Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Hình thức chia di sản thừa kế theo quy định của bộ luật dân sự năm 2015 thực tiễn áp dụng các trường hợp bị tước quyền nhận di sản thừa kế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.83 KB, 18 trang )

MỤC LỤC

PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU
Trong Bộ luật dân sự nước ta cũng như nhiều Bộ luật dân sự của các
nước trên thế giới , các quy định về thừa kế giữ vai trị quan trọng, nó thường
được cấu thành thành một cơ cấu riêng. Trong giao lưu dân sự, vấn đề thừa kế
càng có ý nghĩa quan trọng , đặc biệt là khi cùng với sự phát triển của nền kinh
tế thị trường , tài sản của thành viên trong xã hội cũng được tăng lên đáng kể cả
về số lượng và giá trị của nó. Thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật là
hai hình thức đặc trưng cho hai loại thừa kế khác nhau. Dù ở hình thức nào thì
việc xác định khối di sản thừa kế và phân chia di sản là một trong những yếu tố
pháp lí hết sức quan trọng. Có thể nói : “ di sản thừa kế là yếu tố quan trọng
hàng đầu trong các án kiện và thừa kế. Phân chia di sản thừa kế là vô cùng phức
tạp và có rất nhiều tình huống xảy ra. Đó là lý do em chọn đề tài : “ Hình thức
chia di sản thừa kế theo quy định của bộ luật dân sự năm 2015. Thực tiễn áp
dụng các trường hợp bị tước quyền nhận di sản thừa kế”.

PHẦN 2: NỘI DUNG
1. Hình thức chia di sản thừa kế theo quy định của bộ luật dân sự năm
2015
1.1. Khái niệm
1.1.1. Khái niệm di sản thừa kế

1


Từ xa xưa người Việt Nam đã biết dành dụm, chắt chiu cho các thế hệ
sau. Để nói về những gì đời trước, người trước để lại cho đời sau, người sau,
người ta dung thuật ngữ di sản.
Di sản là tồn bộ tài sản có giá trị vật chất hoặc giá trị tinh thần cùng với
các nghĩa vụ về tài sản được lưu truyền, tiếp nối từ thế hệ này sang thế hệ khác,


từ đời này sang đời khác, được bảo hộ về mặt pháp lí.
Thuật ngữ di sản được dung khả phổ biến trong nhiều lĩnh vực của đời
sống, song trong mỗi lĩnh vực thuật ngữ này lại được hiểu theo những nghĩa
khác nhau. Trên lĩnh vực pháp luât, thuật ngữ “di sản” được các nhà làm luật sử
dụng để chỉ di sản thừa kế trong pháp luật dân sự. Nó được hiểu là phần tài sản
thuộc sở hữu hợp pháp của người chết để lại cho người sống.
Ở Việt Nam chưa có văn bản nào định nghĩa về di sản thừa kế mà chỉ liệt
kê về di sản thừa kế. Điều 634, Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “Di sản bao
gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản
chung của người khác” . Như vậy di sản thừa kế là toàn bộ những tài sản thuộc
quyền sở hữu của người chết bao gồm tài sản riêng, phần tài sản trong khối tài
sản chung, cũng như các quyền về tài sản mà người đó được các cơ quan thẩm
quyền giao khi cịn sống.
Khi nói về di sản thừa kế vẫn có nhiều quan điểm khác nhau ở các thời kì
cũng khác nhau, đây là một vấn đề hết sức phức tạp.
Quan điểm thứ nhất cho rằng: di sản thừa kế bao gồm tài sản và các nghĩa
vụ tài sản mà người chết để lại. Tức là người để lại di sản khi cịn sống ngồi tài
sản mà họ có thì cịn có các khoản nợ (nghĩa vụ dân sự) khác. Các nghĩa vụ tài
sản của họ để lại khi chết sẽ được dịch chuyển cho những người thừa kế. Người
thừa kế sẽ phải thực hiện việc thanh toán nợ của người chết để lại kể cả trong
trường hợp tài sản của người chết không đủ để trả nợ và phải chịu trach nhiệm
vơ hạn với nghĩa vụ đó. Quan điểm này đã khơng cịn phù hợp với sự phát triển
2


của đất nước, Sắc lệnh số 97/SL ngày 22/5/1950 đã xốt bỏ quy lệ bất cơng
này.

Quan điểm thứ hai cho rằng: di sản thừa kế bao gồm tài sản và nghĩa vụ
tài sản trong phạm vi người chết để lại. Theo quan điểm này, người thừa kế

không phải thực hiện nghĩa vụ tài sản bằng tài sản riêng của mình mà chỉ trong
phạm vi di sản của người chết để lại. Quan điểm này khác với quan điểm thứ
nhất ở chỗ, người thừa kế không phải chịu trách nhiệm một cách vô hạn đối với
những khoản nợ của người chết để lại.
Quan điểm thứ ba cho rằng: di sản thừa kế chỉ bao gồm các tài sản của
người chết để lại mà không bao gồm các nghĩa vụ tài sản. Đây là quan điểm phù
hợp với quy định của BLDS 1995 và BLDS 2005. Vì:
Khi cịn sống, người để lại di sản có quyền sở hữu hợp pháp đối tài sản
mà họ có được, bên cạnh đó, có thể cịn có những nghĩa vụ tài sản đối với các
chủ thể khác. Các nghĩa vụ này phát sinh từ các giao dịch dân sự hoặc các quan
hệ pháp luật khác mà người để lại di sản chưa kịp thực hiện, toàn bộ tài sản
cũng như nghĩa vụ tài sản sẽ được để lại là tất yếu. Tuy nhiên, tất cả các yếu này
của người chết để lại, gọi là cái của người trước để lại, được xác định là di sản
chứ không là di sản thừa kế.
Về mặt ngữ nghĩa: thừa kế là thừa hưởng của cải của người đã khuất.
Theo từ điển Tiếng việt thì thừa kế được đinh nghĩa là “ hưởng của người chết
để lại cho”. Với ý nghĩa này thì khơng thể nói, người thừa kế được hưởng nghĩa
vụ tài sản hay được hưởng các tài sản nợ. Những giá trị này khơng mang lại lợi
ích cho người tiếp nhận thì khơng được coi là di sản. Vì vậy khơng thể coi các
nghĩa vụ là được thừa kế.
Về phương diện truyền thống đạo đức: Cha mẹ sinh con ra thì có nghĩa
vụ chăm lo, ni nấng con cái. Họ luôn cố gắng để tạo tiền đề vững chắc cho
3


con cái sau này. Người con, người cháu sẽ hưởng di sản thừa kế để làm ăn, phát
triển cuộc sống và để lại cho con cái đời sau. Một điều dĩ nhiên là những tài sản
mà người chết để lại phải thuộc quyền sở hữa của họ và không trái với các quy
định của pháp luật. Quyền thừa kế và quyền sở hữu có mối quan hệ mật thiết
với nhau. Do tính chất vĩnh viễn và tuyệt đối của quyền sở hữu mà nguyên tắc

liên tục của việc đảm nhận tư cách sở hữu đối với tài sản được đặt ra “ thừa kế
là việc dịch chuyển tài sản của người chết sang cho những người con sống”.
Như vậy với ý nghĩa trên, di sản thừa kế chỉ tài sản của người chết mà không
bao gồm các nghĩa vụ tài sản.
Về phương diện pháp lí: theo quy định tại khoản 1 điều 637 BLDS 2005 “
những người thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ về tài sản trong phạm vi
di sản do người chết để lại…” . Ngoài việc nhận di sản thì người thừa kế phải có
trách nhiệm thanh toán các khoản nợ do người chết để lại. Ở đây người thừa kế
thực hiện nghĩa vụ tài sản mà người chết để lại không phải với tư cách là một
chủ thể mới, họ không thay thế vị trí của chủ thể, họ thực hiện nghĩa vụ tài sản
bằng tài sản của người chết để lại, nợ của người chết không phải là nợ của
người hưởng di sản. Sau khi thanh tốn tồn bộ nghĩa vụ của người chết để lại
và những chi phí liên quan đến di sản thừa kế, nếu tài sản khơng cịn thì khi đó
khơng cịn tài sản để chia thừa kế và như vậy thì khơng có quan hệ nhận di sản
thừa kế. Nếu tài sản cịn để chia cho người có quyền hưởng di sản thì phần di
sản cịn lại này mới được coi là di sản thừa kế.
Tóm lại, Di sản thừa kế là phần di sản còn lại sau khi đã thanh toán nghĩa
vụ của người chết để lại và các chi phí liên quan đến di sản . Di sản này sau khi
tách phần di sản dùng vào việc thờ cúng và di tặng (nếu người để lại di sản có
xác định)sẽ chia theo di chúc hoặc theo quy định của pháp luật cho những người
thừa kế.
1.1.2. Khái niệm phân chia di sản thừa kế

4


Hiện nay do sự phát triển của kinh tế xã hội, dẫn đến tài sản tích lũy của
mỗi gia đình, cá nhân ngày càng nhiều. Vì vậy các tranh chấp liên quan đến các
vấn đề thừa kế ngày càng gia tăng. Đích cuối cùng của tranh chấp thừa kế là xác
định di sản và phân chia di sản đúng để đảm bảo quyền và lợi ích của các chủ

thể có liên quan.
Thế nào là phân chia di sản thừa kế?Phân chia di sản thừa kế là tập hợp
các hoạt động nhằm xác lập quyền sở hữu đối với phần di sản cho từng người
một có quyền hưởng thừa kế trong khối di sản chung sau khi đã thực hiện nghĩa
vụ tài sản từ di sản . Chấm dứt tình trạng nhiều người cùng có quyền được
hưởng thừa kế từ một hoặc nhiều tài sản do người chết để lại.
Khái niệm phân chia di sản chỉ đặt ra khi có ít nhất từ 2 người có quyền
thừa kế trở lên cịn nếu như chỉ có 1 người duy nhất có quyền hưởng di sản thì
chỉ có mình họ phải thực hiện các nghĩa vụ tài sản của người chết để lại và cũng
chỉ mình họ được sở hữu khối tài sản.
1.2. Phân chia di sản thừa kế cho những người thừa kế
Kể từ thời điểm mở thừa kế, bất cứ lúc nào những người thừa kế cũng có
quyền yêu cầu phân chia di sản. Phụ thuộc vào sự thỏa thuận của những người
thừa kế mà di sản có thể đem chia ngay lúc đó hoặc sau một thời gian. Vì thế,
việc cử người quản lí di sản để đảm bảo cịn nguyên giá trị của di sản là rất quan
trọng. Ngoài ra cịn phải xác định chính xác di sản thừa kế mà người chết để lại.
Việc xác định này căn cứ vào giấy tờ, tài liệu chứng minh quyền sở hữu hoặc sử
dụng hợp pháp đối với khối tài sản đó. Đối với trường hợp di sản thừa kế thuộc
sở hữu chung thì việc xác định tài sản chung của người để lại di sản có thể dựa
trên những thỏa thuận đã có từ trước hoặc căn cứ vào văn bản do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền ban hành. Việc phân chia di sản thừa kế có hai trường hợp.
Đó là:
Thứ nhất, chia thừa kế theo di chúc

5


Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình
cho người khác sau khi chết.
Hiện nay pháp luật công nhận 4 loại di chúc là di chúc: di chúc bằng văn

bản khơng có người làm chứng, di chúc có người làm chứng, di chúc có chứng
thực, di chúc có cơng chứng.
Để đảm bảo di chúc có hiệu lực pháp luật, đảm bảo việc thực hiện di chúc
thì di chúc phải đảm bảo các nội dung như sau:
– Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị
lừa dối, đe doạ, cưỡng ép. Di chúc phải mang tính chất tự nguyện, đó là điều
kiện để một giao dịch dân sự có hiệu lực pháp luật. Vì lập di chúc là một giao
dịch dân sự nên phải có sự tự nguyện của người lập di chúc. Nếu di chúc khơng
có tính tự nguyện, mà việc lập di chúc bị áp đặt ý chí thơng qua các hành vi
cưỡng ép, ép buộc thì di chúc sẽ bị vơ hiệu.
– Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, khơng trái đạo
đức, khơng trái với truyền thống văn hóa của dân tộc. Hình thức của di chúc
tuân theo quy định tại điều 628, 633, 634, 635 BLDS 2015
Theo quy định tại Điều 659 bộ luật dân sự 2015 về phân chia di sản theo
di chúc được thực hiện như sau:
– Việc phân chia di sản được thực hiện theo ý chí của người để lại di
chúc; nếu di chúc không xác định rõ phần của từng người thừa kế thì di sản
được chia đều cho những người được chỉ định trong di chúc, trừ trường hợp có
thỏa thuận khác.
– Trường hợp di chúc xác định phân chia di sản theo hiện vật thì người
thừa kế được nhận hiện vật kèm theo hoa lợi, lợi tức thu được từ hiện vật đó
hoặc phải chịu phần giá trị của hiện vật bị giảm sút tính đến thời điểm phân chia

6


di sản; nếu hiện vật bị tiêu hủy do lỗi của người khác thì người thừa kế có quyền
u cầu bồi thường thiệt hại.
– Trường hợp di chúc chỉ xác định phân chia di sản theo tỷ lệ đối với tổng
giá trị khối di sản thì tỷ lệ này được tính trên giá trị khối di sản đang cịn vào

thời điểm phân chia di sản.”
Về nguyên tắc, di sản thừa kế sẽ được phân chia theo ý chí của người để
lại di chúc, trừ trường hợp quy định tại Điều 644 bộ luật dân sự 2015:
“Điều 644. Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc
1. Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba
suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật,
trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ
cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:
a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
b) Con thành niên mà khơng có khả năng lao động.
2. Quy định tại khoản 1 Điều này không áp dụng đối với người từ chối
nhận di sản theo quy định tại Điều 620 hoặc họ là những người khơng có quyền
hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 621 của Bộ luật này.”
Do đó, trong trường hợp người lập di chúc không cho con chưa thành
niên, cha,mẹ, vợ chồng hoặc con thành niên mà không có khả năng lao động
hưởng phần di sản hoặc cho những người này hưởng ít hơn hai phần ba suất của
một người thừa kế theo pháp luật thì họ vẫn được hưởng phần di sản bằng hai
phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo
pháp luật mà không phụ thuộc vào nội dung di chúc.
Thứ hai, chia thừa kế theo pháp luật:

7


Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự
thừa kế do pháp luật quy định.
Theo Điều 650 bộ luật dân sự 2015 quy định những trường hợp thừa kế
theo pháp luật bao gồm:
“1. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp sau đây:
a) Khơng có di chúc;

b) Di chúc không hợp pháp;
c) Những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm
với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc khơng
cịn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế;
d) Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà khơng
có quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
2. Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với các phần di sản sau
đây:
a) Phần di sản không được định đoạt trong di chúc;
b) Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc khơng có hiệu lực pháp
luật;
c) Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng
họ khơng có quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng
thời điểm với người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di
sản theo di chúc, nhưng khơng cịn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.”
Việc phân chia di sản theo pháp luật được thực hiện theo quy định tại
Điều 660 bộ luật dân sự 2015, theo đó:
– Khi phân chia di sản, nếu có người thừa kế cùng hàng đã thành thai
nhưng chưa sinh ra thì phải dành lại một phần di sản bằng phần mà người thừa
8


kế khác được hưởng để nếu người thừa kế đó còn sống khi sinh ra được hưởng;
nếu chết trước khi sinh ra thì những người thừa kế khác được hưởng.
– Những người thừa kế có quyền yêu cầu phân chia di sản bằng hiện vật;
nếu không thể chia đều bằng hiện vật thì những người thừa kế có thể thỏa thuận
về việc định giá hiện vật và thỏa thuận về người nhận hiện vật; nếu khơng thỏa
thuận được thì hiện vật được bán để chia.
Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không cịn ai ở

hàng thừa kế trước do đã chết, khơng có quyền hưởng di sản, bị truất quyền
hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.

1.3. Các căn cứ phân chia di sản thừa kế
1.3.1. Khái niệm căn cứ phân chia di sản thừa kế
Khi phân chia di sản thừa kế thì dù có phân chia theo di chúc hay phân
chia theo pháp luật thì cũng đều phải căn cứ theo những quy định chung của
pháp luật. Trong bộ luật dân sự Việt Nam chưa có định nghĩa cụ thể về khái
niệm căn cứ pháp lí phân chia di sản thừa kế. Đây là một điều bất cập trong bộ
luật dân sự Việt Nam. Theo ý nghĩa của từ căn cứ trong từ điển Tiếng việt và
theo những quy định của pháp luật hiện hành, chúng ta có thể hiểu: “ căn cứ
phân chia di sản thừa kế là những sự kiện pháp lí mà trên cơ sở đó các chủ thể
tiến hành việc phân chia di sản thừa kế”
1.3.2. Các căn cứ phân chia
- Theo sự thỏa thuận của những người thừa kế
Pháp luật Việt Nam ln khuyến khích việc thỏa thuận, tự nguyện khi
phân chia di sản thừa kế của những người thân quen trong gia đình. Điều 4
BLDS 2005 đã ghi nhận nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Khi
9


những người thừa kế đã đạt được sự thỏa thuận, thống nhất về cách chia thì đó
có thể là căn cứ để phân chia di sản thừa kế. Tòa án chỉ tham gia giải quyết
trong trường hợp những người thừa kế khơng tìm được tiếng nói chung.
Khi phân chia di sản theo thỏa thuận,người thực hiện phân chia di sản có
thể tham gia nhưng đây khơng phải là điều kiện bắt buộc. Người thực hiện phân
chia di sản có thể đồng thời là người quản lí di sản. Theo khoản 2 điều 681
BLDS “ Mọi thỏa thuận của người thừa kế phải được lập thành văn bản” , trong
trường hợp : “ Những người thừa kế theo pháp luật hoặc theo di chúc mà trong
di chúc không xác định rõ phần di sản được hưởng của từng người thì họ có

quyền u cầu cơng chứng văn bản thỏa thuận phân chia di sản…”(khoản 1,
điều 49, Luật công chứng 2005)
- Theo ý chí của người định đoạt di chúc
Thừa kế theo di chúc và việc dịch chuyển tài sản của người đã chết cho
người khác còn sống theo quyết định của người đó trước khi chết được thể hiện
trong di chúc. Tùy vào ý chí của người lập di chúc mà người được thừa kế theo
di chúc được hưởng các phần di sản nhiều ít khác nhau. Nhà nước ta ln ưu
tiên phương thức dịch chuyển di sản theo di chúc , pháp luật tơn trọng và bảo
đảm ý chí của người để lại di chúc. Họ có thể để lại di sản cho bất kì ai, kể cả
những người khơng có quan hệ hơn nhân , huyết thống, ni dưỡng với họ;…
tức là họ được tự do thể hiện ý chí, Nhà nước khơng ấn định trước phạm vi
người được hưởng thừa kế theo di chúc. Tóm lại phân chia di sản theo ý chí
định đoạt của người lập di chúc là căn cứ để tiến hành việc phân chia di sản
thừa kế , làm phát sinh quyền sở hữa của người có quyền thừa kế
- Thừa kế theo pháp luật
Thừa kế theo pháp luật và việc dịch chuyển tài sản của người chết cho
những người còn sống theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp
luật quy định. Những người được hưởng thừa kế theo pháp luật là những người
10


có quan hệ huyết thống, quan hệ hơn nhân, quan hệ nuôi dưỡng với người để lại
di sản. Việc chia thừa kế theo pháp luật đặt ra khi người chết để lại di sản mà
khơng có di chúc mà có di chúc nhưng khơng có hiệu lực pháp luật, người thừa
kế từ chối nhận di sản… đối với thừa kế theo pháp luật những người ở cùng một
hàng thừa kế thì được hưởng các phần di sản cơng bằng, ngang nhau.
Pháp luật các luật các nước trên thế giới và pháp luật Việt Nam quy định
cho phép áp dụng hai hình thức thừa kế theo pháp luật và theo di chúc để chia di
sản,tùy từng trường hợp cụ thể có thể áp dụng cả hai hình thức.
1.4. Các nguyên tắc phân chia di sản thừa kế

1.4.1. Nguyên tắc phân chia di sản thừa kế theo di chúc
Một số nguyên tắc phân chia di sản thừa kế theo di chúc:
Tôn trọng ý chí của người lập di chúc
Nhà nước ta ln tơn trọng ý chí của người lập di chúc. Các quyền của
người lập di chúc được quy định tại điều 648 BLDS 2005. Nhà nước chỉ hạn
chế ý chí của người lập di chúc trong một số trường hợp nhất định.
Tôn trọng sự thỏa thuận của những người thừa kế
Thỏa thuận có ý nghĩa rất quan trọng trong quan hệ thừa kế. Tòa án chỉ
tham gia giải quyết trong trường hợp tranh chấp xảy ra khi những người thừa kế
đã thỏa thuận, bàn bạc với nhau nhưng không đạt đến kết quả thống nhất. Tôn
trọng sự thỏa thuận của những người thừa kế là việc cụ thể hóa của nguyên tắc
này.
Việc phân chia phải đảm bảo tình đồn kết trong gia đình
Ngun tắc này xuất phát từ ngun tắc tơn trọng đạo đức , truyền thống
tốt đẹp quy định tại điều 8 BLDS 2005.
1.4.2. Nguyên tắc phân chia di sản thừa kế theo pháp luật
Ưu tiên chia cho những người ở hàng thừa kế trước
11


Theo pháp luật hiện hành, những người thừa kế theo pháp luật được quy
định thành từng hàng (khoản 1, điều 676 BLDS 2005). Những người thuộc hàng
thừa kế thứ nhất được coi là những người có quan hệ gần gũi nhất đối với người
chết tiếp đến là hàng thứ hai và thứ ba. Pháp luật ưu tiên chia cho những người
ở hàng thừa kế thứ nhất trước “ Những người ở hàng thừa kế sau chỉ đươc
hưởng thừa kế , nếu khơng cịn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, khơng có
quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản”
(khoản 3, điều 676 BLDS 2005)
Chia đều bằng nhau cho những người thừa kế cùng hàng.
Nguyên tắc này là sự cụ thể hóa điều 5 BLDS và thể hiện rõ nhất trong

điều 52 Hiến pháp 2013. Trong quan hệ thừa kế nói chúng và trong phân chia di
sản thừa kế nói riêng, nguyên tắc này cần được bảo đảm. Những người thuộc
cùng một hàng thừa kế được hưởng di sản như nhau (khoản 2 điều 676 BLDS
2005)
Phân chia di sản phải ưu tiên cho một số thành viên trong gia đình
Về nguyên tắc, trong trường hợp di chúc hợp pháp có hiệu lực thì những
người thừa kế sẽ được hưởng đúng phần người lập di chúc chỉ định, sự định
đoạt này được pháp luật tôn trọng. Trong trường hợp, người lập di chúc khơng
cho hoặc cho ít hơn so với quy định của pháp luật đối với những đối tương là
con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên mà khơng có khả
năng lao động hưởng thừa kế thì sẽ được pháp luật ưu tiên cho những người này
được hưởng di sản theo tỉ lệ nhất định (điều 669 BLDS 2005). Nguyên tắc được
được dựa trên quan hệ huyết thống, nuôi dưỡng, hôn nhân.

12


2. Thực tiễn áp dụng các trường hợp bị tước quyền nhận di sản thừa
kế
2.1. Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc
về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm
nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó (điểm a khoản 1 điều 621)
Điều kiện chính được đặt ra trong trường hợp này đó là phải có một bản
án có hiệu lực của pháp luật. Vì vậy, người khơng bị truy cứu trách nhiệm hình
sự hoặc khơng bị kết án thì sẽ khơng bị ràng buộc bởi điều này. Mặt khác, nếu
một người đã bị kết án, sau đó được xóa án tích thì vẫn không được quyền
hưởng di sản theo quy định tại điều này.
* Hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe của người để lại di sản
Khi có hành vi xâm phạm tính mạng và có bản án về hành vi đó của
người có thể được nhận di sản thì ta khơng cần xem xét mục đích của việc xâm

phạm đó có nhằm là hưởng di sản hay khơng mà vẫn tước quyền hưởng di sản.
Tuy nhiên việc người đó bị kết án về việc xâm phạm tính mạng của một người
khơng phải người để lại di sản thì không được tước quyền hưởng di sản.
* Hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm
phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người để lại di sản
Sự ngược đãi, hành hạ, xâm phạm danh dự, nhân phẩm của người để lại
di sản là những hành vi trái pháp luật, được thể hiện thông qua các hành động
như mắng chửi, đánh đập, …Việc xác định hành vi ngược đãi, hành hạ, xâm
phạm danh dự nhân phẩm như thế nào thì bị coi là nghiêm trọng thì hiện vẫn
chưa được quy định. Dù vậy, ta khơng cần đi xác định tính nghiêm trọng mà chỉ
cần dựa vào chính việc đã có bản án về hành vi đó làm căn cứ.

13


2.2. Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di
sản (Điểm b khoản 1 điều 621).
Có những trường hợp sau:
– Người có nghĩa vụ ni dưỡng và người để lại thừa kế có quan hệ con
và cha mẹ, người để lại thừa kế là cha mẹ của họ Pháp luật có quy định về bổn
phận của con là phải chăm sóc ni dưỡng cha mẹ trong mọi trường hợp bất
luận tình trạng kinh tế, sức khỏe của cha mẹ như thế nào. Trên cơ sở nghĩa vụ
ni dưỡng của con đối với cha mẹ thì có nghĩa vụ cấp dưỡng của con đối với
cha mẹ. Khi con vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng cha mẹ theo quy định của pháp
luật thì khơng được hưởng di sản do cha mẹ để lại.
– Người có nghĩa vụ ni dưỡng và người để lại thừa kế có quan hệ cha
mẹ và con, người để lại thừa kế là con của họ
Cha mẹ có nghĩa vụ chăm sóc, ni dưỡng con cái khi con chưa thành
niên hoặc con đã thành niên nhưng bị tàn tật mất năng lực hành vi dân sự,
khơng có khả năng lao động và khơng có tài sản để tự ni sống mình. Nếu cha

mẹ vi phạm nghĩa vụ ni dưỡng trên của mình đối với con cái thì sẽ khơng
được hưởng di sản của con để lại.
– Người có nghĩa vụ ni dưỡng và người để lại thừa kế có quan hệ anh,
chị, em- người để lại thừa kế là anh, chị, em của họ
-Người có nghĩa vụ ni dưỡng và người để lại thừa kế có quan hệ ơng bà
và cháu-người để lại thừa kế là cháu của họ
2.3. Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế
khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có
quyền hưởng (điểm c khoản 1 điều 621).

14


Người thừa kế do mưu đồ muốn chiếm đoạt một phần hoặc toàn bộ di sản
thừa kế mà người thừa kế khác có quyền được hưởng nên đã có hành vi cố ý
xâm phạm tính mạng người thừa kế khác (giết người thừa kế khác). Người thừa
kế khác ở đây có thể hiểu theo hai hướng:
– Thứ nhất, người thừa kế cùng hàng
– Thứ hai, người thừa kế không cùng hàng. Trong trường hợp này buộc
phải là người thừa kế hàng phía trên. Vì khơng có lý do gì giết người ở hàng
thừa kế phía sau với mục đích chiếm đoạt một phần hoặc toàn bộ di sản thừa kế
mà người thừa kế đó được hưởng được.
Tuy nhiên cần phải phân biệt ba trường hợp xâm phạm đến tính mạng của
người thừa kế khác như sau:
– Cố ý xâm phạm tính mạng của người thừa kế khác : giết người thừa kế
khác với mục đích chiếm đoạt một phần hoặc tồn bộ di sản mà người thừa kế
đó được hưởng.Trong trường hợp này, người thừa kế thực hiện hành vi đó sẽ
khơng được quyền hưởng di sản thừa kế
– Cố ý xâm phạm tính mạng của người thừa kế khác : giết người thừa kế
khác nhưng không phải với mục đích chiếm đoạt một phần hoặc tồn bộ di sản

mà người thừa kế đó được hưởng. Trong trường hợp này, người thừa kế thực
hiện hành vi giết người thừa kế khác không bị tước quyền hưởng di sản.
– Vô ý làm chết người thừa kế khác: dĩ nhiên trong trường hợp này là lỗi
vơ ý, hồn tồn khơng thuộc trường hợp bị tước quyền thừa kế, nên người thực
hiện hành vi này vẫn có quyền hưởng di sản
Điều đáng lưu ý ở đây, cũng giống như ở trường hợp không được quyền
hưởng di sản đầu tiên, phải có một bản án có hiệu lực của pháp luật thì người
thực hiện hành vi giết người thừa kế khác đó mới bị tước quyền thừa kế.
15


Ngồi ra, việc áp dụng quy tắc này cũng cịn tùy thuộc vào việc có minh
chứng được hay khơng động cơ phạm tội của người thừa kế: hành vi đó có
nhằm mục đích để chiếm đoạt một phần hoặc tồn bộ di sản mà người thừa kế
có tính mạng bị xâm phạm được hưởng nếu cịn sống hay khơng?
Có hai điều cần phải chú ý:
– Thứ nhất, hành vi phạm pháp phải xảy ra trước thời điểm mở thừa kế.
Bởi lẽ, nếu sau thời điểm mở thừa kế, mỗi người thừa kế đã trở thành chủ sở
hữu thực sự phần thừa kế của mình. Nếu người thừa kế đó chết thì phần được
thừa kế được để lại cho những người thừa kế của họ chứ không phải là kẻ giết
người.
– Thứ hai, động cơ phạm tội phải được ghi nhận trong bản án. Do đó, bản
án khơng thể được tun trước khi mở thừa kế. Vì sẽ rất bất hợp lý nếu gán cho
một người có ý định chiếm đoạt phần tài sản không tồn tại ở thời điểm phạm tội
và cũng không tồn tại ở thời điểm xét xử. Bản án chỉ có thể được tuyên sau khi
mở thừa kế. Trong trường hợp án đã xử xong trước thời điểm mở thừa kế thì có
thể được xét xử lại theo thủ tục tái thẩm.Cũng giống như trong trường hợp nêu
tại điểm a khoản 1 điều 643 thì dù người thừa kế phạm tội quy định tại điều
khoản này được xóa án tích thì vẫn khơng được hưởng di sản.
2.4. Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di

sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc
nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản
(điểm c khoản 1 điều 621).
Quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của cá nhân chính là quyền định
đoạt tài sản của chủ sở hữu khi còn sống. Hành vi cản trở đối với người lập di
chúc là hành vi trái pháp luật, do vậy, người có hành vi cản trở sẽ bị tước quyền
hưởng di sản do người có di sản để lại.
16


Điều luật nhắc tới các hành vi lừa dối, cưỡng ép, ngăn cản việc lập di
chúc, giả mạo, sửa chữa, hủy di chúc, tuy nhiên còn một số hành vi không được
nhà làm luật nêu ra như làm di chúc giả, giấu giếm di chúc,..có thể được xử lý
theo nguyên tắc áp dụng pháp luật tương tự.
Có thể thấy, khác với ba trường hợp không được quyền hưởng di sản đã
kể trên, trường hợp này được dự kiến trong điều kiện mối quan hệ được bảo vệ
là quyền thừa kế theo ý nghĩa vật chất chứ không phải theo ý nghĩa đạo đức.
Trên thực tế, nếu người lập thừa kế bị cưỡng ép hoặc ngăn cản trong việc lập di
chúc thì người đó vẫn có thể sử dụng quyền truất quyền hưởng di sản của người
thừa kế; còn nếu hành vi cưỡng ép, ngăn cản có dấu hiệu bạo lực nghiêm trọng
thì có thể áp dụng các quy tắc trong trường hợp đầu tiên đã nêu. Điều đáng lưu
ý là, trong trường hợp người thừa kế có hành vi lừa dối người lập di chúc hoặc
giả mạo di chúc,…; mà khơng nhằm mục đích hưởng một phần hoặc tồn bộ di
sản trái với ý chí của người lập di chúc thì chỉ áp dụng các biện pháp chế tài
thơng thường của luật dân sự như bồi thường thiệt hại chứ không áp dụng theo
khoản 1 điều 643.

PHẦN 3: KẾT LUẬN
Phân chia di sản thừa kế là một vấn đề khá quan trọng và phức tạp trong
vấn đề thừa kế. Vấn đề thừa kế mới và những hiệu lực pháp luật liên quan cần

phải được quy định cụ thể hơn để tránh tình trạng phân chia di sản khơng đúng,
mất cơng bằng của pháp luật. Trên thực tế, các vụ án kiện về phân chia tài sản
khi có người thừa kế mới còn khá là mới mẻ ở Việt Nam.
PHẦN 4: TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật Dân sự năm 2005
17


2. Bộ luật Dân sự năm 2015
3. PGS.TS. Nguyễn Văn Cừ & PGS.TS. Trần Thị Huệ “Bình luận khoa
học Bộ luật Dân sự năm 2015”, NXB Công an nhân dân
4. TS. Phạm Văn Tuyết & TS.LS. Lê Kim Giang “Pháp luật về thừa kế và
thực tiễn giải quyết tranh chấp”, NXB Tư pháp − 2013
5. PGS.TS. Phùng Trung Tập “Luật Dân sự Việt Nam – Bình giải và áp
dụng Luật Thừa kế”
6. Trường Đại học Luật Hà Nội “Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam – Tập
1”, NXB Công an nhân dân
7. ThS. Nguyễn Văn Huy “Thừa kế trong pháp luật Dân sự Việt Nam”,
NXB Tư pháp – 2017

18



×