật SHTT một trong các QTS của chủ sở hữu QTG là cho thuê
bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính mà khơng quy định về việc cho th
tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học khác.
Tuy nhiên, theo Điểm đ Khoản 1 Điều 20 LSHTT một trong các QTS trong QTG đối với tác
phẩm được bảo hộ là quyền phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm. Theo hướng dẫn
tại Nghị định 22/2018/NĐ-CP thì quyền phân phối bản gốc hoặc bản sao tác phẩm là quyền của chủ
sở hữu QTG độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện bằng bất kỳ hình thức,
phương tiện kỹ thuật nào mà cơng chúng có thể tiếp cận được để bán, cho thuê hoặc các hình thức
chuyển nhượng khác bản gốc hoặc bản sao tác phẩm. Như vậy, theo quy định này, việc cho thuê tác
phẩm là một trong các hình thức phân phối tác phẩm và thuộc QTS được bảo hộ trong QTG. Do đó,
việc cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm phải được sự đồng ý của chủ sở hữu QTG. Ngược lại,
việc cho mượn tác phẩm sử dụng trong một khoảng thời gian không thuộc trường hợp phân phối tác
phẩm, do bản chất của quan hệ cho mượn không dẫn đến hành vi chuyển nhượng bản gốc, bản sao
tác phẩm cho cơng chúng, do đó khơng được coi là hành vi vi phạm quyền tác giả. Như vậy, hành vi
cho thuê tác phẩm với bản chất là khai thác lợi ích thương mại của tác phẩm được coi là hành vi
phân phối tác phẩm và được bảo hộ, trong khi hành vi cho mượn tác phẩm không phải là hành vi vi
phạm QTG.
Tuy nhiên, Khoản 9 Điều 28 Luật SHTT quy định, hành vi cho thuê tác phẩm mà không trả
tiền nhuận bút, thù lao và quyền lợi vật chất khác cho tác giả hoặc chủ sở hữu QTG là một trong các
hành vi vi phạm QTG. Quy định này dẫn đến cách hiểu khác: đó là việc cho thuê tác phẩm có trả
tiền nhuận bút, thù lao và quyền lợi vật chất khác cho tác giả hoặc chủ sở hữu QTG là hành vi hợp
pháp. Hay nói cách khác, việc cho thuê tác phẩm là hành vi không phải xin phép tác giả nhưng phải
trả tiền nhuận bút, thù lao. Quy định này làm cho pháp luật về bảo vệ QTG thiếu đi sự nhất quán.
Bên cạnh đó, sự khác biệt giữa giao dịch cho thuê và cho mượn theo pháp luật dân sự là
nghĩa vụ trả tiền. Theo Điều 472 BLDS 2015 trong hợp đồng thuê tài sản, bên cho thuê giao tài sản

cho bên thuê để sử dụng trong một thời hạn và phải trả tiền thuê, còn hợp đồng mượn tài sản thì bên
cho mượn giao tài sản cho bên mượn để sử dụng trong một thời hạn mà không phải trả tiền, bên
mượn phải trả lại tài sản đó khi hết thời hạn mượn hoặc mục đích mượn đã đạt được (Điều 494
BLDS 2015). Hiện nay, đa số các thư viện có dịch vụ cho mượn sách có thu phí ví dụ Thư viện
Khoa học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh9.
Đối với các nước trên thế giới như Hoa Kỳ, Nga, Singapore, các thư viện lớn của các trường
đại học dù nguồn vốn đầu tư có hỗ trợ từ ngân sách nhưng vẫn thu phí cho các hoạt động mượn
sách, khơng những thế, mức phí là khá cao 10. Đối chiếu với quy định của BLDS 2015, việc mượn
sách có trả phí mà các thư viện hiện nay đang thực hiện không phải là giao dịch mượn tài sản mà
bản chất là giao dịch thuê tài sản và phí mượn sách thực chất là tiền thuê tài sản. Do đó, sự nhập
9 “Dịch vụ mượn về”, [ (Truy cập ngày 08/1/2022).
10 Vũ Văn Sơn (2014), “Dịch vụ thư viện có thu phí”, Tạp chí Thư viện Việt Nam, Số 6, [ (Truy cập ngày 08/1/2022).


11

nhằng trong việc phân biệt dịch vụ cho mượn và cho thuê tác phẩm của thư viện làm các cơ quan
quản lý và chính các thư viện gặp khó khăn trong việc xác định và triển khai các hoạt động để đảm
bảo tuân thủ đúng pháp luật về thư viện và SHTT. Hiện nay, đa số thư viện không thực hiện xin
phép chủ sở hữu quyền tác giả đối với hoạt động cho thuê, cho mượn tác phẩm, hay nói cách khác,
hoạt động của thư viện không tuân thủ đúng quy định về bảo hộ quyền tác giả theo Luật SHTT.
2.1.2.3. Một số hành vi xâm phạm phổ biến về Quyền tác giả trong các cơ sở giáo dục đại
học
* Hành vi sao chép tác phẩm không đúng quy định
Theo số liệu thống kê từ liên minh quốc tế về SHTT, mức độ vi phạm về tác phẩm ngôn ngữ
ở nước ta chiếm tới 85-90% và Việt Nam được xếp vào một trong những nước có mức vi phạm cao
nhất thế giới11. Bên cạnh đó, số liệu khảo sát của Hiệp hội Quyền sao chép Việt Nam VIETPRO tại
hơn 60 cơ sở giáo dục trên cả nước cũng cho thấy tình trạng xâm phạm quyền tác giả ngày càng gia
tăng mà trong đó hành vi xâm phạm phổ biến nhất là sao chép tác phẩm. Mức độ sao chép có xu
hướng gia tăng từ bậc trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng đến đại học. Theo quy định của Luật

SHTT, các tổ chức hay cá nhân khi truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu
tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác,… thì đều phải
xin phép và trả tiền nhuận bút, thù lao, các quyền lợi vật chất khác cho chủ sở hữu quyền tác giả
theo Điều 20 Luật SHTT. Cụ thể: “Hành vi truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện
hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào mà không được
phép của chủ sở hữu quyền tác giả sẽ bị phạt tiền từ 15 - 30 triệu đồng và buộc phải dỡ bỏ tác phẩm
vi phạm”12.
Thực tế, tại một số trường đại học đã đặt ra một số biến pháp để nhằm bảo vệ tốt nhất QTG
đối với các thành quả sáng tạo của nhà trường như nghiêm cấm sinh viên sử dụng và phát hành các
tài liệu học tập photocopy và in lậu do nhà trường biên soạn, xuất bản, in ấn và phát hành như giáo
trình, tập bài giảng, sách chuyên khảo,… Đồng thời, trường đã có những biện pháp xử lí nhằm răn
đe các hành vi xâm phạm QTG như vụ việc một sinh viên tàng trữ và đưa vào trường trái phép 8
quyển giáo trình photo vi phạm bản quyền là điển hình cho hành vi xâm phạm quyền tác giả trong
việc sao chép tác phẩm trong môi trường giáo dục. Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh đã
đình chỉ học một năm với nữ sinh sử dụng tài liệu photo từ giáo trình của Trường là đúng về theo
đúng quy định Luật Giáo dục, Luật SHTT và quy chế riêng của Trường Đại học Luật thành phố Hồ
Chí Minh13.
* Hành vi trích dẫn khơng hợp lý và hành vi đạo văn
11 Bùi Loan Thùy (2014), “Hướng giải quyết vấn đề sao chép tài liệu trong thư viện để thực thi quyền tác giả và quyền liên quan
ở Việt Nam”, Tạp chí Thư viện Việt Nam, Số 6, tr. 7.
12 Điều 17 Nghị định số 131/2013/NĐ/CP ngày 16 tháng 10 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về
quyền tác giả, quyền liên quan
13 Lê Phương: “Quyết định đình chỉ học nữ sinh mang tài liệu photo vào trường gây nhiều tranh cãi”, Trang thông tin điện tử Báo
Dân trí [Truy cập ngày 6/1/2022]


12

Hành vi trích dẫn và đạo văn là một trong những vấn nạn xảy ra tại hầu hết các trường đại
học dù cho mỗi trường đều có chính sách riêng về trích dẫn và đạo văn để ngăn chặn sinh viên xâm

phạm QTG đối với luận văn và các tài liệu học thuật khác. Tuy nhiên, việc trích dẫn trái phép và đạo
văn vẫn cịn tồn tại và có chiều hướng gia tăng. Thực tế hiện nay, một số trường vẫn chưa có quy
định cụ thể về trích dẫn và chống đạo văn. Quy định về trích dẫn và đạo văn chỉ được tìm thấy trong
một số văn bản của trường, cụ thể Hiệu trưởng Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh đã có Quyết định số
250/QĐ-ĐHL ngày 03/03/2015 ban hành Quy định về trích dẫn và chống đạo văn, trong đó giao
Trung tâm Thơng tin – Thư viện trách nhiệm thẩm định tác phẩm của cán bộ - viên chức và người
học nhằm xác định hành vi đạo văn. Nếu kết quả thẩm định cho thấy có hành vi đạo văn, tùy theo
hình thức và mức độ, người vi phạm sẽ bị xử lý bởi một hoặc một số các biện pháp như khiển trách,
trừ điểm từ 25% đến 50%, đình chỉ có thời hạn việc bảo vệ, đánh giá nghiệm thu tác phẩm, không
cho bảo vệ, nghiệm thu tác phẩm, hủy bỏ kết quả bảo vệ, nghiệm thu tác phẩm.
2.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo hộ Quyền tác giả trong hoạt động
của thư viện trường đại học
Từ các lập luận và ví dụ nêu trên, đồng thời qua q trình phân tích quy định pháp luật Việt
Nam cũng như một số quy định của pháp luật thế giới về bảo hộ QTG trong các hoạt động thư viện
hiện nay cho thấy, mặc dù thư viện là một thiết chế đặc biệt được thiết lập nhằm mục tiêu xã hội và
nhiều hơn các lợi ích kinh tế, tuy nhiên hệ thống pháp luật về QTG hiện nay chưa rõ ràng, minh
bạch và chưa tạo điều kiện thuận lợi cho các thư viện thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình.
Tác giả đề xuất những sửa đổi, bổ sung quy định như sau:
Thứ nhất, quy định của pháp luật tại Điều 28 LSHTT vẫn còn chưa hợp lý. Hiện nay, việc
cho thuê tác phẩm là một trong các quyền phân phối tác phẩm đã được pháp luật quy định. Tuy
nhiên, Điều 28 chia hai hoạt động này thành hoạt động phân phối tại Khoản 3 và hoạt động cho thuê
tác phẩm tại Khoản 9 sẽ có sự trùng lặp, làm cho pháp luật thiếu tính thống nhất. Đồng thời, việc
quy định tại Khoản 9 về nghĩa vụ trả tiền nhuận bút, thù lao hoặc quyền lợi vật chất cho chủ sở hữu
quyền tác giả trong trường hợp cho thuê tác phẩm mà không đề cập đến nghĩa vụ xin phép sử dụng
sẽ làm cho điều luật trở nên đa nghĩa và mâu thuẫn với quy định tại Điều 20. Do đó, cần bỏ quy định
tại Khoản 9 Điều 28 Luật SHTT vì hành vi này đã được điều chỉnh bởi quy định tại Khoản 3 Điều
28.
Bên cạnh đó, cần xem hoạt động cho thuê, cho mượn tác phẩm của thư viện là một trường
hợp ngoại lệ và thư viện được thực hiện mà không cần xin phép tác giả hoặc chủ sở hữu QTG. Vì
người sử dụng thư viện chủ yếu hiện nay là người học tập và nghiên cứu khoa học, do đó lợi ích xã

hội mà thư viện mang lại có vai trị lớn hơn các lợi ích thương mại, kinh tế. Hơn nữa, việc cho thuê,
cho mượn phải trả tiền bản quyền cho tác giả cũng là một cách thức bù đắp các lợi ích kinh tế cho
tác giả.
Thứ hai, cần quy định cụ thể trường hợp các trường đại học sử dụng các luận văn, luận án do
học viên của mình thực hiện tại trường để cung ứng các dịch vụ thư viện như cho mượn, cho thuê là


13

trường hợp không cần xin phép và không cần trả tiền bản quyền. Điều này xuất phát trên cơ sở các
luận văn, luận án được thực hiện là kết quả của quá trình đào tạo của đơn vị giáo dục, do đó cần
thừa nhận những đóng góp nhất định của đơn vị đào tạo. Bên cạnh đó, các luận văn, luận án nêu trên
là một nguồn tham khảo rất có giá trị, tránh việc chọn đề tài trùng lặp, nghiên cứu lại những vấn đề
người khác đã nghiên cứu và một nguồn tài liệu để người học tự học, tự nghiên cứu.
Thứ ba, cần sửa đổi quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 25 Luật SHTT. Theo đó, Luật cần quy
định hành vi được phép là hành vi “sao chép khơng q một bản nhằm mục đích nghiên cứu và
giảng dạy”. Đồng thời với quy định này, pháp luật cần xác định chủ thể có hành vi sao chép là người
sao chép hoặc người có yêu cầu thực hiện sao chép. Còn thư viện với tư cách là chủ thể cung ứng
dịch vụ sao chép khơng có trách nhiệm trong việc sử dụng bản sao tác phẩm không đúng với mục
đích mà pháp luật cho phép, kể cả trong trường hợp thư viện cung cấp các phương tiện kỹ thuật để
sao chép bản sao tác phẩm và việc sao chép tác phẩm của thư viện không xâm phạm đến các quyền
khác của tác giả và chủ sở hữu QTG.
Thứ tư, pháp luật cần quy định cụ thể việc cung cấp dịch vụ thư viện số là một trường hợp
mà thư viện muốn thực hiện phải xin phép chủ sở hữu quyền tác giả. Ngày nay, đây là một dịch vụ
thiết thực phù hợp với nhu cầu đa dạng của người sử dụng và thời đại phát triển vượt bậc của công
nghệ thông tin. Tuy nhiên, hoạt động này nếu khơng có sự cho phép của chủ sở hữu QTG thì dù việc
cung cấp dịch vụ của thư viện khơng nhằm mục đích thương mại vẫn ảnh hưởng rất lớn đến việc
khai thác của tác giả đối với tác phẩm. Do đó, cần thiết quy định trường hợp ngoại lệ khi thư viện
cung cấp một phần không đáng kể tác phẩm đến người sử dụng, khoảng từ 10% đến 15% dung
lượng tác phẩm, nhằm những tạo điều kiện cho người sử dụng tiếp cận thông tin, đồng thời không

ảnh hưởng đến các quyền của chủ sở hữu quyền tác giả.
Cuối cùng, cần phát triển các biện pháp công nghệ để các chủ thể có thể tự bảo vệ QTG một
cách hiệu quả. Để giải quyết vấn nạn này, cần có một hệ thống thư viện điện tử chung cho các
trường đại học tại Việt Nam, theo đó, các bài báo, cơng trình nghiên cứu, giáo trình, luận văn... sẽ
được đưa vào phần mềm này, nhằm kiểm tra, đánh giá và so sánh sự tương đồng của bài viết với các
bài viết đã cơng bố chính thức trước đó trong nguồn dữ liệu, từ đó đưa ra kết quả tương đồng. Phần
mềm cũng chỉ rõ phần tương đồng này đã được trích trong tài liệu nào. Tùy vào đặc thù của mình,
mỗi trường sẽ quy định tỉ lệ phần trăm bao nhiêu thì bị xem là đạo văn. Điều này nhằm răn đe người
sử dụng tài liệu cần cẩn trọng và có ý thức hơn trong việc tham khảo và sử dụng các tài liệu.
Kết luận Chương 2
Trong Chương 2, tác giả chủ yếu trình bày về các quy định của pháp luật Việt Nam về QTG
trong hoạt động thư viện của các trường đại học tại Việt Nam, từ đó chỉ ra một số bất cập còn tồn tại
trong thực tế liên quan đến Luật SHTT, cũng như đưa ra một số hướng giải quyết phù hợp cho từng
vấn đề.


14

KẾT LUẬN

Thư viện các trường Đại học có vị trí, vai trị và nhiệm vụ vơ cùng quan trọng trong việc lưu
trữ, phục vụ, khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên thông tin nhằm phục vụ cho nhu cầu bạn đọc
với các tài liệu. Ngày nay, trong một xã hội và Nhà nước pháp quyền, Thư viện cũng có trách nhiệm
phải bảo vệ và thực thi QTG trong các hoạt động của mình. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam hiện nay
về sở hữu trí tuệ, cụ thể là Luật Sở hữu trí tuệ bên cạnh những điểm tiến bộ, đang bộc lộ một số
thiếu sót trong quy định về Quyền tác giả nói chung và Quyền tác giả trong hoạt động thư viện nói
riêng. Nhằm mục đích hỗ trợ thư viện thực hiện tốt hơn các hoạt động, đảm bảo chức năng, vai trị
của mình, địi hỏi pháp luật về sở hữu trí tuệ khơng ngừng hồn thiện để khắc phục những điểm hạn
chế nêu trên. Đồng thời, các chủ thể trong xã hội khi tham gia vào các hoạt động thư viện cần ý thức
được việc bảo hộ Quyền tác giả cho chính mình và cho các chủ thể khác.



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. Văn bản quy phạm pháp luật
Luật số 50/2005/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2005 Luật Sở hữu trí tuệ
Luật số 36/2009/QH12 ngày 19 tháng 6 năm 2009 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật sở hữu trí tuệ năm 2005
Luật số 91/2015/QH13 ngày 24 tháng 11 năm 2015 Bộ luật dân sự
Luật số 46/2019/QH14 ngày 21 tháng 11 năm 2019 Luật Thư viện
Nghị định số 22/2018/NĐ-CP ngày 23 tháng 02 năm 2018 quy định chi tiết một số điều và
biện pháp thi hành Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở
hữu trí tuệ năm 2009 về quyền tác giả, quyền liên quan
Nghị định số 131/2013/NĐ/CP ngày 16 tháng 10 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt
vi phạm hành chính về quyền tác giả, quyền liên quan
Pháp lệnh của Uỷ ban thường vụ Quốc hội số 31/2000/PL-UBTVQH ngày 28 tháng 12 năm
2000 về thư viện
B. Tài liệu tham khảo
* Tài liệu tiếng Việt:
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2021), Giáo trình Luật Sở hữu trí tuệ, Nxb.
Hồng Đức.
Trường Đại học Luật Hà Nội (2021), Giáo trình Luật Sở hữu trí tuệ, Nxb. Cơng an nhân dân.
Đỗ Mai Phương Anh (2019), Bảo hộ quyền tác giả đối với việc xây dựng thư viện mở dùng
chung trong các trường đại học, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội.
Phạm Thị Kim Oanh, “Giới hạn và ngoại lệ quyền tác giả, quyền liên quan trong hoạt động
lưu trữ của thư viện”, kỷ yếu hội thảo Quyền tác giả trong hoạt động thư viện các trường đại học.
Lê Văn Viết (2014), “Vấn đề quyền tác giả trong hoạt động thư viện”, Tạp chí Thư viện Việt
Nam, Số 6.
Lê Thị Nam Giang (2015), “Bảo hộ quyền tác giả trong hoạt động thư viện”, Tạp chí Khoa
học Pháp lý Việt Nam, Số 88.

Ngô Nguyễn Cảnh, Dương Thị Mỹ Ngọc, “Pháp luật quyền tác giả trong hoạt động của thư
viện một số đánh giá và kiến nghị hồn thiện”, Tạp chí Thư viện Việt Nam.
Bùi Loan Thùy (2014), “Hướng giải quyết vấn đề sao chép tài liệu trong thư viện để thực thi
quyền tác giả và quyền liên quan ở Việt Nam”, Tạp chí Thư viện Việt Nam, Số 6.


* Tài liệu internet
Chuyên đề “Vấn đề quyền tác giả trong hoạt động của thư viện” (2006), Tạp chí Kỷ yếu hội
thảo Tăng cường cơng tác tiêu chuẩn hóa trong hoạt động Thông tin - tư liệu.
Nguyễn Thị Ngọc Tuyền, “Bảo hộ quyền tác giả trong cơ sở giáo dục đại học - Thực tiễn tại
một số trường đại học”, Tạp chí Cơng thương, [ (truy cập
ngày 07/1/2022).
Vũ Dương Thúy Ngà, “Một số vấn đề đặt ra trong xây dựng chính sách, quy định về quyền
tác giả, quyền liên quan trong hoạt động thư viện”, Cổng thông tin điện tử Bộ Văn hóa, thể thao và
du lịch [ (truy cập ngày
07/1/2022)
Lê Phương, “Quyết định đình chỉ học nữ sinh mang tài liệu photo vào trường gây nhiều tranh
cãi”, Trang thông tin điện tử Báo Dân trí [ (truy cập ngày 09/1/2022).
[ (truy cập ngày
10/1/2022)
*Tài liệu nước ngoài
Michel Vivant, Jean-Michel Brugière (2013), Droit d’auteur et droits voisins, Dalloz, 2e éd.,
tr.232.



×