Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

bài thu hoạch diễn án tranh chấp quyền sử dụng đất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.54 KB, 22 trang )

HỌC VIỆN TƯ PHÁP
CƠ SỞ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA ĐÀO TẠO CHUNG NGUỒN THẨM PHÁN, KIỂM SÁT VIÊN, LUẬT SƯ

BÀI THU HOẠCH DIỄN ÁN
Tranh chấp quyền sử dụng đất
Nguyên đơn: Chu Thị Thanh và Chu Văn Sinh
Bị Đơn: Đinh Thị Tám
Mã số: ĐTC 09/DS

TP. HCM ngày

tháng

năm 2021


Mục lục
I. CHUẨN BỊ........................................................................................................................................................ 3
1.

TÓM TẮT NỘI DUNG TRANH CHẤP................................................................................................... 3

2.

TRÌNH BÀY YÊU CẦU KHỞI KIỆN CỦA NGUYÊN ĐƠN, YÊU CẦU CỦA BỊ ĐƠN:..............5

3.

XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HỎI ĐỐI VỚI TƯ CÁCH LÀ LUẬT SƯ CỦA NGUYÊN ĐƠN.........9


4.

XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HỎI ĐỐI VỚI TƯ CÁCH LÀ LUẬT SƯ CỦA BỊ ĐƠN..................... 10

5.

BẢN LUẬN CỨ:......................................................................................................................................... 11

6.

DỰ THẢO BẢN ÁN:.................................................................................................................................. 15

II. NHẬN XÉT:.................................................................................................................................................. 22

2


I.

CHUẨN BỊ

1. TĨM TẮT NỘI DUNG TRANH CHẤP
• Ngun đơn:
- Bà Chu Thị Hồng Thanh (tên gọi khác Chu Thị Thanh) sinh ngày 28 tháng 2
1930
Địa chỉ: Tổ 16 Phường Nam Thanh, TP. Điện Biên, tỉnh Điện Biên.
Đại diện theo ủy quyền: Chu Thị Hồng Tâm, sinh năm 1970.
Địa chỉ: Nhà số 61 tổ 16 Phương Nam Thành, TP. Điện Biên, tỉnh Điện Biên.
- Ông Chu Văn Sinh, sinh năm 1936
Địa chỉ: Thơn Vạn Thắng, xã Hịa Thắng, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn.

• Bị đơn:
- Bà Đinh Thị Tám, sinh năm 1930
Địa chỉ: Thôn 6, xã Phù Vân, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.
• Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Bà Chu Thị Loan, sinh năm 1935.
Địa chỉ: Tổ 3 phường Cầu Thía, thị xã Nghĩa Lộ, tỉnh Yên Bái.
Đại diện theo ủy quyền: ông Chu Anh Quyết, sinh năm 1952.
Địa chỉ: Thôn 6, xã Phù Vân, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.
- Bà Chu Thị The, sinh năm 1944.
Địa chỉ: Đội 1 thôn Diên Điền, xã Bình Hịa, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định.
Đại diện theo ủy quyền: ông Chu Anh Quyết, sinh năm 1952.
Địa chỉ: Thôn 6, xã Phù Vân, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.
- Ông Chu Khắc Hồng, sinh năm 1956
- Bà Trần Thị Đắc, sinh năm 1957
- Bà Chu Thị Mai, sinh năm 1952
Cùng địa chỉ: Thôn 6, xã Phù Vân, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.
Quan hệ pháp luật tranh chấp: Tranh chấp về quyền sử dụng đất.
Nội dung sự việc:
Đây là vụ án dân sự liên quan đến chấp đòi quyền sử dụng đất của 777,4 m 2 tại
thửa đất số 40 tờ bản đồ số 02 lập năm 1998 tại thôn 6, xã Phù Vân, huyện Phủ Lý,
tỉnh Hà Nam giữa nguyên đơn là bà Chu Thị Thanh, ông Chu Văn Sinh đối với bị đơn
là Bà Đinh Thị Tám.
3


Về nguồn gốc đất:
Mảnh đất diện tích 777,4 m2 tại thửa đất số 40 tờ bản đồ số 02 lập năm 2003 tại
thôn 6, xã Phù Vân, huyện Phủ Lý, tỉnh Hà Nam là tài sản của Ông Chu Khác Trường
và bà Chu Thị Cúc. Ơng bà có tất cả 4 người con là Chu Thị Hồng Thanh (sinh năm
1931), Chu Thị Loan (sinh năm 1934), Chu Khắc Sinh (sinh năm 1939), Chu Thị The

(sinh năm 1944). Ông Trường mất năm 1945, bà Cúc chết năm 1990 không để lại di
chúc, di sản thừa kế gồm thửa đất diện tích 777,4 m 2, và tài sản trên đất bao gồm một
số cây lưu niên và 1 căn nhà 4 lợp ngói, 1 bể nước. Ngày bà Cúc mất, vợ chồng ông
Chu Khắc Thuyên và bà Đinh Thị Tám là cháu bà Cúc cùng bà The đã lo ma chay cho
bà.
Ngày 20/01/1994, ông Chu Khắc Sinh về và lập giấy chuyển nhượng mảnh đất
nói trên cho vợ chồng ơng Chu Khắc Thuyên và bà Đinh Thị Tám với giá trị là
1,500,000đ, và đã nhận 500,000đ vào ngày 24/1/1994 (bút lục 7,8, 13, 52). Việc
chuyển nhượng khơng có sự đồng ý của những người đồng thừa kế khác.
Ngày 4/4/1994 bà Chu Thị Thanh và bà Chu Thị The đã làm đơn khiếu nại gởi
UBND xã Phù Vân về giao dịch trên.
Ngày 10/04/1944, UBND xã Phù Vân ra Thông báo số 05/TB-UB tạm đình chỉ
việc chuyển nhượng nói trên giữa ơng Sinh và vợ chồng ông Thuyên (bút lục 9).
Ngày 15/04/1994, chị em bà Thanh, bà The đã thống nhất giao mảnh đất trên
cho ông Thuyên và bà Tám trong nom, quản lý. Thời hạn giao 05 năm kể từ ngày 15
tháng 4 năm 1994 đến tháng 15 tháng 4 năm 1999. Người được sử dụng phải có giao
ước sau: nhà cửa tu sửa giữ để ở không để dột nát, đất đai tự sản xuất ra sản phẩm sử
dụng và nạp nghĩa vụ với nhà nước (trồng các cây ngắn ngày) không được xây dựng
cơ bản như: làm nhà, đất phải giữ nguyên mặt bằng không được đào khoét. Các cây
cối lưu niên không được chặt phá. Tổng giá trị thu nhập cây lưu niên hàng năm phải
có sự chứng kiến của hai bên nội ngoại. Số tiền đó ơng Chu Khắc Thuyên được
hưởng 50% (năm mươi phần trăm) phần còn lại do bốn chị em bà Thanh sử dụng (mở
sổ ở ngân hàng do bà Chu Thị Thanh đứng tên) (bút lục 10).
Trên cơ sở đó, di sản trên được vợ chồng ông khuyên và bà Tám quản lý, sử
dụng và nộp thuế từ năm 1990 đến nay.
Ngày 22/11/2001 ông Sinh giao mãnh đất trên cho Trưởng họ nội là ông Chu
Khắc Chinh quản lý (bút lục 13)
4



Tháng 5 /2016 bà Tám tiến hành xây dựng không phép 01 ngôi nhà cấp 4 trên
mảnh đất kể trên. Ngày 12/10/2016, do không đồng ý với việc xây cất trên nên ơng
Sinh có đơn gửi UBND xã Phù Vân đề nghị giải quyết tranh chấp đất đai của bố mẹ
ông với bà Đinh Thị Tám.
Ngày 19/06/2016 và ngày 25/10/2016 UBND xã Phù Vân đã tiến hành 2 phiên
hòa giải nhưng khơng có kết quả, với 2 biên bản hịa giải (bút lục 25, 26,27,28, 29).
Ngày 29/10/2016, bà Chu Thị Thanh và ông Chu Văn Sinh đồng đứng đơn
khởi kiên đòi quyền sử dụng đất là di sản với bà Đinh Thị Tám.
Sau đó, ngày 05/11/2016, bà Thanh và ơng Sinh cùng đứng đơn khởi kiện đòi
quyền sử dụng đất đối với mảnh đất tranh chấp nói trên đối với bà Đinh Thị Tám.
Tòa án nhân dân huyện Phủ lý đã thụ lý vụ án 20/2016/TLST-DS ngày
8/11/2016, thông báo thụ lý vụ án sô 20/TB-TLVA ngày 09/11/2016 (bút lục 33, 34).

2. TRÌNH BÀY YÊU CẦU KHỞI KIỆN CỦA NGUYÊN ĐƠN,
YÊU CẦU CỦA BỊ ĐƠN:
Những vấn đề cụ thể người khởi kiện yêu cầu bào gồm: (bút lục 94-96)
Yêu cầu bà Đinh Thị Tám trả lại tài sản là mảnh đất 777,4 m 2 thuộc thửa đất số
40 tờ bản đồ số 2 lập năm 1998 tại thôn 6, xã Phù Vân, huyện Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.
Là di sản thừa kế do bà Chu Thị Cúc để lại, thuộc sở hữu chung của 4 chị em bà
Thanh, bà Loan, ông Sinh và bà The.
Phần tài sản trên đất của bà Tám, nguyên đơn yêu cầu dỡ bỏ để trả lại đất cho
chị em bà Thanh.
Những vấn đề cụ thể và trình bày của bị đơn:
Khơng đồng ý trả lại thửa đất cho bà Thanh, ơng Sinh vì ơng Sinh đã trao
quyền thừa kế theo đơn chuyển quyền thừa kế ngày 20/1/1994 (bút lục 7,8)
2.1 Chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn:
- Về nguồn gốc, quyền sở hữu Quyền sử dụng mảnh đất tranh chấp:
Đất tranh chấp bao gồm 777,4 m2 thửa đất số 40 tờ bản đồ số 2, lập năm 1998
(bút lục 21) cụ thể: Diện tích nhà ở: 183,4m 2; Diện tích vườn: 384,9 m2 Diện tích ao:
209,1 m2; do bà Chu Thị Cúc đứng tên trong sổ quản lý đất đai của UBND xã Phù

Vân, và một số tài sản trên đất khác.
5


Năm 1990, bà Cúc mất, không để lại di chúc. Di sản thừa kế bà để lại là mảnh
đất và các tài sản trên đất nói trên.
Căn cứ Điểm a Khoản 1 Điều 675, Điểm a Khoản 1 Điều 676 Bộ luật dân sự
năm 2005 (BLDS) quy định những trường hợp thừa kế theo pháp luật và người thừa
kế theo pháp luật thì di sản thừa kế do bà Cúc để lại, khơng có di chúc sẽ được chia
thừa kế theo pháp luật cho những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất. Trong trường
hợp này hang thừa kế thứ nhất bao gồm các con của bà Cúc, cụ thể là 4 người con là
Chu Thị Hồng Thanh (sinh năm 1931), Chu Thị Loan (sinh năm 1934), Chu Khắc
Sinh (sinh năm 1939), Chu Thị The (sinh năm 1944).
Trên cơ sở đó, 777,4 m2 đất nói trên thuộc quyền sở hữu hợp pháp của các
đồng thừa kế là nguyên đơn là bà Thanh, ơng Sinh và người có quyền, lợi ích liên
quan trong vụ án là bà Loan, bà The.
Bà Đinh Thị Tám và chồng Chu Khắc Thuyên là người quản lý di sản thừa kế
theo văn bản giao quyền quản lý thừa kế di sản của các đồng thừa kế vào ngày
15/04/1994.
Căn cứ vào Điểm đ Khoản 1 Điều 639 BLDS quy định nghĩa vụ của người
quản lý di sản thì người quản lý di sản có nghĩa vụ giao lại di sản thừa kế theo yêu
cầu của những người thừa kế. Như vậy, trong mọi thời điểm khi tất cả các đồng thừa
kế yêu cầu người quản lý di sản thừa kế giao trả lại di sản thì họ phải giao trả lại theo
đúng quy định của pháp luật về thừa kế.
Trong khi đó, thời hạn giao quản lý di sản thừa kế là 05 năm (15/04/1994 –
15/4/1999) (bút lục 10,11), hết thời hạn trên thì người quản lý di sản khơng cịn quyền
quản lý di sản trên nữa. Sau đó, quyền quản lý di sản đã được trao cho ông Chu Khắc
Chinh từ này 22/11/2001 (bút lục 13). Do đó, tài sản nói trên đang bị bà Đinh Thị
Tám chiếm hữu, sử dụng là không hợp pháp.
Như vậy,Tài sản tranh chấp trong vụ án này là di sản thừa kế do mẹ của các

nguyên đơn, người có quyền lợi liên quan để lại, là tài sản thuộc quyền sở hữu chung
của các đồng thừa kế. Do đó, yêu cầu khởi kiện buộc người đang chiếm giữ trái pháp
luật phải trả lại là đúng, có căn cứ, có cơ sở chấp thuận.
* Chứng cứ:
+ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
+ Giấy chứng tử của bà Chu Thị Cúc (bút lục 17)
6


+ Giấy xác nhận ông Chu Khắc Trường mất năm 1945 (bút lục 6)
+ Tờ bản đồ hiện trạng năm 1998 (bút lục 21) và tờ bản đồ năm 1990 (bút
lục 24)
+ Bản sao hộ khẩu gia đình
+ CMND của các đương sự: bà Thanh, bà Loan, ông Sinh và bà The

-

+ Giấy khai sinh của các nguyên đơn và người có quyền, lợi ích liên quan
(nếu có).
Về u cầu tháo dỡ nhà, tài sản khác của bà Tám để trả lại đất:

Do 777,4 m2 đất trên là di sản thừa kế chưa phân chia thuộc sở hữu các đồng
thừa kế là bà Thanh, bà Loan, ông Sinh và bà The.
Căn cứ vào biên bản giao quyền quản lý, sử dụng đất ngày 15/04/1994, các ơng bà
nói trên giao quyền quản lý, sử dụng đất cho vợ chồng ông Khuyên và bà Tám. Nội dung
ghi rõ: “Thời hạn giao 05 năm kể từ ngày 15 tháng 4 năm 1994 đến tháng 15 tháng 4
năm 1999. Người được sử dụng phải có giao ước sau: nhà cửa tu sửa giữ để


khơng để dột nát, đất đai tự sản xuất ra sản phẩm sử dụng và nạp nghĩa vụ với nhà


nước (trồng các cây ngắn ngày) không được xây dựng cơ bản như: làm nhà, đất phải
giữ nguyên mặt bằng không được đào khoét. Các cây cối lưu niên không được chặt
phá”.
Căn cứ điểm b khoản 1 điều 639 BLDS thì người quản lý di sản không được
bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp và định đoạt tài sản bằng các hình thức khác,
nếu khơng được những người thừa kế đồng ý bằng văn bản.
Trong khi đó, quyền quản lý di sản đã được trao cho ông Chu Khắc Chinh từ
này 22/11/2001, và kể từ ngày đó bà Tám khơng còn được quyền quản lý hợp pháp di
sản trên.
Nên, việc bà Tám xây dựng căn nhà cấp 4 tại mảnh đất trên vào năm 2016 là
trái pháp luật và điều đó được chính quyền địa phương thừa nhận. Các đương sự
khơng đồng ý, có đơn đề nghị UBND xã Phù Vân can thiệp giải quyết. Do đó, bà Tám
phải tháo dỡ đi, trả lại diện tích đất nói trên cho cho các đương sự. Các đương sự
khơng có nghĩa vụ phải bồi thường chi phí tháo dỡ, thiệt hại do việc tháo dỡ tài sản
của bà Tám để trả lại di sản thừa kế cho họ.
*Chứng cứ:

7


+ Thơng báo tạm đình chỉ việc chuyển quyền sử dụng đất của UBND xã
Phù Vân ngày 10/04/1994.
+ Biên bản giao đất ngày 15/04/1994 (bút lục 10)
+ Đơn đề nghị UBND xã can thiệp, giải quyết.
+ Biên bản hòa giải của UBND xã Phù Vân ngày 19/06/2012, ngày
25/10/2012 (bút lục 26,27,28).
2.2 Chứng cứ chứng minh cho yêu cầu bị đơn:
- Về nguồn gốc, quyền sở hữu Quyền sử dụng mảnh đất tranh chấp
Đất tranh chấp bao gồm 777,4 m2 thửa đất số 40 tờ bản đồ số 2, lập năm 1998

(bút lục 21) cụ thể: Diện tích nhà ở: 183,4m2; Diện tích vườn: 384,9 m2 Diện tích ao:
209,1 m2; do bà Chu Thị Cúc đứng tên trong sổ quản lý đất đai của UBND xã Phù
Vân, và một số tài sản trên đất khác.
Ngày 20/01/1994, ông Chu Khắc Sinh về và lập giấy chuyển quyền thưa kế
mảnh đất nói trên cho vợ chồng ông Chu Khắc Thuyên và bà Đinh Thị Tám với giá
trị là 1,500,000đ, và đã nhận 500,000đ vào ngày 24/1/1994 (bút lục 7,8, 13, 52).
Căn cứ Khoản 1 Điều 122, Điều 127, Điều 135 BLDS quy định về điều kiện có
hiệu lực của giao dịch dân sự, giao dịch dân sự vô hiệu, vô hiệu một phần thì giấy
chuyển quyền thừa kế của ơng Sinh là vơ hiệu một phần. Do đó, giao dịch chuyển
quyền thừa kế có hiệu lực đối với phần di sản ơng Sinh được thừa kế.
Thơng báo UBND số 05/TB-UB ngày 10/4/1994 đình chỉ việc chuyển quyền
thừa kế không ảnh hưởng đến quyền việc chuyển quyền thừa kế của ông Sinh cho vợ
chồng bà Tám.
15/04/1994, các bà Thanh và bà The lập văn bản giao quyền quản lý cho bà
Đinh Thị Tám và chồng Chu Khắc Thuyên. Trên cơ sở các văn bản đó bà Tám quản
lý và sử dụng đất và tài sản trên đất đến nay.
Việc sử dụng được thể hiện qua lời khai nhân chứng và giấy tờ nộp thuế từ năm
1990 đến nay.
Tuy quyền quản lý di sản đã được trao cho ông Chu Khắc Chinh từ này
22/11/2001 (bút lục 13). Nhưng trên thực tế ơng Chinh đã hồn tồn khơng quản lý tài
sản trên, và bà Tám vẫn tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ với nhà nước đối với tài sản
trên từ 2001 đến nay.
8


Nên, việc nguyên đơn nhận định bà Tám chiếm dữ đất trái phép là chưa phù
hợp, vợ chồng bà Tám đã bảo quản, quản lý di sản từ ngày bà Cúc chết đến nay. Việc
xây nhà trên phần đất là do ông Sinh đã chuyển quyền thừa kế một phần cho ơng bà
Tám. Do đó, bị đơn u cầu phản tố buộc ông Sinh thực hiện chuyển quyền thừa kế,
và yêu cầu chi phi quản lý di sản từ năm 2001 đến nay. Bị đơn mong quyền thừa kế

được chuyển nhượng từ ơng Sinh có phần đất bà Tám đã xây nhà, để bà tuổi già có
nơi nương tựa, và đở thiệt hại do việc tháo dỡ tài sản của bà Tám để trả lại di sản thừa
kế cho họ.
Lưu ý:
Cơ sở pháp lý bảo vệ bị đơn: Luật đất đại 1990 chưa quy đinh quyền thùa kế
đất đai. Đất vẫn thuộc sở hửu toàn dân, điểm a khoản 1 Điều 1 Nghị quyết
02/HĐTP/1990 có quy đinh đất đai khơng phải là di sản thừa kế.
Ngoài ra, phần đất do UBND xã quản lý, được bị đơn sử dụng ổn định lâu dài
đến nay hồn tồn khơng có tranh chấp QSDĐ nên có thể đề nghị UBND hợp thức
hố.
Dựa theo các căn cứ trên, bị đơn hồn tồn có thể bác bỏ yêu cầu nguyên đơn
và căn cứ Điều 101 Luật đất đai 2013.
*Chứng cứ:
+ Đơn chuyển quyền thừa kế ngày 20/1/1994
+ Giấy biên nhận ngày 25/6/2016
+ Giấy biên nhận tiền ngày 24/01/1994

3. XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HỎI ĐỐI VỚI TƯ CÁCH LÀ LUẬT
SƯ CỦA NGUYÊN ĐƠN
- Hỏi phía Nguyên đơn:
+ Nguyên đơn cho hỏi, hiện nay di sản 777,4 m2 do bà Cúc để lại là do
ai đứng tên?
+ Nguyên đơn cho hỏi, cho đến nay các nguyên đơn đã khai nhận di
sản hay thực hiện các thử tục nào khác về di sản trên chưa?
+ Nguyên đơn cho hỏi, tại sao di sản của nguyên đơn mà bị đơn lại là
người sử dụng?
+ Các ngun đơn có thơng báo địi lại đất khơng? Thơng báo khi nào?
9



+ Bị đơn xây nhà trái phép, có được sự đông ý của nguyên đơn không?
Nếu không, các nguyên đơn đã làm gì?
+ Xin cám ơn
- Hỏi phía Bị đơn:
+ Bị đơn cho hỏi, khi cha mẹ chết thì tài sản có phải để lại cho con cái
hưởng khơng hay cho ai?
+ Theo bị đơn thì chỉ cho con trai hưởng di sản thừa kế hay tất cả các
con đều được hưởng như nhau?
+ Mảnh đất 777,4 m2 trên là của ai trước khi bà Cúc mất?
+ Theo bị đơn, bà Cúc chết thì mảnh đất trên là của chung các con của
bà Cúc đúng không?
+ Theo bị đơn, nếu đã là tài sản chung của nhiều người thì 1 người tự ý
bán khơng hỏi những người cịn lại được không?
+ Như vậy, việc ông Sinh tự ý bán mảnh đất là thừa kế của 4 chị em
cho vợ chồng ông bà có đúng không?
+ Ngày 10/4/1994, UBND xã Phù Vân đã có văn bản đình chỉ việc
chuyển nhượng đất của ơng Sinh và ơng Thun, phía bị đơn có được
thông báo không?
+ Đến thời điểm này, mảnh đất 777,4 m2 vẫn do bà Cúc đứng tên có
đúng khơng?
+ Mảnh đất trên các con của bà Cúc đã thống nhất giao cho bà và
chồng bà quản lý, sử dụng từ khi nào?
+ Họ có lập giấy tờ cho bà khơng?
+ Giấy đó ghi là giấy bán đất, chuyển nhượng đất hay là giấy giao
quyền trong nơm?
+ Ngồi giấy đó ra, 4 chị em họ có lập giấy hay nói là bán đất cho bà,
biếu tặng đất cho bà không?
+ Như vậy, đất trên vẫn là tài sản của 4 chị em họ và họ giao cho bà giữ
đúng không?
+ Tài sản của họ, họ địi lại mà bà khơng chịu trả. Bà có thấy bà sai

khơng?
+ Bà xây căn nhà vào năm nào? có cho các con của bà Cúc biết khơng?
+ Họ có đồng ý cho bà xây khơng?
+ Có phải vì khơng đồng ý nên họ đã kiện bà lên UBND xã?
+ Họ đã khơng đồng ý, có nộp đơn lên UBND xã mà bà vẫn tự ý xây?
+ Xin cám ơn

10


4. XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HỎI ĐỐI VỚI TƯ CÁCH LÀ LUẬT
SƯ CỦA BỊ ĐƠN
- Hỏi phía Bị đơn:
+ Bị đơn cho hỏi, bà Cúc chết khi nào?
+ Khi bà Cúc mất các con bà có mătk khơng? Bao gồm những ai?
+ Bà cho biết chi tiết những việc bà đã làm cho bà Cúc trước và sau khi
bà mất?
+ Ông Sinh về rao bán đất khi nào? Xin bà cho biết chi tiết?
+ Bà đưa tiền ông Sinh lúc nào? Có lập biên bản khơng?
+ Khi được giao quản lý phần đất cịn lại bà đã làm những gì?
+ Bà xây nhà trên phần đất đó vì sao?
+ Xin cám ơn
- Hỏi phía Ngun
đơn: Hỏi ơng Sinh
+ Ngun đơn cho hỏi, ông về quê vào lúc nào sau khi bà Cúc mất?
+ Ơng cịn nhớ vào lúc đó ơng đã làm gi? Ơng có chuyển quyền thừa
kế cho vợ chồng bà Tám không?
+ Mảnh đất 777,4 m2 trên lúc đó là ai đứng tên? Ơng đã thực hiện việc
khai nhận di sản thừa kế chưa?
+ Việc chuyển quyền toàn bộ mảnh đất ơng có thơng báo cho các chị

em khác là đồng thừa kế khơng? Có được họ đồng ý khơng?
+ Sau khi ký giấy chuyển giao ơng có nhận tiền khơng? Ơng có văn
bản khơng?
+ Nhận tiền ơng có chia cho các đồng thừa kế khác khơng? Tại sao?
+ Việc đồng thừa kế giao quyền quản lý di sản cho ơng bà Tám ơng có
biết khơng?
+ Vì sao đã giao quyền thừa kế cho Bị đơn ông lại cịn ký giấy giao
quyền sử dụng cho ơng Chinh?
+ Đến nay ông đã trả lại tiền đã nhận của bị đơn chưa? Nếu chưa trả
sao ông không thực hiện theo đơn chuyển quyền thừa kế đối với phần
thừa kế của mình?
Hỏi đại diện theo uỷ quyền bà Thanh
+ Nguyên đơn cho hỏi, hiện tại bà đang cư trú ở đâu? Bà có thường
xun về thăm mảnh đất đó khơng? Vì sao?
+ Sau khi bà Cúc mất di sản do ai quản lý?
+ Sau khi hết thời hạn 5 năm theo giấy giao quyền sử dụng bà có về coi
lại tình trạng của đất và tài sản trên đất không?
11


+ Bà có nhận tiền từ việc chuyển giao di sản thừa kế của ơng Sinh
khơng?
+ Ơng Sinh đã nhận 500,000đ từ bà Tám nhưng đến nay chưa trả, cũng
không thực hiện việc chuyển giao, bà có ý kiến gì khơng?
+ Xin cám ơn

5. BẢN LUẬN CỨ:
Kính thưa Hội đồng xét xử,
Thưa vị đại diện Viện kiểm soát;
Thưa luật sư đồng nghiệp

Tơi là Luật sư ..............., Văn phịng Luật sư ABC thuộc đồn Luật sư Thành phố Hồ
Chí Minh.
Là Luật sư tham gia phiên tòa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Bà Chu Thị
Thanh, nguyên đơn trong vụ án tranh chấp dân sự với bị đơn là Bà Đinh Thị Tám
được thụ lý giải quyết tại TAND Thành phố Phủ Lý.
Được sự chấp thuận bào chữa của Quý tòa. Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án và phần thủ
tục hỏi tại phiên tịa hơm nay, tơi xin có ý kiến trình bày để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của khách hàng của tơi như sau:
Tơi xin tóm tắt vụ việc như sau:
Ơng Chu Khắc Trường và bà Chu Thị Cúc cư ngụ tại thôn 6 xã Phù Vân, huyện Phủ
Lý, tỉnh Hà Nam. Hai ông bà có 4 người con gồm: Chu Thị Thanh; Chu Thị Loan,
Chu Văn Sinh, Chu Thị The. Lúc sinh thời hai ông bà Trường – Cúc tạo dựng được
một khối tài sản là một ngôi nhà cấp 4 và diện tích đất ở, đất trồng cây ăn trái là
777m2.
Sau khi ông bà mất đi, đất đai và nhà cửa vẫn để lại nguyên hiện trạng, không ai
quản lý. Vào năm 1994, các con của ông Trường và bà Cúc đã họp bàn với nhau và
nhất trí giao phần đất và tài sản gắn liền với đất cho ông Chu Khắc Thuyên (tức Chu
Khắc Kha) quản lý trông nom. Nội dung: “Để có nơi hương khói thờ phụng ơng bà,
cha mẹ tôi cũng là nơi hội tụ anh chị em trong các dịp giỗ tết hàng năm. Sau khi
được ý kiến của nội ngoại chúng tơi nhất trí làm giấy này giao cho quyền sử dụng đất
cho ông Chu Khắc Thuyên. Thời hạn giao 05 năm kể từ ngày 15 tháng 4 năm 1994
đến tháng 15 tháng 4 năm 1999. Người được sử dụng phải có giao ước sau: nhà cửa
tu sửa giữ để ở không để dột nát, đất đai tự sản xuất ra sản phẩm sử dụng và nạp
12


nghĩa vụ với nhà nước (trồng các cây ngắn ngày) không được xây dựng cơ bản như:
làm nhà, đất phải giữ nguyên mặt bằng không được đào khoét. Các cây cối lưu niên
không được chặt phá. Tổng giá trị thu nhập cây lưu niên hàng năm phải có sựchứng
kiến của hai bên nội ngoại. Số tiền đó ơng Chu Khắc Thuyên được hưởng 50% (năm

mươi phần trăm) phần còn lại do bốn chị em bà Thanh sử dụng (mở sổ ở ngân hàng
do bà Chu Thị Thanh đứng tên)”
Ông Chu Khắc Thuyên mất năm 1999, phần tài sản nói trên tiếp tục được vợ ông
Thuyên là bà Định Thị Tám quản lý.
Đến ngày 28/5/2016 bà Đinh Thị Tám tập kết vật liệu chuẩn bị xây nhà trên thửa đất
này thì bị bà Chu Thị Loan, Chu Thị Thanh phát hiện.
Không đồng ý với việc xây cất nói trên nên ơng Sinh có đơn gửi UBND xã Phù Vân
đề nghị giải quyết tranh chấp đất đai giữa bốn chị em ông với bà Đinh Thị Tám.
UBND xã Phù Vân đã tiến hành 2 phiên hòa giải ngày 19/06/2016 và ngày
25/10/2016 nhưng khơng có kết quả. Có lập biên bản hịa giải .
Thưa quý tòa
Căn cứ vào sổ quản lý đất đai của UBND xã Phù Vân và các tài liệu chứng cứ thể hiện
trong hồ sơ vụ án, cũng như sự thừa nhận của các đương sự, có thể khẳng định rằng:
Nguồn gốc đất tranh chấp nói trên bao gồm 777,4 m 2 thửa đất số 40 tờ bản đồ số 2, lập
năm 1998 (bút lục 21) cụ thể: Diện tích nhà ở: 183,4m 2; Diện tích vườn: 384,9 m2 Diện
tích ao: 209,1 m2; là tài sản của ông Chu Khắc Trường và bà Chu Thị Cúc.

Do ông Trường và bà Cúc đã mất, và đều không để lại di chúc. Cho nên căn cứ vào
quy định tại Điều 636, Điểm a Khoản 1 Điều 675, Điểm a Khoản 1 Điều 676 BLDS
thì các con của bà Cúc là đồng thừa kế đối với phần di sản của bà. Từ các căn cứ trên,
ta xác định được các ông bà Chu Thị Thanh, Chu Thị Loan, Chu Thị The và Chu Văn
Sinh là những người có quyền thừa kế đối với phần di sản mà bà Cúc để lại.
Do các ông bà Sinh, Loan, The, Thanh đều đã lập gia đình và sinh sống ở địa phương
khác. Vì vậy, các ơng bà nói trên đã thống nhất giao cho ơng Chu Khắc Thuyên (Chu
Khắc Kha) là bà con, để ông Thuyên trơng nom phần đất đai, tài sản đó.
Cụ thể, các bên được lập văn bản vào ngày 15/4/1994 xác định rõ trách nhiệm cũng
như quyền lợi của ông Thuyên khi trông nom đất đai vườn tược là: “Thời hạn giao 05
năm kể từ ngày 15 tháng 4 năm 1994 đến tháng 15 tháng 4 năm 1999. Người được sử
dụng phải có giao ước sau: nhà cửa tu sửa giữ để ở không để dột nát, đất đai tự sản
13



xuất ra sản phẩm sử dụng và nạp nghĩa vụ với nhà nước (trồng các cây ngắn ngày)
không được xây dựng cơ bản như: làm nhà, đất phải giữ nguyên mặt bằng không
được đào khoét. Các cây cối lưu niên khơng được chặt phá”.
Do đó, việc bà Đinh Thị Tám đang trực tiếp quản lý phần đất đai và tài sản có trên đất
thuộc quyền sở hữu của nguyên đơn được xuất phát từ nghĩa vụ của ông Chu Khắc
Thuyên. Căn cứ vào điểm d khoản 1 điều 639 BLDS thì “người quản lý di sản có
nghĩa vụ giao lại di sản thừa kế theo yêu cầu của những người thừa kế”
Như vậy, khi các đồng thừa kế yêu cầu người quản lý di sản thừa kế giao trả lại di sản
thì họ phải giao trả lại theo đúng quy định của pháp luật về thừa kế. Do đó, việc các
nguyên đơn yêu cầu bà Đinh Thị Tám giao trả phần đất 777 m 2 thửa đất số 40 tờ bản
đồ số 2, lập năm 1998 cụ thể: Diện tích nhà ở: 183,4m 2; Diện tích vườn: 384,9 m2
Diện tích ao: 209,1 m2 là hồn tồn có cơ sở.
Thêm vào đó, Văn bản xác định thời hạn giao quản lý di sản thừa kế là 05 năm
(15/04/1994 – 15/4/1999), hết thời hạn trên thì người quản lý di sản khơng còn quyền
quản lý di sản trên nữa. Việc các đồng thừa kế không yêu cầu giao trả ngay khi hết
thời hạn giao nói trên khơng có nghĩa là di sản thừa kế đó trở thành tài sản thuộc sở
hữu của người quản lý di sản. Do đó, tài sản nói trên đang bị bà Đinh Thị Tám chiếm
hữu trái pháp luật.
Việc bà Đinh Thị Tám dựa vào hợp đồng chuyển nhượng giữa ông Chu Văn Sinh và
ông Chu Khắc Thuyên để nói rằng, tài sản đang tranh chấp là của gia đình bà, là điều
khơng đúng. Bởi vì, ngày 10/4/1994, UBND xã Phù Vân đã có thơng báo về việc tạm
đình chỉ việc chuyên quyền thừa kế giữa chồng bà và ông Sinh, nên văn bản ký kết
giữa 2 người đã khơng cịn có hiệu lực. Ngồi ra, ơng Sinh chỉ là một trong các đồng
thừa kế, nên việc tự định đoạt toàn bộ di sản là trái pháp luật.
Việc bà Tám xây dựng trái phép căn nhà cấp 4 trên mảnh đất trên vào năm 2016 là vi
phạm pháp luật. Do đó, bà Tám phải tháo dỡ đi, trả lại diện tích đất nói trên cho cho
các đương sự. Các đương sự khơng có nghĩa vụ phải bồi thường chi phí tháo dỡ, thiệt
hại do việc tháo dỡ tài sản của bà Tám để trả lại di sản thừa kế cho họ.

Trên cơ sở lập luận nêu trên và các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.
Tơi xin kính đề nghị Hội đồng xét xử xem xét yêu cầu:
1.

Buộc bà Đinh Thị Tám trả lại 777,4 m2 đất trên cho nguyên đơn và các đồng

thừa kế khác, để các con bà Cúc thực hiện việc phân chia di sản thừa kế.
14


2.

Buộc bà Đinh Thị Tám tháo dỡ nhà xây trái phép, trả lại tài sản cho các nguyên

đơn và các người có quyền lợi liên quan.

6.

DỰ THẢO BẢN ÁN:

TỒ ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ PHỦ LÝ
TỈNH HÀ NAM

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập –Tự do- Hạnh phúc

Bản án số: /2017/DS-PT
Ngày:
V/v: Tranh chấp quyền sử

dụng đất.

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ- TỈNH HÀ NAM
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán- Chủ toạ phiên tồ: bà Nguyễn Thị Xun
Các Hội thẩm nhân dân: Ơng Phạm Minh Tường
Bà Trần Thị Kim Oanh
-

Thư ký phiên toà: Ông Đỗ Xuân Lập
Đại diện viện kiểm sát nhân dân Thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam tham
gia phiên toà: bà Nguyễn Thị Thuý Tình – Kiểm sát viên

Ngày tháng năm 2017, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xét
xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 20 /2016/TLST-DS ngày 08 tháng 11 năm 2016
về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:
65 /2017/QĐST-DS ngày 03 tháng 08 năm 2017 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn:
1. Bà Chu Thị Hồng Thanh (tên gọi khác Chu Thị Thanh) sinh ngày 28 tháng
2 1930
Địa chỉ: Tổ 16 Phường Nam Thanh, TP. Điện Biên, tỉnh Điện Biên.
Đại diện theo ủy quyền: Chu Thị Hồng Tâm, sinh năm 1970. ( có mặt)
Địa chỉ: Nhà số 61 tổ 16 Phương Nam Thành, TP. Điện Biên, tỉnh Điện Biên.
15


2. Ơng Chu Văn Sinh, sinh năm 1936. (có mặt)

Địa chỉ: Thơn Vạn Thắng, xã Hịa Thắng, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn.
- Bị đơn: Bà Đinh Thị Tám, sinh năm 1930 (có mặt)
Địa chỉ: Thơn 6, xã Phù Vân, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Chu Thị Loan, sinh năm 1935.
Địa chỉ: Tổ 3 phường Cầu Thía, thị xã Nghĩa Lộ, tỉnh Yên Bái.
Đại diện theo ủy quyền: ông Chu Anh Quyết, sinh năm 1952.
Địa chỉ: Thôn 6, xã Phù Vân, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.
2. Bà Chu Thị The, sinh năm 1944.
Địa chỉ: Đội 1 thôn Diên Điền, xã Bình Hịa, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định.
Đại diện theo ủy quyền: ông Chu Anh Quyết, sinh năm 1952.
Địa chỉ: Thôn 6, xã Phù Vân, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.
3. Ông Chu Khắc Hồng, sinh năm 1956
4. Bà Trần Thị Đắc, sinh năm 1957
5. Bà Chu Thị Mai, sinh năm 1952
Cùng địa chỉ: Thôn 6, xã Phù Vân, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.

NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Tại đơn khởi kiện ngày…, bản tự khai, các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án và
trong quá trình xét xử, đại diện nguyên đơn Chu Thị Hồng Tâm trình bày:
Mảnh đất diện tích 777,4 m2 tại thửa đất số 40 tờ bản đồ số 02 lập năm 2003 tại
thôn 6, xã Phù Vân, huyện Phủ Lý, tỉnh Hà Nam là tài sản của Ông Chu Khác Trường
và bà Chu Thị Cúc. Ơng bà có tất cả 4 người con là mẹ bà là bà Chu Thị Hồng Thanh
(sinh năm 1931), Chu Thị Loan (sinh năm 1934), Chu Khắc Sinh (sinh năm 1939),
Chu Thị The (sinh năm 1944). Ông Trường mất năm 1945, bà Cúc chết năm 1990
không để lại di chúc, di sản thừa kế gồm thửa đất diện tích 777,4 m 2, và tài sản trên
đất bao gồm một số cây lưu niên và 1 căn nhà 4 lợp ngói, 1 bể nước.
Ngày 20/01/1994, ông Chu Khắc Sinh về và lập giấy chuyển nhượng mảnh đất
nói trên cho vợ chồng ơng Chu Khắc Thuyên và bà Đinh Thị Tám với giá trị là
1,500,000đ, và đã nhận 500,000đ vào ngày 24/1/1994. Việc chuyển nhượng khơng có

sự đồng ý của những người đồng thừa kế khác. Ngày 4/4/1994 mẹ bà và bà Chu Thị
The đã làm đơn khiếu nại gởi UBND xã Phù Vân về giao dịch trên. Ngày 10/04/1944,
UBND xã Phù Vân ra Thông báo số 05/TB-UB tạm đình chỉ việc chuyển nhượng nói
trên giữa ông Sinh và vợ chồng ông Thuyên.
16


Ngày 15/04/1994, chị em bà đã thống nhất giao mảnh đất trên cho ông Thuyên
và bà Tám trong nom, quản lý. Thời hạn giao 05 năm kể từ ngày 15 tháng 4 năm 1994
đến tháng 15 tháng 4 năm 1999. Người được sử dụng phải có giao ước sau: nhà cửa
tu sửa giữ để ở không để dột nát, đất đai tự sản xuất ra sản phẩm sử dụng và nạp
nghĩa vụ với nhà nước (trồng các cây ngắn ngày) không được xây dựng cơ bản như:
làm nhà, đất phải giữ nguyên mặt bằng không được đào khoét. Các cây cối lưu niên
không được chặt phá. Tổng giá trị thu nhập cây lưu niên hàng năm phải có sự chứng
kiến của hai bên nội ngoại. Số tiền đó ơng Chu Khắc Thuyên được hưởng 50% (năm
mươi phần trăm) phần còn lại do bốn chị em bà sử dụng (mở sổ ở ngân hàng do bà
Chu Thị Thanh đứng tên).
Trên cơ sở đó, di sản trên được vợ chồng ơng khun và bà Tám quản lý, sử dụng
và nộp thuế từ năm 1990 đến nay. Ngày 22/11/2001 ông Sinh giao mãnh đất trên cho
Trưởng họ nội là ông Chu Khắc Chinh quản lý. Tháng 5 /2016 bà Tám tiến hành xây
dựng không phép 01 ngôi nhà cấp 4 trên mảnh đất kể trên. Ngày 12/10/2016, do không
đồng ý với việc xây cất trên nên ơng Sinh có đơn gửi UBND xã Phù Vân đề nghị giải
quyết tranh chấp đất đai của bố mẹ ông với bà Đinh Thị Tám. Trên cơ sở đó mẹ bà và
ơng Sinh khởi kiện u cầu bà Tám trả lại 777,4 m 2 đất cho 4 chị em bà.

Ngun đơn là ơng Chu Văn Sinh trình bày:
Nhất trí lời khai của chị Tâm, nay quan điểm của tôi: yêu cầu bà Tám trả lại
777,4 m2 đất cho 4 chị em tôi. Các chị em không tranh chấp về hang thừa kế và đều
xác định nhận di sản chung chưa chia. Phần tài sản trên đất của bà Tám yêu cầu bà
Tám tự tháo dỡ trả lại đất. Việc bà Tám và con bà Tám nộp thuế với nhà nước thì đây

là trách nhiệm của gia đình bà Tám về theo thoả thuận gia đình bà Tám hưởng hoa lợi
phải nộp thuế.
Theo quá trình tố tụng bị đơn bà Đinh Thị Tám trình bày:
Bà Cúc chết khơng có đi chúc để lại cho ai. Tất cả các cơng việc của bà, trơng
nom chăm sóc bà tồn bộ là nhờ đến con trai bà là Chu Khắc Hồng, con dâu là Trần
Thị Đắc. Bà Cúc mất năm 1990 đến năm 1994 Chu Khắc Sinh mới về tìm người bán
đất, cây cối. Ơng Sinh nhất chí chuyển quyền thừa kế toàn bộ số tài sản cho vợ chồng
bà Tám, biên bản có chữ ký của Trưởng họ, trưởng thơn UBND xã Phù Vân. Nay tuổi
già bà xây nhà trên đất do mình được chuyển nhượng nhưng ơng Sinh và bà Thanh
cho rằng bà chiếm dụng trái phép nên khởi kiện yêu cầu bà phải tháo dở và trả lại
mảnh đất 777,4 m2 bà không đồng ý.
17


Bà yêu cầu Toà án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam không chấp nhận
yêu cầu của Nguyên đơn do Luật đất đại 1990 chưa quy đinh quyền thùa kế đất đai.
Đất vẫn thuộc sở hửu toàn dân, điểm a khoản 1 Điều 1 Nghị quyết 02/HĐTP/1990 có
quy đinh đất đai không phải là di sản thừa kế. Bà Tám đã sử dụng lâu dài không tranh
chấp và được cơ quan có thẩm quyền cấp GCNQSDĐ do đó u cầu bà khơng phải
tháo dở tránh gây lãng phí và có được nhà để hưởng tuổi già.
Đại diện viện kiểm sát nhân dân Thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam phát biểu ý
kiến về việc giải quyết vụ án:
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký
phiên toà đã chấp hành đúng quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự. Đối với việc chấp
hành pháp luật của người tham gia tố tụng các đương sự đã thực hiện đúng quy định.
Về nội dung giải quyết vụ án: Đề nghị hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của bà Chu Thị Thanh và ôn Chu Văn Sinh; Buộc bà Đinh Thị Tám phải trả lại
cho Nguyên đơn và các Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác phần diện tích
đất là di sản thừa kế của bà Cúc cho các đồng thừa kế.
Không chấp nhận yêu cầu của bà Đinh Thị Tám.


NHẬN ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN
Qua nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tồ,
lời trình bày của đương sự, căn cứ vào kết quả tranh tụng, xét yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn, đề nghị của Kiểm sát viên. Hội đồng xét xử nhận định:
1. Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết:
Căn cứ vào đơn khởi kiện của bà Chu Thị Thanh và ông Chu Văn sinh vụ án có
quan hệ pháp luật “ Tranh chấp quyền sử dụng đất”, bị đơn bà Đinh Thị Tám có nơi
cu trú tại Thơn 6, xã Phù Vân, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam nên vụ án thuộc thẩm
quyền giải quyết của Toà án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam theo quy định
tại khoảng 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39 của Bộ luật
Tố tụng dân sự;
2. Về nội dung tranh chấp:
Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Chu Thị Thanh và ông Chu Văn Sinh,
yêu cầu phản tố của bị đơn bà Đinh Thị Tám, Hội đồng xét xử nhận định:

18


(1)

Phần đất tranh chấp qua đo đạt thực tế có diện tích 488 m 2 (trong đó:

360 m2 đất thổ cư, 128 m2 đất thổ canh), 289 m2 đất ao do UBND xã Phù Vân quản lý
vì vậy khơng có tranh chấp. Đất có nguồn gốc căn cứ bản đồ địa chính xã Phù Vân
lập năm 1996 tại tờ bản đồ số 3, thửa đất số 112, diện tích 448 m 2 do bà Chu Thị Cúc
đứng tên quyền sử dụng đất. Bà Cúc mất không để lại di chúc, nên hàng thừa kế thứ
nhất bao gồm bà Chu Thị Hồng Thanh (sinh năm 1931), Chu Thị Loan (sinh năm
1934), Chu Khắc Sinh (sinh năm 1939), Chu Thị The (sinh năm 1944) là các con của
bà Cúc được hưởng di sản thừa kế. Ngày 15/04/1994, đồng thừa kế đã thống nhất

giao mảnh đất trên cho ông Chu Khắc Thuyên và bà Đinh Thị Tám trong nom, quản
lý. Đến nay việc kê khai, phân chia di sản chưa được thực hiện, giấy chứng nhận
quyên sử dụng đất trên vẫn do bà Cúc đứng tên, nên bà Thanh và ông Sinh khởi kiện
yêu cầu bà Đinh Thị Tám phải tra lại đất đã quản lý có diện tích 448 m 2 là có căn cứ
nên được chấp nhận một phần.
(2) Xét trình bày của bà Đinh Thị Tám đã sử dụng lâu dài khơng tranh chấp
và được cơ quan có thẩm quyền cấp GCNQSDĐ do đó u cầu bà khơng phải tháo dở
tránh gây lãng phí và có được nhà để hưởng tuổi già; Xét thấy, Luật đất đại 1990 chưa
quy đinh quyền thùa kế đất đai. Đất vẫn thuộc sở hửu toàn dân, điểm a khoản 1 Điều
1 Nghị quyết 02/HĐTP/1990 có quy đinh đất đai khơng phải là di sản thừa kế. Đến
nay bà Tám đã sử dụng ổn định lâu dài và được cấp GCNQSDĐ theo Điều 101 Luật
đất đai 2013, nên việc bà Tám bác yêu cầu của Nguyên đơn là có căn cứ nên được
chấp nhận.
(3) Ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Phủ Lý,
tỉnh Hà Nam phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
(4) Chị phí tố tụng: Chị phí đo đạc, định giá nguyên đơn ông Chu Văn Sinh
tự nguyện chịu, đã được quyết tốn xong nên khơng đề cập.
(5) Các bên đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 273
của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Các đương sự khơng tranh chấp và khơng có u cầu nào khác nên không đề
cập xem xét.
Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Chu Thị Thanh và ông Chu Văn Sinh
được chấp nhận một phần, yêu cầu phản tố của bị đơn bà Đinh Thị Tám được chấp
nhận một phần nên nguyên đơn và bị đơn chịu một phần án phí dân sự sở thẩm theo
quy định tại Điều 27 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tồ án năm 2009; Điều 12, 27, Điều 48
Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội
19


quy đinh về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tồ

án;
Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39,
Điều 34, Điều 147, 165, Điều 235, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụn dân sự; Điều
50, 105, 107, 136 Luật đất đai năm 2003; Điều 26, 95, 100, 166, 203 Luật đất đai
2013; Điều 636, Điểm a Khoản 1 Điều 675, Điểm a Khoản 1 Điều 676, Điều 688
BLDS 2005; Điều 8, 166 Bộ luật Dân sự 2015;
Điều 27 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tồ án năm 2009; Điều 12, 27, Điều 48 Nghị
quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy
đinh về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tồ án;
Tun xử:
1. Khơng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Chu Thị Thanh, và ông Chu Văn
Sinh.
Bà Đinh Thị Tám không phải có nghĩa vụ trả lại cho bà Thanh, ơng Sinh và các
đồng thừa kế khác phần đất có diện tích 777,4 m2, bản đồ địa chính xã Phù Vân lập
năm 1996 tại tờ bản đồ số 3, thửa đất số 112, diện tích 448 m2 do bà Chu Thị Cúc
đứng tên quyền sử dụng đất.
Bà Đinh Thị Tám được tiếp tục sử dụng căn nhà cấp 4 xây trên phần đất 777 m2,
chi phí do bà Tám tự gánh chịu.
2.Chi phí tố tụng: Chi phí đo đạc, định giá nguyên đơn ơng Chu Văn Sinh tự chịu,
đã được quyết tốn xong nên khơng đề cập.
3.Án phí dân sự sơ thẩm: tổng tiền án phí dân sự sơ thẩm là 15,790,600 đồng
(Mười lăm triệu bảy trăm chín mươi nghìn sáu trăm đồng) (6,040,000 giá trị hoa màu
+309,772,800 giá trị đất, bút lục 90-91), bà Chu Thị Thanh, và ông Chu Văn Sinh
phải có nghĩa vụ chịu tồn bộ là 15,790,600 đồng (Mười lăm triệu bảy trăm chín
mươi nghìn sáu trăm đồng);
4.Quyền kháng cáo: Các đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời
hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Các đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án

trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án sơ thẩm hoặc kể từ ngày Toà án
tống đạt hợp lệ.
20


Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người
được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành
án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án
theo quy định tại các Điều 6, Điều 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự. Thời
hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
-TAND tỉnh Hà Nam;
-VKSND thành phố Phủ Lý;
-CCTHADS thành phố Phủ Lý;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án, VP;

TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN- CHỦ TOẠ PHIÊN TOÀ
(đã ký)
Nguyễn Thị Xuyên




×