Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

BÀI THU HOẠCH DIỄN ÁN DÂN SỰ HỒ SƠ 09 BẢO VỆ NGUYÊN ĐƠN TRẦN THỊ THU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.3 KB, 11 trang )

HỌC VIỆN TƯ PHÁP
KHOA ĐÀO TẠO LUẬT SƯ

BÀI THU HOẠCH DIỄN ÁN
Môn: Kỹ năng cơ bản của Luật sư khi tham gia giải quyết
các vụ, việc dân sự
Hồ sơ số: LS.DS09
Diễn lần: 01
Ngày diễn:

Họ và tên:
Sinh ngày
SBD:
Lớp:

Hà Nội, ngày … tháng … năm 2021

1


Học viên … lựa chọn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn là bà Trần Thị Thu
Tóm tắt hồ sơ
Bà Trần Thị Thu làm việc tại công ty YD từ ngày 17/7/2006 theo hợp đồng không xác định thời
với cơng việc là nhân viên kế tốn văn phòng. Từ ngày 01/01/2015 bà được hưởng mức lương là
20.393.000 đồng/tháng.
Sau thời kỳ nghỉ thai sản, bà Thu đi làm trở lại nhưng khi đến công ty, bà nhận được Thông báo
ngày 05/12/2015 của Công ty yêu cầu bà tạm dừng làm việc với lý do để Công ty làm rõ một số
sai phạm kế tốn có liên quan đến bà thời gian trước khi nghỉ thai sản. Trong suốt khoảng thời
gian từ ngày 05/12/2015 đến hết ngày 04/01/2016, bà Thu khơng được cơng ty bố trí cơng việc.
Ngày 30/12/2015 Công ty mời bà đến để nhận quyết định số 008-14/QĐ do Tổng giám đốc ký,
chuyển bà từ kế tốn văn phịng sang kế tốn phụ trách quản lý kho rác từ ngày 05/01/2016 với


công việc “Theo dõi, thống kế, kiểm đếm và gửi bản tổng kết hàng ngày cho người phụ trách bán
rác về: tình trạng, số lượng rác theo từng loại cụ thể; Trông coi, sắp xếp, vệ sinh kho rác; Chuẩn
bị, cân đo khi bán rác. Lương và các chế độ theo Điều 31 Bộ luật Lao động”.
Nhận thấy việc điều chuyển công việc, mức lương theo quyết định số 008-14/QĐ của Công ty là
vi phạm Điều 158 và Điều 160 Bộ luật Lao động, đồng thời do sức khỏe không đảm bảo nên khi
nhận quyết định số 008-14/QĐ bà đã nêu rõ ý kiến với Công ty không đồng ý thực hiện.
Trong các ngày 09/01, 28/01, 03/02 năm 2016 người đại diện theo ủy quyền của bà A đã có cơng
văn u cầu Cơng ty chấm dứt hợp đồng lao động, trả tiền lương và các chế độ cho bà. Tại cuộc
họp ngày 14/5/2016 giữa hai bên do Ban quản lý khu công nghiệp Hải Phịng chủ trì, bà tiếp tục
đề nghị chấm dứt hợp đồng nhưng Công ty không chấp nhận. Đồng thời tại cuộc họp này Công ty
đã gửi cho bà Biên bản xử lý vi phạm kỷ luật ngày 20/3/2016 bằng hình thức sa thải bà với lý do
tự ý nghỉ việc q 05 ngày khơng đến Cơng ty mà khơng có lý do chính đáng.
Cho rằng Biên bản xử lý vi phạm kỷ luật ngày 20/3/2016 vi phạm Điều 123 khoản 4 Bộ luật Lao
động do bà Thu đang nuôi con nhỏ dưới 12 tuổi, đồng thời Công ty tiến hành họp xử lý vi phạm
nhưng bà không được mời tham dự. Vì vậy, ngày 06/7/2016 bà đã có đơn khởi kiện gửi đến Tòa
án.
Trong khi Tòa án huyện AD đang xem xét đơn khởi kiện thì bà lại tiếp tục nhận được Biên bản xử
lý vi phạm kỷ luật ngày 14/8/2016 và quyết định số 02- QĐ/HĐKL ngày 15/8/2016 của Tổng
giám đốc xử lý kỷ luật sa thải bà với lý do “đã không đến Công ty tiếp tục thực hiện hợp đồng lao
động, mặc dù Cơng ty đã có thơng báo”.
Ngày 22/8/2017, Tịa án nhân dân huyện AD ra Quyết định số 01/2017/QĐST-LĐ về việc Đưa vụ
án ra xét xử ngày 12/9/2017.
Kết quả nghiên cứu hồ sơ
1. Các vấn đề tố tụng
1.1 Tư cách đương sự
I.

Nguyên đơn: Bà Trần Thị Thu, sinh năm 1985, có địa chỉ tại: Số 6xx, phố Đ, phường Hoàng Văn
Thụ, quận Hồng Bàng, TP Hải Phòng
Đại diện theo ủy quyền: Bà Nguyễn Thu Hà, có địa chỉ tại: số nhà 85xx, Dư Hàng, phường Dư

Hàng, quận Lê Chân, thành phố Hải Phịng.
Bị đơn: Cơng ty TNHH YD Việt Nam (Cơng ty YD), có địa chỉ tại: Lô 12xx khu công nghiệp
2


NM, An Hưng, AD, TP Hải Phòng, đại diện theo pháp luật là ông Shuhei, chức vụ: Tổng giám đốc
Đại diện theo ủy quyền: Ông Takasugi Tadahiro – Giám đốc quản lý và bà Trần Thị Huyền – Nhân
viên pháp lý
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp: Ơng Nguyễn Văn Hùng, có địa chỉ tại: Số 1xx TTBV Nam
Pháp I, quận Ngơ Quyền, thành phố Hải Phịng
1.2 Thẩm quyền giải quyết của Tòa án

Căn cứ Điều 32 khoản 1 điểm a, Điều 35 khoản 1 điểm c và Điều 39 khoản 1 điểm a Luật Tố tụng
dân sự 2015 thì Tịa án nhân dân huyện AD có thẩm quyền giải quyết tranh chấp.
1.3 Điều kiện khởi kiện

Theo Điều 32 khoản 1 điểm a Luật Tố tụng Dân sự 2015 và Điều 201 khoản 1 điểm a Bộ luật Lao
động 2012, tranh chấp lao động về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải khơng bắt buộc
phải qua thủ tục hòa giải.
1.4 Thời hiệu khởi kiện

Theo Điều 202 khoản 2 Bộ luật Lao động 2012, thời hiệu khởi kiện đối với tranh chấp lao động cá
nhân là 01 năm, kể từ ngày phát hiện ra hành vi mà mỗi bên tranh chấp cho rằng quyền, lợi ích
hợp pháp của mình bị vi phạm. Theo đó, bà Trần Thị Thu nhận được biên bản xử lý kỷ luật lao
động ngày 20/3/2016 vào ngày 14/5/2016 tại buổi làm việc với Cơng ty YD có sự tham gia của
Ban quản lý khu kinh tế và Cơng đồn khu kinh tế. Ngày 06/7/2016, bà Trần Thị Thu khởi kiện
Công ty YD ra Tòa án nhân dân huyện AD, thành phố Hải Phòng. Như vậy, bà Trần Thị Thu đã
nộp đơn ra Tòa trong thời hạn luật định nên thời hiệu khởi kiện của vụ án vẫn còn.
1.5 Tư cách khởi kiện của nguyên đơn


Bà Trần Thị Thu ký hợp đồng lao động không xác định thời hạn với công ty YD theo quy định
pháp luật. Trong quá trình thực hiện hợp đồng lao động, hai Bên xảy ra mâu thuẫn khiến bà Trần
Thị Thu bị công ty YD sa thải trái pháp luật, gây phương hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà
Thu. Do đó, căn cứ Điều 186 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, bà Trần Thị Thu có quyền khởi kiện để
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Tại thời điểm nộp đơn khởi kiện, bà Trần Thị Thu có
đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự theo quy định tại Điều 69 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.
2. Nội dung hồ sơ
2.1 Yêu cầu của nguyên đơn

Tại đơn khởi kiện bổ sung ngày 11/5/2017 và tại phiên tòa, bà Thu u cầu Tịa án tun bố việc
sa thải của Cơng ty đối với bà là trái pháp luật. Do không muốn trở lại Công ty làm việc nên bà đề
nghị Tịa án buộc Cơng ty:
- Khơi phục các quyền lợi cho bà theo quy định tại Điều 42 Bộ luật Lao động bao gồm:
+ Thanh toán tiền lương trong những ngày không được làm việc từ ngày 09/12/2015 đến ngày xét
xử sơ thẩm là 1 năm 9 tháng 3 ngày làm tròn là 21 tháng cộng với hai tháng tiền lương với mức
lương 20.393.000 đồng/ tháng, số tiền là: 20.393.000 đồng x 23 tháng = 469.039.000 đồng.
+ Công ty phải thanh tốn tiền trợ cấp thơi việc cho thời gian bà làm việc từ tháng 7/2006 đến
30/12/2008 là 2,5 năm với tiền trợ cấp là: 20.393.000 đồng x 2,5 năm x ½ = 25.491.250 đồng.
Tổng cộng: 494.530.250 đồng.

3


- Buộc Công ty phải chốt sổ BHXH đến ngày xét xử sơ thẩm và trả sổ BHXH cho bà.
2.2 Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp

Quan hệ pháp luật tranh chấp là tranh chấp về xử lý kỷ luật lao động bằng hình thức sa thải
2.3 Chứng cứ và đánh giá chứng cứ cho phía bị đơn

Chứng cứ

Bản sao CMND, Giấy xác nhận
số chứng minh nhân dân, Sổ hộ
khẩu (BL8-11)
Hợp đồng lao động ký ngày
17/10/2008 (BL13-15)
Thông báo ngày 05/12/2015 và
Thông báo ngày 20/12/2015 của
Công ty YD (BL16)
Biên bản số 02-BB/VPKL xử lý
vi phạm kỷ luật lao động ngày
20/3/2016 (BL27)
Quyết định số số 02- QĐ/HĐKL
ngày 15/8/2016 xử lý vi phạm kỷ
luật lao động
Quyết định số 008-14/QĐ ngày
30/12/2015 (BL17)
Công văn số 39/LĐTBXH ngày
25/3/2016 của Phòng Lao động,
Thương binh – Xã hội huyện AD,
thành phố Hải Phòng (BL35)
Các bảng lương, phụ lục hợp
đồng và quyết định tăng lương
đính kèm
Biên bản xác minh với Bảo hiểm
xã hội huyện AD ngày 07/7/2017
và bản ghi q trình đóng BHXH,
BHTN (BL109-113)

Đánh giá chứng cứ
Xác định thơng tin nhân thân của ngun đơn

Xác định có tồn tại quan hệ lao động giữa nguyên đơn và bị
đơn, là cơ sở để tiến hành khởi kiện
Chứng minh công ty khơng bố trí cơng việc cho lao động nữ
trở lại làm việc sau khi nghỉ thai sản
Chứng minh công ty YD xử lý kỷ luật trái pháp luật, cụ thể:
Xử lý kỷ luật đối với người lao động nuôi con nhỏ dưới 12
tháng tuổi
Chứng minh công ty tiếp tục có hành vi xử lý kỷ luật trái
pháp luật: Vi phạm trình tự, thủ tục xử lý kỷ luật
Chứng minh cơng ty YD tự ý bố trí cơng việc có tính chất độc
hại cho người lao động đang ni con dưới 12 tháng tuổi
Xác định lý do chưa thể tiến hành thủ tục hòa giải bằng
phương thức hòa giải viên lao động
Căn cứ xác định mức lương của bà Trần Thị Thu được hưởng
trước khi bị sa thải
Xác định mức đóng BHXH làm căn cứ yêu cầu bồi thường,
thời gian báo giảm BHXH của công ty YD

4


II.

Xây dựng kế hoạch hỏi

Mục đích bảng hỏi: Làm sáng tỏ sự việc, đồng thời chứng minh yêu cầu của nguyên đơn là có căn cứ và hợp pháp
Người tiếp
Vấn đề cần chứng
nhận câu hỏi
minh

Nguyên đơn
Công ty YD sa thải
(Bà Trần Thị nhân viên trái pháp
Thu)
luật lần một

Bà Thu không đến
cơng ty sau ngày
05/01/2016 là do
cơng ty khơng bố
trí cơng việc phù
hợp với sức khỏe
và thể trạng của bà

Công ty YD sa thải
nhân viên trái pháp
luật lần hai
Bị đơn (Công Công ty YD sa thải
ty YD)
nhân viên trái pháp
luật lần một

Câu hỏi

Mục đích hỏi

Bà cho biết đến thời điểm cơng ty YD họp kỷ luật Chứng minh tại thời điểm họp kỷ luật vi phạm
bà vào ngày 20/3/2016, con bà được bao nhiêu lao động, con bà Thu chưa đủ 12 tháng tuổi, do
tháng tuổi?
đó, cơng ty YD đã vi phạm Điều 123 khoản 4

điểm d Bộ luật Lao động 2012
Bà có tham gia cuộc họp xử lý vi phạm kỷ luật lao Chứng minh việc xử phạt lần một vi phạm trình
động ngày 20/3/2016 hay nhận được bất kỳ thông tự xử lý kỷ luật sa thải tại Điều 123 khoản 1
báo dự họp nào hay không?
điểm c Bộ luật Lao động
Bà có chấp nhận làm cơng việc kế tốn kho rác Cơng việc kế tốn kho rác khơng phù hợp với
hay khơng? Vì sao?
sức khỏe và thể trạng của người lao động đang
nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi, mức lương thấp
hơn mức lương kế toán trưởng nên bà Thu khơng
chấp nhận.
Bà có trình bày với Cơng ty rằng bà khơng đồng ý Cơng ty bố trí cơng việc kế tốn khi khơng có
làm việc tại kho rác và đề nghị cơng ty bố trí cơng thỏa thuận với người lao động. Thực tế là bảo vệ
việc phù hợp với thể trạng của bà hay không?
đã không cho bà Thu vào gặp Tổng giám đốc để
trình bày nguyện vọng, do vậy phía bà và đại
diện theo ủy quyền của bà đã phải gửi rất nhiều
đơn yêu cầu bố trí cơng việc phù hợp cho bà
nhưng khơng được phản hồi
Bà có tham gia cuộc họp xử lý vi phạm kỷ luật lao Chứng minh việc xử phạt lần hai vi phạm trình
động ngày 14/8/2016 hay nhận được bất kỳ thông tự xử lý kỷ luật sa thải tại Điều 123 khoản 1
báo dự họp nào hay không?
điểm c Bộ luật Lao động
Bị đơn có biết việc họp xử lý kỷ luật lao động đối Theo Điều 12 khoản 3 Thông tư 47/2015/TTvới người lao động đang nuôi con dưới 12 tháng BLĐTBXH: Sau 03 lần thông báo bằng văn bản
tuổi là trái pháp luật không?
về việc tham dự cuộc họp xử lý kỷ luật lao
động… thì người sử dụng lao động tiến hành
cuộc họp xử lý kỷ luật lao động, trừ trường hợp
người lao động đang trong thời gian không được
xử lý kỷ luật quy định tại Khoản 4 Điều 123 của

Bộ luật lao động. Do đó, cơng ty không được
tiến hanh họp xử lý kỷ luật lao động đối với
5


Công ty YD sa thải
nhân viên trái pháp
luật lần hai

Tại sao bị đơn đã báo giảm đóng bảo hiểm xã hội
cho nguyên đơn vào ngày 28/12/2015 nhưng đến
30/9/2015 lại ban hành quyết định bố trí cơng việc
là kế tốn kho rác? Việc chốt sổ này có đồng nghĩa
với việc chấm dứt hợp đồng hay không?
Khi bị đơn tiến hành cuộc họp xử lý kỷ luật lao
động ngày 14/8/2016 đối với bà Thu, bà Thu có
mặt khơng? Bị đơn có gửi thơng báo cho bà Thu
hay khơng?
Cơng ty có gửi Quyết định bố trí cơng việc kế
tốn thống kê cho bà Thu hay không?

Bà Thu không đến
công ty sau ngày
05/01/2016 là do
công ty không bố Nếu bị đơn thực sự đã bố trí cơng việc mới cho bà
trí cơng việc phù Thu, tại sao lại không thông báo cho bà Thu được
hợp với sức khỏe biết?
và thể trạng của bà

6


người lao động đang ni con dưới 12 tháng
tuổi.
Có căn cứ để cho rằng quyết định số 008-14/QĐ
vv bố trí cơng việc kế tốn kho rác là cách cơng
ty YD dùng để ép người lao động đơn phương
chấm dứt hợp đồng.
Chứng minh việc xử phạt lần hai vi phạm trình
tự xử lý kỷ luật sa thải tại Điều 123 khoản 1
điểm c Bộ luật Lao động
Trong các thông báo gửi qua đường bưu điện đều
không đề cập đến nội dung bà Thu được bố trí
cơng việc mới là kế tốn thống kê. Do đó có thể
nghi ngờ tính khách quan trong lời khai của bị
đơn. Do vậy, việc nguyên đơn không đến cơng ty
sau ngày 05/01/2016 là có lý do chính đáng


III.

Soạn luận cứ bảo vệ cho khách hàng là nguyên đơn Trần Thị Thu

ĐỒN LUẬT SƯ TP HẢI PHỊNG
VĂN PHỊNG LUẬT SƯ KANE
----------***----------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
----------***----------


BẢN LUẬN CỨ
Bảo vệ cho nguyên đơn trong vụ án tranh chấp xử lý kỷ luật sa thải
Kính thưa Hội Đồng Xét Xử (HĐXX),
Tơi là Luật sư … – thuộc Văn phòng Luật sư KANE - Đồn Luật sư TP Hải Phịng.
Theo phân cơng của Văn phịng Luật sư, tơi tham gia phiên tịa với tư cách là người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp cho khách hàng của tôi là bà Trần Thị Thu, có địa chỉ tại: Số 6xx, phố Đ, phường
Hồng Văn Thụ, quận Hồng Bàng, TP Hải Phịng, là nguyên đơn trong vụ án này.
Thưa HĐXX,
Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án và diễn biến phiên tịa hơm nay, tơi xin được trình bày quan điểm bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà Trần Thị Thu như sau:
1. Bà Trần Thị Thu đã bị Công ty YD sa thải trái pháp luật vào ngày 20/3/2016
Thứ nhất, việc xác định thời điểm bà Thu bị sa thải là ngày 20/3/2016 là hồn tồn có căn cứ. Theo
đó, ngày 20/3/2016, Công ty YD đã tổ chức cuộc họp kỷ luật với sự tham gia của đại diện theo pháp
luật cơng ty và đại diện Cơng đồn nhưng khơng có mặt người lao động, người lao động không được
quyền nêu ý kiến và bão chữa cho mình. Việc xử lý kỷ luật lao động được lập thành biên bản và được
gửi cho người bị xử lý kỷ luật là bà Thu. Cuộc họp này đã đưa ra kết luận đơn phương áp đặt là áp
dụng hình thức kỷ luật sa thải đối nhân viên Trần Thị Thu vì lý do tự ý nghỉ việc q 05 ngày mà
khơng có lý do chính đáng. Do vậy, biên bản số 02-BB/XLKL có giá trị như một quyết định sa thải.
Căn cứ khởi kiện của bà Thu không phải quyết định kỷ luật sa thải mà là kiện hành vi xử lý kỷ luật
sa thải.
Thứ hai, việc sa thải người lao động của công ty YD được tiến hành trái pháp luật.
Một là, việc kỷ luật lao động sa thải đối với người lao động đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi đã vi
phạm nghiêm trọng nguyên tắc xử lý kỷ luật căn cứ Điều 123 khoản 4 điểm d Bộ luật Lao động.
Thời điểm công ty YD tiến hành xử lý kỷ luật, con của bà Thu còn chưa được 12 tháng tuổi. Theo
quy định tại Điều 30 khoản 2 Nghị định 05/2015/NĐ-CP, người sử dụng lao động lao động không
được tiến hành cuộc họp xử lý kỷ luật đối với người lao động đang trong thời gian không được xử lý
kỷ luật như nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi.
Hai là, về hành vi vi phạm xử lý kỷ luật sa thải. Trước đó vào ngày 28/12/2015, cơng ty YD cũng đã
tiến hành báo giảm bảo hiểm xã hội cho bà Trần Thị Thu từ tháng 01/2016. Sau đó, Cơng ty YD lại

bố trí bà Thu làm cơng việc kế tốn quản lý kho rác dù biết rằng bà Thu đang nuôi con nhỏ dưới 12
tháng tuổi nên không thể làm việc trong mơi trường độc hại. Ngồi ra, các cơng việc như vệ sinh kho
rác, cân đo khi bán rác hồn tồn khơng phù hợp với trình độ và địa vị của người đang giữ chức vụ
7


Kế tốn trưởng như bà Thu. Đó là một mánh khóe khơng chấp nhận được với mục đích ép buộc
người lao động phải bỏ việc. Vì những lẽ đó, bà Thu đã yêu cầu gặp trực tiếp Tổng giám đốc để trình
bày nguyện vọng của mình nhưng khơng được bảo vệ cho vào công ty. Đại diện theo ủy quyền của
bà Thu cũng đã nhiều lần gửi công văn bày tỏ mong muốn được bố trí cơng việc phù hợp nhưng
không được phản hồi. Tại Biên bản ngày 20/3/2015 Công ty xác định lỗi của bà Thu là tự ý nghỉ
việc, trong khi quyết định số 008-14 công ty ban hành là trái quy định của Bộ luật Lao động. Việc bà
Thu buộc phải nghỉ việc là do bị điều chuyển sang công việc trái pháp luật và không được nhân viên
bảo vệ cho vào cơng ty. Như vậy, có thể khẳng định việc công ty buộc tội bà Thu tự ý nghỉ việc q
05 ngày mà khơng có lý do chính đáng căn cứ Điều 126 khoản 3 Bộ luật Lao động là khơng có căn
cứ.
Ba là, về trình tự thủ tục xử lý kỷ luật. Việc tiến hành cuộc họp xử lý kỷ luật khơng có mặt người lao
động đã vi phạm quy định tại Điều 123 khoản 1 điểm c Bộ luật Lao động và Điều 30 Nghị định
05/2015/NĐ-CP về trình tự xử lý kỷ luật lao động. Theo đó, cuộc họp ngày 20/3/2016 khơng có sự
tham dự của bà Thu cũng như khơng có thơng báo bằng văn bản nào được gửi đến bà Thu về việc
tiến hành cuộc họp xử lý kỷ luật.
Như vậy, việc Công ty YD tiến hành xử lý kỷ luật vi phạm lao động, lập biên bản xử lý vi phạm
bằng hình thức sa thải ngày 20/3/2016 đối với bà Thu là khơng có căn cứ và vi phạm các quy định
tại Điều 123 Bộ luật Lao động.
2. Về tính hợp pháp của Quyết định số 02-QĐ/HĐKL ngày 15/8/2016
Trong khi Tòa án huyện AD đang xem xét đơn khởi kiện thì Công ty YD tiếp tục ban hành Biên bản
xử lý vi phạm kỷ luật ngày 14/8/2016 và quyết định số 02-QĐ/HĐKL ngày 15/8/2016 của Tổng
giám đốc xử lý kỷ luật sa thải bà Thu với lý do “đã không đến Công ty tiếp tục thực hiện hợp đồng
lao động, mặc dù Cơng ty đã có thơng báo”. Xét Biên bản ngày 14/8/2015 và quyết định số 02QĐ/HĐKL ngày 15/8/2015, có thể thấy rằng: Về căn cứ sa thải cũng như trình tự thủ tục xử lý vi
phạm kỷ luật bà Thu của bị đơn khơng có sự khác biệt so với biên bản ngày 20/3/2015. Công ty YD

vẫn không mời bà Thu tham dự họp xử lý kỷ luật là vi phạm Điều 123 khoản 1 điểm c Bộ luật Lao
động. Quyết định xử lý kỷ luật sa thải số 02-QĐ/HĐKL của bị đơn đối với bà Thu vì lý do “không
đến Công ty tiếp tục thực hiện hợp đồng lao động”, không thuộc trường hợp bị sa thải quy định tại
Điều 126 Bộ luật Lao động và không phù với lý do sa thải như biên bản ngày 14/8/2015. Vì vậy
Quyết định sa thải số 02-QĐ/HĐKL ngày 15/8/2015 của công ty YD đối với bà Thu cũng trái pháp
luật.
3. Về các yêu cầu bồi thường của nguyên đơn
Một là, yêu cầu khôi phục các quyền lợi cho bà Thu theo quy định tại Điều 42 Bộ luật Lao động.
Trong biên bản hòa giải, bà Thu đã bày tỏ nguyện vọng không muốn tiếp tục làm việc tại Công ty
YD do đã phải chịu quá nhiều bất công. Do vậy, căn cứ Điều 42 khoản 2 Bộ luật Lao động, cơng ty
YD có trách nhiệm trả khoản bồi thường cho bà Thu bao gồm: tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm
y tế trong những ngày bà Thu không được làm việc cộng với ít nhất 02 tháng tiền lương theo hợp
đồng lao động. Ngồi ra, Cơng ty YD phải trả trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 48 Bộ luật này.
Từ ngày 09/12/2015 cho đến ngày diễn ra phiên tịa 12/9/2017, bà Thu khơng được làm việc do gặp
phải cản trở từ phía Cơng ty. Cơng việc kế tốn quản lý kho rác mà Cơng ty YD bố trí cho bà Thu
8


hồn tồn khơng phù hợp với thể trạng cũng như trình độ của người lao động nên bà Thu khơng tiếp
nhận và đã nhiều lần thông qua người được ủy quyền để gửi công văn cho công ty YD. Theo lời khai
của công ty YD, bà Thu đã được bố trí cơng việc mới là kế tốn thống kê vào ngày 06/01/2016
nhưng thực tế bà Thư không hề nhận được thơng báo đó. Trong các thơng báo mà cơng ty gửi cho bà
Thu thông qua đường bưu điện cũng không hề đề cập đến cơng việc mới này. Vì bà Thu không được
tiếp cận thông tin về công việc mới nên khơng có cơ sở để tiếp nhận cơng việc. Do đó, kính đề nghị
HĐXX xác định những ngày người lao động không được làm việc để làm căn cứ tính mức bồi
thường của bị đơn như sau:
+ Thanh tốn tiền lương trong những ngày không được làm việc từ ngày 09/12/2015 đến ngày xét xử
sơ thẩm là 1 năm 9 tháng 3 ngày làm tròn là 21 tháng cộng với hai tháng tiền lương với mức lương
20.393.000 đồng/ tháng, số tiền là: 20.393.000 đồng x 23 tháng = 469.039.000 đồng.
+ Cơng ty phải thanh tốn tiền trợ cấp thơi việc cho thời gian bà làm việc từ tháng 7/2006 đến

30/12/2008 là 2,5 năm với tiền trợ cấp là: 20.393.000 đồng x 2,5 năm x ½ = 25.491.250 đồng.
Tổng cộng: 494.530.250 đồng.
Hai là, buộc Công ty phải chốt sổ bảo hiểm xã hội đến ngày xét xử sơ thẩm và trả sổ bảo hiểm xã hội
cho bà Thu.
Cho đến thời điểm diễn ra phiên tòa này, cả hai lần tiến hành xử lý kỷ luật lao động của công ty YD
đều trái pháp luật và bà Trần Thị Thu vẫn đang là người lao động của công ty YD. Trên cơ sở những
vấn đề pháp lý được phân tích ở trên, kính đề nghị HĐXX căn cứ Điều 118, Điều 119 Bộ luật Tố
tụng dân sự 2015, Điều 42 Bộ luật Lao động 2012, chúng tôi đề nghị HĐXX buộc bị đơn phải chốt
sổ bảo hiểm xã hội đến ngày xét xử sơ thẩm và trả sổ bảo hiểm xã hội cho bà Thu.
Tôi xin chân thành cảm ơn./.
NHẬN XÉT PHẦN DIỄN ÁN
Tên
vai diễn
Luật sư của
nguyên đơn

Nhận xét về nội dung diễn án
• Tác phong, phong thái:

Giọng nói của luật sư hơi nhỏ và thiếu quyết đốn, thiếu điểm nhấn.
• Phần trình bày tình tiết sự kiện, yêu cầu:
Luật sư trình bày yêu cầu khởi kiện rõ ràng. So với yêu cầu của nguyên đơn trong đơn bổ sung
yêu cầu khởi kiện, luật sư đã rút yêu cầu bồi thường 02 tháng tiền lương căn cứ Điều 42 khoản
3 Bộ luật Lao động do ngun đơn khơng có nhu cầu quay trở lại làm việc.
Tuy nhiên, nguyên đơn vẫn chưa nhận diện được định hướng bảo vệ khách hàng của mình.
Các căn cứ cho yêu cầu khởi kiện chưa được trình bày rõ ràng. Đây có thể là vì luật sư muốn
trình bày cụ thể ở phần triển khai luận cứ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn.
• Phần hỏi của luật sư:
Cách tiếp cận vấn đề của luật sư nguyên đơn hơi lệch so với mẫu thuẫn thực tế. Vì hai bên
đang mâu thuẫn ở vấn đề liệu có phải bà Thu đã bị xử lý kỷ luật từ ngày 20/3/2016 hay khơng,

do đó luật sư nên bắt đầu bài luận cứ từ luận điểm này. Tuy nhiên, các câu hỏi của luật sư lại
chủ yếu nhằm vào quyết định 008-14/QĐ, điều chuyển nhân viên trái pháp luật, phủ nhận sai
phạm kế toán của bà Thu…
Luật sư hỏi nguyên đơn: Việc luật sư hỏi nguyên đơn là tại sao nguyên đơn lại đảm nhiệm ba
9


Luật sư của
bị đơn

vị trí là khơng cần thiết, bởi thực tế lý do xử phạt trong biên bản ngày 20/3/2016 là tự ý nghỉ
việc quá 05 ngày mà không có lý do chính đáng chứ khơng phải là do nguyên đơn làm trái quy
định về kế toán.
Luật sư hỏi bị đơn: Luật sư tiếp tục hỏi bị đơn về những sai phạm về kế tốn một cách khơng
cần thiết. Đối với các quyết định điều chuyển, Luật sư hỏi bị đơn là có văn bản nào điều
chuyển bà Thu làm kế tốn thống kê hay khơng. Theo học viên thì câu hỏi này có lợi cho bị
đơn bởi các quyết định điều chuyển, bổ nhiệm, bố trí cơng việc là quyết định đơn phương của
công ty nên công ty hồn tồn có thể “chế” được. Trường hợp này luật sư nên hỏi vấn đề trọng
tâm hơn, như là quyết định điều chuyển vị trí kế tốn thống kê đã được gửi cho bà Thu hay
chưa thì luật sư lại chưa hỏi.
Luật sư đã hỏi được về vấn đề chốt sổ bảo hiểm. Việc bị đơn báo giảm bảo hiểm xã hội từ
28/12/2015 rồi sau đó lại ban hành quyết định số 008-14/QĐ vv bố trí cơng việc kế tốn kho
rác là cách công ty YD dùng để ép người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng, ép người
lao động phải “tự ý” bỏ việc.
Nhìn chung thì phần hỏi của Luật sư có nhiều câu hỏi hơi lan man. Tất nhiên là những câu hỏi
này đều có mục đích nhất định tuy nhiên nếu luật sư có thể đặt được những câu hỏi đi vào
trọng tâm hơn thì tiết tấu phiên tịa sẽ mạch lạc hơn nhiều. Ngồi ra, có những câu hỏi nhằm
xác định thơng tin đã được làm rõ trong hồ sơ vụ án vẫn được luật sư hỏi lại.
Luật sư hỏi người làm chứng:
• Phần luận cứ bảo vệ:

Cách triển khai luận điểm của luật sư chưa đi ngay vào vấn đề và hơi khó nắm bắt, khi khẳng
định việc sa thải của công ty YD là trái pháp luật, luật sư cần triển khai các vấn đề như vi
phạm trình tự, thủ tục, căn cứ xử lý, nguyên tắc xử lý. Luật sư dùng sai cách diễn giải: thay vì
việc ra biên bản xử lý kỷ luật cũng làm “phát sinh mối quan hệ” tương tự ra quyết định xử lý
kỷ luật sa thải, luật sư chỉ cần nói rằng biên bản xử lý kỷ luật sa thải có giá trị tương tự quyết
định xử lý kỷ luật sa thải.
Trong phần hỏi của Hội thẩm 1, nguyên đơn đã trả lời là có nguyện vọng tiếp tục làm việc tại
công ty, tuy nhiên, luật sư vẫn yêu cầu được trả trợ cấp thôi việc trong phần luận cứ. Điều này
là khơng đúng vì u cầu này chỉ được chấp thuận khi ngun đơn khơng có nguyện vọng
quay lại làm việc. Ngoài ra, so với phần trình bày u cầu ban đầu, luật sư cịn bổ sung yêu
cầu bồi thường thêm 02 tháng tiền lương trong trường hợp cơng ty khơng có ý định nhận
người lao động trở lại làm việc căn cứ Điều 42 khoản 3 Bộ luật Lao động. Như vậy là không
hợp lý bởi thứ nhất, phía bị đơn đã bày tỏ nguyện vọng tiếp tục tiếp nhận người lao động vào
làm việc khi trả lời câu hỏi của Hội thẩm 1. Thứ hai, phần thay đổi bổ sung này không nhất
quán với phần trình bày u cầu ban đầu của luật sư.
• Phần đối đáp:
Luật sư khẳng định được việc luật sư bị đơn cáo buộc là tự ý nghỉ việc là không đúng. Bà Thu
không đồng ý với các quyết định bố trí cơng việc trái pháp luật nên bắt buộc phải nghỉ. Luật
sư khẳng định việc bà Thu phải đảm nhiệm ba vị trí trong cơng ty cùng một lúc thể hiện sự
yếu kém trong việc điều hành của công ty mà khơng địi hỏi bất kỳ phụ cấp nào, đây cũng có
thể là lý do bà Thu có sai phạm (nếu có). Cách giải thích và đối đáp của luật sư ở nội dung khá
hay.
• Tác phong, phong thái:
Luật sư trình bày vấn đề khúc chiết, rõ ràng, tuy nhiên giọng nói của luật sư hơi nhỏ
• Phần trình bày ý kiến về yêu cầu của phía nguyên đơn:
Luật sư trình bày những nội dung khơng đồng tình với luật sư nguyên đơn: Xác định thời điểm
sa thải bà Thu là 15/8/2016; xác định nguyên đơn chỉ được hưởng lương những ngày có mặt
tại cơng ty là 26,5 ngày; không đồng ý để bà Thu được hưởng trợ cấp thôi việc; chỉ đồng ý
10



chốt sổ bhxh đến ngày 09/12/2015. Luật sư trình bày rõ ràng và có căn cứ đi kèm.
• Phần hỏi của luật sư:
Luật sư hỏi nguyên đơn: Luật sư hỏi nguyên đơn có nhận được đầy đủ chế độ trong thời kỳ
nghỉ thai sản hay không là không cần thiết vì bà Thu khơng có ý kiến gì về vấn đề này. Luật sư
đã hỏi rất đúng trọng tâm về vấn đề tự ý nghỉ việc của luật sư: tại sao bà Thu khơng có đơn xin
nghỉ? Điều này thể hiện sự “tự ý” nghỉ việc và bất mãn của bà Thu không phù hợp với quy
định của pháp luật và nội quy cơng ty. Ngồi ra, luật sư cũng đã hỏi được câu hỏi mấu chốt là
bà Thu có nhận được quyết định sa thải căn cứ vào biên bản ngày 20/3/2016 hay không. Bởi lẽ
đây là vấn đề hai bên đang tranh chấp. Thực tế là công ty YD mới chỉ tiến hành họp xử lý kỷ
luật chứ chưa đưa ra bất cứ quyết định nào dựa trên biên họp ngày 20/2/2016. Do vậy, khơng
có căn cứ để bà Thu khởi kiện.
Luật sư hỏi bị đơn: Các câu hỏi của luật sư dành cho bị đơn nhìn chung đều có lợi cho phía bị
đơn. Tuy nhiên, các câu hỏi của luật sư không theo từng vấn đề hay trình tự thời gian mà khá
lộn xộn. Ví dụ, luật sư vừa hỏi tại sao bị đơn không sa thải bà Thu sau ngày 20/3/2016, sau đó
lại hỏi về vấn đề điều chuyển sang kho rác.
• Phần luận cứ bảo vệ:
Ưu điểm: Luật sư đi theo hướng công ty YD chỉ ban hành quyết định xử lý kỷ luật lao động
ngày 15/8/2016 khi con bà Thu đã đủ từ 12 tháng tuổi chứ không hề ban hành quyết định xử
lý kỷ luật nào trong thời gian người lao động đang ni con dưới 12 tháng tuổi.
Ngồi ra luật sư đã phản hồi được từng yêu cầu của nguyên đơn một cách hợp lý.
Nhược điểm: Luật sư khẳng định việc xử lý kỷ luật lao động của YD đối với bà Thu vào ngày
20/3/216 là đúng quy định pháp luật. Như vậy là rất khó để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của bị đơn.
Luật sư nhấn mạnh vào sai phạm kế toán của bà Thu trước khi nghỉ thai sản. Như vậy là khơng
có lợi cho bị đơn bởi việc bà Thu phải đảm đương cùng lúc nhiều công việc và chức danh là
do tổ chức của công ty có vấn đề. Cơng ty khơng hề gửi thơng báo họp như luật sư khẳng định.
Lẽ ra công ty cần khẳng định là việc bố trí bà Thu sang làm kế tốn quản lý kho rác khơng vi
phạm khoản nào theo quy định của pháp luật áp dụng đối với lao động nữ nuôi con dưới 12
tháng tuổi.

Việc công ty để bà Thu kiêm nhiệm nhiều vị trí là do cơng ty sai, luật sư khơng nên đưa vào.
• Phần đối đáp:
Luật sư khẳng định rằng biên bản xử lý kỷ luật ngày 20/3/2016 không phải quyết định xử lý kỷ
luật; ngoài ra Luật sư cũng dẫn chứng các trường hợp được coi là nghỉ việc có lý do chính
đáng tại Điều 31 Nghị định 05/2015/NĐ-CP, trong đó khơng bao gồm lý do tự ý nghỉ việc của
bà Thu. Luật sư khẳng định hành vi tự ý bỏ việc của bà Thu đã vi phạm quy định của pháp
luật. Luật sư khẳng định việc bà Thu yêu cầu chấm dứt hợp đồng lao động trong buổi làm việc
ngày 14/5/2016 chứng tỏ bà Thu nhận biết được rằng tại thời điểm đó, bà Thu vẫn là nhân viên
của cơng ty.

11



×