Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

TIỂU LUẬN kết THÚC học PHẦN môn NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG về LUẬT dân sự, tài sản và THỪA kế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.98 KB, 27 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT DÂN SỰ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT
TP. HỔ CHÍ MÌNH

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
MƠN:
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ LUẬT DÂN SỰ, TÀI SẢN VÀ THỪA KẾ.

ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN:
ÁP DỤNG ÁN LỆ TRONG PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM

Người thực hiện: GIANG THỊ THU THẢO
MSSV: 2053801012240
Lớp: DS45.3


MỤC LỤC

1.1.1
1.1.2
Thực tiễn áp dụng án
vụ án dân sự ở Việt Nam... 10

lệ trong giải quyết

các

CHƯƠNG 3: ĐỀ XUẤT CÁCH THỨC NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ÁN LỆ VÀ


ÁP DỤNG ÁN LỆ TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM
..................................................................................................................................... 13
3.1.
3.2.


3.3.

DANH MỤC VIẾT TẮT:

3.4. BLDS: Bộ luật dân sự
3.5. LDS: Luật dân sự
3.6. BLTTDS: Bộ luật tố tụng dân sự
3.7. TTDS: Tố tụng dân sự
3.8. TAND: Tòa án nhân dân
3.9. TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao
3.10. VKSNDTC: Viện kiểm sát nhân dân tối cao


4

3.11. MỞ ĐẦU
3.12.

Lý do chọn đề tài

3.13.

Một đất nước phát triển bền vững phải là một đất nước có sự tăng trưởng liên tục và
vững

chắc
về kinh tế, có sự ổn định về an sinh xã hội, cùng nền văn hóa năng động. Và quan trọng hơn hết, quy
định về thực hiện pháp luật chặt chẽ và nghiêm túc chính là một yếu tố quyết định trong việc phát
triển và xây dựng đất nước. Pháp luật không chỉ là một công cụ quản lý Nhà nước mà cịn tạo mơi
trường thuận lợi cho sự phát triển của ý thức đạo đức, làm lành mạnh hố đời sống xã hội. Trong
cơng
cuộc đổi mới đất nước hiện nay, việc tăng cường vai trò của pháp luật được đặt ra như một tất yếu
khách quan.
3.14.

Việc áp dụng pháp luật ở nước ta hiện nay đang được Nhà nước thực hiện rất nghiêm
chỉnh

hướng đến sự công bằng, tức những vụ án giống nhau phải được xử một cách giống nhau. Khi cuộc
sống của loài người không ngừng tiến bộ, các sản phẩm về giá trị cuộc sống, giá trị tinh thần cũng
nâng cao và theo đó sự phát triển khơng ngừng của kinh tế - xã hội đã làm phát sinh, thay đổi các
quan
hệ xã hội, đòi hỏi các quy phạm pháp luật phải thay đổi để điều chỉnh cho phù hợp. Nhiều vụ án với
những tình tiết phức tạp, đa dạng xuất hiện mà trong các văn bản quy phạm pháp luật không quy
định
rõ đã tạo nên lỗ hổng trong hệ thống pháp luật. Lúc này, án lệ chính là lựa chọn đầu tiên để “trám” lỗ
hổng ấy và điều chỉnh các quan hệ xã hội mới phát sinh mà pháp luật chưa thể điều chỉnh hay những
mâu thuẫn, thiếu sót của hệ thống pháp luật.
3.15.

Ngày nay, án lệ đang đang ngày càng thể hiện được tầm quan trọng của mình đối với
hệ
thống
pháp luật của mỗi quốc gia. Việc áp dụng án lệ trong q trình xét xử tạo ra được sự cơng bằng và
bình đẳng trước pháp luật; giảm thiểu được oan sai trong hoạt động xét xử; giúp các chủ thể làm luật

phần nào biết trước kết quả của vụ án, vụ việc mà mình đang theo đuổi; thêm vào đó cịn giúp giảm
bớt chi phí về cơng sức, thời gian và tiền bạc trong quá trình xét xử.
3.16.

Việc áp dụng án lệ trong pháp luật dân sự càng cần phải được chú trọng hơn bởi vì các
quan
hệ
pháp luật dân sự rất phong phú, đa dạng về chủ thể, khách thể, nội dung, cách thức phát sinh.. .mà
các
văn bản quy phạm pháp luật khơng thể quy định đầy đủ và trọn vẹn.
3.17.
Chính
vìhiểu
nhận
Nam
thấy
tầm
quan
của
việc
áp dụng
án lệđề
trong
pháp
và muốn
dụng
án
lệ
tìm
trong

pháp
sâu
hơn
về
đề
này
nên
đã
quyết
định chọn
tài “Áp
luật
dân
sự
Việt
Nam”
làmđược
đề vấn
tài
cho
tiểutrọng
luậnem
của
mình.


3.18. NỘI DUNG
3.19. CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ÁN LỆ
1.1.
1.1.1.


Khái quát về án lệ
Khái niệm án lệ

3.20. Trong tiếng Anh, án lệ là "precedent”, thuật ngữ này phát sinh từ hệ thống thông luật
(common
law) với hệ thống quan điểm lý luận pháp lý khác biệt hẳn với hệ thống dân luật (civil law). Vì vậy,
án lệ sẽ không dễ dàng để được tiếp nhận đối với các luật gia, nhà nghiên cứu ở các nước thuộc hệ
thống dân luật.
3.21. Án lệ được hiểu bao gồm toàn bộ các quyết định, bản án được tuyên bố bởi Tịa án và

giá
trị là nguồn của luật, là nền tảng áp dụng cho các vụ việc xảy ra sau này.
3.22. Có nhiều quan điểm nêu lên khái niệm của án lệ:
3.23. Theo từ điển Black’s Law thì án lệ được hiểu như sau: “An lệ là việc làm luật của tịa
án
khi
cơng nhận và áp dụng các quy tắc mới trong quá trình xét xử; vụ việc đã được giải quyết làm cơ sở
để đưa ra phán quyết cho những trường hợp có tình tiết hoặc vấn đề tương tự sau này’”. 1
3.24. Từ điển Luật học của Anh đưa ra một định nghĩa về án lệ đó là: “Bản án hoặc quyết
định
được
2
nêu ra để chứng minh cho một quyết định trong một vụ việc gần tương tự sau đó’”.
3.25. Tại Mỹ, án lệ cũng được định nghĩa là: “một quyết định xét xử mà ở đó tạo ra một quy
tắc
với
vai trò là điểm quy chiếu để quyết định những vụ án sau này có cùng tình tiết hoặc vấn đề pháp
lý””.3
3.26. Ở Việt Nam, khái niệm án lệ cũng được đề cập ở nhiều nguồn khác nhau.

3.27. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam thì án lệ được hiểu là: “Quyết định hoặc bản án của
tịa
cấp trên có giá trị bắt buộc đối với tòa cấp dưới; tòa phá án cũng phải tơn trọng quyết định trước đó
của bản thân mình””!4 Theo Từ điển Luật học, án lệ lại được định nghĩa: “Bản án đã tuyên hoặc một
1Black’s Law Dictionary, 5th Edition, tr. 1059, 1979.
2Dictionary of law, 4th Edition, printed and published in England, 1993.
3 Bryan A - Garner, Black’s Law Dictionary, 9th Edition, tr.1295, 2004.

4Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Từ điển bách khoa Việt Nam, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội, 2001.


sự giải thích, áp dụng pháp luật được coi như một tiền lệ làm cơ sở để các Thẩm phán sau đó có thể
áp dụng trong các trường hợp tương tự”.5
3.28. Và ở Nghị quyết 04/2019/NQ-HĐTP về áp dụng án lệ đã chính thức ghi nhận: “Án lệ

những
lập luận, phán quyết trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án về một vụ việc cụ
thể được Hội đồng Thẩm phán TANDTC lựa chọn và được Chánh án TANDTC cơng bố là án lệ để
các Tịa án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử”.6

5Viện Khoa học pháp lý, Từ điển Luật học, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội, 2006.
6Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân tối cao, Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP ngày 18/06/2019 Nghị quyết về quy trình lựa
chọn, cơng bố và áp dụng án lệ, Hà Nội, 2015.


1.1.2.

Đặc điểm của án lệ

3.29. Một số đặc điểm cơ bản của án lệ:

3.30. Thứ nhất, án lệ là sản phẩm do tịa án tạo ra trong qua trình xét xử nên nguồn luật án lệ
còn
được gọi là luật được hình thành từ vụ việc ("case law”) hay luật do Thẩm phán ban hành ("judge
make law”). Điều này phù hợp với xu hướng tạo lập án lệ trên thế giới.
3.31. Thứ hai, phải được Hội đồng Thẩm phán TANDTC thông qua và Chánh án TANDTC
công
bố. Đây cũng là đặc điểm rất đặc trưng của án lệ ở Việt Nam; điều này nhằm đảm bảo sự chặt chẽ,
thống nhất trong ban hành và áp dụng án lệ. Việc thông qua án lệ được tổ chức bởi phiên họp toàn thể
Hội đồng Thẩm phán TANDTC.7
3.32. Thứ ba, án lệ được hình thành phải mang tính mới. Tức đây là quy tắc chưa từng có
trước đó.
3.33. Thứ tư, án lệ phải chứa đựng cách thức chung và quan điểm chung khi giải quyết các vụ
việc,
tức kỹ thuật xây dựng và vận hành phải dựa vào yếu tố tương tự, lặp đi lặp lại. Bản án và các quyết
định được công nhận là án lệ được các Thẩm phán sau này khi giải quyết một vụ việc cần phải xác
định và đánh giá lý lẽ tương tự, nếu vụ việc này tương tự thì sẽ áp dụng lý lẽ trong bản án trước để
giải quyết vụ việc hiện tại, nếu khơng tuơng tự thì không áp dụng.
1.1.3.
3.34.

Ưu và nhược điểm của án lệ
a) Về mặt ưu điểm:

3.35. Thứ nhất, án lệ mang tính thực tiễn cao. Nghĩa là dựa vào thực tiễn, tập trung vào việc
giải
quyết những vấn đề cụ thể của đời sống thực tế chứ không phải giải quyết vấn đề bằng các lý thuyết
chung chung trừu tượng. Tính thực tiễn của án lệ biểu hiện ở hai điểm: các lý lẽ tạo ra án lệ mang
tính
nhân tạo chứ khơng mang tính tự nhiên, và các luật gia cố gắng giải thích tinh thần của pháp luật hơn
là hình thức từ ngữ của pháp luật. 7 8 Thay vì xuất phát từ những lý thuyết sng, thì án lệ gần gũi và

thực tế hơn đồng thời mang tính mềm dẻo, linh hoạt hơn so với các nguồn luật thành văn.
3.36. Thứ hai, án lệ góp phần bổ sung cho những thiếu sót, những lỗ hổng của pháp luật
thành
văn một cách nhanh chóng và kịp thời. Bởi lẽ, đời sống xã hội luôn vận động, phát triển dẫn đến phát
sinh nhiều vấn đề khó giải quyết; cịn các quy phạm trong các văn bản pháp luật mang tính ổn định,
7
Châu Hồng Thân, “Cấu trúc và áp dụng án lệ ở Việt Nam hiện nay” Tạp chí Kiểm sát số 23, tr. 22, 2016.
8
Đỗ Thanh Trung, “Án lệ: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” Tạp chí Khoa học pháp lý số 4, tr. 20-26, 2012.


dẫn đến hệ quả là luật pháp có thể lạc hậu và thiếu hụt để giải quyết các vấn đề của cuộc sống.
3.37. Thứ ba, án lệ thể hiện tính khách quan, công bằng và chống oan sai. Những lập luận,
phán
quyết có tính chuẩn mực của Tồn án trong một vụ việc cụ thể được vận dụng để giải quyết một vụ
việc cụ thể khác, bảo đảm rằng những vụ việc như nhau được giải quyết giống nhau, đảm bảo áp
dụng
thống nhất pháp luật trong xét xử đồng thời phòng chống tham nhũng trong ngành tư pháp.


3.38. Thứ tư, án lệ góp phần nâng cao trình độ chun mơn cũng như kích thích khả năng
sáng
tạo
và lập luận của các Thẩm phán. Các án lệ cũng đóng góp quan trọng trong việc thiết lập các biện
pháp
bảo đảm các quyền của công dân trong quan hệ tố tụng.
3.39.

b) về mặt nhược điểm:


3.40. Mặc dù, nguồn luật án lệ có những ưu điểm đáng kể như đã phân tích ở trên, nhưng học
thuyết
án lệ vẫn tồn tại những hạn chế nhất định:
3.41. Thứ nhất, án lệ khơng mang tính thống nhất và hệ thống cao như nguồn văn bản. Điều
này
đã
gây ra trở ngại trong nhận thức và áp dụng pháp luật thống nhất. Điều khó khăn nhất là xác định các
quy tắc, suy luận và tìm kiếm chúng trong lời lẽ của các thẩm phán được ghi lại trong bản án khi giải
quyết một vụ việc cụ thể với nhiều tình tiết phức tạp. Trong một số trường hợp khó có thể phân biệt
được giữa phần nào là quy tắc, lý lẽ bắt buộc và phần nào là lý lẽ tham khảo trong án lệ để mang ra
áp dụng.
3.42. Thứ hai, số lượng án lệ tăng nhiều qua các năm. Các bản án là án lệ tăng liên tục theo
thời
gian
đã gây ra khó khăn trong q trình vận dụng án lệ. Với khối lượng án lệ ngày càng đồ sộ đã làm cho
các Thẩm phán, Luật sư ngày càng khó khăn hơn trong việc tìm kiếm các quy tắc thích hợp để giải
quyết các vụ việc cụ thể.
3.43. Thứ ba, hệ thống án lệ không ổn định. Mặc dù án lệ được áp dụng linh hoạt, thực tế
song
trong
một vài trường hợp các thẩm phán, luật sư lại né tránh áp dụng tiền lệ bằng cách đưa ra các tình tiết
khác biệt, do đó dẫn đến sự bất ổn định của hệ thống án lệ. Bên cạnh đó, nếu sử dụng nguồn luật án
lệ sẽ dẫn đến tình trạng hồi tố.
3.44. Thứ tư, án lệ khá cứng nhắc vì trong q trình xét xử các vụ án khơng hồn tồn giống
nhau
mà có những tình tiết khác biệt nhưng Thẩm phán buộc phải tuyên theo tiền lệ trước đó. Điều đó
khiến
cho các Thẩm phán mất đi khả năng sáng tạo mà dần bị lệ thuộc, vô cảm và áp dụng một cách máy
móc các quy định trong án lệ vào các vụ việc cụ thể.
3.45.


1.2. Án lệ trong lịch sử pháp luật Việt Nam

3.46. Trong thời kỳ phong kiến của Việt Nam, đã có những bộ luật ra đời như Luật Gia Long

Luật
Hồng Đức. Tuy nhiên, thời điểm đó khái niệm “án lệ” vẫn chưa hình thành.


3.47. Trong thời kỳ Pháp thuộc, cụ thể là những năm từ 1858 đến 1945, án lệ chủ yếu được
sử
dụng
trong đào tạo, giảng dạy luật tại Miền nam Việt Nam. Lúc bấy giờ, các quan hệ xã hội đa dạng và
phức tạp, các văn bản pháp luật thành văn là không đủ để điều chỉnh, giải quyết tất cả các vấn đề phát
sinh, vì vậy khi xét xử các Thẩm phán cũng cần đến các án lệ.
3.48. Từ sau năm 1945, từ “án lệ” đã được sử dụng trong các văn bản pháp luật phổ biến hơn.
Một
số văn bản luật đề cập đến “án lệ” như:


3.49. Tại thơng tư của Chính phủ số 442/TTg, ngày 19-1-1955 về trừng trị một số loại tội
phạm,
đã
nêu: “Tới nay, các tịa án căn cứ vào những văn bản nói trên và chính sách trừng trị của Chính
phủmà xét xử đem lại kết quả tốt cho việc bảo vệ trật tự, an ninh. Kinh nghiệm xét xử về một số loại
tội
phạm đã được trở thành án lệ. Tuy nhiên, án lệ ấy còn khác nhau giữa các địa phương, do đó đường
lối xét xử khơng được thống nhất. Cần phải thống nhất những án lệ ấy trong qui định chung sau đây
để hướng dẫn các Tòa án trừng trị một số tội phạm thông thường... ”.
3.50. Tại Thông tư số 19-VHS ngày 30-6-1955 của Bộ Tư pháp về việc áp dụng luật lệ, có

nêu:
“Nếu
chỉ có luật hình sự cũ, chưa có sắc lệnh mới, mà xét thấy cần trừng phạt, thì cũng khơng viện dẫn
luật
hình sự cũ, Tịa án sẽ căn cứ vào đường lối truy tố xét xử, vào các yêu cầu chung và cụ thể đối với
từng sự việc, vào án lệ””.
3.51. Tại Chỉ thị số 772-TATC, ngày 10-7-1959 của TANDTC về vấn đề đình chỉ áp dụng
luật
pháp
cũ của đế quốc, phong kiến, đã nêu: “Để xét xử các cụ án hình sự và dân sự, cần áp dụng luật pháp
của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa đã ban hành từ trước đến giờ, đường lối, chính sách của Đảng
và Chính phủ, án lệ của các Tịa án, của Tịa án Tối cao””.
3.52. Có thể thấy thời điểm từ sau năm 1945 đến trước năm 1960, từ án lệ đã tồn tại và được
sử
dụng trong các văn bản pháp lý chính thức, cơng khai trên các tạp chí chuyên ngành. Tuy nhiên từ
sau
năm 1960, khái niệm án lệ khơng được sử dụng nữa mà thay vào đó là thuật ngữ “luật lệ”.
3.53. Sau khi thống nhất đất nước năm 1975, Việt Nam đi theo con đường xã hội chủ nghĩa

vậy
hệ thống lý luận pháp lý tiếp nhận từ hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa. Trong đó văn bản pháp luật
thành văn ln được coi là nguồn luật chủ yếu. Nhưng cũng công nhận án lệ là một nguồn để áp
dụng,
gần đây nhất là Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP ngày 18/06/2019 Nghị quyết về quy trình lựa
chọn,
cơng bố và áp dụng án lệ. Việc Quốc hội nước ta ban hành một Nghị quyết quy định riêng về án lệ
cho thấy được tầm quan trọng của án lệ trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay.


3.54. CHƯƠNG 2: ÁP DỤNG ÁN LỆ TRONG PHÁP LUẬT DÂN Sự VIỆT NAM

2.1.

Sự cần thiết áp dụng án lệ trong giải quyết các vụ án dân sự ở Việt Nam

3.55. Các loại nguồn để giải quyết tranh chấp dân sự ở Việt Nam hiện nay về cơ bản tương tự
các
loại nguồn của hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung. Theo đó, hoạt động giải quyết tranh chấp dân
sự trong thời gian qua đang dựa trên những loại nguồn cơ bản đó là: luật thành văn và tập quán pháp.
Đây là những loại nguồn truyền thống, không chỉ Việt Nam mà các nước trên thế giới đều đang áp
dụng rộng rãi và phổ biến.
3.56. Đối với nước ta hiện nay, luật thành văn giữ vai trị là nguồn chính yếu và chủ đạo
trong
hệ
thống các các loại nguồn nhằm giải quyết tranh chấp dân sự. Một số nguồn là nguồn thành văn đang
được áp dụng giải quyết là: Hiến pháp; BLDS; BLTTDS; Luật Tổ chức TAND; cùng một số đạo luật
tiêu biểu hỗ trợ cho LDS và TTDS đó là: Luật hơn nhân và gia đình, Luật doanh nghiệp, Luật đất
đai,..Bên cạnh đó cịn áp dụng một số văn bản dưới luật là các Pháp lệnh, Nghị quyết, Nghị định,
Thông tư,... Đối với nguồn Tập quán pháp, tuy không giữ vai trò chủ đạo như nguồn thành văn
nhưng
Tập quán pháp có giá trị tương đối hiệu quả trong cơng tác giải quyết các vụ án dân sự. Việc xem
Tập
quán pháp là nguồn đề giải quyết tranh chấp là phương pháp hữu hiệu làm mềm mỏng hóa các nguồn
thành văn khơ khan, cứng nhắc.
3.57. Tuy đã có hệ thống nguồn luật để áp dụng giải quyết các vụ án dân sự tương đối đầy đủ

mang tính hệ thống cao, xong dù được xây dựng cẩn thận và kỹ lưỡng đến đâu cũng khơng thể dự
đốn được những tình huống sẽ xảy ra trong tương lai và chắc chắn pháp luật dù cố gắng đến mấy
vẫn
luôn tồn tại những khoảng trống và lỗ hổng. Bởi lẽ, LDS chính là đạo luật gần nhất với đời sống con
người trong xã hội. Trong khi đó, tranh chấp dân sự với bản chất là những mâu thuẫn, bất đồng về

quyền, lợi ích và nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản giữa các chủ thể, là
những
mâu thuẫn bất biến trong xã hội, ln phát sinh mn hình vạn trạng. Một khi tranh chấp dân sự nảy
sinh, đòi hỏi phải có giải quyết tranh chấp dân sự để bình ổn xã hội. Tuy nhiên, để đáp ứng được nhu
cầu giải quyết tranh chấp, các giải pháp từ luật thành văn là chưa đủ, nhà làm luật cần khai thác loại
nguồn linh hoạt hơn, dễ thích nghi và dễ bắt kịp với nhịp độ phát triển xã hội. Nếu muốn giải quyết
tranh chấp trên thì địi hỏi các đạo luật cần đợi việc sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật
- điều mà không phải lúc nào cũng được thực hiện một cách nhanh chóng và dễ dàng. Chính vì vậy,
án lệ là nguồn luật phù hợp nhất để bổ trợ cho sự thiếu xót của luật thành văn. Với sự tồn tại của án
lệ, các Thẩm phán không thể từ chối giải quyết với lý do: “chưa có điều luật để áp dụng” bảo đảm sự


công bằng, và không phải chịu bất lợi của công dân.
3.58. Án lệ tồn tại giúp cho hệ thống pháp luật nước ta trở nên hoàn thiện và đầy đủ hơn.
Giúp
giải
quyết kịp thời được các vụ án dân sự phát sinh ngày càng nhiều trong đời sống. Bên cạnh đó, trong
xu hướng hội nhập quốc tế, các nước trên thể giới đều đang phát triển án lệ đó cũng là những kinh
nghiệm cho Việt Nam để tiếp nối và học hỏi trong phát triển án lệ nước nhà. Có thể nói rằng, việc áp
dụng án lệ trong pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật dân sự Việt Nam nói riêng hiện nay là
hết sức cần thiết, thậm chí là cấp thiết.


2.2.
2.2.1

Thực trạng áp dụng án lệ trong giải quyết các vụ án dân sự ở Việt Nam
Khái quát thực trạng

3.59. Án lệ đã và đang từng bước đi vào đời sống pháp lý của nước ta, phát huy hiệu quả và

được
đón nhận tích cực. Các án lệ được cơng bố đã phần nào đáp ứng mong đợi của người dân đặc biệt là
những người làm công tác pháp luật. Các án lệ đã góp phần khắc phục được các khiếm khuyết của
pháp luật, tạo tính ổn định, minh bạch trong các phán quyết của Tòa án.
3.60. Kể từ khi ban hành Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP ngày 28/10/2015 về quy trình
lựa
chọn,
cơng bố và áp dụng án lệ đến nay, TANDTC đã cơng bố được 43 án lệ, trong đó có 07 án lệ về hình
sự, 23 án lệ về dân sự, 08 án lệ về kinh doanh, thương mại, 01 án lệ về lao động, 02 án lệ về tố tụng
dân sự, 02 án lệ về tố tụng hành chính. Ngay sau khi án lệ được cơng bố, các Tịa án đã chủ động
nghiên cứu để viện dẫn, áp dụng án lệ khi giải quyết các vụ việc tương tự; phân tích, viện dẫn án lệ
trong các bản án, quyết định; bảo đảm những vụ việc có tình tiết, sự kiện pháp lý giống nhau phải
được giải quyết như nhau; qua đó bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử tại các Tòa án.
Theo số liệu thống kê đến ngày 30/9/2021, đã có gần 1200 bản án, quyết định của các Tòa án đã viện
dẫn, áp dụng án lệ. Đây là minh chứng cho thấy sau 5 năm triển khai thực hiện, án lệ đã thực sự đi
vào đời sống pháp lý của đất nước, phát huy hiệu quả và được đón nhận tích cực; góp phần tạo bước
ngoặt quan trọng trong cải cách tư pháp, trong thực hiện vai trị bảo vệ cơng lý, thực hiện quyền tư
pháp của TAND và trong xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật.
2.2.2

Các quy định của pháp luật về án lệ

3.61. Luật tổ chức TANDTC năm 2014 quy định về án lệ như sau: Hội đồng Thẩm phám
TANDTC
có thẩm quyền “lựa chọn quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán TANDTC, bản án,
quyết
định đã có hiệu lực pháp luật, có tính chuẩn mực của các Tịa án, tổng kết phát triển thành án lệ và
công bố án lệ để các Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử;”” (điểm c, Khoản 2, Điều 22); Chánh
án TANDTC có thẩm quyền “chỉ đạo việc tổng kết thực tiễn xét xử, xây dựng và ban hành Nghị
quyết

của Hội đồng Thẩm phán TANDTC bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử; tổng kết
phát
triển án lệ, công bố án lệ.” (Khoản 5 Điều 27).
3.62. BLDS năm 2015 quy định về án lệ như sau: theo đó, bộ luật đã quy định về áp dụng
tương
tự
pháp luật. Trong trường hợp phát sinh những quan hệ thuộc phạm vi điều chỉnh của luật dân sự mà
các bên khơng có thỏa thuận cũng như khơng có điều luật cụ thể nào quy định thì được phép áp dụng
các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, áp dụng án lệ, lẽ công bằng.


3.63. BLTTDS năm 2015 quy định về án lệ như sau: bộ luật quy định yêu cầu Tòa án phải
tiếp
nhận
tất cả các yêu cầu của đương sự. Cụ thể hơn, cịn u cầu Tịa án khơng được từ chối giải quyết vụ
việc khi khơng có luật áp dụng. Với trường hợp chưa có điều luật áp dụng, thì ngun tắc giải quyết
vụ việc được quy định: “Tòa án áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ, lẽ công
bằng để giải quyết vụ việc dân sự khi không thể áp dụng tập quán, tương tự pháp luật. ” (Khoản 3
Điều 45). Bộ luật còn quy định thêm về vị trí, vai trị của án lệ trong Hoạt động nghị án của Hội đồng
xét xử với nội dung: “Khi nghị án, các thành viên Hội đồng xét xử phải căn cứ vào tài liệu, chứng
cứđã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, các quy định của pháp luật, nếu vụ
án
thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 4 của Bộ luật này thì cịn phải căn cứ vào tập quán,
tương tự pháp luật, những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ hoặc lẽ công bằng, để giải
quyết tất cả các vấn đề của vụ án bằng cách biểu quyết theo đa số về từng vấn đề. Hội thẩm nhân
dân
biểu quyết trước, Thẩm phán chủ tọa phiên tịa biểu quyết sau cùng. Người có ý kiến thiểu số có
quyền
trình bày ý kiến của mình bằng văn bản và được đưa vào hồ sơ vụ án." (Khoản 2 Điều 264).
2.2.3

3.64.

Tiến trình hình thành án lệ
a) Quy trình lựa chọn án lệ

3.65. Bước 1: Đề xuất bản án, quyết định để phát triển thành án lệ
3.66. Cá nhân, cơ quan, tổ chức có thể gửi đề xuất bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật
của
Tịa án chứa đựng lập luận, phán quyết đáp ứng các tiêu chí lựa chọn án lệ cho Tòa án nhân dân tối
cao để xem xét, phát triển thành án lệ.
3.67. Các Tòa án có trách nhiệm tổ chức rà sốt, phát hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp
luật của Tịa án mình chứa đựng lập luận, phán quyết đáp ứng các tiêu chí lựa chọn án lệ và gửi cho
TANDTC để xem xét, phát triển thành án lệ.
3.68. Bước 2: Lấy ý kiến đối với bản án, quyết định được đề xuất lựa chọn, phát triển thành
án lệ
3.69. Bản án, quyết định được đề xuất lựa chọn, phát triển thành án lệ, nội dung đề xuất là án
lệ,
dự
thảo án lệ được đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của TANDTC để các Tòa án, chuyên gia, nhà
khoa học, nhà hoạt động thực tiễn, cá nhân, cơ quan, tổ chức quan tâm tham gia ý kiến trong thời hạn
30 ngày. Đối với các trường hợp bản án, quyết định do Thẩm phán TANDTC, Ủy ban Thẩm phán
TAND cấp cao đề xuất hoặc được Hội đồng Thẩm phán TANDTC lựa chọn khi xét xử giám đốc
thẩm,


tái thẩm thì việc lấy ý kiến là khơng bắt buộc.
3.70. Trên cơ sở kết quả lấy ý kiến rộng rãi đối với các bản án, quyết định được đề xuất lựa
chọn,

phát triển thành án lệ, nội dung đề xuất là án lệ, dự thảo án lệ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xem
xét, quyết định việc lấy ý kiến của Hội đồng tư vấn án lệ.
3.71. Bước 3: Thành lập Hội đồng tư vấn án lệ
3.72. Hội đồng tư vấn án lệ do Chánh án TANDTC thành lập gồm có ít nhất 09 thành viên.
Chủ
tịch
Hội đồng là Chủ tịch Hội đồng khoa học TANDTC, 01 Phó Chủ tịch Hội đồng là Phó Chủ tịch Hội
đồng khoa học TANDTC, các thành viên khác là đại diện Bộ Tư pháp, VKSNDTC, Liên đoàn Luật
sư Việt Nam, đại diện cơ quan, tổ chức có liên quan, các chuyên gia về pháp luật và 01 đại diện lãnh
đạo Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học TANDTC (đồng thời là Thư ký Hội đồng).
3.73. Trường hợp tư vấn án lệ về hình sự thì thành phần của Hội đồng tư vấn án lệ phải có
đại
diện
Cơ quan điều tra của Bộ Cơng an, Bộ Quốc phòng hoặc VKSNDTC.
3.74. Bước 4: Lấy ý kiến Hội đồng tư vấn án lệ


3.75. Theo quy định tại khoản 2 Điều 5 Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP, Hội đồng tư vấn
án
lệ

trách nhiệm thảo luận cho ý kiến đối với các bản án, quyết định được đề xuất lựa chọn, phát triển
thành án lệ, nội dung đề xuất là án lệ, dự thảo án lệ.
3.76. Việc lấy ý kiến của Hội đồng tư vấn án lệ được thực hiện thông qua phiên họp thảo
luận
trực
tiếp hoặc bằng văn bản. Chủ tịch Hội đồng tư vấn án lệ quyết định phương thức lấy ý kiến của các
thành viên Hội đồng và báo cáo Chánh án TANDTC kết quả tư vấn.
3.77. Bước 5: Thông qua án lệ
3.78. Sau khi các bản án, quyết định được đề xuất lựa chọn, phát triển thành án lệ được lấy ý

kiến
theo hướng dẫn tại Điều 4 và Điều 5 Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP, Chánh án TANDTC tổ chức
phiên họp toàn thể Hội đồng Thẩm phán TANDTC để thảo luận, biểu quyết thông qua án lệ.
3.79. Trường hợp án lệ được phát triển từ bản án, quyết định do Thẩm phán TANDTC, Ủy
ban
Thẩm
phán TANDTC đề xuất hoặc được Hội đồng Thẩm phán TANDTC lựa chọn khi xét xử giám đốc
thẩm, tái thẩm, quy trình lựa chọn, thơng qua án lệ được rút gọn theo hướng Hội đồng Thẩm phán
TANDTC xem xét thông qua án lệ mà không nhất thiết phải qua các bước lấy ý kiến theo hướng dẫn
tại Điều 4 và Điều 5 Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP.
3.80. Phiên họp lựa chọn, thông qua án lệ của Hội đồng Thẩm phán TANDTC phải có ít nhất
hai
phần ba tổng số thành viên tham gia; quyết định của Hội đồng Thẩm phán TANDTC phải được quá
nửa tổng số thành viên Hội đồng Thẩm phán biểu quyết tán thành. Kết quả biểu quyết phải được ghi
vào biên bản phiên họp lựa chọn, thông qua án lệ của Hội đồng Thẩm phán và là căn cứ để Chánh án
TANDTC công bố án lệ.
3.81. Bước 6: Công bố án lệ
3.82. Trên cơ sở kết quả biểu quyết của Hội đồng Thẩm phán TANDTC về việc thông qua án
lệ,
Chánh án TANDTC công bố án lệ.
3.83. Nội dung của án lệ được công bố bao gồm: Số, tên án lệ; số, tên bản án, quyết định của
Tịa
án
có nội dung được phát triển thành án lệ; tình huống pháp lý, giải pháp pháp lý của án lệ; quy định của
pháp luật có liên quan đến án lệ; từ khố về những tình huống pháp lý, giải pháp pháp lý trong án lệ;
các tình tiết trong vụ án và phán quyết của Tịa án có liên quan đến án lệ; nội dung của án lệ.
3.84.

b) Áp dụng án lệ trong xét xử



3.85. Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm phải nghiên cứu, áp dụng án lệ, bảo đảm những vụ
việc

tình huống pháp lý tương tự thì phải được giải quyết như nhau. Trường hợp vụ việc có tình huống
pháp lý tương tự nhưng Tịa án khơng áp dụng án lệ thì phải nêu rõ lý do trong bản án, quyết định
của
Tòa án. Trường hợp Tòa án áp dụng án lệ để giải quyết vụ việc thì số, tên án lệ, tình huống pháp lý,
giải pháp pháp lý trong án lệ và tình huống pháp lý của vụ việc đang được giải quyết phải được viện
dẫn, phân tích trong phần “Nhận định của Tịa án”; tùy từng trường hợp cụ thể có thể trích dẫn tồn
bộ hoặc một phần nội dung của án lệ để làm rõ quan điểm của Tòa án trong việc xét xử, giải quyết
vụviệc tương tự. Việc nghiên cứu, viện dẫn án lệ khi xét xử là yêu cầu đối với Thẩm phán, Hội
thẩm. Trường hợp Thẩm phán, Hội thẩm không áp dụng án lệ khi xét xử vụ việc có tình huống pháp
lý tương tự với án lệ thì phải có trách nhiệm phân tích, lập luận và nêu rõ lý do trong bản án, quyết
định.
2.2.4

Thực tiễn áp dụng án lệ trong giải quyết các vụ án dân sự ở Việt Nam

3.86. Những năm gần đây, chất lượng xét xử án dân sự của Tòa án các cấp không ngừng
được
nâng
cao. Tuy nhiên, số lượng các vụ án bị hủy, cải sửa vẫn còn tồn tại. Thực tế, số án này chiếm tỷ lệ
không nhỏ trong tổng số vụ án đã xét xử, có nhiều trường hợp phải xử đi, xử lại, kéo dài nhiều năm,
cá biệt có vụ kéo dài hàng chục năm, sau 6-7 lần xét xử sơ thẩm, phúc thẩm rồi giám đốc thẩm lại
quay về điểm xuất phát.
3.87. Ngoài các yếu tố khách quan thì nguyên nhân chủ quan là do khi giải quyết, xét xử các
loại
vụ
việc dân sự, Thẩm phán chưa nghiên cứu kỹ và vận dụng các quy định của pháp luật vào từng vụ án

cụ thể để xử lý. Một số Thẩm phán chưa phát huy hết tinh thần trách nhiệm trong việc thu thập chứng
cứ, nghiên cứu hồ sơ không kỹ, bỏ lọt chứng cứ, bỏ sót người tham gia tố tụng, đánh giá chứng cứ
phiến diện, chủ quan dẫn đến việc ban hành quyết định, bản án không đúng, vi phạm tố tụng.
3.88. Một nguyên nhân rất quan trọng dẫn đến việc án dân sự bị hủy, sửa đó là áp dụng
không
thống
nhất pháp luật ở các địa phương, đặc biệt là các cấp xét xử.
3.89. Dễ dàng nhận thấy, trong số các bản án lệ được cơng bố thì án lệ dân sự chiếm phần đa.

do
xuất phát từ quy định: “Tịa án khơng được từ chối giải quyết vụ, việc dân sự vì lý do chưa có điều
luật để áp dụng.” và “Trường hợp phát sinh quan hệ thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự
mà các bên khơng có thỏa thuận, pháp luật khơng có quy định và khơng có tập qn được áp dụng thì
áp dụng quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự tương tự. Trường hợp không thể áp dụng
tương tự pháp luật theo quy định tại khoản 1 Điều này thì áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp
luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này, án lệ, lẽ công bằng.” (Điều 6 BLDS năm 2015).


3.90. Điểm qua nội dung của một số án lệ dân sự đã được công bố:
3.91. Án lệ số 04/2016/AL về vụ án “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất”
3.92. Nội dung án lệ:


3.93. Về hợp đồng mua bán nhà, đất ngày 26-4-1996: Việc chuyển nhượng nhà, đất diễn ra
từ
năm
1996, sau khi mua nhà, đất, ông Tiến, bà lý đã trả đủ tiền, nhận nhà đất, tôn nền đất, sửa lại nhà và
cho các cháu đến ở. Trong khi đó gia đình ơng Ngự, bà Phấn vẫn ở trên diện tích đất cịn lại, liền kề
với nhà ông Tiến, bà Tỷ. Theo lời khai của các người con ơng Ngự, bà Phấn thì sau khi bán nhà, đất

cho vợ chồng bà Tý, ông Ngự, bà Phấn đã phân chia vàng cho các người con. Mặt khác, sau khi
chuyển nhượng và giao nhà đất cho ơng Tiến, bà Tỷ thì ngày 26-4-1996, ơng Ngự cịn viết “giấy cam
kết" có nội dụng mượn lại phần nhà đất đã sang nhượng để ở khi xây dựng lại nhà trên phần đất còn
lại và trong thực tế Vợ chồng bà Phấn, ông Ngự đã sử dụng phần nhà đất của bà Tý, ông Tiến khi xây
dựng nhà. Như vậy, có cơ sở xác định bà Phấn biết có việc chuyển nhượng nhà, đất giữa ơng Ngự
vớivợ chồng ông Tiến và bà Tý, bà Phấn đã đồng ý, cũng thực hiện nên việc bà Phấn khiếu nại cho
rằng
ông Ngự chuyển nhượng nhà đất cho vợ chồng bà Tý bà khơng biết là khơng có căn cứ.
3.94. Án lệ số 16/2017/AL về công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là
di
sản
thừa kế do một trong các đồng thừa kế chuyển nhượng.
3.95. Nội dung án lệ:
3.96. Năm 1991, bà Phùng Thị G chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K diện tích 131m 2
trong
tổng
diện tích 398m2 của thửa đất trên; phần diện tích đất cịn lại của thửa đất là 267,4m 2. Năm 1999 bà
Phùng Thị G đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, diện tích 267,4m 2, bà Phùng Thị G
cùng vợ chồng anh Phùng Văn T vẫn quản lý sử dụng nhà đất này. Việc bà Phùng Thị G chuyển
nhượng đất cho ông Phùng Văn K các con bà Phùng Thị G đều biết, nhưng khơng ai có ý kiến phản
đối gì, các con của bà Phùng Thị G có lời khai bà Phùng Thị G bán đất để lo cuộc sống của bà và các
con. Nay ông Phùng Văn K cũng đã được cơ quan nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Vì vậy, có cơ sở để xác định các con bà Phùng Thị G đã đồng ý để bà Phùng Thị G chuyển nhượng
diện tích 131m2 nêu trên cho ông Phùng Văn K. Tòa án cấp phúc thẩm không đưa diện tích đất bà
Phùng Thị G đã bán cho ông Phùng Văn K vào khối tài sản để chia là có căn cứ. Tịa án cấp sơ thẩm
xác định di sản là tổng diện tích đất 398m 2 (bao gồm cả phần đất đã bán cho ông Phùng Văn K) để
chia là không đúng.
3.97. Án lệ số 36/2020/AL - về hiệu lực của hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất khi
giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất bị thu hồi, hủy bỏ.

3.98. Nội dung án lệ:
3.99. Ngày 31-8-2011, Ủy ban nhân dân thị xã B đã ban hành Quyết định số 3063/QĐUBND
về
việc thu hồi, hủy bỏ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Đ544493 do Ủy ban nhân dân thị xã B


cấp ngày 14-7-2004 mang tên ông Nguyễn Văn C và bà Vũ Thị T. Việc thu hồi, hủy bỏ Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất nêu trên do có sai sót về diện tích đất và trình tự, thủ tục cấp Giấy chứng
nhận
quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông C, bà T. Tuy nhiên việc thu hồi, hủy bỏ Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất không làm mất đi quyền sử dụng hợp pháp phần đất đã nhận chuyển nhượng của vợ
chồng
ơng C, bà T, vì việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng bà Trần Thị Ngọc H, ông Trần
Huỳnh L và vợ chồng ông C, bà T đã hồn tất, các bên khơng có tranh chấp gì về Hợp đồng chuyển
nhượng này. Mặt khác, trước khi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của vợ chồng ông C, bà T bị
thu hồi, ông C, bà T đã thế chấp quyền sử dụng đất này cho Ngân hàng nhiều lần để vay tiền, gần
nhất
là ngày 19-3-2010. Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của vợ chồng ông C, bà T với Ngân hàng
tuân thủ đúng quy định pháp luật nên Hợp đồng này có hiệu lực pháp luật. Tòa án cấp sơ thẩm và
Tòa
án cấp phúc thẩm căn cứ Điều 411 Bộ luật Dân sự năm 2005 cho rằng Hợp đồng thế chấp quyền sử
dụng đất số 10.36.0015 ngày 18-3-2010 nêu trên vô hiệu do đối tượng của Hợp đồng thế chấp này
khơng cịn là không đúng.


3.100. Thực tiễn xét xử cho thấy những vụ việc có tình tiết, sự kiện pháp lý tương tự như tình
tiết,
sự
kiện pháp lý trong án lệ đã được các Thẩm phán giải quyết theo đúng đường lối xét xử mà án lệ đưa
ra. Nhìn chung, các bản án, quyết định có viện dẫn án lệ đã nêu được số án lệ; số bản án, quyết định

có chứa đựng án lệ; phân tích, làm rõ tình huống pháp lý của vụ việc đang được giải quyết, tình
huống
pháp lý và giải pháp pháp lý trong án lệ làm căn cứ để đưa ra quyết định áp dụng án lệ.
3.101. Thực tiễn công tác phát triển án lệ cho thấy chỉ có một số ít các Tịa án, đơn vị gửi đề
xuất
án
lệ (như TAND các tỉnh Hà Tĩnh, Đăk Lăk, Hải Phòng, Quảng Ninh, Vụ Giám đốc kiểm tra III...).
Các Thẩm phán khi soạn thảo bản án, quyết định đã phân tích, lập luận về tình huống pháp lý, giải
pháp pháp lý nhưng chủ yếu tập trung giải quyết tình huống pháp lý cụ thể trong vụ án đó mà chưa
hướng đến việc khái quát tình huống pháp lý và giải pháp pháp lý có thể áp dụng cho các vụ việc có
tính chất tương tự.
3.102. Mặc dù việc phát triển án lệ mới đang ở giai đoạn đầu nhưng đã có những án lệ được
Chánh
án TANDTC nhiều nước đánh giá đạt trình độ quốc tế, mở ra thời kỳ mới về phát triển án lệ, Tăng
cường áp dụng án lệ trong xét xử. Nhiệm kỳ qua đã có hơn 1000 vụ án viện dẫn án lệ trong xét xử.
Bước đầu đã hình thành kỹ năng và tập quán áp dụng án lệ trong xét xử như xu thế chung của thế
giới.
3.103. Việc áp dụng án lệ vẫn còn tồn tại nhiều vướng mắc trong thực tiễn áp dụng giải quyết
các
vụ
án dân sự, cụ thể:
3.104. Thứ nhất, khó khăn lớn là thiếu nguồn bản án dân sự chất lượng bổ sung vào án lệ,
thực
tế
hiện
nay đa số các bản án, quyết định của Tòa án cịn tập trung vào những nội dung mang tính sự vụ những vụ việc có tính chất lặt vặt và cụ thể thường ngày, giữa các việc thường không có liên quan
với
nhau, khơng có tính chất chun mơn. Lập luận của Thẩm phán về đường lối giải quyết vụ việc cịn
thiếu những nội dung mang tính khái qt cao nên khó có thể lựa chọn được nhiều án lệ có chất
lượng

tốt, chất lượng của các quyết định giám đốc thẩm chưa thật sự tốt để trở thành án lệ và đây là hạn chế
quan trọng trong việc phát triển án lệ.
3.105. Thứ hai, chưa có kinh nghiệm trong việc áp dụng án lệ vào thực tế xét xử các vụ án dân
sự,
trình độ năng lực của đội ngũ Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư còn hạn chế. Việc áp dụng án lệ đòi
hỏi sự sáng tạo, linh hoạt của bộ phận người làm luật bao gồm các Thẩm phán, Luật sư, Kiểm sát


viên...bởi lẽ, bản án của Tòa án là kết quả hoạt động của các chủ thể nêu trên. Song, hiện nay trình độ
thẩm phán - hay nói cách khác là năng lực của những người đứng đầu các Tòa án còn chưa cao. Các
Thẩm phán Tòa án chưa được đào tạo, tập huấn kỹ năng viết bản án, quyết định kỹ năng nghiên cứu
viện dẫn án lệ do đó cịn lúng túng trong quá trình nghiên cứu, áp dụng án lệ để giải quyết các vụ án
dân sự, dẫn đến trường hợp, việc áp dụng án lệ còn diễn ra thiếu chính xác và khơng đạt hiệu quả.
3.106. Thứ ba, pháp luật dân sự thay đổi liên tục, còn nhiều thiếu sót, bất cập. Nhiều án lệ ra
đời
dựa
trên căn cứ pháp luật của BLDS 2005, trong khi đó BLDS 2015 ra đời có hiệu lực từ ngày
01/01/2017
có nhiều quy định thay đổi khiến việc áp dụng án lệ trở nên khó khăn dẫn đến xảy ra hiện tượng xung
đột về quan điểm.


3.107. CHƯƠNG 3: ĐỀ XUẤT CÁCH THỨC NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ÁN LỆ VÀ ÁP
DỤNG
ÁN LỆ TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM
3.1.

Hoàn thiện việc xây dựng, tuyển chọn án lệ
3.108. Theo quy định tại Điều 3 Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP thì cá nhân, cơ quan, tổ


chức,
khơng phân biệt trong hay ngồi Tịa án, trực tiếp làm công tác pháp luật hay không làm công tác
pháp luật...đều có thể gửi đề xuất bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tịa án chứa đựng
lập luận, phán quyết đáp ứng các tiêu chí lựa chọn án lệ cho TANDTC để xem xét, phát triển thành
án lệ. Các Tịa án có trách nhiệm tổ chức rà sốt, phát hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật
của Tịa án mình chứa đựng lập luận, phán quyết đáp ứng các tiêu chí lựa chọn án lệ và gửi cho
TANDTC để xem xét, phát triển thành án lệ.
3.2.

Hồn thiện việc cơng bố án lệ

3.109. Các bản án, quyết định được công nhận làm án lệ được biên tập, chỉ rõ vấn đề pháp lý

giá
trị hướng dẫn xét xử và áp dụng thống nhất trong xét xử được giải quyết trong án lệ, được công bố
trên các tạp chí khoa học về pháp luật và tư pháp, các phương tiện truyền thông và công bố trên Cổng
thông tin điện tử Tòa án nhân dân tối cao; được đưa vào Tuyển tập án lệ xuất bản theo định kỳ 06
tháng; đồng thời, được gửi cho các Toà án để áp dụng thống nhất. Về cách thức công bố án lệ, pháp
luật nên quy định công bố án lệ dưới hình thức bản án, quyết định của tịa án có thể kèm theo phần
tóm tắt thay cho hình thức công bố án lệ mẫu như hiện nay nhưng cần phải cải cách viết phần lập
luận
trong bản án, quyết định.
3.3.

Hoàn thiện việc áp dụng án lệ

3.110. Khi áp dụng án lệ để giải quyết các vụ việc tương tự, tên của án lệ, tính chất, tình tiết
tương
tự

được nêu trong án lệ và tính chất, tình tiết vụ việc đang được giải quyết, vấn đề pháp lý được án lệ
giải quyết, phải được viện dẫn, phân tích, làm rõ trong bản án, quyết định của Toà án. Trường hợp
Thẩm phán, Hội thẩm khơng áp dụng án lệ thì phải nêu rõ lý do. Cần áp dụng một cách linh hoạt,
chính xác để chống oan sai, gây hậu quả bất lợi cho chủ thể. Tuân thủ theo những quy định tại Điều
8 của Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ.
3.4.

Nâng cao chất lượng đội ngũ thẩm phán
3.111. Việc xây dựng và sử dụng án lệ ln đặt vai trị của Thẩm phán lên hàng đầu vì họ là

người
trực tiếp xây dựng và sử dụng án lệ. Cần phải bảo đảm yếu tố tranh luận và sự đa dạng về lý lẽ khi
đưa ra lập luận pháp lý của các Thẩm phán. Vì yếu tố trên giúp cho các Thẩm phán đưa ra được


những
phán quyết, lý lẽ của bản thân một cách minh bạch, công bằng, xác đáng.
3.112. Nhận thấy, trong phần “xét thấy”, quan điểm của các Thẩm phán còn hết sức nghèo
nàn,
ngắn
gọn và còn lệ thuộc nhiều vào các văn bản quy phạm pháp luật. Vì vậy, các Thẩm phán cần phải có
nguồn cứ liệu phong phú và đa dạng hơn như: tập quán, những quy định của pháp luật đã qua, học
thuyết pháp lý, nguyên tắc pháp lý, bài bình luận khoa học.. .Tức các Thẩm phán cần phải trau dồi,
cập nhật nhiều nguồn để có thể làm giàu hơn kinh nghiệm của bản thân trong xét xử.


×