Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

sang kien kinh nghiem am nhac

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.67 KB, 26 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

BÁO CÁO
KẾT QUẢ THỰC HIỆN GIẢI PHÁP HỮU ÍCH
MỘT SỐ GIẢI PHÁP
GIÚP HỌC SINH LỚP 4 HỌC TỐT NỘI DUNG HỌC HÁT
Đề nghị công nhận “ Sáng kiến kinh nghiệm” cấp huyện
Năm học: 2016 – 2017
Phần I:
1. Họ và tên: Đỗ Xuân Quỳnh.
2. Chức vụ: Giáo viên Âm nhạc.
3. Đơn vị công tác: Trường tiểu học Tân Nghĩa I - Di Linh- Lâm Đồng.
4. Lý do chọn đề tài.
Giáo dục thẩm mỹ cho con người không thể thiếu được trong mục đích
giáo dục hiện nay của chúng ta. Việc giáo dục một con người toàn diện khơng
chỉ giáo dục cho họ có đạo đức tốt, có trình độ hiểu biết, nắm chắc các kiến thức
khoa học và xã hội, có sức khoẻ, biết lao động, sẵn sàng lao động mà còn phải
giáo dục cho họ biết nhìn nhận, phân biệt, biết thưởng thức cái đẹp và biết làm
đẹp cho cuộc sống. Một trong những con đường giáo dục thẩm mỹ nhanh và
hiệu quả nhất là giáo dục thơng qua các mơn học nghệ thuật. Trong đó có mơn
âm nhạc.
Âm nhạc là phương tiện hiệu quả nhất trong giáo dục thẩm mỹ, đặc biệt
là ở bậc tiểu học, thơng qua mơn học này đã hình thành cho các em những kiến
thức ban đầu về ca hát, về kiến thức Âm nhạc, đặc biệt là trang bị cho các em có
một thế giới tinh thần thoải mái hơn, giúp các em phát triển tồn diện hơn, từ đó
giúp các em học tốt các môn học khác.


Học Âm nhạc các em sẽ u thích bộ mơn nghệ thuật này. Các em cảm
thụ và cảm nhận được cái hay cái đẹp từ các bài hát được học. Làm cho các em


thêm yêu quý và trân trọng các sản phẩm văn hóa tinh thần của cha ơng ta để lại
như các bài dân ca, bài đồng dao,…
Từ thực tế giảng dạy môn Âm nhạc cho học sinh ở lứa tuổi tiểu học có thể
thấy rằng, để các em có thể học tốt và đạt kết quả tốt hết sức quan trọng. Điều
đó khơng chỉ phụ thuộc vào chương trình giảng dạy phù hợp mang tính vừa sức,
xoay vịng mà còn phụ thuộc vào phương pháp truyền đạt của người thầy, việc
lựa chọn phương pháp, hình thức tổ chức các hoạt động dạy học phù hợp nhằm
tạo hứng thú cho các em trong giờ học. Hơn nữa còn phụ thuộc vào ý thức học
tập của các em cùng với sự quan tâm và chăm sóc tạo điều kiện của gia đình và
xã hội.
Mơn Âm nhạc giảng dạy cho học sinh tiểu học nói chung và lớp 4 nói
riêng khơng nhằm mục đích đào tạo các em thành những con người hoạt động
nghệ thuật chuyên nghiệp mà chủ yếu là giáo dục văn hóa âm nhạc, làm cho các
em yêu thích nghệ thuật âm nhạc, bước đầu giúp các em làm quen một số kỹ
năng đơn giản về ca hát và thói quen tập hát đúng nhằm phát triển trí tuệ, bồi
dưỡng tình cảm trong sáng lành mạnh, hướng tới cái tốt đẹp, góp phần làm thư
giãn và cân bằng các nội dung học tập khác ở tiểu học.
Vậy làm thế nào để các em hát đúng giai điệu, đúng độ cao, trường độ,
tiết tấu và đúng tính chất các bài hát ? Muốn làm được điều đó, người giáo viên
phải biết xác định giọng cho phù hợp lứa tuổi học sinh, giúp các em có một chút
kiến thức về nhạc lý. Các em hiểu và phân biệt được những âm thanh cao, thấp,
dài, ngắn hình nốt như nốt móc đơn, nốt đen, nốt trắng,…tốc độ thể hiện khác
nhau để phát triển năng lực nghe nhạc và cảm thụ âm nhạc. Ngoài ra người giáo
viên phải biết tạo cho các em một tâm thế thoải mái, tự tin hứng thú tràn đầy khi
học âm nhạc.
Là một giáo viên, qua thời gian trực tiếp giảng dạy bộ mơn âm nhạc, với
lịng yêu nghề mến trẻ và sự nỗ lực học hỏi của mình, tơi mạnh dạn nghiên cứu


đề tài “Một số giải pháp giúp học sinh lớp 4 học tốt nội dung học hát ”, nhằm

nâng cao chất lượng phân môn học hát cho học sinh ở khối lớp 4.
5. Giới hạn:
Tìm hiểu thực trạng việc học hát của học sinh lớp 4 trường Tiểu học Tân
Nghĩa I và đề ra giải pháp thực hiện để nâng cao chất lượng học hát cho học
sinh.
6. Thời gian nghiên cứu:
Bắt đầu từ năm học 2016 – 2017 và cho những năm học sau.
PHẦN II: Nội dung
1. Thực trạng, những tồn tại, hạn chế, nguyên nhân khách quan, chủ quan
về việc dạy học sinh học hát ở lớp 4.
1.1. Thực trạng:
Trường Tiểu học Tân Nghĩa I là một trường nằm ở vùng ven thị trấn.
Trường lớp sạch sẽ, thoáng mát, cơ sở vật chất và các trang thiết bị khá đầy đủ
để phục vụ cho việc dạy và học. Ban giám hiệu quan tâm, đặc biệt là có đội ngũ
cán bộ, giáo viên có tinh thần trách nhiệm cao và một tập thể sư phạm đồn kết,
nhiệt tình trong cơng tác.
Giáo viên ln nghiên cứu chương trình âm nhạc, thiết kế bài giảng trước
khi lên lớp, điều chỉnh chương trình cho phù hợp từng đối tượng học sinh các
lớp và áp dụng phương pháp dạy học tích cực gây được hứng thú cho học sinh.
Năm học 2016-2017, khối lớp 4 có tổng số 78 học sinh. Đa số học sinh rất
thích học hát. Các em ngoan, lễ phép biết vâng lời thầy cô.
1.2. Những tồn tại, hạn chế:
Một số em chưa thuộc bài hát, chưa mạnh dạn để thực hiện bài học của
mình. Có em mặc dù chưa hiểu bài nhưng lại không mạnh dạn hỏi lại giáo viên
để được giải đáp, giúp các em nắm bài tốt hơn.
Một số em chỉ học theo bản năng nên ít có sự sáng tạo trong vận dụng
kiến thức. Vì thế các em hát còn tuỳ tiện lúc nhanh, lúc chậm dẫn đến việc hát


sai giai điệu của bài hát, cách hát kết kợp với vận động phụ hoạ theo bài hát còn

lúng túng chưa tự tin. Học sinh còn e dè chưa dám thể hiện mình.
Do đó quả học tập nội dung học hát của học sinh khối lớp 4 sau khi kết
thúc tiết học thứ 4 trong chương trình Âm nhạc, trường tiểu học Tân Nghĩa I
năm học 2016 – 2017 như sau:

Tổng số
học sinh

Lớp

Học sinh hát đúng
cao độ, trường độ,
thuộc lời ca

Học sinh biết
hát kết hợp
gõ đệm

Học sinh biết hát và
kết hợp vận động

SL

%

SL

%

SL


%

4A1

25

15

60%

14

56%

2

8%

4A2

22

15

68,2%

15

68,2%


2

9,1%

4A3

23

13

56,5%

13

56,5%

1

4,3%

4C

8

5

62,5%

5


62,5%

0

0%

Qua lần khảo sát này tôi thấy hầu hết các em hát còn chưa mạnh dạn, một
số chỗ có dấu luyến, hay những nốt nhạc lên cao các em hát chưa thật chính xác,
chưa cảm nhận được tình cảm mà tác giả nhắn gửi trong bài hát. Một vài em
chưa tích cực trong giờ học, về nhà khơng học bài nên khi giáo viên gọi trả bài
thì khơng thuộc.
Cảm nhận về giai điệu còn mơ hồ, dẫn đến khi kết gõ đệm một số em làm
chưa được, chưa thật sự hiểu về nhịp, phách hay tiết tấu phải gõ như thế nào.
Chủ yếu là các em làm theo cơ và các bạn, cịn khi tự mình thực hiện thì lại
khơng làm được.
Đa số các em khi đứng biểu diễn trước cơ và cả lớp thì cịn e ngại, chưa
mạnh dạn, tự tin. Không dám thể hiện hết khả năng của mình.
1.3. Nguyên nhân khách quan, chủ quan:
* Nguyên nhân khách quan:
Phần lớn học sinh trong trường là con em nông thôn, một số em là dân
tộc thiểu số nên việc học bài của các em còn hạn chế nhất là môn âm nhạc.


Kiến thức về âm nhạc ở khối lớp 4 như cao độ, trường độ, độ luyến láy
khó hơn so với các khối lớp dưới. Một số em còn e ngại, rụt rè khi tham gia biểu
diễn trước lớp.
Âm nhạc là một môn học nghệ thuật, việc học sinh học hát đúng giai điệu,
lời ca, hiểu và cảm nhận được tình cảm trong bài hát địi hỏi học sinh phải có
năng khiếu. Do đó, việc tiếp thu các kiến thức âm nhạc và sự u thích học tập

bộ mơn chỉ rơi vào một số em có năng khiếu.
Phụ huynh học sinh ít quan tâm đến việc nhắc nhở, kiểm tra các em học
bài ở nhà đặc biệt là môn Âm nhạc.
Trường chưa có phịng học riêng cho bộ mơn âm nhạc.
* Ngun nhân chủ quan:
Một số đó các em cịn lúng túng trong việc hát kết hợp gõ đệm, chưa phân
biệt được từng cách gõ đệm theo tiết tấu, theo nhịp, theo phách khác nhau như
thế nào trong một bài hát. Do đó các em hát chưa đúng giai điệu.
Học sinh chưa thuộc lời bài hát nên chưa thể hiện được tình cảm, tính chất
của bài hát. Một số em thuộc lời nhưng chưa mạnh dạn khi thể hiện bài hát.
Trong giảng dạy việc khai thác kiến thức thông qua đồ dùng dạy học đôi
khi chưa thật hiệu quả. Việc tổ chức trò chơi củng cố bài chưa được giáo viên
coi trọng.
Việc sửa sai cho học sinh đôi khi chưa thật kịp thời.
2. Giải pháp thực hiện:
2.1. Tính mới của giải pháp:
Để có một tiết dạy và học hát hiệu quả, gây được hứng thú cho học sinh
trước tiên người giáo viên phải xây dựng nề nếp học tập ngay từ bài học đầu
tiên. Ở các lớp dưới các em được làm quen với kỹ năng hát, phát âm đơn giản.
Hầu hết các bài hát đều ngắn, dễ hát và dễ thuộc. Lên lớp 4 độ khó của các bài
hát tăng lên, nhiều bài xuất hiện nhiều dấu luyến, dấu chấm đơi, dấu lặng đơn,…
Ví dụ như bài “ Trên ngựa ta phi nhanh”, hoặc bài hát có nhiều dấu nối, dấu
luyến, dấu chấm dôi, dấu nhắc lại, dấu lặng đơn,… Ví dụ bài “ Khăn quàng
thắm mãi vai em”, Lại có bài xuất hiện nhiều nốt móc giật, dấu luyến,…Như bài


“ Cò lả ”. Để đáp ứng được với yêu cầu chung của mơn học thì học sinh phải
thuộc lời, nhớ được các kí hiệu ghi nhạc, hiểu và cảm nhận được giai điệu của
bài hát.
Bên cạch đó việc đổi mới phương pháp và các bước trong giảng dạy của

giáo viên là rất quan trọng. Việc này giúp giáo viên truyền thụ kiến thức cho các
em một cách chính xác, đầy đủ nhất. Từ đó giúp các em tiếp thu, cảm nhận được
giai điệu tình cảm của bài hát, tạo động lực cho các em mong muốn được thể
hiện bản thân mình trước cơ giáo và các bạn.
Để thực hiện tốt các yếu tố trên, tôi xin đưa ra một số giải pháp cụ thể
sau:
2.1.1. Nâng cao nhận thức cho bản thân về dạy phân môn học hát.
Học hát chiếm thời lượng nhiều nhất. Mỗi bài hát được dạy trong một tiết,
sau đó được ơn tập trong vài tiết tiếp theo. Cho nên, giáo viên phải xác định rõ
mục tiêu của việc học hát trong kế hoạch bài học vừa đảm bảo theo chuẩn kiến
thức kĩ năng vừa đảm bảo phát huy theo năng lực học sinh. Việc xác định các
mục tiêu cần đạt trong dạy hát như sau:
Mục tiêu về kiến thức: Dạy hát nhằm phát triển năng lực nhận thức của
học sinh, học mỗi bài hát giúp các em biết thêm về một vấn đề, về tác giả hoặc
đặc điểm riêng của bài hát. Sự phong phú về mặt nội dung trong các bài hát giúp
các em có thêm hiểu biết về cuộc sống. Các hình tượng âm nhạc cũng giúp nâng
cao khả năng nhận thức và hiểu biết của học sinh. Bên cạnh đó, dạy hát cịn phát
triển năng lực ngôn ngữ, lời ca của bài hát làm vốn từ của học sinh trở nên
phong phú và sinh động hơn. Tùy vào từng bài hát cụ thể, dựa vào yêu cầu của
chuẩn kiến thức kĩ năng, giáo viên chọn lọc và truyền đạt theo từng điều kiện và
đối tượng cụ thể.
Mục tiêu về kĩ năng: Đây là mục tiêu trọng tâm của việc học hát. Dạy hát
nhằm phát triển năng lực âm nhạc của học sinh, giúp các em hát đúng giai điệu
và lới ca, biết cách hát tự nhiên, biết lấy hơi, hát rõ lời và thể hiện được sắc thái,
tình cảm của bài hát. Dạy hát cịn giúp học sinh trình bày bài hát theo hình thức


đơn ca, song ca, tốp ca, đồng ca, biết hát kết hợp các hoạt động như: gõ đệm,
vận động theo nhạc, nhảy múa, biểu diễn hoặc trò chơi âm nhạc… Khơng nên
địi hỏi q cao đối với học sinh, cần bám sát chuẩn kiến thức kĩ năng và chú ý

phát triển học sinh có năng khiếu, giúp các em được bộc lộ năng khiếu của mình
Mục tiêu về tình cảm và thái độ: Dạy hát nhằm giáo dục học sinh những
tình cảm tốt đẹp, giúp các em thêm yêu âm nhạc (yêu quê hương đất nước, con
người…), có khả năng tham gia ca hát trong và ngoài nhà trường.
Những mục tiêu trên chỉ đạt được khi học sinh trải qua quá trình học tập
lâu dài và đúng hướng, nếu chỉ học 1-2 bài hát thì khơng thể đạt được những
điều đó. Vì vậy khi dạy một bài hát cụ thể, giáo viên phải lựa chọn cách diễn đạt
mục tiêu ngắn gọn và rõ ràng trong kế hoạch bài dạy để từ đó áp dụng có hiệu
quả khi lên lớp. Là một giáo viên bộ môn dạy các khối lớp, điều này tạo điều
kiện thuận lợi vì nội dung được truyền tải đến học sinh được liên tục và có hệ
thống. Giáo viên có sự tiếp cận và nắm bắt được đa số các đối tượng học sinh
trong quá trình dạy học từ lớp 1 đến lớp 5, từ đó giáo viên có thể dễ dàng đặt ra
nội dung và yêu cầu phù hợp cho học sinh ở khối lớp 4.
Bên cạnh việc xác định đúng mục tiêu dạy hát, để tiết học hát đạt hiệu
quả, giáo viên cần chuẩn bị tốt các đồ dùng phục vụ cho giờ học như: Đàn, đài,
băng nhạc, song loan, thanh phách, tranh ảnh,...
Tất cả những đồ dùng, nhạc cụ này sẽ giúp các em xác định được cao độ,
giữ được tiết tấu, tạo không khí sơi nổi giúp các em hứng thú hơn khi hát. Ngồi
ra, tùy theo từng bài mà giáo viên có thể làm thêm một số đồ dùng khác cho phù
hợp.
Ví dụ: Bài Chim sáo giáo viên có thể làm thêm mũ có in hình con chim,
bài Chú voi con ở Bản Đơn thì làm mũ in hình con voi,… để khi các em lên biểu
diễn các em sẽ hào hứng hơn.
Giáo viên cũng có thể chuẩn bị một số tranh ảnh phù hợp với từng bài hát
để giới thiệu tới các em, giúp các em nắm chắc hơn nội dung cũng như tác giả
của các bài hát.


Ví dụ: Khi học tới bài “Bạn ơi lắng nghe” giáo viên chuẩn bị một vài
tranh về cuộc sống, sinh hoạt của người dân tộc Ba-na.

Giáo viên phải thường xuyên tham khảo các kiến thức liên quan đến công
tác giảng dạy âm nhạc qua mạng, qua sách báo, qua các buổi tập huấn chun
mơn. Tích cực liên hệ với giáo viên âm nhạc ở các trường bạn xin dự giờ một số
tiết dạy. Qua đây, giáo viên có nhiều cơ hội học hỏi và trao đổi kinh nghiệm với
các giáo viên có cùng chun mơn với mình để nâng cao tay nghề.
2.1.2. Giúp học sinh thuộc lời bài hát và hát đúng giai điệu.
Trước khi vào bài học giáo viên giới thiệu nội dung bài hát nói về điều gì
sắc thái thể hiện ra sao vui hay êm dịu…Nhất là khi hát phải thể hiện được giai
điệu tiết tấu của bài hát phải đưa tâm hồn của mình hịa quyện vào lời hát, phải
có cảm xúc khi hát thể hiện được tình cảm của mình vào nội dung tác phẩm như
(tình bạn bè, cha mẹ, thầy cơ q hương, mái trường…) để học sinh định hướng
trước.
Để học sinh thuộc lời bài hát giáo viên cần nhắc nhở các em chuẩn bị bài
và đọc lời ca trước ở nhà. Việc này khơng chỉ giúp các em nhớ lời ca mà cịn
giúp các em phần nào hiểu được nội dung của bài hát.
Giáo viên hướng dẫn cho các em đọc lời ca, một đến hai em học sinh đọc
to lời ca, cả lớp nhẩm theo. Sau đó yêu cầu cả lớp đọc, có thể cho các em vừa
đọc vừa gõ theo tiết tấu của bài. Như vậy sẽ giúp các em có thêm hứng thú và dễ
nhớ lời hơn.
Hướng dẫn các em học hát từng câu, giáo viên đàn giai điệu 2 – 3 lần, có
thể linh động gọi một số em khá, giỏi đứng tại chỗ hát câu hát theo giai điệu các
em vừa nghe, hoặc giáo viên hát mẫu và bắt nhịp cho cả lớp hát. Tiết hành dạy
theo lối móc xích. Hết một đoạn giáo viên cho các em ôn theo từng nhóm, từng
tổ. Đối với những bài hát có 2 lời, thì sau khi học xong lời một, giáo viên cho
các em ơn luyện cả lớp, nhóm bàn, cá nhân cho thuộc lời và chính xác giai điệu.
khi thấy học sinh đã hát được tốt lời một, giáo viên mới chuyển qua cho học
sinh học lời 2. Đối với các bài hát trong chương trình lớp 4, thì lời hai thường


hát dựa trên giai điệu của lời một. Vì vậy học sinh chỉ cần hát tốt lời một là có

thể hát được lời hai. Giáo viên cho cả lớp ôn luyện cả bài với nhiều hình thức
khác nhau.
Để giúp học sinh hát đúng giai điệu của bài hát điều quan trọng là giáo
viên phải hát chuẩn cả về cao độ và trường độ. Khi bắt giọng cho các em hát
phải lấy đúng tầm cữ giọng phù hợp với lứa tuổi. Như vậy học sinh nghe và hát
theo mới chính xác được.
Trong q trình ơn luyện cho học sinh, giáo viên nên tích cực kiểm tra các
nhóm, các cá nhân. Từ đó kịp thời sửa sai, hướng dẫn học sinh thực hiện được
tốt hơn. Giáo viên có thể tổ chức cho các em thi hát với nhau theo nhóm hoặc cá
nhân. Để gây hứng thú hơn cho các em khi học. Khi tổ chức cho các em thi theo
nhóm, giáo viên nên đặt tên cho từng nhóm, ví dụ như “nhóm chích bơng”, “
“nhóm vành khun”, “nhóm họa mi”,…Tạo khơng khí thi thua cho các em, xem
lồi chim nào có tiếng hát to hơn, hay hơn, truyền cảm hơn, thuộc bài hơn. Như
vậy các em sẽ thích thú hơn, tập trung vào bài hát nhiều hơn để thể hiện cho tốt.
Cuối giờ học giáo viên cũng phải nhắc nhở các em ôn bài và chuẩn bị
trước các nội dung của giờ học sau. Ví dụ như đồ dùng, tập hát và biểu diễn bài
hát đã học.
Tiết 2 trọng tâm là luyện tập, giáo viên cho học sinh nghe bài hát qua
băng để nhớ lại giai điệu của bài. Giáo viên dạo đàn, học sinh hát lại bài hát.
Phát hiện những câu, từ trong bài các em hát chưa đúng để sửa. Giáo viên đàn
đúng theo bản nhạc khoảng 2 lần, bắt nhịp cho các em tập lại theo giai điệu đàn.
Giáo viên cũng khơng nên sử dụng đàn nhiều, vì khi giáo viên chú tới đàn thì sẽ
khơng thể theo dõi được các em khi hát.
Để giúp các em thuộc lời cũng như hát chính xác giai điệu của bài hát
giáo viên nên đưa vào một số trò chơi tùy vào từng bài, mục tiêu tiết học, cảm
nhận của học sinh. Như vậy sẽ giúp học sinh thích thú hơn khi học tiết âm nhạc
và còn giúp các em thư giãn giữa các tiết học.


Ví dụ: Trong tiết ơn tập bài hát “Chú voi con ở bản đơn” giáo viên sử

dụng trị chơi hát bằng nguyên âm (A, U, I). Dùng kí hiệu tay cho các em nhìn
và hát nhằm củng cố về tiết tấu và nhịp cho học sinh. Từ đó, giúp cho các em
nhớ được lời cũng như giai điệu của bài hát.
Giáo viên có thể cho học sinh hát theo cách đối đáp và hòa giọng. Với
cách hát này rèn luyện cho học sinh hát thuộc lời, nhắc nghỉ chính xác câu hát.
Ví dụ: Bài “ Trên ngựa ta phi nhanh”, giáo viên chia lớp làm hai nhóm.
Mỗi nhóm hát một câu, câu cuối cùng cả lớp hát. Như vậy các em muốn hát
được câu hát của nhóm mình, bắt buộc các em phải thuộc câu của nhóm bạn.
Giáo viên có thể linh hoạt thay đổi các hình thức tổ chức cho học thi đua
với nhau như: Thi giữa các bạn nam và bạn nữ, thi giữa các nhóm, thi cá nhân.
Sau khi thi xong những bạn làm chưa tốt yêu cầu chơi một trị chơi nhỏ liên
quan đến bài hát.
Ví dụ: bài “ Trên ngựa ta phi nhanh”, giáo viên cho cả lớp hát, những bạn
nãy làm chưa tốt thì phải giả làm những chú Ngựa giống như bài hát miêu tả.
2.1.3. Đổi mới phương pháp, phát huy tính tích cực của học sinh.
Để học sinh yêu thích và hứng thú hơn với giờ học hát. Người giáo viên
có vai trị hết sức quan trọng. Trong q trình giảng dạy, giáo viên phải ln đổi
mới phương pháp, phát huy tính tích cực của học sinh.
Ở tiết học bài hát, tơi áp dụng tiến trình và phương pháp dạy hát sau:
- Giới thiệu bài hát.
- Nghe hát mẫu.
- Đọc lời ca, chia đoạn, chia câu.
- Khởi động giọng.
- Tập hát từng câu.
- Hát cả bài.
- Kết hợp gõ đệm, vận động, phụ họa.


- Củng cố, kiểm tra.
Tuy nhiên, trong quá trình lên lớp các bước trong trình tự dạy một bài hát

nên vận dụng linh hoạt, không nên áp dụng cứng nhắc theo một khuôn mẫu cố
định và phân chia thời gian hợp lí. Giáo viên cần chuẩn bị các bước cho từng bài
hát cụ thể theo nội dung như sau:
Giới thiệu bài hát: Để phần giới thiệu bài hát được sinh động, tạo hứng
thú cho học sinh, giúp học sinh bước đầu hình dung được nội dung của bài hát.
Giáo viên nên chuẩn bị một số tranh ảnh minh họa. Nhằm thu hút sự chú ý, kích
thích trí tưởng tượng của các em, từ đó giúp học sinh có cảm nhận ban đầu về
nội dung của hát hát mà các em sẽ học. Ngoài giới thiệu tên bài, tên tác giả, xuất
xứ, nội dung, chủ đề…Nếu là dân ca, nên có giới thiệu về vùng, miền.
Ví dụ: Ở tiết 12: Học bài hát: Cò lả (Dân ca: Đồng bằng Bắc Bộ). Giáo
viên nên
chuẩn bị tranh ảnh về phong cảnh đồng quê, có lũy tre, có đồng lúa, có những
con cị đang bay lượn, có đàn trâu,…Để gợi cho các em thấy được khung cảnh
bình yên của làng quê vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Nghe hát mẫu: Giáo viên có thể tự trình bày bài hát với sự chuẩn bị chu
đáo hoặc cho học sinh nghe qua băng đĩa. Khi trình bày bài hát, giáo viên cần
trình bày chuẩn xác, có thể kết hợp động tác minh họa kèm theo sẽ làm cho học
sinh thấy thích thú hơn. Nếu cho học sinh nghe qua băng, đĩa phải chuẩn bị cẩn
thận đĩa nhạc, máy nghe tránh để học sinh chờ đợi gây ức chế tâm lí. Đối với
bản thân tơi, khi dạy hát, phần hát mẫu tơi thường chuẩn bị để tự trình bày cho
học sinh nghe. Như thế, tơi thấy mình có thể truyền được hết nội dung cũng như
tình cảm của bài hát đến với học sinh. Giúp các em cảm nhận một cách dễ dàng
hơn.
Ví dụ: Tiết 21: Học bài hát: Bàn tay mẹ (Nhạc: Bùi Đình Thảo, Lời: Tạ
Hữu Yên). Ở bài này thể hiện những gian nan, vất vả của mẹ để ni con khơn
lớn. Thể tình cảm thiêng liêng của mẹ dành cho con. Vì vậy khi thể hiện bài hát


này trước học sinh, ngoài sự biểu cảm về nét mặt tôi thêm vào các động tác vận
động cho bài hát để các em hình dung dễ hơn.

Việc hát mẫu cho hoc sinh có những ưu điểm mà người giáo viên cần khai
thác như: Giúp học sinh cảm nhận đầy đủ, trọn vẹn bởi cách hát của giáo viên
gần gũi các em hơn so với đĩa nhạc. học sinh cảm thấy hào hứng khi nghe thầy
cô hát. Thể hiện được năng lực âm nhạc và cảm xúc của giáo viên.
Đọc lời ca, chia đoạn, chia câu: Phần này giáo viên cần chuẩn bị bảng
phụ. Để giúp các em tập trung quan sát dễ hơn. Tránh một số em có cơ hội làm
việc riêng trong lớp. Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc lời sau đó chia đoạn,
chia câu để thuận lợi cho việc luyện tập từng câu. Giải nghĩa những từ khó để
giúp các em hiểu được ý nghĩa của lời ca.
Để các em đọc đúng tiết tấu, giáo viên chỉ bảng phụ và hướng dẫn các em
đọc câu theo mẫu. Có thể cho một em đọc, cả lớp nhẩm theo. Hoặc hướng dẫn
cho cả lớp đọc và gõ theo tiết tấu của bài.
Ví dụ: Trong bài “Trên ngựa ta phi nhanh” (Nhạc và lời của Phong Nhã).
Khi đọc lời ca phải hướng dẫn các em đọc theo tiết tấu và ngắt ở cụm từ như
sau:
Trên đường /gập ghềnh / ngựa phi nhanh nhanh nhanh./
Sau khi giúp học sinh đọc đúng lời ca giáo viên phải hướng dẫn các em
khởi động giọng. Chú ý nhắc các em tư thế ngồi hát, cách lấy hơi, cách hát. Mẫu
luyện thanh nên lấy đơn giản, giúp các em khởi động giọng hát, rèn lại kĩ năng
lấy hơi, kĩ năng mở khẩu hình và phát âm cho đúng.
Ví dụ: Chúng ta có thể cho học sinh luyện thanh với các nguyên âm a, o,
ô,…


Dạy hát từng câu: Khi hướng dẫn học sinh tập từng câu, giáo viên có thể
đàn giai điệu 2-3 lần, sau đó mời học sinh khá đứng lên hát, nhằm phát huy tính
tích cực của học sinh đồng thời làm cho môi trường học tập trở nên gần gũi và
thân thiện hơn. Như thế sẽ tạo được hứng thú cho các em. Trong khi dạy từng
câu, giáo viên cần cho học sinh nhận xét và kết hợp sửa sai cho các em.
Giáo viên cũng khơng qn tun dương, khuyến khích các em, để học

sinh có thêm tự tin trong học tập. Giáo viên tiến hành dạy theo lối móc xích. Hát
tốt câu trước mới chuyển qua câu tiếp theo. Có thể kết hợp kiểm tra một số em,
mà giáo viên quan sát thấy chưa đươc chú ý hoặc thường ngày các em hát còn
hay bi sai.
Khi hướng dẫn học hát giáo viên có thể đánh dấu ngay vào bảng phụ đã
chuẩn bị những tiếng có âm luyến, láy trong câu hát, và giải thích cách hát
luyến, láy như thế nào cho đúng, có thể phiên âm lên bảng cho học sinh nhận
biết.
Ví dụ: Bài “Em u hồ bình” - Nhạc và lời: Nguyễn Đức Toàn.“ ... yêu
từng gốc đa, bờ tre đường làng ” tiếng hát “ tre ” và “đường” là hai âm luyến
giáo viên phiên âm giải thích như sau:
“ Tre”= tre...è (son - pha) “ đường ” = đường...ương ( rề - la).
Giáo viên hát mẫu vài lần, tập riêng các tiếng hát có âm luyến vài lần rồi
mới chuyển sang dạy cả câu hát.
Những chỗ có đảo phách, nghịch phách rất khó dạy cho học sinh hát đúng
vì trọng âm của tiết tấu khơng trùng với trọng âm của nhịp như Bài “Em u hồ
bình”. Nhạc và lời Nguyễn Đức Toàn. Với trường hợp này giáo viên cần phân
tích rõ cách gõ phách và dùng mũi tên () ghi vào bên dưới các tiếng hát, trên
bảng phụ. Phân tích cho học sinh nắm được tiếng hát nào rơi vào lúc động tác gõ
phách xuống, tiếng hát nào rơi vào lúc động tác đưa phách lên, tiếng hát nào
ngân dài cả 2 động tác gõ xuống và đưa lên. Giáo viên hát mẫu kết hợp dùng
thước đánh theo mũi tên đã ghi vài lần. Bắt giọng cho học sinh tập hát từ tốc độ
chậm đến nhanh cho thật thuần thục rồi mới chuyển sang câu hát khác.


Ví dụ: Bài “Em u hồ bình”. Nhạc và lời Nguyễn Đức Tồn. Đoạn 2,
câu 1 “…sơng hai bên bờ xanh thắm ”
x

x


x

x

xx

Tức là phách thứ nhất rơi vào tiếng “sông”. Sau khi hát và gõ tiếng
“sông” nhấc tay lên hát tiếng “hai”, phách thứ 2 rơi vào sau khi hát xong tiếng
“hai”. Có những tiếng hát phải ngân dài 3 phách trở lên, các em thường ngân
dài không đủ phách nên vào hát câu hát tiếp sau thường bị sai nhịp. Muốn khắc
phục trường hợp này, giáo viên cần phải tập chính xác ngay từ đầu các câu hát
đó: Khi học sinh hát tới chỗ có ngân dài, giáo viên và học sinh cùng đếm, gõ
phách bằng những tiếng đếm “ Hai - ba” hay “ Một - hai”, “ Hai - một” hoặc
“hai - ba - bốn - năm” ….( đếm thành tiếng những lần đầu sau đó tập đếm thầm).
Ví dụ: Bài “ Chú voi con ở Bản Đôn”, khi học câu 2 “…vẫn ham ăn với
lại ham chơi ”, Tiếng “ chơi” ngân 3 phách. Khi hướng dẫn hát giáo viên phải
đếm phách cho học sinh “ chơi - 2 – 3” hai ba lần, để các em định hình và hát
chính xác hơn. Những lần sau các em tập đếm thầm trong miệng.
Giáo viên cũng có thể dùng thủ pháp “ thêm bớt đấu thanh ”: (sử dụng
cho những câu hát có âm vực trầm, cao, nửa cung nhằm giúp cho học sinh hát
đúng cao độ). Sau khi đàn giai điệu và hát mẫu câu hát cần tập, giáo viên chỉ ra
những tiếng hát cần thêm bớt dấu thanh.
Dùng phấn màu thêm hoặc bỏ dấu thanh những tiếng hát khó hát, việc này
giáo viên cũng nên làm ngay trên bảng phụ.
Ví dụ: Dạy bài “ Bạn ơi lắng nghe ” Dân ca: Ba na, Sưu tầm, dịch lời: Tơ
Ngọc Thanh có câu hát “ Hỡi bạn ơi cùng nhau lắng nghe ” ( đô, si, đơ, sịn la đơ
la) ta bỏ thanh nặng, thêm vào thanh huyền cho tiếng “ bạn ” = “ bàn ”, tiếng “
hỡi ” bỏ đi dấu ngã thành tiếng “ hơi ”. Giáo viên đánh dấu lên bảng phụ, học
sinh nhìn lời ca kết hợp nghe giai điệu đàn sẽ giúp các em hát chính xác câu hát.

Giáo viên cũng nên cho học sinh ôn luyện theo từng đoạn một. Khi thực
hiện được mới dạy tiếp đoạn tiếp theo. Như thế sẽ khắc sâu kiến thức cho học
sinh ngay khi học bài mới. Khi tập hát cần sự đồng đều hồ giọng chính xác và


diễn cảm với những trạng thái khác nhau. Việc củng cố luyện tập từng đoạn của
bài hát giúp các em cảm nhận giai điệu và lời ca, tự tin. Đặc biệt là giúp các em
loại bỏ sự chán nản khi chưa thực hiện đúng yêu cầu của giáo viên. Giáo viên có
thể tách cho tổ, dãy bàn, nhóm hát để kịp thời sửa sai cho các em.
Hát cả bài: Giáo viên cho học sinh hát cả bài theo giai điệu của đàn, chú ý
những chỗ ngân, nghỉ và sửa sai cho các em, lưu ý học sinh cách phát âm, hát rõ
lời và cảm xúc của bài hát, tránh gào thét đây là lỗi hay mắc phải ở học sinh tiểu
học. Khi bắt nhịp cho học sinh hát, giáo viên cũng lưu ý về nhịp của bài để bắt
cho học sinh hát.
Ví dụ: Bài “ Em u hịa bình ”, bài này viết ở nhịp 2/4, có nhịp lấy đà là
một nốt móc đơn. Khi bắt nhịp giáo viên đếm 1- 2.
Sau đó kết hợp nhạc đệm, phần nhạc đệm giáo viên chuẩn bị và lưu sẳn
trong đàn. Như vậy, khi học sinh hát với nhạc đệm giáo viên vẫn có thể quan
sát, theo dõi được các em. Giáo viên kết hợp kiểm tra học sinh thực hiện theo
nhiều hình thức như: Cả lớp, dãy, tổ, Nhóm, cá nhân…
Kết hợp gõ đệm, vận động và phụ họa: Giáo viên hướng dẫn cho học sinh
thực hiện gõ đệm, cách gõ đệm tùy thuộc vào từng bài cụ thể. Lưu ý các bài hát
có nhịp lấy đà.
Ví dụ: Bài “ Em u hịa bình ” , Nhạc và lờ: Nguyễn Đức Tồn. Bài này
được viết ở nhịp 2/4. Có nhịp lấy đà là một nốt móc đơn. Khi hướng dẫn học
sinh hát kết hợp gõ đệm theo nhịp, phách giáo viên phải nhắc học sinh hát và mở
tay gõ vào tiếng
“ yêu ”.
Giáo viên cần sử dụng các nhạc cụ để gõ đệm theo khi hát làm cho bài hát
sinh động, gây hứng thú, giúp các em giữ được nhịp độ của bài mà khơng bị

cuốn nhanh. Thơng thường, có 3 cách gõ đệm để luyện tập củng cố bài hát đó là:
Hát gõ đệm theo nhịp, phách, tiết tấu. Tuy nhiên, tuỳ theo từng bài hát cụ thể mà
vận dụng cho phù hợp.


Ví dụ: Bài “ Bạn ơi lắng nghe ” dân ca Ba na, sử dụng cách gõ đệm theo
phách và gõ đệm theo tiết tấu đã được viết sẵn vào bảng phụ trên khuông nhạc,
chia làm 2 cách gõ đệm khác nhau.
Một nhược điểm mà học sinh hay mắc phải trong bài hát tập thể là hát bị
cuốn nhịp tức là các em không giữ được theo nhịp độ ban đầu và có xu thế hát
nhanh dần lên, do cảm thụ âm nhạc còn yếu cùng với sự ồ ạt khi hát tập thể nên
việc này rất khó khắc phục. Muốn hạn chế tối đa nhược điểm này, giáo viên lưu
ý ngay từ lúc bắt đầu dạy hát và thực hiện tốt các việc sau:
- Dạy chính xác về trường độ và cao độ.
- Cho các em vừa hát, vừa gõ đệm theo nhịp hoặc theo phách
- Giáo viên có thể chia lớp thành các nhóm nhỏ để luyện về nhịp độ
- Lần lượt hát với tốc độ hơi chậm, hơi nhanh, vừa phải. Mục tiêu là để
học sinh có thể hát với mọi tốc độ mà vẫn làm chủ về nhịp độ.
- Hát theo chỉ huy, giáo viên đánh nhịp thật chắc chắn. Khi phát hiện ra
những chỗ nào có xu thế nhanh dần, phải cho ngừng lại nhắc nhở, uốn nắn kịp
thời.
Để củng cố kĩ năng gõ đệm và hát thuộc bài hát giáo viên tổ chức cho học
sinh ơn dưới dạng trị chơi: hát đuổi, hát đối đáp, bên hát lời, bên gõ đệm theo
phách, nhịp, hát kết hợp vận động.
Ví dụ: Bài “ Trên ngựa ta phi nhanh” Nhạc và lời: Phong Nhã. Giáo viên
có thể cho học sinh ôn luyện theo cách hát đối đáp. Chia lớp làm hai nhóm, mỗi
nhóm hát một câu kết hợp gõ đệm theo tiết tấu và ngược lại. Hoặc có thể cho
một nhóm hát lời, một nhóm gõ đệm theo tiết tấu và ngược lại.
Với bài hát viết ở nhịp 3/4 hoặc 3/8 có 3 phách trong một nhịp thì giáo
viên chọn cho học sinh cách gõ theo phách là phù hợp, thông qua cách gõ này để

giữ vững phách. Ví dụ: Bài “ Chúc mừng ” tiết 19.
Phần kết hợp vận động và phụ họa: Tiết học thứ nhất này khơng địi hỏi
nhất thiết học sinh phải thực hiện thật thành thạo vì vận động và phụ họa có thể


tiến hành ở tiết tiếp theo ở phần ôn tập bài hát. Tiết học hát chủ yếu học sinh biết
hát kết hợp gõ đệm, giáo viên hướng dẫn một vài động tác đơn giản cho các em
làm quen. Các tiết tiếp theo khi đã thuộc lời ca, các em kết hợp thực hiện vận
động và phụ họa dễ dàng hơn.
Củng cố, kiểm tra: Cho các em trình bày theo cá nhân, nhóm hoặc theo tổ.
Giáo viên có thể tranh thủ kiểm tra mức độ tiếp thu của các em.
Ví dụ: Giáo viên đàn lại bài hát, yêu cầu học sinh gõ đệm theo nhịp, theo
phách hoặc tiết tấu. Giáo viên yêu cầu học sinh hát câu 1, nhẩm và gõ theo
phách câu 2 rồi lại hát câu 3, gõ đệm câu 4... cũng có thể chỉ cho các em gõ theo
tiết tấu của bài. Các hình thức luyện tập này vừa hiệu quả lại vừa thu hút học
sinh tham gia.
Tùy vào từng bài hát mà giáo viên có thể kết hợp trò chơi để giờ học thêm
phong phú sinh động hơn.
Ở tiết học ơn bài hát thì giáo viên xốy sâu vào luyện tập và biểu diễn.
Tuy nhiên có một số em sang tiết này rồi nhưng phần lời ca cịn chưa thuộc. Vì
vậy giáo viên vẫn cần ơn tập lại để giúp học sinh hát thuộc lời ca.
Đối với bài ơn tập, khi vào bài giáo viên vẫn có thể treo tranh ảnh liên
quan tới nội dung bài hát. Giáo viên đặt câu hỏi, để các em trả lời, từ đó giúp các
em nhớ lại nội dung của bài hát.
Ví dụ: Ơn tập bài “Khăn qng thắm mãi vai em” giáo viên treo tranh có
hình ảnh bạn nhỏ đeo khăn quàng, tới trường vào buổi sáng sớm khi bình minh
vừa lên.
Hoặc giáo viên có thể đàn giai điệu một hai câu trong bài, để học sinh
nghe và nhớ lại bài hát đó.
Trong giờ học ơn này, giáo viên vẫn phải cho học sinh luyện thanh, nhắc

học sinh tư thế ngồi học, cách hát và cách lấy hơi cho đúng.


Trước khi vào ơn tập thì giáo viên nên đàn lại cả bài cho học sinh nghe và
nhẩm lại bài. Sau đó bắt nhịp cho cả lớp hát, giáo viên chú ý một số đối tượng
học sinh chưa tích cực để kịp thời nhắc nhở và giúp đỡ các em.
Sau khi các em nhớ và hát thuộc bài giáo viên tiếp tục cho các em ôn sang
phần hát kết hợp gõ đệm. Phần này, giáo viên có thể chia nhóm để ơn tập, một
nhóm hát và gõ đệm, một nhóm ngồi nhẩm theo. Cho học sinh nhận xét xem
nhóm bạn thực hiện như thế nào. Từ đó giáo viên có thêm nhận xét và hướng
dẫn cho học sinh những chỗ các em làm chưa được.
Việc cho học sinh tự nhận xét bạn sẽ giúp các em nhận ra lỗi sai một cách
nhanh nhất. Từ đó rút kinh nghiệm cho bản thân mình khi thực hiện. Giáo viên
tích cực kiểm tra nhóm và cá nhân, kịp thời tuyên dương và động viên các em.
Giáo viên mời một số học sinh học tốt lên bảng hát và biểu diễn bài hát.
Dưới lớp
các em cũng tự nghĩ cho mình những động tác cho phù hợp, để có thể lên thực
hiện. Qua phần biểu diễn của từng học sinh, giáo viên cho các bạn ở dưới nhận
xét, góp ý. Sau đó giáo viên mới góp ý cho những động tác của các em được
hồn thiện hơn. Muốn thể hiện bài hát một cách tốt nhất thì các em phải hiểu rõ
được nội dung của bài hát. Có như thế các em mới hịa mình vào giai điệu được.
Một số bài hát khó thể hiện như bài “ Trên ngựa ta phi nhanh ” thì giáo
viên có thể hướng dẫn cho học sinh. Để thực hiện tốt hơn, giáo viên hướng dẫn
học sinh thay đổi động tác mà các em cảm thấy phù hợp hơn.
Giáo viên có thể cho các em thi giữa các nhóm, các tổ nhằm kích thích sự
hứng thú học tập của các em. Đồng thời hướng dẫn cho các em lựa chọn hình
thức biểu diễn cho phù hợp với từng bài.
Ví dụ: Bài “ Thiếu nhi thế giới liên hoan ”, học sinh có thể thảo luận
thống nhất cách biểu diễn và lên thực hiện theo hình thức hát tốp ca, có thể là
một em đơn ca các bạn khác phụ họa cũng được.



Các nhóm, cá nhân thực hiện tốt thì được tun dương. Cịn nhóm, cá
nhân thực hiện chưa được thì giáo viên động viên các em cố gắng trong giờ học
sau. Như vậy các em sẽ có thêm hứng thú cho mơn học để có một giờ học hát
đạt hiệu quả.
Ngồi ra, để tiết học sinh động, giáo viên nên chuẩn bị các tiết giảng bằng
điện tử, như vậy các hình ảnh truyền tới học sinh sẽ phong phú và sinh động
hơn, giúp các em tích cực chủ động tiếp thu các kiến thức của bài.
Hơn thế nữa, trong khi dạy giáo viên luôn mở rộng hiểu biết xung quanh
bài hát như giới thiệu về tác giả, về nội dung, liên hệ với các lĩnh vực văn học,
lịch sử, địa lý, giới thiệu các bài hát khác viết cùng chủ đề…Đặc biệt, cần chú
trọng đến nội dung của bài hát nhằm liên hệ thực tế để giáo dục tình yêu quê
hương, yêu ông bà cha mẹ, yêu thầy cô, yêu bạn bè, đồn kết giúp bạn…cho học
sinh.
Ví dụ: Khi dạy bài “Bàn tay mẹ”, Nhạc: Bùi Đình Thảo. Lời: Tạ Hữu
Yên. Tôi sẽ hướng các em nhớ đến công ơn của mẹ, người đã sinh ra và nuôi lớn
các em. Từ đó liên hệ một số bài hát khác như “Cho con”, “Gặp mẹ trong mơ”,

2.1.4. Cơng tác kiểm tra.
Để có thể nắm bắt khả năng tiếp thu của học sinh, giáo viên phải kết hợp
dạy và
kiểm tra thường xuyên, giúp các em được thực hành nhiều. Như thế các em sẽ
có cơ
hội rèn luyện và thể hiện khả năng của bản thân mình. Đối với những em cịn
hạn chế trong học tập, tôi thường kiểm tra một đoạn hoặc lời 1 của bài hát, như
vậy các em sẽ cảm thấy nhẹ nhàng hơn, khơng gây áp lực.
Ví dụ, khi hướng dẫn học sinh hát từng câu bài “ Em yêu hịa bình”, thì
giáo viên đàn giai điệu một hai lần sau đó cho học sinh nghe và hát theo giai
điệu của đàn. Như vậy các em đã được rèn luyện về khả năng xác định cao độ và



trường độ của câu hát. Hoặc khi giáo viên hướng dẫn học sinh gõ đệm theo
phách. Sau khi giáo viên làm mẫu, cho cả lớp thực hiện thì giáo viên nên tích
cực kiểm tra cá nhân, nhóm giúp các em nắm chắc thế nào là một phách để thực
hiện cho chính xác.
Phần luyện hát kết hợp vận động là phần tương đối khó với các em. Ở
phần này địi hỏi học sinh phải mạnh dạn, tự tin và quan trọng là phải hiểu được
nội dung của bài hát mà các em hát. Vì vậy, phần này giáo viên phải hướng dẫn
cho các em kĩ các động tác như thế nào cho hợp lý và phù hợp với các em. Động
viên các em lên bảng thể hiện bản thân, có thể theo nhóm hoặc cá nhân. Giáo
viên kịp thời khích lệ, tuyên dương các em, từ đó giúp các em cảm thấy tự tin
hơn về bản thân mình cho các giờ học tiếp theo.
Giáo viên có thể ứng dụng cơng nghệ thơng tin, tổ chức trị chơi củng cố
kiến thức cho học sinh ở cuối tiết học
Ví dụ: Sau khi học xong bài Chú voi con ở Bản Đôn. Giáo viên cho học
sinh chơi trò chơi “ Mở hộp quà ”. Giáo viên chuẩn bị 3 câu hỏi tương ứng với 3
hộp quà.
Câu hỏi số 1: Tác giả của bài hát Chú voi con ở Bản Đôn là ai ?
Câu hỏi số 2: Điền từ còn thiếu vào câu hát sau: Từ rừng già chú đến với
người vẫn ...... với lại ham chơi.
Câu hỏi số 3: Bài hát nói lên điều gì ?
Hoặc sau khi học xong bài hát “ Cị lả ” giáo viên cho học sinh chơi trò chơi “
Mở ơ chữ ”
Ơ số 1: Bài hát Cị lả là dân ca miền nào?
Ô số 2: Nghe giai điệu và cho biết đó là câu hát nào trong bài?
Ơ số 3: Em hãy mời một bạn cùng em hát lại bài hát vừa học.
Với hình thức tổ chức trị chơi củng cố tiết học trên giúp học sinh tiếp thu bài tốt
hơn.
2.1.5. Công tác phối hợp:




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×