Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (355.76 KB, 15 trang )

1

PHẦN I
MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới.
Cả cuộc đời của Người là sự hi sinh giành lấy độc lập, tự do cho đất nước, giải phóng con
người thốt khỏi ách nô lệ. Người đã để lại cho Đảng ta những di sản tinh thần vô giá,
mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam, là nền tảng tư tưởng kim
chỉ nam cho hành động cách mạng của Đảng.
Văn kiện Đại hội lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là
một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt
Nam, kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện
cụ thể của nước ta, kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa
văn hóa nhân loại, là tài sản to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc, mãi mãi soi đường
cho sự nghiệp cách mạng của chúng ta đi đến thắng lợi”1.
Và một trong những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam được Bác ln quan
tâm chú trọng, đó chính là cơng tác cán bộ. Người coi "Cán bộ là cái gốc của mọi công
việc" và "Muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém". Kế thừa tư
tưởng đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta rất coi trọng công tác cán bộ,
luôn quan tâm xây dựng, phát triển và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức
trong các cơ quan, tổ chức của mình; coi đó là lực lượng then chốt bảo đảm cho sự thành
công của sự nghiệp cách mạng.
Nghiên cứu lý luận tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác cán bộ, từ đó vận dụng một
cách hiệu quả trong giai đoạn hiện nay có ý nghĩa đặc biệt quan trong khi nước ta đang
đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất và hội nhập quốc tế, cần có đội ngũ cán bộ
“vừa hồng, vừa chuyên” đáp ứng được yêu cầu thực tiễn đặt ra.
Xuất phát từ ý nghĩa và tầm quan trọng trên, em chọn đề tài “Vận dụng tư tưởng
Hồ Chí Minh về cơng tác cán bộ trong giai đoạn hiện nay” làm bài thu hoạch kết thúc
mơn tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong bài thu hoạch này, ngoài phần khái quát những nội dung cơ bản của tư
tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác cán bộ, sẽ là phần vận dụng tư tưởng của Bác về xây


dựng đội ngũ cán bộ của Đảng trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam và giải pháp thực
hiện hiệu quả công tác cán bộ của tỉnh Bạc Liêu thời gian tới.

1

Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. CTQG, HN.2011. Tr 83-84.


2

PHẦN II
NỘI DUNG
1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CƠNG TÁC CÁN BỘ
1.1. Lý luận chung về công tác cán bộ theo tư tưởng Hồ Chí Minh
1.1.1. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh
Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI của Đảng xác định khái niệm tư tưởng Hồ
Chí Minh một cách khái quát như sau: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan
điểm tồn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản cách mạng Việt Nam, kết quả của sự
vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta,
kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn
hóa của nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta,
mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi2”.
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác cán bộ
Tư tưởng về cán bộ được Bác nêu lên lần đầu tiên trong dịp thăm tỉnh Thanh Hóa,
ngày 20-02-1947: “Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền khơng tốt,
khơng chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt. Cán bộ là những người
đem chính sách của Chính phủ, của Đồn thể thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì
chính sách hay cũng không thể thực hiện được”3, với cách đánh giá như vậy, trong tác
phẩm “Sửa đổi lối làm việc” (10-1947), Người đúc rút: “Muôn việc thành công hoặc thất
bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém. Đó là một chân lý nhất định” và dành toàn bộ phần IV

để viết về vấn đề cán bộ.
Trong công tác cán bộ, yêu cầu đầu tiên của Bác là phải vận dụng quan điểm chủ
nghĩa Mác - Lênin vào việc xem xét, đánh giá cán bộ. Đó là quan điểm khách quan, bởi
nếu khơng thì “cũng như mắt đã mang kính có màu, khơng bao giờ thấu rõ cái mặt thật
của những cái mình trơng”4; quan điểm phát triển “Trong thế giới, cái gì cũng biến hóa.
Tư tưởng của người cũng biến hóa. Vì vậy cách xem xét cán bộ, quyết khơng nên chấp
nhất, vì nó cũng phải biến hóa”; quan điểm lịch sử, cụ thể “Quá khứ, hiện tại và tương lai
của mọi người không phải luôn giống nhau”. Người yêu cầu phải biết phân tích bản chất
và hiện tượng, bên trong và bên ngoài của một con người khi thực hiện các công việc
khác nhau trong cả một giai đoạn dài: “Xem xét cán bộ, khơng chỉ xem ngồi mặt mà cịn
phải xem tính chất của họ. Khơng chỉ xem một việc, một lúc mà phải xem toàn cả lịch sử,
tồn cả cơng việc của họ”. Cùng với đó, Người dẫn chứng rất cụ thể một số biểu hiện của
2

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Sự thật, H.2011, tr.88
Hồ Chí Minh - Tồn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2011, tr. 68
4
Hồ Chí Minh - Tồn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2011, tr. 317
3


3

người tốt, người khơng tốt, thậm chí là tay sai của địch; trong đó, tiêu chuẩn quan trọng
nhất để phân biệt cán bộ tốt là “cần phải xét rõ người đó có gần gụi quần chúng, có được
quần chúng tin cậy và mến phục không”. Với quan điểm và phương pháp đánh giá cán bộ
như vậy không những đánh giá, sử dụng đúng cán bộ mà còn khắc phục được những căn
bệnh, khuyết điểm chủ quan thường mắc trong công tác cán bộ.
Trên cơ sở đánh giá đúng cán bộ, còn phải “khéo dùng cán bộ” - “dụng nhân như
dụng mộc” mới có thể đem lại hiệu quả cao cho cơng việc và “thực hành đầy đủ chính

sách của Đảng và Chính phủ”. Người đưa ra 3 tiêu chuẩn để lựa chọn cán bộ: trung thành
với cách mạng; liên hệ mật thiết với quần chúng và vì lợi ích của quần chúng; đồng thời,
cán bộ còn phải là người dám làm, dám chịu trách nhiệm, khơng sợ khó khăn, gian khổ.
Quan điểm xuyên suốt của Bác trong sử dụng cán bộ là phải khách quan, cơng khai, dân
chủ và vì hiệu quả công việc; phải bàn bạc hỏi ý kiến mọi người, thậm chí, ngay với bản
thân người định trao cơng việc xem có thể đảm nhiệm và phấn khởi thực hiện khơng? Chỉ
có như vậy mới ln dùng đúng người, đúng việc, đúng năng lực, sở trường, phát huy cao
nhất năng lực của mỗi người: “Tài to ta dùng làm việc to, tài nhỏ ta cắt làm việc nhỏ, ai
có năng lực về việc gì, ta đặt ngay vào việc ấy”5. Bất cứ vấn đề gì ở Bác cũng suy xét kỹ
cả tác động theo chiều thuận và chiều ngược để có biện pháp khắc phục, đơi khi chế phục
khơng cho tác động xấu xảy ra. Do đó, việc tổ chức lựa chọn cán bộ một cách dân chủ, vì
hiệu quả cơng việc cịn đạt được mục đích là giúp cho người lãnh đạo tránh được những
căn bệnh ham dùng người thân, ham dùng những kẻ nịnh hót và căn bệnh hẹp hịi làm
ảnh hưởng đến uy tín của Đảng.
Cả cuộc đời hoạt động cách mạng, Bác là người trải nghiệm thực tiễn, nghiên cứu
những tri thức khoa học của nhân loại, phát triển kinh nghiệm dùng người của các bậc
tiền nhân một cách rất biện chứng và nhân văn: “Ta phải dùng chỗ hay của người và giúp
người sửa chữa chỗ dở. Dùng người cũng như dùng gỗ. Người thợ khéo thì gỗ to, nhỏ,
thẳng, cong, đều tùy chỗ mà dùng được”6. Bởi vì, tuy nói “tùy tài mà dùng người”, nhưng
năng lực của mỗi người không phải tự nhiên mà có, phần nhiều tích lũy được qua rèn
luyện, phấn đấu, nên quá trình sử dụng phải biết tạo điều kiện để cán bộ phát huy điểm
mạnh, khắc phục điểm yếu, nếu không vừa hỏng việc vừa mất cán bộ: “Khi cất nhắc rồi
không giúp đỡ họ. Khi họ sai lầm thì đẩy xuống, chờ lúc họ làm khá, lại cất nhắc lên.
Một cán bộ bị nhắc lên thả xuống ba lần như thế là hỏng cả đời”7.
Muốn dùng cán bộ lâu dài, đạt hiệu quả vừa phải có tinh thần đấu tranh phê
bình vừa phải biết u thương cán bộ. Bằng sự từng trải, Bác cho rằng, có làm việc thì có
sai lầm, vấn đề là phải phê bình cho đúng và kịp thời để người cán bộ dễ dàng nhận ra và
5

Hồ Chí Minh - Tồn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2011, tr. 43

Hồ Chí Minh - Tồn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2011, tr. 88
7
Hồ Chí Minh - Tồn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2011, tr. 322
6


4

vui vẻ sửa chữa. Phê bình cho đúng tức là khơng nên nặng lời, cơng kích mà bằng thái độ
chân thành cùng với họ phân tích nguyên nhân và hậu quả của sai lầm đó, làm cho người
mắc sai lầm tự nhận rõ để sẵn sàng khắc phục, khơng có cảm giác bị ép buộc phải sửa
chữa. Kịp thời là “hễ thấy cán bộ sai lầm, phải lập tức sửa chữa ngay”, không để xảy ra
sai lầm lớn. Nếu để xảy ra lầm lỗi lớn mà khơng xử phạt thì sẽ mất sự tôn nghiêm của kỷ
luật, mà xử phạt thì làm cho người đó “mất cả lịng tự tin, người hăng hái cũng hóa thành
nản chí, từ nản chí đi đến vơ dụng”8.
Như vậy, quan điểm về phê bình cán bộ của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện
tính nhân văn sâu sắc và tình thương đối với cán bộ. Người cho rằng: “Không phải vài ba
tháng, hoặc vài ba năm, mà đào tạo được một người cán bộ tốt. Nhưng cần phải công tác,
tranh đấu, huấn luyện lâu năm mới được. Trái lại, trong lúc tranh đấu, rất dễ mất một
người cán bộ”9. Theo Bác, phê bình và yêu thương có sự tác động với nhau một cách biện
chứng: “Thương yêu là luôn luôn chú ý đến công tác của họ, kiểm thảo họ. Hễ thấy
khuyết điểm thì giúp cho họ sửa chữa ngay” 10. Người cịn cho rằng, thương yêu là tạo
điều kiện để cán bộ học tập nâng cao trình độ và cơ hội cống hiến; đồng thời, quan tâm
giúp họ giải quyết những vấn đề khó khăn trong cuộc sống để n tâm cơng tác.
Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cán bộ và cơng tác cán bộ đến nay cịn
ngun giá trị. Tư tưởng của Người soi rọi qua tất cả các khâu, các bước của quy trình
cơng tác cán bộ, từ quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, nhận xét, đề bạt, luân
chuyển đến chính sách cán bộ và được vận dụng một cách thiết thực trong từng giai đoạn
cách mạng.
1.2. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác cán bộ

Cán bộ và cơng tác cán bộ luôn là nhân tố đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa quyết
định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Vì vậy, trong cả cuộc đời hoạt động của mình,
Chủ tịch Hồ Chí Minh ln dành sự quan tâm đặc biệt cho việc xây dựng đội ngũ cán bộ
và cơng tác cán bộ. Có thể khái qt, cơng tác cán bộ theo tư tưởng của Bác ở một số
điểm sau đây:
1.2.1. Quan điểm về đánh giá cán bộ
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong cơng tác cán bộ, việc đánh giá cán bộ là một
trong những khâu rất quan trọng và Người chỉ ra ba nội dung trọng tâm sau:
Thứ nhất, phải tiến hành thường xuyên: nhiệm vụ cách mạng ln vận động và
biến đổi, do đó địi hỏi đội ngũ cán bộ cũng phải thay đổi theo. Việc đánh giá cán bộ
thường xuyên sẽ giúp bố trí cán bộ phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng; giúp cho tổ
8

Hồ Chí Minh - Tồn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2011, tr. 322
Hồ Chí Minh - Tồn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2011, tr. 322
10
Hồ Chí Minh - Tồn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2011, tr. 323
9


5

chức “biết rõ cán bộ”, nắm chắc đội ngũ cán bộ để có chính sách và biện pháp thích hợp,
đồng thời tạo tâm lý yên tâm cho đội ngũ cán bộ trong hoạt động thực tiễn.
Thứ hai, phải khách quan, toàn diện: muốn đánh giá cán bộ một cách khách quan
phải chú ý đến năng lực, phẩm chất, hiệu quả cơng việc. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng
đánh giá cán bộ phải chú trọng đến phẩm chất đạo đức và coi đây là yếu tố quan trọng
nhất trong đánh giá cán bộ. Người chỉ rõ: “Ai mà hay khoe cơng việc, hay a dua, tìm việc
nhỏ mà làm, trước mặt thì theo mệnh lệnh, sau lưng thì trái mệnh lệnh, hay cơng kích
người khác, hay tự tâng bốc mình, những người như thế, tuy họ làm được việc, cũng

không phải cán bộ tốt”11. Ngược lại: “ai cứ cắm đầu làm việc, khơng ham khoe khoang,
ăn nói ngay thẳng, khơng che giấu khuyết điểm của mình, khơng ham việc dễ, tránh việc
khó, bao giờ cũng kiên quyết làm theo mệnh lệnh của Đảng, vơ luận hồn cảnh của họ
thế nào lịng họ cũng khơng thay đổi, những người như thế, dù công tác kém một chút
cũng là cán bộ tốt”12. Theo Người, việc đánh giá cán bộ cần phải dựa vào nhân dân, phát
huy dân chủ và nắm bắt được dư luận xã hội mới bảo đảm thực chất và hiệu quả.
Việc xem xét cán bộ không chỉ đánh giá những biểu hiện bên ngoài mà phải xem
xét kỹ toàn bộ công việc của cán bộ, phải đứng trên quan điểm “động” và “phát triển”:
“Trong thế giới, cái gì cũng biến hóa. Tư tưởng của con người cũng biến hóa. Vì vậy,
cách xem xét cán bộ, quyết khơng nên chấp nhất, vì nó cũng phải biến hóa. Một người
cán bộ khi trước khơng có sai lầm, nhưng chắc gì sau này không phạm sai lầm, quá khứ,
hiện tại và tương lai của một người không phải luôn luôn giống nhau”13.
Thứ ba, phải tự “biết mình”, phải sáng suốt, tỉnh táo: để đánh giá người khác,
trước hết bản thân phải là người cán bộ có đủ tư cách, phẩm chất đạo đức cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Đã khơng tự biết mình thì khó mà biết người, vì
vậy muốn biết đúng sự phải trái ở người ta thì trước hết phải biết đúng sự phải trái của
mình. Nếu khơng biết sự phải trái ở mình, thì chắc không thể nhận rõ người cán bộ tốt
hay xấu”14. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cán bộ cách mạng phải có đầy đủ chuẩn mực
đạo đức thì trong cơng việc mới hồn thành tốt nhiệm vụ được giao. Người cịn nhắc nhở
những người làm công tác cán bộ phải dũng cảm nhìn nhận và kiên quyết khắc phục
những hạn chế, khuyết điểm của mình.
1.2.2. Tư tưởng về huấn luyện cán bộ
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, huấn luyện cán bộ là một nội dung quan trọng trong
công tác cán bộ. Đây cũng chính là một trong những biện pháp cơ bản để xây dựng đội
ngũ cán bộ đủ đức, đủ tài, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cách mạng. Người khẳng
11

Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 5, Nxb CTQG, H.2011, tr.318
Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 5, Nxb CTQG, H.2011, tr.318
13

Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 5, Nxb CTQG, H.2011, tr.317
14
Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 5, Nxb CTQG, H.2011, tr.317
12


6

định: “vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người. Chúng ta phải đào tạo ra những công dân
tốt và cán bộ tốt cho nước nhà”15.
Mục đích của việc huấn luyện cán bộ là xây dựng và khơng ngừng hồn thiện đội
ngũ cán bộ cả về phẩm chất và năng lực, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng. Phải đào
tạo một đội ngũ cán bộ “có gan phụ trách, có gan làm việc” 16. Người yêu cầu: “Đào tạo
cán bộ không được làm qua loa, đại khái... mà phải nuôi dạy cán bộ như người làm vườn
vun trồng cây cối quý”17.
1.2.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sử dụng cán bộ
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, việc sử dụng cán bộ cần thực hiện tốt bốn nội dung sau:
Thứ nhất, về phát hiện và lựa chọn cán bộ: trong tuyển chọn cán bộ, Người cho
rằng không thiên tư, thiên vị, khơng phân biệt người trong hay người ngồi Đảng mà lựa
chọn những người thật sự có đức, có tài. Người căn dặn: “Phong trào giải phóng sơi nổi,
nảy nở ra rất nhiều nhân tài ngồi Đảng. Chúng ta khơng được bỏ rơi họ, xa cách họ.
Chúng ta phải thật thà đoàn kết với họ, nâng đỡ họ. Phải thân thiết với họ, gần gũi họ,
đem tài năng của họ giúp ích vào cuộc kháng chiến cứu nước”18.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, việc lựa chọn cán bộ phải căn cứ vào từng thời kỳ
cách mạng để thật sự phù hợp với nhiệm vụ chính trị mà cách mạng đặt ra. Theo Người,
việc lựa chọn cán bộ phải dựa vào những tiêu chuẩn sau: Những người tỏ ra trung thành và
hăng hái trong công việc, trong lúc đấu tranh; Những người liên lạc mật thiết với dân
chúng, hiểu biết dân chúng, ln ln chú ý tới lợi ích của dân chúng. Như thế thì dân mới
tin cậy cán bộ và nhận cán bộ đó là người lãnh đạo của họ; Những người có thể phụ trách
và giải quyết các vấn đề, trong những hồn cảnh khó khăn. Ai sợ phụ trách và khơng có

sáng kiến thì khơng phải là người lãnh đạo. Người lãnh đạo đúng đắn thì cần phải: khi thất
bại không hoang mang, khi thắng lợi không kiêu ngạo, khi thi hành các nghị quyết kiên
quyết, gan góc, khơng sợ khó khăn; Những người ln ln giữ kỷ luật”19.
Thứ hai, về nghệ thuật dùng cán bộ, Người căn dặn: “khéo dùng cán bộ là phải
khéo nâng cao chỗ tốt, khéo sửa chữa chỗ xấu cho họ”20, “dùng người như dùng gỗ.
Người thợ khéo thì gỗ to, nhỏ, thẳng cong đều tùy chỗ mà dùng được”. Nếu cán bộ mà
được sắp xếp đúng sở trường, đúng nghề được đào tạo thì cơng việc sẽ đạt hiệu quả cao,
ngược lại, phân công không đúng sở trường, chuyên môn nhiệm vụ thì sẽ rất vất vả, khó
khăn, dẫn đến chán nản, bỏ bê công việc, kết quả công việc không đạt u cầu.
15

Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 11, Nxb CTQG, H.2011, tr.528
Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 5, Nxb CTQG, H.2011, tr.32
17
Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 11, Nxb CTQG, H.2011, tr.313
18
Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 11, Nxb CTQG, H.2011, tr.315
19
Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 11, Nxb CTQG, H.2011, tr.315
20
Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 11, Nxb CTQG, H.2011, tr.318
16


7

Khéo dùng cán bộ cịn có nghĩa là phải tin tưởng vào cán bộ, tạo điều kiện, cơ hội
để khuyến khích họ phát huy dân chủ và tinh thần trách nhiệm của mình. Đối với cấp
dưới, người lãnh đạo phải tiếp thu, lắng nghe, góp ý, phê bình. Nếu ý kiến cấp dưới
không đúng, cấp trên không quở trách mà nên vui vẻ giải thích cho họ hiểu và động viên

họ tiếp tục nỗ lực hơn nữa trong công tác.
Khéo dùng cán bộ còn thể hiện ở chỗ biết kết hợp hài hòa giữa thế hệ cán bộ đi
trước và cán bộ kế cận. Những cán bộ đi trước có nhiều kinh nghiệm về lãnh đạo, được
rèn luyện thử thách nhiều trong thực tế. Còn cán bộ trẻ là những người hăng hái, nhiệt
huyết, nhạy cảm với cái mới và chịu khó học tập nên nhanh tiến bộ.
Thứ ba, về cất nhắc, đề bạt cán bộ: trong quá trình sử dụng cán bộ, Người yêu cầu
phải thật sự thận trọng khi “cất nhắc lên” hoặc “đẩy xuống”. Người chỉ rõ: “Cất nhắc cán
bộ không nên làm như giã gạo”. Nghĩa là từ trước khi cất nhắc không xem xét kỹ, khi cất
nhắc rồi không giúp đỡ họ, khi họ sai lầm thì đẩy họ xuống, chờ lúc họ làm khá lại cất
nhắc lên. Một cán bộ bị “nhấc lên”, “thả xuống” ba lần như thế thì “hỏng cả đời”.
Thứ tư, về cách đối xử với cán bộ: dù làm việc ở bất cứ cương vị nào, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đều đối xử với cán bộ một cách đúng mực, hài hịa, tinh tế, nhân văn. Theo
Người, có năm cách ứng xử với cán bộ:
- Chỉ đạo cấp dưới: có nghĩa là chỉ đạo việc thực thi đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước từ trung ương đến địa phương. Khơng phải việc gì cấp trên
cũng phải nhúng tay vào, biến cán bộ cấp dưới như cái máy. Mục đích của “chỉ đạo” là
để phát triển năng lực và sự sáng tạo của cán bộ đúng với đường lối của Đảng, ngang tầm
với sự phát triển của cách mạng.
- Tự nâng cao bản thân: phải luôn luôn tự giác nâng cao bản thân, có ý thức vươn
lên để hồn thành tốt cơng việc trong mọi hồn cảnh. Tự đổi mới bản thân, cập nhật
những thông tin, kiến thức từ thực tiễn để nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý.
- Kiểm tra: kiểm tra cán bộ không phải là “bới lơng tìm vết”, “đào chuyện cũ ra
làm án mới”, vì vậy khơng phải ngày nào cũng kiểm tra. Kiểm tra là để xem xét q trình
cơng tác và học tập có tiến bộ hay hạn chế, khuyết điểm để giúp đỡ người tiến bộ ít, khen
người tiến bộ nhiều, giúp mọi người rút kinh nghiệm, sửa chữa khuyết điểm và phát huy
ưu điểm của bản thân.
- Tự sửa chữa, cải tạo: mỗi người tài giỏi đến đâu cũng có thể mắc những sai lầm,
thiếu sót. Chính vì vậy, khi cán bộ mắc phải những sai lầm, thiếu sót thì người lãnh đạo,
quản lý phải xem xét kỹ những yếu tố khách quan và chủ quan dẫn đến những sai lầm đó,
phải có thái độ thân tình, chân thành để họ có thể nhận ra sai lầm và kịp thời sửa chữa.

Tuy nhiên, cần phải nghiêm khắc và kiên quyết xử phạt đối với cán bộ sai lầm. Người


8

cho rằng: “Nếu nhất nhất khơng xử phạt thì sẽ mất cả kỷ luật, thì sẽ mở đường cho bọn
cán bộ cố ý phá hoại. Vì vậy, hồn tồn khơng dùng xử phạt là hồn tồn khơng đúng.
Mà chút gì cũng dùng đến xử phạt cũng không đúng”21.
- Giúp đỡ cán bộ: tức là phải tạo những điều kiện cho cán bộ có cuộc sống và việc
làm thật tốt; khơng ngừng ổn định và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần để cán bộ
yên tâm công tác. Từ đó cán bộ có thể phát huy hết trí tuệ, năng lực để phục vụ cho
Đảng, Nhà nước.
1.2.4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách cán bộ
Ở mỗi thời kỳ cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln đổi mới, phát triển tư tưởng
này ở những khía cạnh, góc độ phù hợp với yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ. Người yêu
cầu chính sách cán bộ phải “Hiểu biết cán bộ, khéo dùng cán bộ, cất nhắc cán bộ, thương
u cán bộ, phê bình cán bộ”22.
Chính sách cán bộ trong tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống những quan điểm, chủ
trương, biện pháp nhằm xây dựng, huấn luyện và phát triển đội ngũ cán bộ cách mạng,
tạo điều kiện tốt nhất có thể để bản thân cán bộ có cuộc sống tốt và n tâm cơng tác;
giúp cho đội ngũ cán bộ phát huy trí tuệ, khả năng của mình để cống hiến cho cách mạng.
1.2.5. Chống các biểu hiện tiêu cực trong công tác cán bộ
Để chống các biểu hiện tiêu cực trong công tác cán bộ, người làm công tác tổ chức
cán bộ phải học tập, phấn đấu rèn luyện không ngừng, đồng thời phải đề phòng và hết
sức tránh bốn vấn đề sau:
Thứ nhất, ham dùng người bà con, anh em quen biết, bạn bè. Người phê phán: “có
những đồng chí cịn giữ thói “một người làm quan cả họ được nhờ”, đem bà con, bạn hữu
đặt vào chức này việc kia, làm được hay khơng, mặc kệ. Hỏng việc đồn thể chịu, cốt cho
bà con, bạn hữu có địa vị là được”23.
Thứ hai, ham dùng những kẻ khéo nịnh hót mà ghét những người chính trực. Theo

Chủ tịch Hồ Chí Minh, những kẻ xu nịnh bao giờ cũng là kẻ cơ hội, có những kẻ cơ hội
chính trị, nhưng cũng có những kẻ cơ hội về quyền lợi tầm thường. Nếu không tỉnh táo
đề phịng thì những kẻ này sẽ tìm cách chui vào nắm giữ những chức vụ trong Đảng,
chính quyền và các đoàn thể, gây tác hại rất lớn.
Thứ ba, ham dùng những người tính tình hợp với mình và khơng dùng những
người khơng hợp với mình, bất kể người đó có năng lực ra sao. Trong guồng máy cán bộ
chỉ chú ý những điểm về tính cách mà khơng chú ý đến phẩm chất và năng lực, coi đó là
21

Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 11, Nxb CTQG, H.2011, tr.324
Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 11, Nxb CTQG, H.2011, tr.317
23
Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 11, Nxb CTQG, H.2011, tr.90
22


9

điều kiện tiên quyết trong việc dùng cán bộ thì sẽ sa vào bè phái, dẫn đến phe nhóm, chia
rẽ gây mất đoàn kết.
Thứ tư, hiện tượng địa phương cục bộ trong công tác cán bộ. Người nhắc nhở:
bệnh địa phương phải tẩy cho sạch. Thực chất, đó là yêu cầu bảo đảm về công tác luân
chuyển cán bộ một cách hợp lý mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra từ rất sớm: “phải
phân phối cán bộ cho đúng” và “phải dùng người đúng chỗ, đúng việc”. Những căn bệnh
nêu trên đã gây ra nhiều khó khăn, tác hại khơng nhỏ đến cơng tác xây dựng Đảng nói
chung và cơng tác cán bộ nói riêng, Người chỉ rõ: “Vì những bệnh đó, kết quả những
người kia đã làm bậy, mình cũng cứ bao dung, che chở, bảo hộ, khiến cho chúng càng
ngày càng hư hỏng. Đối với những người chính trực thì bới lơng tìm vết để trả thù. Như
thế, cố nhiên là hỏng cả công việc của Đảng, hỏng cả danh giá của người lãnh đạo”24.
2. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CƠNG TÁC CÁN BỘ

TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY Ở VIỆT NAM
Nhìn chung, đội ngũ cán bộ trong giai đoạn hiện nay có lập trường tư tưởng, bản
lĩnh chính trị vững vàng, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục
tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có tư duy đổi mới, có đạo đức, lối
sống giản dị, gương mẫu, có ý thức tổ chức kỷ luật, ln tu dưỡng, rèn luyện, trình độ,
năng lực được nâng lên, phấn đấu, hoàn thành nhiệm vụ được giao. Nhiều cán bộ năng
động, sáng tạo, thích ứng với xu thế hội nhập, có khả năng làm việc trong môi trường
quốc tế.
Công tác cán bộ đã bám sát các quan điểm, nguyên tắc của Đảng, ngày càng đi
vào nền nếp và đạt được những kết quả quan trọng. Đã ban hành nhiều nghị quyết, kết
luận, chỉ thị và sửa đổi, bổ sung nhiều quy định, quy chế để tổ chức thực hiện. Các quy
trình cơng tác cán bộ ngày càng chặt chẽ, đồng bộ, công khai, minh bạch, khoa học và
dân chủ hơn. Việc xử lý kịp thời, nghiêm minh một số tổ chức, cá nhân vi phạm đã góp
phần cảnh tỉnh, cảnh báo, răn đe và ngăn chặn tiêu cực, làm trong sạch một bước đội ngũ
cán bộ, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.
Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận không nhỏ cán bộ phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý
chí, làm việc hời hợt, ngại khó, ngại khổ, suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, có biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hố". Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý,
trong đó có cả cán bộ cấp chiến lược, thiếu gương mẫu, uy tín thấp, năng lực, phẩm chất
chưa ngang tầm nhiệm vụ, quan liêu, xa dân, cá nhân chủ nghĩa, vướng vào tham nhũng,
lãng phí, tiêu cực, lợi ích nhóm. Tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tuổi, chạy quy

24

Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 11, Nxb CTQG, H.2011, tr.31


10

hoạch, chạy luân chuyển, chạy bằng cấp, chạy khen thưởng, chạy danh hiệu, chạy tội...,

trong đó có cả cán bộ cao cấp, chậm được ngăn chặn, đẩy lùi.
Công tác cán bộ còn nhiều hạn chế, bất cập, việc thực hiện một số nội dung cịn
hình thức. Quy hoạch cán bộ thiếu tính tổng thể, liên thơng giữa các cấp, các ngành, các
địa phương; cịn dàn trải, khép kín, chưa bảo đảm phương châm "động" và "mở". Tình
trạng bổ nhiệm cán bộ khơng đủ tiêu chuẩn, điều kiện, trong đó có cả người nhà, người
thân, họ hàng, "cánh hẩu" xảy ra ở một số nơi, gây bức xúc trong dư luận xã hội.
Đứng trước những vấn đề trên, Việt Nam cần có đội ngũ cán bộ đủ đức, đủ tài để
gánh vác trách nhiệm to lớn đưa đất nước đi lên, đáp ứng nhu cầu phát triển trong xu
hướng hội nhập. Việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác cán bộ trong giai đoạn
hiện nay cần đảm bảo:
Thứ nhất, thực sự coi việc xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược
là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, quán triệt sâu sắc quan điểm của Hồ Chí Minh: “Kiến
thiết cần có nhân tài. Nhân tài nước ta dù chưa có nhiều lắm, nhưng nếu chúng ta khéo
lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài ngày càng phát triển càng thêm
nhiều”25. Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng; công tác cán bộ là
khâu then chốt của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Do vậy, xây dựng đội
ngũ cán bộ, đặc biệt là cán bộ cấp chiến lược phải được tiến hành thường xuyên, thận
trọng, khoa học, chặt chẽ và hiệu quả, xác định đầu tư xây dựng đội ngũ cán bộ là đầu tư
cho phát triển lâu dài, bền vững.
Thứ hai, trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược cần chú trọng tới việc
đánh giá, phát hiện các cán bộ có “đức”, có “tài”. Trước tiên, rà sốt để phát hiện những
cá nhân tiêu biểu, xuất sắc được đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện từ các nguồn quy hoạch.
Trong đó, đặc biệt chú ý tới những người có triển vọng phát triển: đã được thử thách qua
thực tiễn, có kinh nghiệm thực tế, có thành tích nổi trội, và phải có “đức”. Bởi “cũng như
sơng thì có nguồn mới có nước, khơng có nguồn thì sơng cạn. Cây phải có gốc, khơng có
gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì dù tài giỏi mấy
cũng khơng lãnh đạo được nhân dân”26. “Đức” có nhiều nội dung, song đối với người cán
bộ cách mạng thì nội dung đầu tiên của đức là phẩm chất chính trị. Bên cạnh đó là đạo
đức cá nhân với các nội dung: cần, kiệm, liêm, chính mà Người ví như bốn mùa của một
năm, không thể thiếu được mùa nào. Mặt khác, trong công tác đánh giá, phát hiện, giới

thiệu bầu cử, bổ nhiệm, cần kiên quyết không để lọt những người không xứng đáng,
những người chạy chức, chạy quyền vào đội ngũ cán bộ cấp chiến lược. Khi phân cơng,

25
26

Hồ Chí Minh, Tồn tập, Sđd, t. 4, tr. 114
Hồ Chí Minh, Tồn tập, Sđd, t. 5, tr. 292


11

phân cấp, gắn với giao quyền, ràng buộc trách nhiệm, đồng thời tăng cường kiểm tra,
giám sát, kiểm soát quyền lực và xử lý nghiêm minh sai phạm.
Thứ ba, chú trọng đến việc đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt, từ
chuyên môn nghiệp vụ đến các kỹ năng làm việc, lãnh đạo, đồng thời nâng cao nhận
thức, tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ. Những hoạt
động trên cần tiến hành theo định kỳ cho cán bộ các cấp, cán bộ nguồn đã được quy
hoạch. Gắn liền với đó là, xây dựng tiêu chuẩn và có kế hoạch, biện pháp đào tạo bồi
dưỡng, rèn luyện, thử thách đối với cán bộ nguồn theo hướng ưu tiên cán bộ trẻ, thật sự
ưu tú và có cơ cấu hợp lý giữa các địa phương, ngành nghề, lĩnh vực. Một mặt, chuẩn hóa
đội ngũ cán bộ, bảo đảm trình độ ngoại ngữ, chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng quản lý.
Mặt khác, tăng cường cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao đạo đức cách mạng,
thực hiện nghiêm túc chế độ học tập, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ, nhất là cán
bộ trẻ.
Thứ tư, chú trọng tới công tác tuyển dụng, và ln chuyển cán bộ. Trong đó,
cơng tác tuyển dụng cần có kế hoạch để có cơ cấu hợp lý, tinh giản số lượng và
nâng cao chất lượng, bảo đảm cán bộ được tuyển dụng, cất nhắc đáp ứng được
những tiêu chuẩn rõ ràng, có khả năng đáp ứng được yêu cầu về chuyên môn,
nghiệp vụ, ngoại ngữ, trình độ lý luận chính trị. Muốn vậy, cơng tác tuyển dụng

phải đúng mục tiêu, quan điểm và tiêu chuẩn đánh giá, sử dụng cán bộ. Việc luân
chuyển cán bộ được quan tâm nhằm khắc phục tình trạng trì trệ, gia trưởng, chủ
quan, tham ô, trù úm, tạo cho cán bộ sức sống mới, chủ động rèn luyện trong hoàn
cảnh mới. Để việc luân chuyển cán bộ hiệu quả, cần phát hiện được điểm mạnh,
điểm yếu của cán bộ để bố trí cơng tác phù hợp hơn, thận trọng để tránh sự xáo trộn,
ngắt đoạn công việc khi thực hiện luân chuyển. Trong công tác tuyển dụng và luân
chuyển cán bộ, cần kết hợp để có cơ cấu lứa tuổi hợp lý, bảo đảm chuyển tiếp vị trí
cơng tác giữa người già và người trẻ; người tại địa phương và người nơi khác; cán
bộ, công chức nam và nữ và giữa các ngạch bậc.
Thứ năm, triển khai thực hiện chế độ, chính sách trọng dụng nhân tài, trong
đó chú trọng đến những chính sách dùng người, chính sách tiền lương, chính sách
khen thưởng, chính sách nhà cửa. Chính sách dùng người, bảo đảm dân chủ, tạo
điều kiện và khích lệ cán bộ “cả gan nói, cả gan đề ra ý kiến”, “cả gan phụ trách”,
“cả gan làm việc”. Chính sách tiền lương, bảo đảm lương là nguồn thu nhập chính
đáp ứng được nhu cầu sinh hoạt của cán bộ và gia đình cán bộ, tạo động lực cho cán
bộ phát huy năng lực, nâng cao hiệu quả cơng tác, góp phần phịng, chống tham
nhũng. Ngồi ra, cần phải có những chính sách ưu đãi đặc biệt như khen thưởng,
nhà ở công vụ... đối với những nhân tài là cán bộ ở vị trí chiến lược, những chuyên


12

gia, những nhà khoa học có đóng góp lớn đối với sự phát triển của đất nước.
3. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CƠNG TÁC CÁN BỘ
TẠI TỈNH BẠC LIÊU
Thực hiện đường lối lãnh đạo của Đảng, thời gian qua công tác cán bộ tại
tỉnh Bạc Liêu luôn được Đảng bộ quan tâm. Nhiệm kỳ 2015 – 2020 và những nhiệm
kỳ tiếp theo có 6.008 lượt cán bộ được phát hiện đưa vào quy hoạch cán bộ lãnh
đạo, quản lý các cấp. Trong đó, quy hoạch cấp ủy, Ban Thường vụ và các chức danh
chủ chốt của tỉnh 146 lượt đồng chí; quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý sở, ban,

ngành tỉnh 398 lượt đồng chí; quy hoạch cấp ủy và chức danh chủ chốt cấp huyện
và tương đương 928 lượt đồng chí; quy hoạch cấp xã 4.536 lượt đồng chí. Từ năm
2009 đến nay, đã có trên 116.000 lượt cán bộ, công chức, viên chức được đào tạo,
bồi dưỡng và 702 lượt cán bộ, công chức các cấp được luân chuyển. Tuy nhiên, một
số khâu trong cơng tác cán bộ cịn những hạn chế, yếu kém: Nhận xét, đánh giá cán
bộ cịn chậm, có trường hợp chưa đúng thực chất; quy hoạch, đào tạo cán bộ, nhất là
cán bộ nữ, cán bộ trẻ, cán bộ khoa học đầu ngành chưa theo kịp yêu cầu; sắp xếp,
bố trí cán bộ có trường hợp chưa hợp lý; tính tiền phong gương mẫu trong thực hiện
chức trách, nhiệm vụ của một số cán bộ, đảng viên chưa cao; đạo đức lối sống thiếu
tiêu biểu; còn nể nang, ngại va chạm trong tự phê bình và phê bình.
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV nhiệm kỳ 2015 - 2020, nhấn
mạnh “Nâng cao chất lượng trong thực hiện các khâu, quy trình cơng tác cán bộ;
xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị”. Dự thảo Nghị quyết
của Tỉnh ủy trình Hội nghị về đẩy mạnh việc học tập, rèn luyện nâng cao trình độ,
phẩm chất, đạo đức, lối sống trong đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức, cũng
đề cập “Làm tốt công tác quy hoạch, tạo nguồn; quan tâm cán bộ nữ, cán bộ trẻ, cán
bộ người dân tộc thiểu số. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phù hợp từng chức danh, vị trí
việc làm….Thực hiện tốt cơng tác ln chuyển, tạo điều kiện để cán bộ trưởng
thành và phát triển toàn diện… Kịp thời thay thế đối với cán bộ yếu kém về phẩm
chất, năng lực, khơng hồn thành nhiệm vụ và uy tín giảm sút”…
Để thời gian tới thực hiện có hiệu quả hơn về cơng tác quy hoạch, đào tạo,
bồi dưỡng, luân chuyển cán bộ, cần thực hiện tốt một số giải pháp như sau:
Một là, về công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp
Để làm tốt công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, cần lưu ý:
Thứ nhất, làm tốt công tác phát hiện nguồn cán bộ đưa vào quy hoạch là vấn
đề có ý nghĩa quan trọng, quyết định chất lượng quy hoạch. Cần chú ý các nguồn
sau: (1) Phát hiện nguồn từ quy hoạch cán bộ của cấp dưới: quy hoạch cán bộ phải


13


được thực hiện từ dưới lên, quy hoạch cấp dưới là cơ sở của quy hoạch cấp trên,
đảm bảo sự liên thông, gắn kết quy hoạch giữa các cấp, các ngành. (2) Phát hiện
nguồn thông qua công tác nhận xét, đánh giá cán bộ hàng năm, theo nhiệm kỳ và
trước khi quy hoạch; từ việc lấy phiếu tín nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý; từ hiệu
quả thực thi nhiệm vụ của cán bộ. (3) Phát hiện nguồn thông qua mối quan hệ công
tác giữa cấp trên và cấp dưới, giữa ngành dọc, ngành ngang với nhau và trong quá
trình kiểm tra, giám sát của cấp ủy, tổ chức đảng, ngành chức năng. (4) Phát hiện
nguồn từ xa, từ dự nguồn cán bộ, công chức: Tại Kết luận số 24-KL/TW, ngày 056-2012 của Bộ Chính trị về cơng tác quy hoạch và luân chuyển cán bộ, yêu cầu
“Đổi mới công tác tạo nguồn cán bộ theo hướng lựa chọn sinh viên tốt nghiệp loại
giỏi ở các trường đại học có chất lượng cử về cơ sở, từ đó để chọn lọc nguồn quy
hoạch cán bộ lâu dài”. Vấn đề này, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Đề án số
01 về tuyển chọn, đưa trí thức trẻ về cơ sở công tác; hiện nay một số huyện cũng đề
xuất quy hoạch lấy từ nguồn này. Tuy nhiên, việc đưa vào quy hoạch còn liên quan
đến các quy định về đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử…các đối
tượng phải là đảng viên hoặc công chức, cho nên việc này cần tiếp tục nghiên cứu
thêm về cơ chế, chính sách.
Thứ hai, thực hiện đúng phương châm, cơ cấu, số lượng cán bộ quy hoạch:
Phải đảm bảo phương châm quy hoạch “mở” và “động”, khắc phục tình trạng quy
hoạch khép kín, tâm lý chỉ muốn người tại chỗ; thực hiện tốt việc rà soát, bổ sung
quy hoạch, qua rà soát, cần bổ sung cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ có triển vọng.
Đảm bảo nguồn quy hoạch từ 1,5 - 2 lần so với số lượng cấp ủy, ban thường vụ cấp
ủy đương nhiệm, khơng quy hoạch ít hơn số lượng quy định sẽ gặp khó khăn khi
sàng lọc để làm công tác nhân sự, đồng thời cũng không quy hoạch quá nhiều so với
số lượng quy định, sẽ gây lãng phí và q tải trong cơng tác đào tạo, bồi dưỡng
chuẩn hóa chức danh theo quy hoạch. Đảm bảo dãn cách 3 độ tuổi trong quy hoạch
(mỗi độ tuổi dãn cách là 5 nãm), tỷ lệ cán bộ nữ không dýới 15% trong quy hoạch
cấp ủy, ban thýờng vụ cấp ủy và ban lãnh đạo chính quyền các cấp; cán bộ người
dân tộc thiểu số phù hợp với tình hình thực tế.
Thứ ba, để tăng cường tạo nguồn cán bộ trẻ, cán bộ nữ trong quy hoạch

cũng như trong đội ngũ cán bộ, công chức, một số địa phương, cơ quan, đơn vị đề
xuất các giải pháp sau: (1) Tăng cường hơn nữa thực hiện xã hội hóa các lĩnh vực
mà nhà nước khơng cần nắm giữ, như các dịch vụ công, các hoạt động xã hội nghề
nghiệp… chuyển một số công chức, viên chức (nhất là số khơng cịn trẻ) sang các
đơn vị sự nghiệp tự hạch tốn, để tuyển dụng cơng chức là cán bộ trẻ, cán bộ nữ. (2)
Có cơ chế chính sách mạnh hơn, thỏa đáng hơn, thơng thống hơn nữa để sàng lọc


14

đội ngũ cán bộ, qua đó mạnh dạn giải quyết chính sách những cán bộ, cơng chức,
viên chức thiếu chuẩn, năng lực hạn chế, yếu kém, khơng có triển vọng phát triển,
để thay thế vào cán bộ trẻ, cán bộ nữ.
Hai là, đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
Tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ; thực hiện đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải theo quy hoạch, theo kế hoạch, theo
tiêu chuẩn chức danh; không đào tạo tràn lan; khắc phục tình trạng chạy theo bằng
cấp, nhiều cán bộ, công chức muốn học cao học, nghiên cứu sinh, trong khi vị trí
việc làm, tiêu chuẩn chức danh và ngạch cơng chức khơng có u cầu. Đẩy mạnh
việc cập nhật kiến thức mới trong giảng dạy, gắn lý thuyết với thực hành, kỹ năng
xử lý các vấn đề nảy sinh từ thực tiễn; tăng lượng kiến thức về tư duy và tầm nhìn
chiến lược, nhận thức và phương pháp ứng xử, đề phòng, giải quyết các vấn đề mới
nảy sinh. Đổi mới cách dạy, cách học, phát huy tính tích cực của người học, vận
dụng kiến thức vào trong thực tiễn. Yêu cầu chung là sau khi cán bộ, công chức,
viên chức được đào tạo, bồi dưỡng chất lượng làm việc sẽ tốt hơn.
Ba là, tiếp tục thực hiện tốt công tác luân chuyển cán bộ
Công tác luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp thời gian qua có
nhiều cố gắng và đạt kết quả bước đầu. Tuy nhiên, một số nơi thực hiện luân
chuyển cán bộ chưa dựa trên cơ sở đánh giá và quy hoạch cán bộ; chưa xác định rõ
vị trí khi về, nên khi điều động cán bộ về phần lớn bố trí theo yêu cầu thực tế; một

số cán bộ có “tâm trạng” khi điều động về khơng bố trí chức vụ cao hơn; việc quản
lý, giám sát và chế độ, chính sách đối với cán bộ luân chuyển chưa được quy định
cụ thể, còn nhiều lúng túng.
Thời gian tới, cần sớm khắc phục những hạn chế nêu trên và quan tâm một
số vấn đề sau: Kế hoạch luân chuyển cán bộ phải được công khai, dân chủ để mọi
người tham gia giám sát về tiêu chuẩn cán bộ được luân chuyển; thời gian luân
chuyển phải đúng quy định của Trung ương ít nhất là 3 năm (36 tháng), trừ trường
hợp đặc biệt; nên chăng, mỗi cán bộ khi đầu kỳ luân chuyển phải xây dựng chương
trình hành động thực hiện chức trách, nhiệm vụ nơi thực hiện luân chuyển, sau 3
năm (cuối kỳ luân chuyển) hoặc khi có dự kiến điều động về, cán bộ và tập thể lãnh
đạo nơi luân chuyển phải có bản nhận xét, đánh giá kết quả thực hiện chức trách,
nhiệm vụ nơi luân chuyển, để làm cơ sở bố trí, sắp xếp cán bộ sau luân chuyển sát
thực hơn.


15

PHẦN III
KẾT LUẬN

Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ là một hệ thống các quan điểm lý luận toàn diện,
sâu sắc về vị trí, vai trị, tiêu chuẩn của người cán bộ cách mạng; về các mắt khâu của
quy trình cơng tác cán bộ nhằm xây dựng một đội ngũ cán bộ có đạo đức cách mạng,
trình độ, năng lực, trí tuệ cao, phương pháp làm việc khoa học, đáp ứng yêu cầu của thực
tiễn cuộc sống qua các thời kỳ phát triển.
Trải qua hơn 90 năm tổ chức lãnh đạo cách mạng Việt Nam, trên nền tảng chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ, Đảng ta luôn chú trọng
và đặc biệt quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ ngang tầm với nhiệm vụ của từng thời kỳ,
luôn khẳng định đó chính là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Đảng ta xác định phải “có một đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất và năng lực xây dựng đường

lối chính trị đúng đắn và tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, đó là vấn đề cốt tử của
lãnh đạo, là sinh mệnh của Đảng cầm quyền”..
Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh vào cơng tác cán bộ hiện nay vẫn mang
tính thời sự nóng bỏng, tạo thêm sức mạnh nhận thức và quyết tâm trong việc đổi mới
công tác cán bộ. Từ đó, góp phần xây dựng thành cơng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
các cấp, các ngành đủ về số lượng, đảm bảo chất lượng, đủ đức, đủ tài, đồng bộ về cơ
cấu, có tầm nhìn chiến lược cho cả trước mắt và lâu dài, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong
thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và đặc biệt là đẩy mạnh hội
nhập quốc tế ở nước ta như giai đoạn hiện nay.



×