Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

tiểu luận triết học Từ qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất (anh chị )hãy giải thích tính tất yếu và những nội dung cơ bản của quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa gắn với phát triển trí thức ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (92.41 KB, 13 trang )

BÀI TẬP MÔN TRIẾT HỌC
Học viên lớp cao học Quang Học
CH: Từ qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất (anh chị )
hãy giải thích tính tất yếu và những nội dung cơ bản của q trình cơng nghiệp
hóa hiện đại hóa gắn với phát triển trí thức ở Việt Nam hiện nay
Triết học là một bộ phận không thể thiếu trong đời sống xã hội của bất kỳ quốc
gia nào. Triết học không chỉ tác động đến sự phát triển trong tư tưởng của con
người mà nó cịn tham gia vào q trình phát triển kinh tế của nhiều quốc gia trên
Thế giới, trong đó có Việt Nam. Triết học là nền tảng, cơ sở của mọi đường lối
quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước, ngay cả trong thời đại hội nhập
ngày nay.
Một trong những vấn đề lớn của Triết học Mác – Lênin là quan hệ sản xuất,
lực lượng sản xuất. Chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau
một cách biện chứng tạo thành quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất. Hiểu được mối quan hệ biện chứng này sẽ giúp
cho quá trình phát triển của xã hội trở nên dễ dàng hơn.
I. Những cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về quy luật quan hệ sản
xuất phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất
1.Lực lượng sản xuất : là một khái niệm trung tâm của chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Việc nghiên cứu rõ nội hàm của khái niệm này là cơ sở để hiểu toàn bộ sự vận
động và phát triển của quá trình sản xuất vật chất trong lịch sử xã hội loài người.
Theo C. Mác, sản xuất vật chất là hoạt động đặc trưng của con người. Đó là hoạt
động cơ bản nhất, quyết định sự tồn tại và phát triển của con người và xã hội loài
người. C. Mác cho rằng, lực lượng sản xuất thể hiện năng lực thực tiễn của con


người trong quá trình cải biến giới tự nhiên. Khi tiến hành sản xuất vật chất, con
người dùng những công cụ lao động để tác động vào giới tự nhiên nhằm tạo ra của
cải vật chất phục vụ những nhu cầu thiết yếu của mình. Cũng trong q trình đó,
con người nắm bắt được những quy luật của tự nhiên, biến giới tự nhiên từ chỗ
hoang sơ, thuần phác trở thành “thế giới thứ hai” với sự tham gia của bàn tay và


khối óc của con người. Sản xuất vật chất luôn thay đổi nên lực lượng sản xuất là
một yếu tố động và là một q trình ln được đổi mới, phát triển không ngừng.
Khi bàn đến lực lượng sản xuất, C. Mác cũng chỉ ra những yếu tố cơ bản cấu
thành nên nó, đó là người lao động và tư liệu sản xuất.Như vậy, theo quan điểm
của C. Mác, có thể hiểu, lực lượng sản xuất là một khái niệm dùng để chỉ sự kết
hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất nhằm tạo ra một sức sản xuất vật
chất nhất định
Ngoài việc bàn đến hai yếu tố cơ bản cấu thành lực lượng sản xuất, C. Mác cũng
đề cao, coi trọng vai trò của khoa học đối với sản xuất vật chất nói chung và với
sự phát triển của lực lượng sản xuất nói riêng.
Trong bối cảnh hiện nay, với mục tiêu phát triển bền vững, quan niệm về lực
lượng sản xuất cần được bổ sung khía cạnh “con người sống hài hịa với tự
nhiên”. Trong lịch sử loài người đã và đang trải qua ba giai đoạn phát triển của lực
lượng sản xuất. Giai đoạn 1: Lực lượng sản xuất phát triển một cách tự phát. Đây
là giai đoạn mà kinh nghiệm sản xuất trực tiếp của người lao động sản sinh ra kỹ
thuật. Nó xảy ra trước cách mạng cơng nghiệp. Giai đoạn 2: Lực lượng sản xuất
phát triển bằng mọi giá. Đây là giai đoạn sau cách mạng công nghiệp. Ở giai đoạn
này, con người đã tận dụng những thành quả của khoa học, kỹ thuật để khai thác
ngày càng nhiều tự nhiên nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình. Giai đoạn 3: Lực
lượng sản xuất phát triển một cách có chọn lọc. Do mối quan hệ giữa con người
và tự nhiên ngày càng trở nên xung khắc, biểu hiện qua những thiên tai, lũ lụt,
biến đổi khí hậu..., nên con người từng bước điều chỉnh hoạt động sản xuất vật


chất của mình, chuyển hướng sang phát triển lực lượng sản xuất một cách có chọn
lọc, tránh làm tổn hại đến tự nhiên. Vì vậy, thay vì phát triển lực lượng sản xuất
như trước kia, ngày nay cần phải phát triển lực lượng sản xuất một cách chọn lọc,
bởi “lực lượng sản xuất là khái niệm thể hiện không chỉ hoạt động đấu tranh mà
còn thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa con người và giới tự nhiên”.
Thứ ba, nhờ sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, nhất là mạng in-tơnét, khoa học nói riêng và tri thức nói chung được phổ biến nhanh chóng, hầu như

tức thời, với nhiều sự kiện khoa học trên toàn thế giới. Dịng tri thức, dịng cơng
nghệ cùng dịng vốn được lưu thơng với tốc độ chưa từng có trên tồn thế giới.
Người ta có thể sản xuất từng bộ phận cấu thành của một sản phẩm ở nhiều nơi
trên thế giới, sau đó lắp ráp và lưu thơng ở các nước khác nhau nhằm đạt hiệu quả
cao nhất. Vì vậy, đầu ra của lực lượng sản xuất hiện đại khơng cịn là sản phẩm
riêng của lao động ở một quốc gia nữa, mà là sản phẩm mang tính tồn cầu. Do
đó, lực lượng sản xuất hiện đại trở thành một yếu tố quan trọng hàng đầu trong
việc đẩy mạnh q trình tồn cầu hóa. Đây là đặc điểm mới, chỉ riêng có ở lực
lượng sản xuất hiện đại mà lực lượng sản xuất ở các giai đoạn trước kia chưa có
hoặc mới ở trong một phạm vi hẹp.
Ngày nay, với sự phát triển vượt bậc của khoa học kỹ thuật đã khiến cho tri thức
khoa học công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
2. Quan hệ sản xuất: là mỗi quan hệ giữa người với người trong quá trình sản
xuất ( sản xuất và tái sản xuất xã hội).
Quan hệ sản xuất bao gồm:
Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất( quan hệ sở hữu) :nói lên ai là chủ sở hữu
đối với nhà máy, xí nghiệp ,các thiết bị, các nguyên nhiên vật liệu trong quá trình
sản xuất .


Quan hệ trong tổ chức – quản lý quá trình sản xuất: nói lên ai là người tổ chức,
quản lý và điều hành quá trình sản xuất.
Quan hệ trong phân phối kết quả của q trình sản xuất đó : nói lên ai là người có
quyền phân phối, chia thành quả sản xuất, cho những ai và như thế nào?
Trong ba mối quan hệ trên thì quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất đóng vai trị
quan trọng nhất, quyết định hai mối quan hệ kia, đồng thời tác động trở lại bằng
cách thúc đẩy hay kìm hãm.
3. Nội dung của quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất
- Theo nhận thức truyền thống, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có quan hệ

mật thiết và thống nhất với nhau trong mỗi phương thức sản xuất. Lực lượng sản
xuất là cơ sở vật chất, điều kiện vật chất có vai trị quyết định quan hệ sản xuất hình thức xã hội của sản xuất. Khi quan hệ sản xuất không cịn phù hợp với lực
lượng sản xuất thì tất yếu phải được thay thế bằng phương thức sản xuất tiến bộ
hơn.Quan hệ sản xuất quy định mục đích, cách thức của sản xuất, phân phối. Do
đó nó trực tiếp ảnh hưởng đến thái độ của người lao động, năng suất, chất lượng,
hiệu quả của quá trình sản xuất và cải tiến công cụ lao động.Sự tác động của quan
hệ sản xuất và lực lượng sản xuất diễn ra theo hai hướng, hoặc là tích cực, thúc
đẩy lực lượng sản xuất phát triển khi nó phù hợp hoặc tiêu cực, kìm hãm lực
lượng sản xuất khi nó khơng phù hợp.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất và mở rộng thị trường thế giới trong thế kỷ
XX, sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học-cơng nghệ và tồn cầu hóa
hiện nay đã tạo ra lực lượng sản xuất hiện đại và đồ sộ hơn nhiều
- Như vậy, lực lượng sản xuất không ngừng phát triển phá vỡ sự phù hợp về mặt
trình độ của quan hệ sản xuất đối với nó địi hỏi phá bỏ quan hệ sản xuất lỗi thời


và thay thế bằng một quan hệ sản xuất tiến bộ hơn. Q trình đó lặp đi lặp lại tác
động cho xã hội loài người trải qua những phương thức sản xuất từ thấp đến cao
dẫn đến sự thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế – xã hội.
- Để phát triển lực lượng sản xuất, con đường tất yếu là phải diễn ra cuộc cách
mạng khoa học, kỹ thuật, cơng nghệ, tiến hành cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đó
là q trình phát triển khơng ngừng ở tất cả các nước dưới những hình thức và
mức độ khác nhau.
II. Thực trạng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất của Việt nam
trước kia và hiện nay
+ Ở Việt Nam, do điểm xuất phát rất thấp từ một nước nông nghiệp lạc hậu trong
chế độ phong kiến hàng nghìn năm, bị chủ nghĩa thực dân cai trị hàng trăm năm,
nên yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất, cơng nghiệp hóa càng bức thiết. Sau
Cách mạng Tháng Tám 1945, đất nước vừa giành được độc lập lại phải tiến hành
kháng chiến lâu dài chống xâm lược nên chưa có điều kiện để chuyển lên con

đường XHCN. Năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, muốn xây dựng
CNXH phải phát triển kỹ nghệ, tức là phát triển công nghiệp, khoa học, kỹ thuật.
- Trong công cuộc đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện nhất qn đường
lối cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhằm phát triển mạnh mẽ lực lượng
sản xuất. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa VII (7-1994) nêu rõ:
“Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là q trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các
hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao
động thủ cơng là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với
công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển
của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội
cao”. Đó là một q trình lâu dài, “Mục tiêu lâu dài của cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa là cải biến nước ta thành một nước cơng nghiệp có cơ sở vật chất-kỹ thuật


hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ
phát triển của sức sản xuất, mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng - an
ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”.
Đại hội VIII của Đảng khẳng định Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã
hội, hoàn thành những nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá
độ, cho phép chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ do Hội
nghị Trung ương 2 khóa VIII đề ra và xác định giáo dục, đào tạo cùng với khoa
học công nghệ là quốc sách hàng đầu nhằm phát triển lực lượng sản xuất, phát
triển đất nước.
Đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, chú trọng chiến lược phát triển giáo
dục, đào tạo và khoa học, công nghệ là cần thiết và đúng đắn.
Cơng cuộc đổi mới, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế
đã thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam. Kết cấu hạ tầng kinh tế, xã
hội phát triển nhanh. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực. Gần 30 năm đổi mới,
nhiều cơng trình lớn của đất nước được xây dựng và đi vào hoạt động. Đó là nhà

máy thủy điện Yaly, Sơn La, Tun Quang cùng với Hịa Bình, Trị An trước đó, hệ
thống tải điện Bắc Nam, cùng với các nhà máy thủy điện vừa và nhỏ, nhiệt điện đã
là thành tựu lớn của điện khí hóa tồn quốc. Cơng nghiệp dầu khí với khu cơng
nghiệp lọc dầu Dung Quất, khí điện đạm Phú Mỹ, Cà Mau. Hiện đại hóa ngành
khai thác than và khống sản. Tiếp tục phát triển cơng nghiệp gang thép, cơ khí.
Phát triển cơng nghệ thông tin và viễn thông. Nâng cấp hệ thống đường giao
thông. Xây mới các cầu hiện đại: Mỹ Thuận, Cần Thơ, các cầu ở Đà Nẵng, cầu
Thanh Trì, Vĩnh Tuy ở Hà Nội và nhiều cầu hiện đại khác. Hiện đại hóa các sân
bay, cảng biển. Phát triển hàng trăm khu cơng nghiệp và chế xuất, hình thành
những trung tâm công nghiệp, khu vực kinh tế trọng điểm của đất nước.


Với sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất đã thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Nhịp độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) vững chắc: năm 2000 tăng gấp
2,07 lần năm 1990, năm 2010 tăng gấp 3,26 lần năm 2000. Thu nhập bình quân
đầu người tăng đáng kể: năm 1986 là 202 USD, 2001 là 417 USD, 2006 hơn 600
USD, năm 2008 là 1.000 USD, vượt qua ngưỡng nước nghèo, năm 2010 là 1.168
USD và 2012 là 1.700 USD, 2013 là 2.000 USD.
Sự phát triển lực lượng sản xuất, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đã thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực. Tỷ trọng công nghiệp và xây
dựng năm 1988 chiếm 21,6% GDP, năm 1995 là 28,8%, năm 2003: 40%, năm
2005: 41% và năm 2010 là 41,1%. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP năm 1988:
46,3%, năm 2003: 21,8%, năm 2005: 21%, năm 2010: 20,6%. Tỷ trọng dịch vụ
trong GDP 1988: 33,1%, năm 2003 là 38,2%, năm 2005: 38% và năm 2010:
38,3%. Đó là những con số rất có ý nghĩa mà các Đại hội của Đảng đã tổng kết.
Tuy vậy, năng suất lao động ở Việt Nam còn rất thấp và tăng chậm. Từ năm 2000
đến 2010, năng suất lao động chỉ tăng hơn 4%. So với các nước Inđônêxia,
Malaysia và Thái Lan, năng suất lao động của Việt Nam thấp hơn hàng chục lần.
Năng suất lao động là thước đo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Công nghiệp Việt Nam có sự phát triển, song vẫn chủ yếu là khai thác tài nguyên

và gia công, “Công nghiệp chế tạo, chế biến phát triển chậm, gia cơng, lắp ráp
cịn chiếm tỷ trọng lớn”.
Trải qua nhiều năm đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa lực lượng sản xuất đã
có những bước phát triển rất quan trọng. Song, việc xây dựng quan hệ sản xuất
mới - hình thức xã hội của sản xuất - vẫn chưa hết lúng túng và còn những hạn
chế, thiếu đồng bộ.


III. Phương hướng để tiếp tục vận dụng tốt quy luật quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (bổ sung, phát triển năm 2011), xác định đặc trưng thứ ba trong mơ hình xã
hội XHCN ở Việt Nam là: “có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản
xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp”. Cương lĩnh nhấn mạnh việc
nắm vững và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn, trong đó có quan hệ “giữa phát
triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa”.
Phát triển mạnh mẽ hơn nữa lực lượng sản xuất với trình độ khoa học công nghệ
cao là vấn đề bức thiết để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững và phát triển
kinh tế tri thức. Khi công nghiệp vẫn chủ yếu là khai thác tài nguyên, gia công, lắp
ráp, công nghiệp chế tạo, chế biến cịn phát triển chậm thì định hướng đúng đắn
trong phát triển khoa học, công nghệ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển có tầm
quan trọng đặc biệt. Đại hội XI của Đảng nêu rõ: “Ưu tiên phát triển và hồn
thành những cơng trình then chốt về cơ khí chế tạo, sản xuất máy móc, thiết bị
thay thế nhập khẩu cho công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng; công nghiệp công
nghệ cao sản xuất linh kiện điện tử, máy tính, cơng nghiệp dầu khí, điện, than,
khai khống, hóa chất, luyện thép, xi măng, phân đạm… cơng nghiệp hỗ trợ, cơng
nghiệp quốc phịng, an ninh với trình độ cơng nghệ ngày càng cao, sạch, tiêu tốn ít
ngun liệu, năng lượng, tăng sức cạnh tranh và giá trị gia tăng”.
Ưu tiên phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp và nông thôn, đặc biệt là

công nghiệp sản xuất trang thiết bị, máy móc làm đất, thu hoạch, bảo quản, chế
biến nông sản. Phát triển mạnh công nghiệp xây dựng và phát triển hợp lý công
nghiệp sử dụng nhiều lao động, góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động. Phát triển
năng lực nghiên cứu, thiết kế, chế tạo các sản phẩm cơng nghiệp có cơng nghệ
tiên tiến, giá trị gia tăng cao, nhất là các máy điều khiển kỹ thuật số, hệ thống tự


động hóa. Phấn đấu đến năm 2020, “Giá trị sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm
ứng dụng công nghệ cao đạt khoảng 45% trong tổng GDP. Giá trị sản phẩm công
nghiệp chế tạo chiếm khoảng 40% trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp”.
Hiện nay, thực hiện quan điểm của Đại hội XI về cơ cấu lại nền kinh tế, chú trọng
cơ cấu lại và điều chỉnh chiến lược phát triển doanh nghiệp nhà nước, nâng cao
chất lượng, hiệu quả bảo đảm phát triển kinh tế nhanh, bền vững và đúng định
hướng XHCN. Phát triển nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH, giải quyết đồng bộ
vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới.
Đảng và Nhà nước ta có nhiều chủ trương, biện pháp để đẩy mạnh cơng nghiệp
hố, hiện đại hố nhằm phát triển lực lượng sản xuất, tạo “cốt vật chất” cho quan
hệ sản xuất mới. Tiếp tục thực hiện đổi mới mơ hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền
kinh tế; đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố gắn với phát triển kinh tế tri
thức, kinh tế số nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và hàng
hoá dịch vụ chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để phát huy cao độ nội lực,
tranh thủ ngoại lực, tiếp thu những thành tựu về khoa học và công nghệ hiện đại
trong điều của cuộc cách mạng 4.0. Xây dựng, hồn thiện luật pháp và chính sách
kinh tế để kiến tạo sự phát triển bền vững. Đào tạo nguồn nhân lực, trọng dụng
nhân tài, nhất là trong bộ máy quản lý, quản trị nhà nước.
Nâng cao trình độ người lao động bằng cách phát triển giáo dục đào tạo đặc biệt là
đào tạo nghề. Nâng cao chất lượng hiệu quả giáo dục đào tạo nghề, nhằm đẩy
mạnh phát triển nguồn lao động cả về số lượng và chất lượng.
Hoàn thiện cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa để hoàn thiện
quan hệ sản xuất.

Tăng cường những bước cơ bản về cơ sở vật chất cho khoa học – công nghệ, tập
trung xây dựng một số phịng thí nghiệm đạt trình độ tiên tiến trong khu vực trên


các lĩnh vực công nghệ trọng điểm như công nghệ thơng tin, cơng nghệ sinh học,
hóa dầu….
KẾT LUẬN
Hiện nay, thế giới đang chuyển đổi mạnh mẽ với sự phát triển vượt bậc của khoa
học  - công nghệ và đổi mới sáng tạo. Trong bối cảnh đó, để tận dụng thời cơ và
vượt qua thách thức của cuộc chuyển đổi số, hướng đến mục tiêu năm 2045 nước
ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao, thì khâu đột phá đầu tiên phải được
tính đến là đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực, nhất là tầng lớp
trí thức tinh hoa của dân tộc.
Cuộc cách mạng chuyển đổi cơng nghệ số và trí tuệ nhân tạo chắc chắn sẽ làm cho
cơ cấu xã hội biến đổi và các tổ chức chính quyền nhà nước các cấp tinh gọn hơn,
thơng minh hơn, hiệu quả hơn. Nói cách khác, cuộc cách mạng này không những
làm thay đổi cách quản trị xã hội mà còn làm thay đổi cả cách suy nghĩ, cách ứng
xử, lối tư duy của con người, thậm chí cả cách thức, biện pháp tiến hành chiến
tranh trong tương lai không xa. Bởi vậy, nếu nước nào chậm trễ và tụt hậu trong
cuộc cách mạng mới này thì khoảng cách với các nước phát triển cao sẽ ngày càng
rộng ra thêm. Điều này đồng nghĩa với việc các nước đang phát triển và kém phát
triển sẽ tụt hậu càng xa hơn nữa so với các nước phát triển. Do vậy, cơ hội để các
nước đang phát triển đuổi kịp các nước phát triển sẽ càng trở nên mong manh hơn,
sự bất bình đẳng giữa các quốc gia cũng vì vậy chưa thể nào khắc phục được.
Trong bối cảnh thế giới thay đổi và đứng trước nhiều thách thức như vậy, nếu
nước ta muốn rút ngắn được khoảng cách với các nước phát triển và hướng đến
mục tiêu năm 2045 nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao thì khâu đột
phá đầu tiên phải được tính đến là đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng một cách thật hiệu
quả nguồn nhân lực, đặc biệt là phải hết sức tơn trọng nguồn nhân lực có chất
lượng cao, nhất là tầng lớp trí thức tinh hoa của dân tộc. Nói cách khác, muốn cho



đất nước phát triển chúng ta phải phát hiện sớm người tài để chọn đúng người tài
cho từng lĩnh vực của hoạt động xã hội; phải thật sự trọng dụng người tài; phải
biết dùng người tài đúng lúc, đúng chỗ và khơng kém phần quan trọng là có chính
sách đãi ngộ xứng đáng đối với người tài nhằm tạo ra động lực mạnh mẽ cho các
lĩnh vực sáng tạo khoa học, phát minh, sáng chế, công nghệ, điều hành, quản lý và
tổ chức xã hội. Đây chính là phần quan trọng của khâu đột phá trong công tác tổ
chức, cán bộ thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Rõ ràng là để cho những người có học vấn cao trở thành trí thức, để họ thực hiện
được chính tâm thì cần phải có điều kiện từ hai phía; một là, từ chính bản thân
người trí thức và hai là từ phía Đảng và Nhà nước.
Có thể thấy, những điều ông cha ta từng viết cách đây gần 6 thế kỷ và điều mà
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói cách nay đã hơn 60 năm chúng ta càng thấm thía và
hiểu rõ hơn vai trị của người tài, của việc phát hiện, lựa chọn, bố trí, sử dụng,
trọng dụng người tài đối với tương lai của đất nước. Do vậy, khâu đột phá chiến
lược quan trọng bậc nhất không chỉ lúc này mà còn cả nhiều năm sau nữa vẫn sẽ
là đào tạo, bồi dưỡng, tuyển chọn, sử dụng, trọng dụng những người tài làm việc
cho đất nước, phụng sự nhân dân.
Công cuộc đổi mới và phát triển đất nước trong kỷ ngun chuyển đổi cơng nghệ
số và trí tuệ nhân tạo đặt ra yêu cầu cần có lực lượng trí thức đơng đảo, nhất là trí
thức tinh hoa, thuộc tất cả các lĩnh vực khoa học, từ toán học, khoa học tự nhiên,
khoa học kỹ thuật và công nghệ cho đến khoa học kinh tế, khoa học xã hội và
nhân văn, trong đó các ngành khoa học, như tốn học, vật lý học, hóa học, sinh
học, cơng nghệ, vật liệu, kỹ thuật,... phải đóng vai trị chính yếu, là mũi nhọn và
phải đi tiên phong. Cho nên, chừng nào chúng ta cịn thiếu các trí thức tài ba
thuộc những ngành khoa học này thì chừng đó cịn khó khăn để có đột phá trong
lĩnh vực cơng nghệ số và trí tuệ nhân tạo, nghĩa là đất nước chưa thể vươn tới
trình độ phát triển cao, chưa thể đưa đất nước phát triển ngang tầm thời đại và rút



ngắn khoảng cách với các nước phát triển. Bởi vậy, trách nhiệm nặng nề không
chỉ đang đặt lên vai đội ngũ trí thức tinh hoa của dân tộc mà cịn là trách nhiệm
của Nhà nước. Nhà nước không chỉ khuyến khích, đãi ngộ xứng đáng đối với các
trí thức tinh hoa, tài ba mà cịn cần tạo được mơi trường xã hội thuận lợi để trí
thức phát huy hết khả năng sáng tạo của mình.
Thời đại đang có những biến động nhanh chóng và rất khó lường, cho nên rất cần
đến tư duy khoa học, trong đó có tư duy phản biện. Triết học biện chứng duy vật
có vai trị, có khả năng và có trách nhiệm nâng tầm tư duy biện chứng của trí thức
nói riêng và của xã hội nói chung trong q trình đổi mới đất nước để chúng ta đi
vào cuộc cách mạng chuyển đổi công nghệ số và trí tuệ nhân tạo một cách thuận
lợi nhất.
Hiện nay, đất nước ta đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong bối
cảnh chuyển đổi số, hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh. Mọi người dân Việt Nam đều có nghĩa vụ và trách nhiệm góp phần vào
sự nghiệp khó khăn nhưng vô cùng vẻ vang ấy. Tuy nhiên, để từng bước tiến hành
có kết quả và đến đích thành cơng trong cuộc cách mạng chuyển đổi cơng nghệ số
và trí tuệ nhân tạo thì đội ngũ trí thức giữ vai trị và trọng trách nặng nề nhất. Đội
ngũ trí thức ở nước ta hiện nay với tư cách là lực lượng lao động sáng tạo đặc biệt
và mang trên vai sứ mệnh cao cả, cần phát huy tốt hơn nữa khả năng của mình để
xứng đáng với truyền thống vẻ vang, góp phần nâng tầm trí tuệ của dân tộc, sức
mạnh của đất nước, đóng góp quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc./.

********************





×