Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 1945 1946 VÀ SỰ VẬN DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ BIỂN ĐÔNG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (386.76 KB, 19 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIAO THƠNG VẬN TẢI TP. HỒ CHÍ MINH

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM

ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 1945 - 1946 VÀ SỰ
VẬN DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ BIỂN ĐÔNG
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Giảng viên hướng dẫn:

Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2021


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
TRONG GIAI ĐOẠN 1945 - 1946 ............................................................................ 2
1.1 Hoàn cảnh lịch sử Việt Nam trong giai đoạn 1945-1946 ..................................... 2
1.1.1 Tình hình thế giới ........................................................................................ 2
1.1.2 Tình hình trong nước .................................................................................. 2
1.2 Đảng lãnh đạo xây dựng, bảo vệ chính quyền cách mạng và kháng chiến chống
xâm lược ..................................................................................................................... 3
1.2.1 Những chủ trương đầu tiên và nổ lực kiến tạo quan hệ tạo ngoại giao ..... 3
1.2.2 Đảng lãnh đạo đấu tranh chống quân Tưởng và các Đảng phái phản động
............................................................................................................................. 5
1.2.3 Đảng lãnh đạo kí kết Hiệp định sơ bộ và Tạm ước với quân Pháp............ 7
1.2.4 Kết quả ........................................................................................................ 9


CHƯƠNG 2: SỰ VẬN DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ BIỂN ĐÔNG TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ......................................................................................... 10
2.1 Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong công tác đối ngoại hiện nay ................. 10
2.2 Vận dụng để giải quyết vấn đề biển Đông trong giai đoạn hiện nay ................. 11
2.3 Nhận xét - đánh giá ............................................................................................. 13
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 15
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 16


MỞ ĐẦU
Một đất nước có nền kinh tế mạnh thơi là chưa đủ mà địi hỏi nó cần có một
đường lối ngoại giao thật khôn ngoan và sắc bèn để đưa đất nước trở nên phồn vinh
và phát triển. Cho nên đối ngoại là một hoạt động không thể thiếu với bất kỳ quốc
gia nào trên thế giới, cũng như khi đất nước đã trải qua hai cuộc kháng chiến chống
Pháp và chống Mỹ với bao mn vàng khó khăn thử thách khi có được sức mạnh
qn sự thơi thì chưa đủ mà địi hỏi Đảng ta phải ln linh hoạt xoay chuyển tình
thế trong cơng tác đối ngoại. Với tư cách là chính đảng lãnh đạo cách mạng giải
phóng dân tộc, Đảng cộng sản Việt Nam luôn phải đưa ra những đường lối đối
ngoại cũng như tiến hành hoạt động đối ngoại trong bối cảnh các mối quan hệ quốc
tế đan xen, phức tạp. Đặc biệt, đã có những thời điểm Đảng phải đối mặt với không
chỉ một mà nhiều đối tác, cũng như nhiều kẻ đối địch. Những lúc đó, một yêu cầu
tất yếu đặt ra cho Đảng là phải tìm được đường lối thích hợp và ứng biến linh hoạt
nhằm tận dụng mọi thời cơ, tranh thủ mọi lực lượng trên thế giới.
Cách mạng tháng tám năm 1945 thành cơng, nước Việt Nam Dân chủ Cộng
Hịa ra đời ra đời mở ra một kỉ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam một kỉ nguyên
độc lập, tự do. Chủ tịch Hồ Chí Minh trở thành biểu tượng của nền độc lập, tự do, là
trung tâm của khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam.Tuy nhiên, cũng sau khi
giành được độc lập, nước ta đang ở trong hoàn cảnh cơ cùng khó khăn “ngàn cân
treo sợi tóc”. Trước tình hình đó, Đảng ta đã tiến hành nhiều chủ trương, đường lối
chiến lược, Đảng ta đã tập trung tinh thần và lực lượng giải quyết từng khó khăn,

vấn đề chống giặc ngoại xâm đang dùng những chiêu bài thâm độc để âm mưu
chiếm nước ta, cụ thể là Pháp và Tưởng nhằm mục đích xua đuổi thế lực thù địch ra
khỏi nước nhà.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, nên em đã quyết định chọn đề tài: “Đường
lối đối ngoại của Đảng cộng sản Việt Nam trong giai đoạn 1945 - 1946 và vận
dụng để giải quyết vấn đề biển Đông trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài nghiên
cứu.

1


CHƯƠNG 1:
ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG
GIAI ĐOẠN 1945 - 1946
1.1 Hoàn cảnh lịch sử Việt Nam trong giai đoạn 1945-1946
Tình hình Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám: Sau ngày tuyên bố độc lập, lịch
sử nước Việt Nam bước sang một chặng đường mới với nhiều thuận lợi căn bản và
khó khăn chồng chất.
1.1.1 Tình hình thế giới
Thuận lợi về quốc tế là sau cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ II, cục diện khu
vực và thế giới có những sự thay đổi lớn có lợi cho cách mạng Việt Nam. Liên Xơ
trở thành thành trì của chủ nghĩa xã hội. Nhiều nước ở Đông Trung Âu, được sự
ủng hộ và giúp đỡ của Liên Xô đã lựa chọn con đường phát triển theo chủ nghĩa xã
hội. Phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa châu Á, châu Phi và khu
vực Mỹ Latinh dâng cao.
Khó khăn là trên thế giới phe đế quốc chủ nghĩa nuôi dưỡng âm mưu mới “chia
lại giờ tây thuộc địa thế giới”, ra sức tấn công, đàn áp phong trào cách mạng thế
giới, trong đó có cách mạng Việt Nam. Do lợi ích cục bộ của mình, các nước lớn,
khơng có nước nào ủng hộ lập trường độc lập và công nhận địa vị pháp lý của Nhà
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Việt Nam nằm trong vòng vây của chủ nghĩa đế

quốc, bị bao vây cách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài. Cách mạng ba nước
Đơng Dương nói chung, cách mạng Việt Nam nói riêng phải đương đầu với nhiều
bất lợi, khó khăn, thử thách hết sức to lớn và rất nghiêm trọng.
1.1.2 Tình hình trong nước
Thuận lợi ở trong nước là Việt Nam trở thành quốc gia độc lập, tự do; nhân dân
Việt Nam từ thân phận nô lệ, bị áp bức trở thành chủ nhân của chế độ dân chủ mới.
Đảng Cộng sản trở thành Đảng cầm quyền lãnh đạo cách mạng trong cả nước. Đặc
biệt, việc hình thành hệ thống chính quyền cách mạng với bộ máy thống nhất từ cấp
Trung ương đến cơ sở, ra sức phục vụ lợi ích của Tổ quốc, nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh trở thành biểu tượng của nền độc lập, tự do, là trung tâm
của khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam. Quân đội quốc gia và lực lượng Cơng
an; luật pháp của chính quyền cách mạng được khẩn trương xây dựng và phát huy
2


vai trò đối với cuộc đấu tranh chống thù trong, giặc ngồi, xây dựng chế độ mới.
Khó khăn ở trong nước là hệ thống chính quyền cách mạng mới được thiết lập,
còn rất non trẻ, thiếu thốn, yếu kém về nhiều mặt; hậu quả của chế độ cũ để lại hết
sức nặng nề, sự tàn phá của nạn lũ lụt, nạn đói năm 1945 rất nghiêm trọng. Nhà
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp quản một nền kinh tế xơ xác, tiêu điều, cơng
nghiệp đình đốn, nơng nghiệp bị hoang hóa, 50% ruộng đất bị bỏ hoang; nền tài
chính, ngân khố kiệt quệ, kho bạc trống rỗng; các hủ tục lạc hậu, thói hư, tật xấu, tệ
nạn xã hội chưa được khắc phục, 95% dân số thất học, mù chữ, nạn đói cuối năm
1944 đầu năm 1945 làm 2 triệu người dân chết đói. Thách thức lớn nhất, nghiêm
trọng nhất lúc này là âm mưu, hành động quay trở lại thống trị Việt Nam một lần
nữa của thực dân Pháp. Ngày 2-9-1945, quân Pháp đã trắng trợn gây hấn, bắn vào
cuộc mít tinh mừng ngày độc lập của nhân dân ta ở Sài Gòn-Chợ Lớn.
Từ tháng 9-1945, theo thỏa thuận của phe Đồng minh, 2 vạn quân đội Anh- Ấn
đổ bộ vào Sài Gòn để làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật thua trận ở phía Nam
Việt Nam. Quân đội Anh đã trực tiếp bảo trợ, sử dụng đội quân Nhật giúp sức quân

Pháp ngang nhiên nổ súng gây hấn đánh chiếm Sài Gòn-Chợ Lớn (Nam bộ) vào
rạng sáng ngày 23-9-1945, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ hai của thực
dân Pháp ở Việt Nam.
Ở Bắc vĩ tuyến 16, theo thỏa thuận Hiệp ước Potsdam (Đức), từ cuối tháng 81945, hơn 20 vạn quân đội của Tưởng Giới Thạch (Trung Hoa dân quốc) tràn qua
biên giới kéo vào Việt Nam dưới sự bảo trợ và ủng hộ của Mỹ với danh nghĩa quân
đội Đồng minh vào giải giáp quân Nhật, kéo theo là lực lượng tay sai Việt Quốc,
Việt Cách với âm mưu thâm độc “diệt Cộng, cầm Hồ”, phá Việt Minh. Trong khi
đó, trên đất nước Việt Nam vẫn còn 6 vạn quân đội Nhật Hồng thua trận chưa
được giải giáp. Tình hình đó đã đặt nền độc lập và chính quyền cách mạng non trẻ
của Việt Nam trước tình thế “như ngàn cân treo sợi tóc”, cùng một lúc phải đối phó
với nạn đói, nạn dốt và bọn thù trong, giặc ngoài.
1.2 Đảng lãnh đạo xây dựng, bảo vệ chính quyền cách mạng và kháng
chiến chống xâm lược
1.2.1 Những chủ trương đầu tiên và nổ lực kiến tạo quan hệ tạo ngoại giao
Những chủ trương đối ngoại đầu tiên
3


Ngày 28/8/1945, Chính phủ Lâm thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hịa được
thành lập. Danh sách các thành viên Chính phủ được công bố. Do đặc thù quan
trọng, Chủ tịch Chính phủ Hồ Chí Minh kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. Những nội
dung cơ bản của chính sách đối ngoại đầu tiên của Chính phủ Lâm thời Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hịa đã được định hình trong Hội nghị Trung ương lần thứ 8 chủ
trương thành lập Mặt trận Việt Minh. Về ngoại giao, chính sách sẽ thi hành bốn
điểm lớn: “Hủy bỏ tất cả các hiệp ước mà Pháp đã ký với bất kỳ nước nào; Tuyên
bố các dân tộc bình đẳng và hết sức giữ hịa bình; Kiên quyết chống tất cả các lực
lượng xâm phạm đến quyền lợi của nước Việt Nam; Mật thiết liên lạc với các dân
tộc bị áp bức và giai cấp vô sản trên thế giới”1.
Một tháng ngay sau khi thành lập, trong “Thơng cáo về chính sách ngoại giao”
đăng trên Báo Cứu quốc ngày 3/10/1945, Chính phủ đã nêu rõ mục tiêu “Đưa nước

nhà đến tự do độc lập hoàn toàn và vĩnh viễn…; tất cả chính sách ngoại giao phải có
mục đích cốt yếu là giúp cho sự đấu tranh ấy giành thắng lợi êm dịu hay kiên
quyết”, đồng thời cam kết cùng các nước đồng minh “xây dựng lại nền hịa bình thế
giới”. Chính sách đối ngoại cũng phân vùng các đối tượng như: với các nước Đồng
minh thì “thành thực hợp tác”; kiều dân Pháp “nếu tôn trọng nền độc lập của Việt
Nam thì sinh mệnh và tài sản của họ sẽ được bảo vệ theo luật quốc tế”; đối với
Chính phủ De Gaulle “kiên quyết chống lại”; với các nước làng giềng nhấn mạnh
sự hợp tác và bình đẳng” và với các nước tiểu nhược trên thế giới “hợp tác chặt chẽ,
ủng hộ lẫn nhau”2.
Nổ lực kiến tạo quan hệ ngoại giao
Bên cạnh việc củng cố, xây dựng chính quyền non trẻ của nước Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hịa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tích cực kiến tạo quan hệ ngoại giao với
các nước lớn và các nước láng giềng. Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện cho Đại
Nguyên soái I. V. Stalin với mong muốn thiết lập quan hệ với lãnh đạo Xô Viết vào
tháng 9 và tháng 10 năm 1945.
Với Chính phủ Mỹ, trong hai năm 1945 - 1946, Hồ Chí Minh đã có 8 thư và
điện gửi Tổng thống Harry Truman, 3 thư và điện gửi Bộ trưởng Ngoại giao James
Byrnes nhằm khẳng định địa vị pháp lý của Việt Nam trong các quan hệ quốc tế,
1
2

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 7, tr. 150.
Bộ Ngoại giao, Bộ Ngoại giao: 70 năm xây dựng và phát triển (1945-2015), 2015, tr37-38.

4


trong việc giải quyết các vấn đề của Việt Nam và khu vực. Trong bức thư gửi Tổng
thống Hoa Kỳ Harry Truman ngày 16/2/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ
chính nghĩa của cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam giành độc lập dân tộc, đứng

về phía đồng minh chống phát xít; sự phi nghĩa của cuộc xâm lược mà thực dân
Pháp đang đẩy mạnh ở Đông Dương trái ngược những lập trường Mỹ đã nêu trong
các hội nghị quốc tế.
Đối với Trung Hoa Quốc Dân Đảng, ngày 28/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh
gửi điện cho Thống chế Tưởng Giới Thạch, kịch liệt phản đối việc quân đội Anh
tiếp tay cho quân đội Pháp thực hiện âm mưu tái chiếm Việt Nam và yêu cầu: “Thứ
nhất, ban bố lệnh chấm dứt tàn sát một dân tộc đang bảo vệ các quyền chính đáng
của mình theo các ngun tắc ghi trong Hiến chương Đại Tây Dương và Hiến
chương Xan Phranxiscơ. Thứ hai, cơng nhận nền độc lập hồn tồn của nước Cộng
hòa Việt Nam”.
Như vậy, trong những đầu ngày đầu thành lập nước, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã tìm mọi biện pháp, cách thức khác nhau để liên hệ và kêu gọi các nước lớn
và Liên Hợp quốc ủng hộ và công nhận nền độc lập của Việt Nam. Mặc dù các yếu
tố chính trị và lịch sử chưa cho phép Việt Nam có thể sớm gia nhập Liên Hợp quốc,
nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ động, tích cực đẩy mạnh các hoạt động ngoại
giao song phương - đa phương để thực sự trở thành một đòn bẩy sắc bén trong triển
khai đường lối đối ngoại độc lập tự chủ.
1.2.2 Đảng lãnh đạo đấu tranh chống quân Tưởng và các Đảng phái phản
động
Theo hiệp ước Pôtxdam ký kết giữa 4 nước thắng trận (Liên Xô, Mỹ, Anh,
Trung Quốc), quân Tưởng vào miền Bắc nước ta để tước vũ khí quân Nhật. Nhưng
đưa 20 vạn quân vào nước ta, quân Tưởng không phải chỉ thực hiện nhiệm vụ đó
mà cịn âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân, giúp bọn phản động Việt quốc, Việt
cách lập chính quyền làm tay sai cho chúng.
Để làm thất bại âm mưu “diệt Cộng, cầm Hồ, phá Việt Minh” của quân Tưởng
và tay sai, Đảng, Chính phủ Hồ Chí Minh chủ trương thực hiện sách lược “triệt để
lợi dụng mâu thuẫn kẻ thù, hịa hỗn, nhân nhượng có ngun tắc” với quân Tưởng;
đề ra nhiều đối sách khôn khéo đối với có hiệu quả với các hoạt động khiêu khích,
5



gây xung đột vũ trang của quân Tưởng; thực hiện giao thiệp thân thiện, ứng xử
mềm dẻo, linh hoạt với các yêu sách của quân Tưởng và các tổ chức đảng phái
chính trị tay sai thân Tưởng, nhất là số cầm đầu Việt Quốc, Việt Cách.
Ngun nhân ta hịa hỗn với Tưởng vì Pháp mới là kẻ thù chủ yếu trước mắt
của cách mạng, Tưởng vào Việt Nam với danh nghĩa giải giáp quân đồng minh
chưa tuyên bố xâm lược như Pháp nếu đánh Tưởng thì sẽ rất khó khăn cho ta, hơn
nữa nhằm tránh được phe đồng mình câu kết chống Việt Nam, lực lượng cách mạng
còn non yếu, qn Tưởng thì đơng và nhằm lợi dụng mâu thuẫn giữa hai tập đồn
Mĩ, Tưởng- Anh, Pháp vào Đơng Dương.
Để tránh mũi nhọn tấn công của các kẻ thù, Đảng chủ trương rút vào hoạt động
bí mật bằng việc ra “Thông cáo Đảng Cộng sản Đông Dương tự ý tự giải tán, ngày
11-11-1945”, chỉ để lại một bộ phận hoạt động công khai với danh nghĩa “Hội
nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đơng Dương”.
Nội dung của chủ trương hịa với Tưởng
Chính phủ Việt Nam đồng ý việc đảm bảo cung cấp lương thực, thực phẩm cần
thiết cho 20 vạn quân đội Tưởng khi ở Việt Nam và nhân nhượng cho quân Tưởng
được sử dụng đồng tiền Quan kim, Quốc tệ song hành cùng đồng bạc Đông Dương.
Sau khi bầu cử thành cơng, Hồ Chí Minh chấp nhận mở rộng thành phần đại biểu
Quốc hội, đồng ý bổ sung thêm 70 ghế Quốc hội không qua bầu cử cho một số đảng
viên của Việt Cách, Việt Quốc; cải tổ, mở rộng thành phần Chính phủ liên hiệp với
sự tham gia của nhiều nhân sĩ, trí thức, người khơng đảng phái và cả một số phần tử
cầm đầu tổ chức phản động tay sai của quân Tưởng, trong đó có nhiều ghế Bộ
trưởng quan trọng...Với sách lược đó, ta đã hạn chế tới mức tối đa sự phá phách của
quân Tưởng và tay sai. Khi quân Tưởng rút về nước thì bọn tay sai cũng tan rã và bị
trừng trị thích đáng.
Như vậy, chủ trương Hoa-Việt thân thiện là chủ trương hoàn toàn đúng đắn và
sáng suốt của Đảng ta, với chủ trương này ta đã hạn chế được trường hợp một mình
phải đối phó với nhiều qn thù, tránh được những sự phá hoại côn đồ của các thế
lực phản động.


6


1.2.3 Đảng lãnh đạo kí kết Hiệp định sơ bộ và Tạm ước với quân Pháp
Hiệp định sơ bộ (6/3/1946)
Sau cuộc gây hấn ở Sài Gòn ngày 23/9/1945, quân Pháp dựa vào sức mạnh binh
lực và hỏa lực đánh chiếm dần Nam Bộ, đánh lấn ra Nam Trung Bộ... từng bước
thực hiện âm mưu xâm lược Đông Dương lần thứ hai. Để có thể đưa qn ra Bắc
chiếm tồn bộ Đông Dương, tránh những thiệt hại nếu xảy ra xung đột với 20 vạn
quân Tưởng ở miền Bắc, Pháp phải đạt được thỏa thuận với Trùng Khánh để có thể
thực hiện việc thay thế qn Tưởng một cách hịa bình.
Đầu năm 1946, phe đế quốc đã dàn xếp, thỏa thuận để Chính phủ Pháp và
Chính phủ Trung Hoa dân quốc ký kết bản Hiệp ước Trùng Khánh (còn gọi là Hiệp
ước Hoa-Pháp, ngày 28-2-1946), trong đó có nội dung thỏa thuận để Pháp đưa quân
đội ra Bắc vĩ tuyến 16 làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật thay thế 20 vạn quân
Tưởng rút về nước, hạn cuối cùng là ngày 31-3-1946. Và đổi lại Pháp sẽ nhượng lại
cho Tưởng nhiều quyền lợi quan trọng ở Trung Quốc và Việt Nam. Đây thực chất là
một bản hiệp ước bán rẻ lợi ích dân tộc, chà đạp lên nền độc lập của Việt Nam, hợp
pháp hóa hành động xâm lược của thực dân Pháp ra miền Bắc. Chính phủ và nhân
dân Việt Nam đứng trước một tình thế vơ cùng nguy hiểm, phải cùng lúc đối mặt
trực tiếp với hai kẻ thù xâm lược to lớn là Pháp và Tưởng, trong khi thực lực cách
mạng vẫn còn non kém.
Trước sự thay đổi nhanh chóng, phức tạp của tình hình, Thường vụ Trung ương
Đảng, Hồ Chí Minh đã nhận định, đánh giá âm mưu, ý đồ chính trị của Pháp và
Tưởng và ra bản Chỉ thị Tình hình và chủ trương, ngày 3-3-1946. Trong đó nêu rõ:
“Vấn đề lúc này, khơng phải là muốn hay không muốn đánh. Vấn đề là biết mình,
biết người, nhận một cách khách quan những điều kiện lời lãi trong nước và ngoài
nước mà chủ trương cho đúng”3 và chủ trương tạm thời “dàn hòa với Pháp”, nhân
nhượng về lợi ích kinh tế, nhưng địi Pháp phải thừa nhận quyền dân tộc tự quyết

của Việt Nam, “lợi dụng thời gian hịa hỗn với Pháp để diệt bọn phản động bên
trong, tay sai Tàu trắng, trừ những hành động khiêu khích ly gián ta với Pháp”4,
thúc đẩy nhanh quân Tưởng về nước, bớt đi một kẻ thù nguy hiểm. Ngày 6-3-1946,
tại Hà Nội Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hịa
3
4

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 8, tr. 44-45.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 8, tr. 45-46.

7


ký với đại diện Chính phủ Cộng hịa Pháp Pháp tại Hà Nội là J.Xanhtơny (Jean
Sainteny) bản Hiệp định sơ bộ. Hiệp định sơ bộ nêu rõ: Chính phủ Pháp cơng nhận
Việt Nam là một quốc gia tự do, có chính phủ, nghị viện, tài chính và quân đội
riêng nằm trong Liên bang Đông Dương thuộc khối Liên hiệp Pháp; về phía Việt
Nam đồng ý để 15.000 quân đội Pháp ra miền Bắc thay thế 20 vạn quân đội Tưởng
rút về nước và sẽ rút dần trong thời hạn 5 năm; hai bên sẽ tiếp tục tiến hành đàm
phán chính thức để giải quyết mối quan hệ Việt-Pháp...
Ngay sau khi ký Hiệp định sơ bộ, ngày 9-3-1946, Thường vụ Trung ương Đảng
đã ra ngay bản Chỉ thị Hòa để tiến phân tích, đánh giá chủ trương hịa hỗn và khả
năng phát triển của tình hình. Chỉ thị nêu rõ: Cần phải tiếp tục nêu cao tinh thần
cảnh giác cách mạng, không ngừng một phút công việc sửa soạn, sẵn sàng kháng
chiến bất cứ lúc nào và nhất định không để cho việc đàm phán với Pháp làm nhục
tinh thần quyết chiến của dân tộc ta, nhất là đối với đồng bào Nam bộ và các chiến
sĩ ngoài mặt trận; cần đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng, đặc biệt chú ý đào tạo cán
bộ chính trị và quân sự, gây dựng cơ sở đảng, củng cố phong trào quần chúng... Đến
tháng 12-1946, Đảng đã có sự phát triển thêm về chất lượng, số lượng đảng viên
tăng lên tới hơn 20.000 người.

Tạm ước 14/09/1946
Để giữ vững nền độc lập, thống nhất và tồn vẹn lãnh thổ, Đảng, Chính phủ tiếp
tục cuộc đấu tranh ngoại giao kiên trì, kiên quyết, đầy khó khăn, phức tạp trong suốt
năm 1946 ở cả mặt trận trong nước và ngoài nước. Từ ngày 19-4 đến ngày 10-51946, đại diện Chính phủ Việt Nam và Pháp gặp nhau tại Hội nghị trù bị ở Đà Lạt.
Từ ngày 31-5-1946, theo lời mời của Quốc hội và Chính phủ Pháp, Chủ tịch Hồ Chí
Minh cùng phái đồn của Chính phủ Việt Nam thăm chính thức nước Cộng hịa
Pháp, chuyến thăm kéo dài hơn 4 tháng và đã thu được nhiều thành công về mặt đối
ngoại, làm cho dư luận, nhân dân và giới chính trị Pháp tiến bộ hiểu thêm cuộc đấu
tranh chính nghĩa, vì nền độc lập thực sự của Việt Nam. Cũng trong thời gian này,
phái đoàn Quốc hội Việt Nam do ông Phạm Văn Đồng dẫn đầu đi thăm thân thiện
và tham dự đàm phán chính thức giữa hai bên Việt-Pháp tại Hội nghị Phôngtenơblô
(Fontainebleau, gần Paris-Pháp) từ ngày 6-7 đến ngày 10-9-1946, song không thành
công vì vấp phải lập trường hiếu chiến và dã tâm xâm lược của thực dân Pháp. Với
8


thiện chí hữu nghị, hịa bình, nhân nhượng và để đảm bảo an toàn cho phái đoàn đại
biểu Việt Nam rời Pháp, ngày 14-9-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký với M.Mutê
(Marius Moutet) đại diện Chính phủ Pháp một bản Tạm ước 14-9 tại Mácxây
(Pháp), đồng ý nhân nhượng thêm cho Pháp một số quyền lợi kinh tế, văn hóa ở
Việt Nam; hai bên cam kết đình chỉ chiến sự ở Nam bộ và tiếp tục đàm phán...
Tạm ước 14-9 đã làm cho nhân dân Pháp và thế giới thấy rõ thiện chí hồ bình
của Chính phủ và nhân dân Việt Nam. Mặc dù phải nhân nhượng thêm về quyền lợi
kinh tế, văn hoá… cho Pháp, song Việt Nam đã kiên trì quan điểm độc lập trong
Liên hiệp Pháp, tiếp tục ngừng bắn, cam kết quyền tự do dân chủ ở Nam Bộ, khẳng
định đàm phán sẽ tiếp tục. Đặc biệt, việc kí Tạm ước 14-9 đã tạm thời tránh được
cục diện chiến tranh và giúp Việt Nam tranh thủ thêm thời gian mặc dù không nhiều
để chuẩn bị đi vào cuộc kháng chiến lâu dài; mặt khác tạo điều kiện để Hồ Chủ tịch
và Đoàn Việt Nam về nước an toàn. Nhưng chỉ vài tháng sau, chiến tranh xâm lược
của Pháp đã mở rộng ra cả nước Việt Nam. Và quân dân ta đã đứng lên chiến đấu

bảo vệ nước nhà.
1.2.4 Kết quả
Những chủ trương, biện pháp, sách lược và đối sách đúng đắn của Đảng, tinh
thần quyết đốn, sáng tạo của Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cuộc đấu
tranh chống giặc ngồi, thù trong những năm đầu chính quyền cách mạng non trẻ đã
đem lại thắng lợi có ý nghĩa hết sức quan trọng: ngăn chặn bước tiến của đội quân
xâm lược Pháp ở Nam bộ, vạch trần và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống
phá của các kẻ thù; củng cố, giữ vững và bảo vệ bộ máy chính quyền cách mạng từ
Trung ương đến cơ sở và những thành quả của cuộc Cách mạng tháng Tám; tạo
thêm thời gian hòa bình, hịa hỗn, tranh thủ xây dựng thực lực, chuẩn bị sẵn sàng
cho cuộc kháng chiến lâu dài.
Nêu cao ý chí tự lực, tự cường, quyết tâm bảo vệ nền tự do, độc lập. Triệt để lợi
dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ địch, thực hành nhân nhượng có nguyên tắc “Dĩ bất
biến, ứng vạn biến”. Tăng cường đại đoàn kết dân tộc, dựa vào sự ủng hộ vật chất là
chính trị, tinh thần của toàn dân. Phát triển thực lực cách mạng. Đó là những thành
cơng và kinh nghiệm nổi bật của Đảng trong lãnh đạo cách mạng, giai đoạn 19451946.
9


CHƯƠNG 2:
SỰ VẬN DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ BIỂN ĐÔNG TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY
2.1 Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong cơng tác đối ngoại hiện nay
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà ngoại giao kiệt xuất, là người sáng lập nền ngoại
giao Việt Nam hiện đại. Chủ tịch đã từng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao của Chính
phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong giai đoạn 1945 - 1946, khi cách mạng nước
ta vừa thành công, phải đối phó với thù trong giặc ngồi, vận mệnh ngàn cân treo
sợi tóc. Ngoại giao Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh là bước ngoặt lớn nhất trong
lịch sử ngoại giao dân tộc ta.
Trong suốt mấy chục năm trên cương vị Chủ tịch Đảng và Chủ tịch nước,

Người quan tâm chỉ đạo sát sao công tác đối ngoại, nhằm phát huy sức mạnh của
dân tộc và thời đại, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp vẻ vang của dân tộc. Với các
cương vị trong nước và hoạt động quốc tế vơ cùng phong phú của mình, Hồ Chí
Minh tiếp cận thực tiễn Việt Nam và thế giới, phát triển và đề xuất nhiều nguyên lý,
quan điểm, luận điểm về thời đại và về đường lối quốc tế, chính sách đối ngoại và
ngoại giao Việt Nam.
Trong giai đoạn hiện nay, khi mà đất nước ta đang trên đà phát triển để có thể
sánh vai với các nước trên Thế giới thì Đảng, Nhà nước ta đã vận dụng khôn khéo
và sáng tạo những đường lối đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh trên con đường
ngoại giao. Vận dụng những đường lối đó để tiếp tục phát huy vai trị tiên phong
của đối ngoại trong việc tái lập và giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định, tranh thủ
tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước; bảo vệ vững chắc độc lập,
chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Nhưng phải bảo đảm cao nhất lợi ích
quốc gia – dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản Hiến chương Liên hợp quốc và
luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi. Lợi ích quốc gia – dân tộc đã, đang và
sẽ tiếp tục là kim chỉ nam, tiêu chí cao nhất trong triển khai hoạt động đối ngoại.
Đảng, Nhà nước cũng đề cao quan điểm “Chủ động và tích cực hội nhập quốc
tế, giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; hội nhập
quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả, vì lợi ích quốc gia – dân tộc, bảo
đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia”. Độc lập, tự chủ là cơ sở, tạo ra sức mạnh
10


nội sinh để nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế và chủ động, tích cực hội nhập quốc
tế. “Hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng”. Và khi nước ta đã hội nhập được với
quốc tế thì cũng phải bám sát, gắn chặt và phục vụ trực tiếp nhiệm vụ phục vụ phát
triển với việc “tích cực triển khai các cam kết khu vực và quốc tế, lồng ghép với các
chiến lược, chính sách, kế hoạch và chương trình phát triển kinh tế-xã hội”. Thêm
vào đó chúng ta phải phát huy cao độ tính chủ động, tích cực của ngoại giao Hồ Chí
Minh. Chỉ có chủ động, tích cực mới giúp nâng cao vai trò của Việt Nam. Do đó,

ngoại giao cần chủ động, tích cực thực hiện hiệu quả chủ trương đưa quan hệ với
các nước vào chiều sâu; hội nhập quốc tế; chủ động và tích cực đóng góp xây dựng
định hình các thể chế đa phương. Từng bước, phát triển tham gia đóng góp vào nỗ
lực của cộng đồng quốc tế trong việc ứng phó với các thách thức chung tồn cầu.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”.
Biết được tầm quan trọng của một người cán bộ, ngời đứng đầu, vì thế trong văn
kiện Đại hội lần thứ XIII đã nêu “Nâng cao bản lĩnh, phẩm chất, năng lực, tính
chuyên nghiệp, hiện đại, đổi mới sáng tạo của đội ngũ cán bộ làm công tác đối
ngoại và hội nhập quốc tế; chủ động thích ứng trước chuyển biến của tình hình”.
Qua đó nhấn mạnh phẩm chất, năng lực của cán bộ đối ngoại là yếu tố quyết định,
mang tính đột phá nhằm bảo đảm đáp ứng được các yêu cầu nhiệm vụ ngày một cao
hơn trong tình hình mới.
Qua đó, nhờ vào những đường lối đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng
mang đến cho đất nước ta nhiều nội dung, kiến thức có giá trị chỉ dẫn cho Đảng,
Nhà nước ta trong công cuộc bảo vệ bền vững chủ quyền biển, đảo đến thời điểm
hiện nay.
2.2 Vận dụng để giải quyết vấn đề biển Đông trong giai đoạn hiện nay
Những năm qua, trong bối cảnh thế giới và khu vực có nhiều diễn biến phức
tạp. Đặt biệt là những cuộc tranh chấp trên biển Đơng trong những năm gần đây
đang là vấn đề nóng trên toàn thế giới cụ thể hơn đối với nước ta là Trung Quốc có
hành động xâm phạm chủ quyền biển đảo Việt Nam. Khởi đầu là tháng 5 năm 2014,
Trung Quốc đã hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương- 981 trong vùng đặc quyền
kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Hành động này của Trung Quốc là muốn hiện
thực hóa đường “lưỡi bị”, độc chiếm Biển Đơng, muốn khẳng định Hồng Sa,
11


Trường Sa là của Trung Quốc. Hành động này của Trung quốc đã vi phạm quyền
chủ quyền và quyền tài phán trong vùng biển của Việt Nam. Đây chỉ là một vụ việc
trong một chuỗi các vụ việc mà Trung Quốc đã và sẽ làm. Nhưng dưới sự lãnh đạo

của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, quân và dân ta triển khai tích cực các hoạt
động bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia trên biển. Chúng ta đã “Chủ động, kiên
quyết, kiên trì đấu tranh bằng các biện pháp phù hợp, bảo vệ được chủ quyền biển,
đảo, vùng trời và giữ được hịa bình, ổn định để phát triển đất nước” 5 . Đồng
thời, Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn
đến năm 2045 cũng nêu “nhận thức của tồn hệ thống chính trị, nhân dân và đồng
bào ta ở nước ngồi về vị trí, vai trị của biển, đảo đối với phát triển kinh tế, bảo vệ
chủ quyền quốc gia được nâng lên rõ rệt. Chủ quyền, an ninh quốc gia trên biển
được giữ vững”.
Hiện nay, sức mạnh tổng hợp của quốc gia, thế và lực của ta trên các vùng biển,
đảo đã tăng lên nhiều. Thế trận quốc phịng tồn dân, an ninh nhân dân, “thế trận
lịng dân” trên biển, đảo không ngừng được củng cố, tăng cường. Các lực lượng
quản lý, bảo vệ biển, đảo từng bước được xây dựng, phát triển ngày càng vững
mạnh hơn, trong đó Hải quân nhân dân Việt Nam được Đảng, Nhà nước ưu tiên đầu
tư tiến thẳng lên hiện đại, có sự trưởng thành, lớn mạnh vượt bậc, đủ sức làm nòng
cốt bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.
Đảng và Nhà nước ta xác định giữ vững độc lập, tự chủ về đường lối cách mạng
với phương châm mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”.
Quan điểm “dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, được hiểu một
cách tổng quát là, lấy cái không thay đổi để đối phó với mn sự thay đổi. Đây là
quan điểm mang tính nguyên tắc phương pháp luận biện chứng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh trong hoạt động đối ngoại. Chủ quyền biển, đảo là chủ quyền quốc gia trên
biển - là thiêng liêng, bất khả xâm phạm, là cái bất biến; để đấu tranh bảo vệ lợi ích
thiêng liêng đó, phải linh hoạt - phải ứng vạn biến. Điều đó có nghĩa là giữ vững
chủ quyền lãnh thổ quốc gia là “dĩ bất biến”, còn kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ
quyền bằng các biện pháp hịa bình, kể cả đấu tranh pháp lý trên cơ sở luật pháp
quốc tế, thậm chí bằng biện pháp quân sự là “ứng vạn biến”. Đảng và Nhà nước ta
5

Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XII, Văn phịng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 146


12


thể hiện cho nhân dân thế giới thấy chúng ta chỉ muốn hịa bình, lên án mạnh mẽ
hành động phi pháp của phía Trung Quốc dùng xâm lược, vẽ lại bản đồ để khẳng
định chủ quyền là việc làm trái đạo lý, trái luật pháp quốc tế, không thể chấp nhận
trong thời đại ngày nay.
Bên cạnh đó chúng ta cần thống nhất phương châm hành động “dĩ bất biến ứng
vạn biến”, “kiên định nguyên tắc chiến lược, linh hoạt về sách lược” trong bảo vệ
chủ quyền biển, đảo. Chủ quyền biển, đảo và toàn vẹn lãnh thổ là thiêng liêng, bất
di bất dịch, không thể để bị xâm phạm, không thể đánh đổi và không thể nhân
nhượng. Các biện pháp bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc
gia trên các vùng biển, đảo phải được triển khai mạnh mẽ, kiên quyết vì chúng ta có
chính nghĩa, song cũng phải hết sức linh hoạt, mềm dẻo, phù hợp với điều kiện,
hoàn cảnh, thời điểm cụ thể; lấy bảo vệ vững chắc chủ quyền, lợi ích quốc gia, dân
tộc và giữ vững hịa bình, ổn định để đất nước phát triển làm mục tiêu tối thượng.
Bảo vệ chủ quyền biển, đảo là trách nhiệm và nghĩa vụ của mọi người dân Việt
Nam, cho nên phải phát huy sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc, dưới sự lãnh đạo tuyệt
đối của Đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước, có phân cơng, phân nhiệm rõ
ràng cho từng cấp, từng lực lượng.
2.3 Nhận xét - đánh giá
Biển, đảo Việt Nam là một bộ phận cấu thành chủ quyền quốc gia, là không
gian sinh tồn, cửa ngõ giao lưu quốc tế, gắn bó mật thiết với sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Đây cũng là địa bàn chiến lược về quốc phịng, an ninh, là tuyến
phịng thủ hướng đơng của đất nước, tạo khoảng không gian cần thiết giúp kiểm
soát việc tiếp cận lãnh thổ trên đất liền.
Bên cạnh đó, mỗi khi chủ quyền quốc gia của Việt Nam trên Biển Đơng bị xâm
phạm, thì lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta luôn thể hiện tinh thần đấu tranh kiên quyết,
kiên trì bằng các biện pháp hịa bình, mềm dẻo cụ thể là thông qua các diễn đàn, các

cuộc gặp gỡ trong các lĩnh vực chính trị, ngoại giao... Trong những năm gần đây,
khi vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao, chúng ta
càng có thêm nhiều cơ hội để đưa ra tiếng nói, khẳng định chủ quyền ở Biển Đông
tại các cơ chế, diễn đàn đa phương. Bởi vậy, dù tình hình trên biển nhiều lúc căng
thẳng, phức tạp, Việt Nam vẫn đạt được mục tiêu, đó là giữ vững chủ quyền biển,
13


đảo, bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc, giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định để
phát triển đất nước, khơng để xảy ra xung đột. Qua đó càng chứng minh chủ trương,
đường lối, chính sách giải quyết bất đồng trên Biển Đơng của Việt Nam là hồn
tồn đúng đắn, phù hợp với xu thế chung của thế giới.
Mặt khác, Đảng và Nhà nước ta đã kế thừa và phát huy nhiều cách thức,
phương pháp về việc bảo vệ chủ quyền biển, đảo mà ông cha ta trong lịch sử dựng
nước và giữ nước, cũng như nhận thức đúng vị trí, vai trị, tầm quan trọng đặc biệt
của biển, đảo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng và Nhà nước ta đã
có nhiều chủ trương, chính sách về biển, đảo.
Nếu để bảo vệ chủ quyền biển, đảo mà chỉ sử dụng con đường đấu tranh thì đó
khơng phải là cách tốt nhất. Hiện nay, thế giới đang trong giai đoạn hịa bình, tất cả
các nước trên thế giới đề muốn một thế giới hịa bình để phát triển đất nước. Vì vậy,
việc sử dụng ngoại giao để giải quyết các vấn đề biển Đông là một phương pháp vô
cùng đúng đắn trong bối cảnh giai đoạn hiện nay.
Trước những mối đe dọa lớn về những vấn đề tranh chấp trên biển Đông đối
với nước ta, thì Đảng và Nhà nước đã có những chính sách đối ngoại vơ cùng sáng
tạo và tinh tế điển hình là chúng ta đã sử dụng phương châm 16 chữ “láng giềng hữu
nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và 4 tốt “láng giềng
tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt” trong quan hệ với Trung Quốc và các nước
láng giềng. Và hơn bất kỳ một dân tộc nào, dân tộc ta thấu hiểu được sự mất mát
đau thương của chiến tranh. Trong điều kiện hiện nay, nếu chiến tranh xảy ra sẽ là
vô cùng nguy hại, sẽ là thiệt hại vô cùng lớn cả về con người và cơ sở vật chất, cả

về kinh tế, chính trị, văn hố xã hội, ngoại giao; đặc biệt là khơng cịn mơi trường
hồ bình, ổn định để phát triển đất nước…
Qua đó, em cũng nhận thức được rằng không phải lúc nào chúng ta cũng phải
sử dụng đến phương pháp đấu tranh vì phương pháp này mang đến rất nhiều đau
thương và mất mát. Thay vào đó mà chúng ta nên chọn phương pháp ngoại giao,
hịa bình cùng nhau bàn luận đưa ra những biện pháp, những phương hướng để
không một dân tộc, đất nước nào trên thế giới bị thiệt hại tổn thất cả về con người,
về kinh tế chính trị…

14


KẾT LUẬN
Trong giai đoạn 1945 - 1946 nước ta đang gặp vơ vàn khó khăn trong cuộc đấu
tranh chống giặc ngồi, thù trong. Thời điểm này, chính quyền cách mạng ở nước ta
còn non trẻ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng nền ngoại giao non trẻ đã xuất sắc bảo vệ
chủ quyền và nền độc lập góp phần giữ vững Nhà nước độc lập. Hoạt động ngoại
giao phong phú, sôi động nhưng cực kỳ chiến lược và khôn khéo đã để lại những
mẫu mực lớn về sách lược ngoại giao.
Mặt khác, dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngoại giao Việt Nam đã
vận dụng triệt để, tối đa phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Kết hợp cùng
phương châm hòa hiếu, “thêm bạn bớt thù” đã hình thành và trở thành nguyên tắc
của ngoại giao Việt Nam. Nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời trong tình thế
“khơng đồng minh, khơng tiền, hầu như khơng vũ khí” nhưng vẫn đi đến độc lập tự
do là nhờ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Bên cạnh đó bảo vệ chủ quyền biển, đảo là nhiệm vụ trọng yếu và là trách
nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta.Biển, đảo Việt Nam là một bộ phận
lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc, có vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp xây
dựng, phát triển và bảo vệ đất nước hiện nay và mai sau. Cuộc đấu tranh bảo vệ chủ
quyền biển đảo hiện nay là lâu dài, gian khổ, đòi hỏi chúng ta phải kiên quyết,

nhưng phải bình tĩnh, kiên trì, vận dụng đúng đắn những bài học rút ra từ thắng lợi
của Cách mạng Tháng Tám lịch sử nhằm đạt mục đích cuối cùng là độc lập, tồn
vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Ngày nay, Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng được các đường lối ngoại giao của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, kiên trì dùng ngoại giao để các nước có chung quyền lợi
trên biển Đơng hợp sức với Việt Nam ngăn chặn âm mưu và hành động độc chiếm
biển Đông của Trung Quốc như cách mà Hồ Chủ tịch đã làm trong việc tranh thủ
các lực lượng tiến bộ bên ngoài, phát huy nội lực bên trong tạo nên sức mạnh tổng
hợp để làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám lịch sử.

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ giáo dục và Đào tạo 2017, Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Tồn tập, NXB Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 2000, tập 7, tr.150.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Tồn tập, NXB Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 2000, tập 8, tr.44-46.
4. Bộ Ngoại giao, Bộ Ngoại giao: 70 năm xây dựng và phát triển (1945-2015),
2015, tr.37-38.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XII,
Văn phịng Trung ương Đảng, 2016, tr.146.
6. Nguyễn Huy Sơn (Ngày 03/09/2020), Đấu tranh ngoại giao nước Việt Nam
DCCH thời kỳ mới thành lập, [Truy cập ngày
19/11/2021].
7. TS Đặng Đình Quý (15/12/2016), Ngoại giao trước Tồn quốc kháng chiến
và bài học về cơng tác đối ngoại hiện nay, />[Truy cập ngày 20/11/2021].
8. Đào Thị Hiền (28/09/2021), Quan điểm, chủ trương của Đảng về cơng tác

bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong tình hình mới, [Truy cập ngày 22/11/2021].
9. Vũ Hùng (03/05/2021), Giải quyết vấn đề Biển Đơng - rất cần cái nhìn
khách quan, tỉnh táo, [ Truy cập
này 25/11/2021].
16


17



×