Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Chương 7: HỌC THUYẾT MÁC LÊNIN VỀ NHÀ NƯỚC VÀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.87 KB, 25 trang )

Chương 7
HỌC THUYẾT MÁC - LÊNIN VỀ NHÀ NƯỚC
VÀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Quan niệm về nhà nước trong lịch sử
1.1. Những quan điểm ngồi mác xít về nhà nước
Nhà nước vốn là “một trong những vấn đề phức tạp nhất, khó khăn nhất” 1,
nhưng lại “là một vấn đề rất cơ bản, rất mấu chốt trong tồn bộ chính trị” 2. Vì
thế, ngay từ khi Nhà nước ra đời, con người đã khơng ngừng đi vào tìm hiểu bản
chất của hiện tượng phức tạp này. Tuy nhiên, do cách tiếp cận, do lợi ích của
người đi phản ánh và do nhiều nguyên nhân khác nên trong lịch sử tư tưởng
nhân loại đã có rất nhiều những quan điểm khác nhau về Nhà nước.
Trong thời kỳ cổ đại và trung đại, các nhà tư tưởng giải thích sự xuất hiện và
tồn tại của nhà nước theo hai khuynh hướng. Một số nhà tư tưởng cho rằng, nhà
nước là do Thượng đế sáng tạo ra để bảo vệ trật tự chung, nhà nước là lực lượng
siêu nhiên, quyền lực nhà nước là tuyệt đối, là vĩnh viễn, vì vậy, sự phục tùng
quyền lực là cần thiết và tất yếu. Một số người khác khơng thừa nhận cách giải
thích đó, song họ lại cho rằng, nhà nước là kết quả của sự phát triển của gia đình.
Những quan điểm tư tưởng trên đã đóng một vai trị khá quan trọng trong xây dựng
và bảo vệ các nhà nước chủ nơ, phong kiến.
Ngồi những quan điểm có tính chất phổ biến nêu trên cịn có quan điểm
của một số học giả, họ cho rằng nhà nước xuất hiện trực tiếp từ việc sử dụng bạo
lực của thị tộc này đối với thị tộc khác mà kết quả là thị tộc chiến thắng phải tạo ra
một hệ thống cơ quan đặc biệt gọi là nhà nước. Nhà nước xuất hiện là do nhu cầu
về tâm lý của con người nguyên thuỷ luôn luôn phụ thuộc vào các thủ lĩnh, giáo

1
2

V.I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1979, t. 39, tr. 75.
. Sđd, tr. 76.




sĩ... Vì vậy, nhà nước là tổ chức của những siêu nhân có sứ mệnh lãnh đạo xã hội
.v.v..
Đến thế kỷ XVI, XVII, XVIII, quan niệm của con người về nhà nước từng
bước phát triển mới. Để chống lại sự chun quyền độc đốn của nhà nước phong
kiến, địi sự bình đẳng cho giai cấp tư sản trong việc tham gia nắm giữ quyền lực
nhà nước, đa số các học giả tư sản đều cho rằng, nhà nước ra đời là sản phẩm của
một khế ước được ký kết, trước hết là giữa những con người sống trong trạng thái
tự nhiên khơng có nhà nước. Vì thế, nhà nước phải phản ánh lợi ích của các thành
viên sống trong xã hội và mỗi thành viên đều có quyền yêu cầu nhà nước phục vụ
họ, bảo vệ lợi ích của họ. Thuyết “khế ước xã hội” dựa trên cơ sở thuyết về quyền
tự nhiên mà tiêu biểu là các nhà tư tưởng tư sản như: Lốccơ; Mơngteskiơ; Điđrơ…
Mặc dù cịn rất nhiều những hạn chế, song lúc đó thuyết “khế ước xã hội” đã trở
thành cơ sở cho thuyết dân chủ cách mạng và cơ sở tư tưởng cho cách mạng tư sản
lật đổ nhà nước phong kiến và kiến tạo nhà nước tư sản.
Sau khi giai cấp tư sản chiến thắng giai cấp địa chủ phong kiến, xác lập
quyền thống trị của mình. Để bảo vệ lợi ích giai cấp, các học giả tư sản tìm mọi
cách xuyên tạc bản chất của nhà nước. Họ cho rằng, nhà nước là “hiện thực của
quan niệm đạo đức”, là “hình ảnh và hiện thực của lý tính”, nhà nước xuất hiện
như “người trọng tài công minh” đứng trên xã hội để giải quyết mọi mâu thuẫn,
mọi tranh chấp, để duy trì xã hội trong tình trạng ổn định và phồn vinh. Nhà
nước là người đại diện quyền lợi cho mọi giai cấp, là cơ quan điều hoà mâu
thuẫn giai cấp, làm dịu sự xung đột giữa các giai cấp.... Các nhà triết học xã hội
học tư sản hiện nay thậm chí cịn cho rằng, nhà nước trong các nước tư bản chủ
nghĩa đã khắc phục được “những thiếu sót” của các nhà nước trước đây và đã
trở thành một nhà nước ngày càng hoàn thiện, phục vụ cho những nhu cầu của
xã hội, bảo đảm phúc lợi cho mọi thành viên.
Tất cả những cách giải thích trên về nhà nước đều khơng có căn cứ khoa
học, đều nhằm mục đích biện hộ cho sự thống trị của các giai cấp bóc lột. Vì

vậy, V.I.Lênin đã từng khẳng định: mongmỏi những nhà triết học, xã hội học


của các giai cấp thống trị, bóc lột phơi bày bản chất thật của nhà nước thì cũng
ngu ngốc khơng kém mong mỏi những thày tu, những nhà thần học phơi bày
bản chất thật của tôn giáo. Lần đầu tiên trong lịch sử, với sự ra đời của học
thuyết Mác - Lênin, vấn đề nhà nước mới được luận giải một cách hoàn toàn
khoa học.
1.2. Quan điểm của triết học Mác - Lênin về nhà nước
Vận dụng và mở rộng quan điểm duy vật biện chứng vào nghiên cứu lĩnh
vực xã hội, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ rõ: Nhà nước là
một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, có bộ máy chuyên làm nhiệm vụ
cưỡng chế và thực hiện chức năng quản lý xã hội nhằm thể hiện và bảo vệ trước
hết lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội. Bản chất cách mạng và khoa học
của lý luận Mác – Lênin về nhà nước được thể hiện thông qua việc luận giải những
nội dung chủ yếu sau đây:
Về nguồn gốc, bản chất của nhà nước
Trong những tác phẩm của mình, tập trung nhất là các tác phẩm “ Nguồn
gốc của gia đinh, của chế độ tư hữu và của nhà nước”; “Nhà nước và cách
mạng”; “Chủ nghĩa Mác về vấn đề nhà nước”…, các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác - Lênin đã chứng minh rằng, không phải khi nào xã hội cũng có nhà
nước. Trong xã hội cộng sản ngun thủy khơng có nhà nước. Phù hợp với tình
trạng kinh tế cịn thấp kém, chưa có sự phân hóa giai cấp, con người sống
trong các cộng đồng thị tộc và bộ lạc. Đứng đầu các thị tộc và bộ lạc là những
tộc trưởng do nhân dân bầu ra, quyền lực của người đứng đầu những cơ quan
quản lý xã hội dựa vào sức mạnh đạo đức và uy tín, việc điều chỉnh các quan
hệ xã hội được thực hiện bằng những quy tắc chung. Trong tay họ khơng có và
khơng cần một cơng cụ cưỡng bức đặc biệt nào. Như vậy, thể chế xã hội trong
thời kỳ cộng sản nguyên thủy là thể chế tự quản của nhân dân. Ph. Ăngghen
nhận xét: “Với tất cả tính ngây thơ và giản dị của nó, chế độ thị tộc đó quả là

một tổ chức tốt đẹp biết bao! Khơng có qn đội, hiến binh và cảnh sát, khơng


có quý tộc, vua chúa, tổng đốc, trưởng quan và quan tịa, khơng có nhà tù,
khơng có những vụ xử án, - thế mà mọi việc đều trôi chảy” 3.
Lực lượng sản xuất phát triển đã dẫn đến sự ra đời chế độ tư hữu, xã hội có
sự phân chia thành các giai cấp . Do đối lập về lợi ích, nên đấu tranh giai cấp là
hiện tượng không thể tránh khỏi. Đấu tranh giai cấp dẫn đến nguy cơ các giai cấp
chẳng những tiêu diệt lẫn nhau mà còn tiêu diệt ln cả xã hội. Để thảm họa đó
khơng diễn ra, một cơ quan quyền lực đặc biệt đã ra đời. Đó là nhà nước.
Như vậy, nhà nước khơng phải là cái bẩm sinh sẵn có, khơng phải là cái
được sinh ra bên ngoài xã hội, áp đặt vào xã hội. Sự ra đời và tồn tại của nhà
nước là tất yếu khách quan. Nguyên nhân sâu xa của sự ra đời của nhà nước đó
là sự phát triển của lực lượng sản xuất vật chất dẫn đến sự ra đời của chế độ
chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Nguyên nhân trực tiếp là mâu thuẫn giai
cấp khơng thể điều hịa được. Lênin đã khẳng định: “Nhà nước là sản phẩm và
biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp khơng thể điều hịa được. Bất cứ ở đâu,
hễ lúc nào và chừng nào mà, về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp
khơng thể điều hịa được, thì nhà nước xuất hiện. Và ngược lại: sự tồn tại của
nhà nước chứng tỏ rằng những mâu thuẫn giai cấp là khơng thể điều hịa được” 4.
Chừng nào mà xã hội còn tồn tại chế độ tư hữu và đối kháng giai cấp, thì chừng
đó nhà nước cịn tồn tại. Nhà nước ra đời gắn liền với sự ra đời của chế độ tư
hữu và đối kháng giai cấp đó là quy luật phổ biến của lịch sử xã hội loài người.
Tuy nhiên, do điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước mà quá trình hình
thành nhà nước cũng có những nét đặc thù riêng.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin: Bản chất của nhà nước là
cơng cụ chính trị của giai cấp thống trị về kinh tế dùng để thống trị xã hội.
Thực tế lịch sử đã chững minh điều đó. Sự ra đời của chế độ chiếm hữu tư
nhân về tư liệu sản xuất chính là nguyên nhân dẫn đến sự phân chia xã hội
thành các giai cấp. Do lợi ích căn bản đối lập nhau nên đấu tranh giai cấp là

3
4

Sđd, tr. 147.
V.I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1976, t. 33, tr. 9.


điều khơng thể tránh khỏi. Để bảo vệ lợi ích của giai cấp mình, đồng thời
bắt các giai cấp khác và tồn xã hội phải phục tùng lợi ích đó, giai cấp thống
trị về kinh tế đã tổ chức ra nhà nước – một công cụ để trấn áp giai cấp.
Trong cuộc đấu tranh đó, giai cấp thống trị về kinh tế ln là số ít so với
quảng đại quần chúng nhân dân lao động. Để thống trị được đa số, bắt buộc
đa số phải phục tùng lợi ích của thiểu số, giai cấp thống trị đã tổ chức ra nhà
nước - công cụ bạo lực để cưỡng bức giai cấp . Ph. Ăngghen chỉ rõ: "Nhà
nước chẳng qua chỉ là bộ máy trấn áp của một giai cấp này đối với một giai
cấp khác, điều đó, trong chế độ cộng hoà dân chủ cũng hoàn toàn giống như
trong chế độ quân chủ vậy” 5 . Hơn nữa, theo V. I. Lênin thì bộ máy trấn áp
đó khơng phải là cái gì khác hơn là một bộ máy bạo lực có hệ thống. Bởi vì:
“Nhà nước theo đúng nghĩa của nó, là một bộ máy trấn áp đặc biệt của giai
cấp này đối với một giai cấp khác, hơn nữa lại là của thiểu số đối với đa số.
Một thiểu số người bóc lột muốn tiến hành có kết quả việc trấn áp thường
xuyên một đa số người bị bóc lột thì đương nhiên phải hung ác, tàn bạo đến
cực độ trong sự trấn áp..” 6 . Nhà nước là yếu tố quan trọng nhất của kiến
trúc thượng tầng trong xã hội có giai cấp. Tất cả những hoạt động của nhà
nước, xét đến cùng, đều xuất phát từ lợi ích của giai cấp thống trị.
Thực tế lịch sử đã chứng minh rằng, cho dù được che đậy dưới hình thức
tinh vi như thế nào, thì nhà nước trong mọi xã hội có giai cấp đối kháng cũng chỉ là
cơng cụ bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị.
Tuy nhiên, cũng có trường hợp, nhà nước giữ một mức độ độc lập nào đó
đối với cả hai giai cấp đối địch, khi cuộc đấu tranh giữa chúng đạt tới thế cân

bằng nhất định; hoặc nhà nước cũng có thể thực hiện sự thoả hiệp về quyền lợi
tạm thời giữa những giai cấp để chống lại một giai cấp khác…Những trường
hợp như vậy là có tính chất ngoại lệ và tạm thời. Sự phát triển của xã hội nói
chung và của cuộc đấu tranh giai cấp nói riêng sẽ phá vỡ thế cân bằng giữa các
5
6

C. Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, t. 22, tr. 290 – 291.
V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1976, t. 33, tr. 110 -111.


giai cấp thù địch với nhau, sẽ phá vỡ sự thoả hiệp tạm thời giữa các giai cấp
với nhau và tất yếu sẽ tập trung quyền lực vào tay một giai cấp nhất định.
* Về đặc trưng của nhà nước.
Bản chất của nhà nước thể hiện ở đặc trưng của nó. Theo Ph. Ăngghen, bất
kỳ nhà nước nào cũng có ba đặc trưng cơ bản sau:
Nhà nước quản lý dân cư trên một vùng lãnh thổ nhất định.
Bất kỳ một nhà nước nào cũng có một lãnh thổ riêng, có chủ quyền về vùng
lãnh thổ đó. Quản lý dân cư theo lãnh thổ khác về chất với quản lý của các thị tộc,
bộ lạc trước đây. Nhà nước quản lý tất cả các thành viên của xã hội bất kể họ thuộc
quan hệ huyết thống nào.
Nhà nước có một hệ thống các cơ quan quyền lực chuyên nghiệp mang tính
cưỡng chế đối với mọi thành viên trong xã hội.
Khác với các cơ quan điều hành công việc chung trong thị tộc, bộ lạc, nhà
nước của giai cấp thống trị nào cũng có bộ máy quyền lực chuyên nghiệp. Trong số
các cơ quan quyền lực đó, “những đội vũ trang đặc biệt” (như quân đội nhà nghề,
cảnh sát vũ trang), nhà tù, và những cơ quan cưỡng bức, hệ thống cơ quan hành
chính từ trung ương đến địa phương để thực hiện chức năng cai trị buộc mọi người
phải phục tùng ý chí của giai cấp cầm quyền. Những cơ quan này từ xã hội mà ra,
nhưng ngày càng thoát ly khỏi xã hội và đối lập với xã hội. Chủ thể của quyền lực

đó thuộc về giai cấp thống trị về kinh tế và chính trị trong xã hội đó.
Nhà nước đặt ra thuế khoá và thực hiện việc thu thuế dưới hình thức bắt
buộc là chủ yếu để duy trì và tăng cường bộ máy cai trị.
Bộ máy nhà nước sẽ khơng tồn tại nếu khơng có nguồn ni dưỡng từ thuế
khố. Thơng qua việc thực hiện chính sách thuế khố, quốc trái và các hình thức
bóc lột khác, nhà nước của giai cấp thống trị, bóc lột đã thể hiện rõ không những là
công cụ trấn áp giai cấp mà cịn là cơng cụ thực hiện sự bóc lột giai cấp.
* Về chức năng của nhà nước


Chức năng nhà nước là phương diện hoạt động chủ yếu của cả bộ máy nhà
nước mà mỗi cơ quan nhà nước đều phải tham gia thực hiện ở những mức độ khác
nhau. Chức năng của nhà nước có thể được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau:
đối nội; đối ngoại; kinh tế; chính trị; tư tưởng…
Khi xem xét nhà nước từ góc độ tính chất của quyền lực chính trị, nhà
nước có chức năng là cơng cụ thống trị chính trị của giai cấp và thực hiện chức
năng xã hội mà giai cấp thống trị buộc phải làm. Trong hai chức năng đó thì
chức năng chính trị-giai cấp là chức năng chủ yếu quyết định. Vì vậy, sẽ là mơ
hồ nếu khơng thấy được tính chất chính trị, tính chất giai cấp trong các chủ
trương, chính sách của nhà nước trong tổ chức quản lý xã hội nói chung.
Khi xem xét phạm vi tác động của quyền lực nhà nước ở tầm vĩ mơ, nhà
nước có chức năng đối nội và đối ngoại. Nhà nước thực hiện chức năng đối nội
nhằm duy trì trật tự kinh tế, xã hội, chính trị và những trật tự khác hiện có trong xã
hội theo lợi ích của giai cấp thống trị. Nhà nước thực hiện chức năng đối ngoại
nhằm bảo vệ lãnh thổ quốc gia và thực hiện các mối quan hệ với các nước khác vì
lợi ích của giai cấp thống trị. Chức năng đối nội và chức năng đối ngoại của nhà
nước là hai mặt của một thể thống nhất, trong đó tính chất của chức năng đối nội quyết
định tính chất của chức năng đối ngoại. Nhà nước thực hiện các chức năng của mình
đều xuất phát từ lợi ích của giai cấp thống trị.
* Về kiểu và các hình thức của nhà nước

Kiểu nhà nước chính là muốn nói đến nhà nước ấy là của giai cấp nào, tồn
tại trên cơ sở kinh tế xã hội nào, tương ứng với hình thái kinh tế – xã hội nào. Lịch
sử xã hội có giai cấp đã trải qua ba hình thái kinh tế – xã hội, tương ứng với ba
hình thái kinh tế – xã hội, đó là ba kiểu nhà nước (nhà nước nô lệ; nhà nước phong
kiến và nhà nước tư sản). Tuy nhiên trên thực tế không phải quốc gia nào cũng trải
qua tuần tự cả ba hình thái kinh tế – xã hội đó, vì thế sự tồn tại các kiểu của nhà
nước ở mỗi quốc gia cũng có sự khác nhau. Lịch sử phát triển của xã hội Việt Nam
cho thấy, do không trải qua xã hội nô lệ và tư bản, nên ở Việt Nam chỉ tồn tại hai


kiểu nhà nước cơ bản đó là nhà nước phong kiến và nhà nước xã hội chủ nghĩa
hiện nay.
Hình thức nhà nước là nói đến cách thức tổ chức và phương thức thực hiện
quyền lực nhà nước. Nói một cách khác, hình thức nhà nước chính là hình thức
cầm quyền của giai cấp thống trị. Trong hiện thực, mỗi kiểu nhà nước được tổ chức
dưới nhiều hình thức phong phú (nhà nước quân chủ; nhà nước cộng hoà…).
Mặc dù các kiểu, các hình thức...phong phú đến đâu đi chăng nữa, song bản
chất chỉ là một đó là: Nhà nước- cơng cụ thống trị của một giai cấp, giai cấp đó là
giai cấp thống trị về mặt kinh tế.
*Về nhà nước vô sản
Tổng kết kinh nghiệm lịch sử của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp
vô sản và xét địa vị kinh tế của giai cấp đó trong nền sản xuất hiện đại, các nhà
kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ ra rằng, để xây dựng một xã hội
không có giai cấp, khơng có người bóc lột người, sau khi đập tan nhà nước của
giai cấp tư sản, giai cấp vô sản phải tổ chức ra nhà nước của mình. Mác viết:
“…giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa, là một thời kỳ
cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy, là
một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy khơng thể là cái gì
khác hơn là nền chun chính cách mạng của giai cấp vơ sản” 7.
Thực tiễn phong trào cách mạng của giai cấp vô sản và quần chúng nhân dân

lao động, đặc biệt là công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đã chứng minh tính
đúng đắn kết luận trên của C. Mác. Nhà nước đã đóng một vai trị cực kỳ quan
trọng trong cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới.
Tổ chức ra nhà nước xã hội chủ nghĩa, đó là quy luật phổ biến của mọi quốc
gia dân tộc khi tiến vào chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, do đặc điểm, điều kiện của
mỗi giai cấp, dân tộc khác nhau, vì vậy hình thức tổ chức nhà nước cũng hết sức
phong phú và đa dạng. Song dù hình thức tổ chức của nhà nước có phong phú đến
7

C. Mác và Ph. Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, t. 19, tr. 47.


đâu đi chăng nữa, về bản chất chỉ là một - đó là nhà nước do giai cấp vơ sản tổ
chức ra và lãnh đạo.
Nhà nước do giai cấp vô sản tổ chức ra (nhà nước xã hội chủ nghĩa) là nhà
nước kiểu mới, khác về bản chất so với các nhà nước của các giai cấp bóc lột trước
đây. Trước hết, nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước của dân, do dân và vì dân,
là tổ chức thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động, dưới sự lãnh đạo của
Đảng của giai cấp vô sản.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa có sự thống nhất giữa hai chức năng: trấn áp và
tổ chức xây dựng, trong đó chức năng tổ chức xây dựng là chủ yếu. Nhà nước xã
hội chủ nghĩa có sự thống nhất giữa tính dân tộc và tính quốc tế. Nhà nước xã
hội chủ nghĩa là nhà nước “tự tiêu vong”.
Những luận điểm căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước vẫn giữ
nguyên giá trị khoa học của nó và là cơ sở lý luận, phương pháp luận quan trọng
cho chúng ta trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, nhằm tăng cường sức mạnh
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
2. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện
nay
2.1. Các quan điểm về nhà nước pháp quyền trong lịch sử

Trong lịch sử nhân loại, tư tưởng về nhà nước pháp quyền đã xuất hiện từ
rất sớm trong các học thuyết triết học, pháp luật của các nhà tư tưởng và ngày
càng được hoàn thiện theo sự phát triển của lịch sử. Các quan điểm này được hình
thành và phát triển từ nhu cầu phát triển của xã hội và đặc biệt là việc cần thiết
phải bảo vệ lợi ích của công dân trong xã hội.
Ở thời kỳ cổ đại, các nhà tư tưởng Hy Lạp và La Mã đã tìm kiếm những
nguyên tắc, hình thức, những cơ chế của mối quan hệ tương hỗ giữa pháp luật với
tổ chức và hoạt động của quyền lực nhà nước. Tuy chưa có được một quan niệm
đầy đủ về nhà nước pháp quyền, song họ cũng đã nói lên được một sự thật rằng:


Nhà nước cần phải quản lý xã hội bằng pháp luật và chỉ có pháp luật mới làm cho
quyền của con ngươì khơng bị xâm phạm.
Tuy nhiên, tất cả những tư tưởng đề cao pháp luật trong mối quan hệ với
quyền lực nhà nước ra đời lúc bấy giờ mới chỉ dừng lại ở mơ ước của con người
về sự chiến thắng của công lý đối với bạo lực, của chính nghĩa đối với gian tà,
của cái thiện đối với cái ác, xuất phát từ một thực tế trong đời sống xã hội là nhà
nước ngày càng trở thành nhà nước chuyên chế và độc tài. Nhà nước ngày càng
vi phạm các quyền của con người với tính cách là những công dân của xã hội.
Sau thắng lợi của cuộc cách mạng lật đổ chế độ phong kiến tàn bạo,
chuyên chế, độc tài và vô pháp luật, các tư tưởng về nhà nước pháp quyền tiếp
tục có sự phát triển và dần dần hình thành một cách rõ ràng và thành hệ thống
trong các học thuyết chính trị xã hội.
Có thể nói rằng, các nhà tư tưởng trong thời kỳ này đã có những tiến bộ nhất
định trong lý giải về nhà nước pháp quyền. Họ đã vạch ra được những dấu hiệu hết
sức quan trọng của nó đó là: đề cao pháp luật trong tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước; nhà nước pháp quyền được tổ chức ra nhằm bảo vệ quyền tự do,
bình đẳng của mọi cơng dân, (đây chính là cơ sở lý luận, phương pháp luận cho
giai cấp tư sản trong xây dựng nhà nước pháp quyền tư sản)… Song, do hạn chế về
nhận thức, đặc biệt là hạn chế về lập trường giai cấp, nên quan niệm của họ về nhà

nước pháp quyền mang tính chất duy tâm, phi lịch sử.
Trên cơ sở kế thừa những tư tưởng của nhân loại về vấn đề này, các nhà
nghiên cứu đã tranh luận và làm sáng tỏ nhiều vấn đề về nhà nước pháp quyền
như: Vấn đề về tính tất yếu của nhà nước pháp quyền; bản chất của nhà nước pháp
quyền; vấn đề tổ chức quyền lực của nhà nước pháp quyền v.v.. Đây là cơ sở lý
luận quan trọng cho việc tiếp tục nghiên cứu vấn đề này.
2.2. Bản chất của nhà nước pháp quyền, sự khác nhau cơ bản giữa nhà
nước pháp quyền tư sản và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Ngày nay, các nhà khoa học tuy còn những ý kiến khác nhau về vấn đề nhà
nước pháp quyền và tổ chức xây dựng nhà nước pháp quyền, song họ đều có quan


niệm thống nhất về bản chất của nó. Theo họ, bản chất của nhà nước pháp quyền
được thể hiện ở một số dấu hiệu đặc trưng sau đây:
Phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy nhà nước phải do pháp
luật quy định. Nhà nước và công dân phải thừa nhận tính tối cao của pháp luật (các
đảng phái, tổ chức, tôn giáo… phải được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ của
pháp luật). Quyền lực nhà nước được xác định gồm: quyền lập pháp, quyền hành
pháp và quyền tư pháp. Nhà nước có hệ thống pháp luật đầy đủ, rõ ràng, minh bạch,
thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân để điều chỉnh những quan hệ pháp luật
phát sinh trong xã hội; đặc biệt là bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cơ bản của cơng
dân (hoặc con người nói chung).
Từ những dấu hiệu đó rút ra định nghĩa: Nhà nước pháp quyền là nhà nước
được xem xét dưới góc độ pháp luật, trong đó tính tối cao của pháp luật được tơn
trọng, các tư tưởng và hành vi của bất cứ tổ chức xã hội hoặc cá nhân nào cũng
được giới hạn bởi khuôn khổ pháp luật và chịu sự điều chỉnh của pháp luật 8.
Khái niệm nhà nước pháp quyền đề cập chủ yếu đến phương thức tổ chức,
xây dựng và vận hành của bộ máy nhà nước nói chung thơng qua hệ thống pháp
luật. Nhà nước pháp quyền chỉ là một hình thức tổ chức của quyền lực nhà nước,
trong đó lấy pháp luật và coi pháp luật là cơng cụ chủ yếu để thực hiện chức năng

của mình đối với tồn bộ xã hội. Nhà nước pháp quyền khơng phải là một kiểu nhà
nước. Xét về bản chất, nhà nước pháp quyền trong xã hội có giai cấp vẫn là công
cụ thống trị và áp bức giai cấp. Sự phát triển của xã hội nói chung, bắt buộc giai
cấp thống trị phải có sự thay đổi hình thức cầm quyền. Nhà nước pháp quyền xuất
hiện thay thế cho nhà nước độc tài, chuyên chế… là một bước tiến bộ trong xã hội
có giai cấp.
Nhà nước pháp quyền quản lý xã hội theo khuôn khổ của pháp luật và bản
thân nhà nước, phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành của nó cũng bị ràng
buộc bởi pháp luật.
8

Website Tạp chí Cộng sản, số 60, tháng 6/2004.


Phương tiện chủ yếu của nhà nước pháp quyền trong quản lý xã hội đó là
pháp luật. Nhưng nhà nước pháp quyền không đồng nghĩa với mọi nhà nước quản lý
xã hội bằng pháp luật. Trong lịch sử, nhiều nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật
(pháp trị) như các nhà nước độc tài, nhà nước chuyên chế. Những nhà nước này
không phải là nhà nước pháp quyền. Những nhà nước này vốn từ xã hội mà ra song
ngày càng vượt ra ngoài xã hội, đứng trên xã hội, dùng pháp luật để thống trị xã hội
và bản thân nó lại đứng ngồi pháp luật.
Nhà nước pháp quyền là nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Trong khi
đó, pháp luật bao giờ cũng mang tính giai cấp và tính đặc thù của mỗi quốc gia,
mỗi dân tộc; do đó, sẽ khơng có mơ hình chung, những tiêu chí chung về nhà nước
pháp quyền cho tất cả các nước khác nhau. Bản chất của mỗi nhà nước pháp quyền
phụ thuộc vào bản chất chế độ xã hội, hệ thống quan điểm, mục đích, nhiệm vụ ,
điều kiện cụ thể của mỗi nước.
Trong lịch sử đã tồn tại hai loại hình nhà nước pháp quyền cơ bản. Đó là nhà
nước pháp quyền tư sản và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Do có sự khác
nhau về bản chất xã hội, nên hai loại nhà nước này khác nhau về chất. Sự khác

nhau đó thể hiện ở chỗ:
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền tư sản đều
phải thừa nhận phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy nhà nước do
pháp luật quy định. Tuy nhiên, bản chất và nội dung pháp luật về tổ chức, xây dựng
và vận hành của nhà nước có sự khác nhau căn bản. Pháp luật trong nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa thừa nhận tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, do
nhân dân bầu ra các cơ quan quyền lực và chỉ có nhân dân trực tiếp hoặc thơng qua
các đại biểu của mình là chủ thể duy nhất có quyền tuyên bố chấm dứt hoạt động
của quốc hội, chính phủ hoặc tổ chức ra quốc hội và chính phủ nhiệm kỳ mới.
Trong khi đó, hiến pháp và pháp luật tư sản lại thừa nhận quyền lực của cá nhân
đứng đầu nhà nước có quyền giải tán quốc hội hoặc chính phủ.


Trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhà nước và cơng dân đều phải
thừa nhận tính tối cao của pháp luật, vì pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện ý chí và
nguyện vọng của tồn thể nhân dân. Trong nhà nước pháp quyền tư sản, nhà nước và
cơng dân cũng phải thừa nhận tính tối cao của pháp luật, nhưng pháp luật tư sản không
phải là pháp luật của tồn dân, khơng thể hiện đầy đủ ý chí, nguyện vọng của tồn dân
mà chỉ phản ánh ý chí, nguyện vọng của một bộ phận nhân dân, đó là những người
giàu, là giai cấp tư sản.
Nhà nước pháp quyền tư sản coi thuyết “tam quyền phân lập” là học thuyết
cơ bản trong việc thực hiện quyền lực nhà nước, các cơ quan lập pháp, hành pháp
và tư pháp hoàn toàn độc lập với nhau trong việc thực hiện ba quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa không thừa nhận
việc phân chia quyền lực mà coi quyền lực nhà nước là thống nhất và thuộc về
nhân dân; trong đó, có sự phân công, phối hợp, để thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp nhằm bảo đảm cho quyền lực nhà nước thống nhất, được
thực hiện với hiệu quả cao nhất.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền tư sản cịn
có sự khác nhau về hệ thống pháp luật. Bên cạnh sự khác nhau về tính chất giai

cấp, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chỉ công nhận những quy phạm pháp
luật khi nó được xác lập và thơng qua theo một trình tự và thủ tục nhất định; trong
khi đó, nhà nước pháp quyền tư sản thường coi “án lệ” hoặc “tập quán” như một
loại quy phạm pháp luật bất thành văn.
2.3. Tính tất yếu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam hiện nay
Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay là phù
hợp với quy luật khách quan của lịch sử.
Lịch sử xã hội cho thấy, sự phát triển của sản xuất vật chất là nhân tố xét
đến cùng quyết định không chỉ sự vận động phát triển của xã hội từ thấp đến cao,
mà còn quyết định đến cả bộ mặt; cơ cấu tổ chức của xã hội trong mỗi giai đoạn


lịch sử nhất định. Trong xã hội nguyên thuỷ, do trình độ của sản xuất vật chất hết
sức thấp kém, nên tổ chức xã hội lúc đó là chế độ làm chung, ăn chung, các thành
viên trong xã hội đều có quan hệ họ hàng với nhau. Phù hợp với xã hội như vậy,
có một cơ quan quản lý và điều hành xã hội gọn nhẹ, bao gồm những tù trư ởng
được toàn thể các thành viên trong xã hội tín nhiệm bầu ra.
Sự phát triển của sản xuất vật chất làm xuất hiện chế độ chiếm hữu tư nhân
về tư liệu sản xuất, xã hơi có sự phân chia thành giai cấp và đấu tranh giai cấp, có
sự phân hố sâu sắc về lợi ích giữa các tập đồn người.v.v. trong điều kiện như vậy,
quản lý, điều hành xã hội như trước khơng cịn phù hợp nữa, xã hội cần có một tổ
chức mới, có khả năng duy trì được sự tồn tại và phát triển tiếp theo của nó. Tổ
chức quản lý thị tộc tất yếu phải nhường chỗ cho quản lý xã hội bằng nhà nước.
Nhà nước ra đời chính là đáp ứng u cầu đó của lịch sử.
Ra đời từ xã hội, song nhà nước đã nhanh chóng vượt lên trên xã hội và trở
thành lực lượng đối lập với xã hội. Sự tăng cường tính chất độc tài, chuyên chế của
nhà nước là nguyên nhân đẩy mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị và các lực lượng
đối lập ngày càng trở nên găy gắt. Mâu thuẫn đó phản ánh một sự thật là trong khi
tìm mọi cách để bóc lột giai cấp, giai cấp bóc lột đã xâm phạm thô bạo đến quyền

lợi của đa số thành viên trong xã hội. Trong khi đó, xét về mặt tự nhiên, lẽ đương
nhiên, sống trong xã hội, con người có các quyền tự do cá nhân, các quyền tự nhiên
của mình như quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc… là những quyền tạo hố
ban cho khơng ai có thể xâm phạm được kể cả nhà nước. Thực tế cho thấy, trong
xã hội có đối kháng giai cấp, xã hội càng phát triển thì mâu thuẫn đó càng trở nên
gay gắt. Để giải quyết mâu thuẫn đó xã hội đòi hỏi phải thay thế nhà nước độc tài,
chuyên chế bằng nhà nước pháp quyền, quản lý xã hội bằng pháp luật. Thắng lợi
của cuộc cách mạng lật đổ chế độ phong kiến tàn bạo, chuyên chế, độc tài và vô
pháp luật, và sự ra đời của của nhà nước pháp quyền tư sản đã chứng minh cho
khuynh hướng phát triển tất yếu đó.
Tuy nhiên, trên thực tế nhà nước pháp quyền tư sản đã không giải quyết
được triệt để vấn đề dân chủ và bảo vệ quyền con người. Vì quyền lợi của giai cấp


vô sản, của quần chúng nhân dân lao động tất yếu phải thay thế nhà nước pháp
quyền tư sản bằng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Điều này đã được chủ
nghĩa Mác - Lênin luận giải một cách khoa học.
Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về tính tất yếu của sự thay thế đó được xây
dựng dần dần dựa vào kinh nghiệm đấu tranh của giai cấp vô sản và nhân dân lao
động chống giai cấp tư sản. Ngay từ những năm đầu của thế kỷ thứ XIX, trong các tác
phẩm của mình như: “Sự khốn cùng của triết học”; “Tuyên ngôn của Đảng cộng
sản”… C. Mác, Ph. Ăngghen đã nêu ra những luận điểm về một nhà nước xã hội chủ
nghĩa, nêu lên quy luật đấu tranh giai cấp trong lịch sử và tất yếu của việc giai cấp vơ
sản phải giành lấy chính quyền. Giai cấp vô sản không thể nào lật đổ được giai cấp tư
sản, nếu trước hết khơng giành lấy chính quyền, khơng thiết lập được sự thống trị về
chính trị của mình. Tuy nhiên, ở giai đoạn này, vấn đề mới chỉ được đặt ra một cách
chung nhất với những lập luận như: thay bộ máy nhà nước bằng việc “tổ chức giai cấp
vô sản thành giai cấp thống trị; “bằng việc giành lấy dân chủ”… Nhưng giai cấp vô
sản thực hiện điều đó bằng cách nào; tổ chức chính quyền của giai cấp vơ sản ra sao ...
cịn chưa được giải đáp một cách cụ thể.

Từ 1848 đến 1851 là thời kỳ xảy ra các cuộc cách mạng tư sản. Trên cơ sở
phân tích kinh nghiệm của các cuộc cách mạng tư sản, đặc biệt là cách mạng tư sản
Pháp, C. Mác và Ph. Ăngghen đã đi đến kết luận cần phải đập tan bộ máy nhà nước
tư sản trong q trình làm cách mạng vơ sản chứ khơng thể sử dụng nó phục vụ
cho giai cấp vơ sản được. Những tư tưởng trên được trình bày tập trung trong hai
tác phẩm lớn: “Đấu tranh giai cấp ở Pháp”; “Ngày 18 tháng Sương mù của
LuiBônapáctơ”. Như vậy, đến đây vấn đề được đặt ra một cách cụ thể hơn, kết luận
rút ra hết sức chính xác về mặt thực tiễn. Nhưng lấy cái gì để thay thế nhà nước
của giai cấp tư sản đã bị đập tan đó? Câu hỏi đó vẫn chưa được trả lời. Theo V. I.
Lênin, kinh nghiệm lịch sử lúc đó chưa cho phép C. Mác và Ph. Ăngghen làm
được điều đó.
Tổng kết kinh nghiệm của Công xã Pari, trong tác phẩm “Nội chiến ở Pháp”
C. Mác đã trình bày quan điểm về vấn đề đó. Theo C. Mác, sau khi đập tan nhà


nước của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản phải tổ chức ra nhà nước của mình. Đó là
nhà nước kiểu công xã, một nhà nước mà quyền lực thật sự của nó thuộc về nhân dân.
Nhà nước đó khác về chất so với các nhà nước của các giai cấp thống trị trước đây.
Theo C. Mác, Công xã là một hình thức nhà nước đỡ tốn kém nhất trong lịch sử. Bởi
vì, nó xóa bỏ qn đội thường trực bằng nhân dân tự vũ trang, hệ thống viên chức do
bầu cử và có thể bị bãi miễn bất cứ lúc nào…Đánh giá về phát hiện đó, V. I. Lênin đã
viết: “Cơng xã là hình thức mà cách mạng vơ sản rốt cuộc đã tìm ra, hình thức khiến
cho có thể giải phóng được lao động về phương diện kinh tế" 9. Sự thay thế nhà nước
cũ bằng nhà nước mới như vậy "là một sự thay thế vĩ đại: thay những cơ quan này
bằng những cơ quan khác hẳn về ngun tắc. Đó chính là một trong những trường
hợp lượng biến thành chất"10.
Phát triển chủ nghĩa Mác trong điều kiện chủ nghĩa tư bản đã trở thành chủ
nghĩa đế quốc và cách mạng vô sản đã thành trực tiếp, V. I. Lênin đã có những
đóng góp quan trọng vào học thuyết Mác về vấn đề nhà nước.
Trong khi phê phán các quan điểm sai lầm của bọn cơ hội, bọn

“Mensevích”, cũng như bọn vơ chính phủ, V. I. Lênin đã tìm ra hình thức nhà
nước phù hợp với nước Nga là Cộng hồ Xơviết và khẳng định, giai cấp vô sản
phải dùng bạo lực cách mạng để thủ tiêu bộ máy bạo lực của giai cấp tư sản; xóa
bỏ nhà nước tư sản, phải giành lấy dân chủ. Nhà nước Cộng hồ Xơ viết phải là
nhà nước của dân, do dân và vì dân… Sự phát triển của cách mạng nước ta tất
nhiên cũng khơng ngồi quy luật chung đó.
Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay xuất phát
từ mục tiêu và thực tiễn của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Trong quá trình đi tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm thấy ở
chủ nghĩa Mác-Lênin con đường đúng đắn cho cách mạng Việt Nam. Người chỉ rõ:
“Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, khơng có con đường nào khác – con
đường cách mạng vô sản”. Theo Người, cuộc cách mạng ở nước ta sau khi hoàn
9

V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M 1976, t. 33, tr. 69.
V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M 1976, t. 33, tr. 52.

10


thành mục tiêu giải phóng dân tộc, xóa bỏ chế độ thực dân, phong kiến, phải tiếp
tục tiến lên thực hiện nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa, về bản chất là cuộc cách mạng do giai cấp
công nhân và nhân dân lao động tiến hành, thực hiện xóa bỏ chế độ xã hội có áp
bức, bóc lột, bất cơng, xây dựng một xã hội mới khơng có giai cấp áp bức và bóc
lột, giải phóng xã hội và con người thốt khỏi nghèo nàn, lạc hậu, bất bình đẳng.
Thực tiễn cho thấy, một trong những tiền đề quan trọng đưa cuộc cách mạng xã hội
chủ nghĩa đến thành cơng đó là quyền lực nhà nước phải thuộc về nhân dân.
Đứng vững trên lập trường dân chủ, dân tộc, yêu nước, kết hợp với tư tưởng
của thời đại “nhân dân nắm quyền tự quyết”, tự do, bình đẳng, bác ái, ngay từ

những năm đầu của thế kỷ thứ XX, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kiên quyết phê phán
chế độ thực dân nói chung và bộ máy cai trị, chính quyền thuộc địa nói riêng. Tư
tưởng đó được thể hiện trong tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” viết 1925.
Bên cạnh việc phê phán đó, Hồ chí Minh đã chỉ ra sự cần thiết phải xây dựng bộ
máy nhà nước của dân, phải đề cao vai trò của pháp luật trong quản lý nhà nước,
quản lý xã hội. Trong tác phẩm “Đường Kách mệnh”, Người chỉ rõ: Chúng ta đã
hy sinh làm cách mạng, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm xong cách mạng rồi
thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới
khỏi hy sinh nhiều lần, thì dân chúng mới được hạnh phúc. Trong yêu sách của
nhân dân An Nam viết 1922, yêu sách thứ bảy Người viết “Thay chế độ ra sắc lệnh
bằng chế độ ra các đạo luật”11. Và yêu cầu này đã được diễn ca trong bài “Việt Nam
yêu cầu ca” là: “Trăm điều phải có thần linh pháp quyền” 12. Những tư tưởng đó là
cơ sở lý luận, phương pháp luận quan trọng cho chúng ta xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa sau khi cách mạng nước ta bước vào giai đoạn quá độ tiến
lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, sau khi giành được chính quyền, đã có một thời
gian dài vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền chưa được đặt ra. Điều đó do
nhiều nguyên nhân: Một là, do chịu ảnh hưởng của những quan điểm sai lầm về
Nhà nước pháp quyền của các nước xã hội chủ nghĩa anh em lúc bấy giờ, nên
11
12

Hồ Chí Minh, tồn tập, Nxb CTQG, H. 1995, t. 1, tr. 436.
Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, t. 1, tr. 438.


chúng ta chưa quan tâm, chưa đi sâu nghiên cứu về nhà nước pháp quyền. Hai là,
sau khi giành được chính quyền, nước ta tiếp tục phải tiến hành cuộc chiến tranh
kéo dài 30 năm. Ba là, do trong hàng ngũ chúng ta, nhận thức về nhà nước pháp
quyền chưa thật đúng đắn, thậm chí có người cịn đồng nhất nhà nước pháp quyền
với nhà nước tư sản, không thấy được nhà nước pháp quyền là thành tựu của nhân

loại về kỹ thuật tổ chức bộ máy nhà nước. Ngược lại, có quan điểm muốn tiếp thu
một cách máy móc, sao chép dập khuôn nhà nước pháp quyền tư sản.
Từ năm 1975, sau thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước, cả nước bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn cách mạng
nước ta cho thấy, để đưa sự nghiệp cách mạng đến thắng lợi hoàn toàn, đặc biệt là
trong thời kỳ đổi mới đất nước toàn diện, nhất thiết phải xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, nước ta đang phát triển kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, thì tất yếu nhà nước phải là nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa mới. Có như vậy mới có thể hồn thành vai trị là cơng cụ chính trị, cơng cụ
quản lý kinh tế xã hội có hiệu lực và hiệu quả.
Chính vì vậy, khái niệm Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân, vì dân dần dần được nhận thức ngày càng đầy đủ và sâu sắc, được chính thức
đưa vào các văn kiện của Đảng. Vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân được khẳng định trở thành một quan điểm chỉ đạo
xây dựng Nhà nước ta13 và được đưa vào Hiến pháp. “Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng
là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức” 14.
Trên cơ sở phương hướng đó, trong những năm vừa qua, dưới sự lãnh đạo của
Đảng Nhà nước ta đã có nhiều chuyển biến theo hướng tích cực, đã thể hiện được
sức mạnh của mình trong tổ chức quản lý xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, do xã hội ta đi vào chủ nghĩa xã hội ở trình độ thấp, bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa cũng tức là bỏ qua giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền tư bản
Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H. 2001,
tr. 131.
14
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (đã sửa đổi, bổ sung năm
2001). Nxb CTQG, H. 2002, tr. 13.
13



chủ nghĩa. Vì vậy, vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước
ta là một nhiệm vụ hết sức mới mẻ khó khăn và phức tạp.
2. 4. Những nội dung cơ bản xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta
hiện nay
Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp cách mạng
Việt Nam là một tất yếu lịch sử. Điều đó đã được hiến pháp của nước ta ghi nhận:
Đảng Cộng sản Việt Nam là “lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội”.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước nhằm giữ vững bản
chất giai cấp công nhân của nhà nước, đảm bảo mọi quyền lực thuộc về nhân dân,
đưa sự nghiệp cách mạng đi đúng hướng xã hội chủ nghĩa.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước phải gắn liền với
đổi mới, chỉnh đốn Đảng, bao gồm cả đổi mới nội dung, phương thức lãnh
đạo. “Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua việc đề ra đường lối, chủ trương,
các chính sách lớn, định hướng cho sự phát triển và kiểm tra việc tổ chức
thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng và Hiến pháp, pháp luật của Nhà
nước” 15 .
Xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, lấy liên
minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng do
đảng cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, giữ vững
kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc
và của nhân dân.
Thực hiện nội dung này là để giữ vững bản chất giai cấp của nhà nước ta
trong quá trình đổi mới, cải cách bộ máy nhà nước. Đổi mới, cải cách nhưng không
làm biến dạng bộ máy nhà nước.
Đối với nhà nước ta tính chất giai cấp gắn bó chặt chẽ với tính dân tộc và
tính nhân dân. Tư tưởng xây dựng một nhà nước của dân, do dân, vì dân là do
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H. 2001,
tr. 144.

15


Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương bắt nguồn từ truyền thống đoàn kết dân tộc
của các thế hệ người Việt Nam trong mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước;
“khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ, bền gốc”, “chở thuyền, lật thuyền đều là dân”, “gốc có
vững cây mới bền, xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”…
Để thực hiện nội dung này cần quán triệt tốt một số nguyên tắc căn bản đó
là: Nhà nước ta là nhà nước do dân lập nên, do dân bầu ra, dân kiểm tra và giám
sát. Nhà nước ta hoạt động vì dân, lấy việc phục vụ nhân dân làm mục tiêu cao nhất của
mình. Sức mạnh của Nhà nước ta bắt nguồn từ sức mạnh của nhân dân, của khối đại
đoàn kết toàn dân. Mọi biểu hiện xa rời những nguyên tắc đó cần được phê phán một
cách triệt để. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng cảnh báo rằng: “Chúng ta phải hiểu rằng,
các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa
là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân…”16.
Thực hiện quyền lực nhà nước thống nhất, có sự phân cơng và phối hợp
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và
tư pháp.
Đây vừa là nội dung có tính chất chỉ đạo q trình xây dựng bộ máy nhà nước ta,
vừa là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nó. Thực chất quan điểm này thể hiện ở chỗ:
Hoạt động của nhà nước ta khơng theo ngun tắc phân quyền như trong chính thể nhà
nước cộng hoà tư sản khác, mà thực hiện nguyên tắc quyền lực thống nhất, quyền lực đó
thuộc về nhân dân. Nhân dân là chủ thể duy nhất thực hiện quyền lực nhà nước. Quyền
lực thống nhất khơng có nghĩa là khơng có sự phân cơng phối hợp giữa các cơ quan nhà
nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Các cơ quan này tuy có
chức năng quyền hạn riêng, song giữa chúng có quan hệ phụ thuộc, chi phối lẫn nhau
đảm bảo nguyên tắc thống nhất quyền lực nhà nước và phân công, phối hợp chặt chẽ ba
quyền đó.
Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của
nhà nước.

16

Hồ Chí Minh, tồn tập, Nxb CTQG, H. 1995, t. 4, tr. 56.


Đây là nguyên tắc nền tảng trong tổ chức, hoạt động của hệ thống chính
trị nói chung và của bội máy nhà nước ta nói riêng. Một trong số những nội
dung căn bản nhất của nguyên tắc tập trung dân chủ là thiểu số phục tùng đa số,
cấp dưới phục tùng cấp trên. Tập trung dân chủ phải được quán triệt trong tồn
bộ q trình tổ chức và xây dựng bộ máy quyền lực của Nhà nước. Tuy nhiên,
khi áp dụng nguyên tắc này phải cân nhắc, xem xét các điều kiện cần và đủ để
phát huy tác dụng, hiệu quả tích cực của nguyên tắc; đặc biệt là phải lưu ý đến
quyền hạn và trách nhiệm cá nhân trong việc thực hiện công vụ của bộ máy
công quyền. Xa rời nguyên tắc này bộ máy nhà nước sẽ kém hiệu lực và sức
mạnh.
Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, quản lý xã hội bằng pháp luật, coi
trọng giáo dục, nâng cao đạo đức.
Đây là quan điểm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, chỉ đạo suốt quá trình cải
cách, xây dựng nhà nước ta hiện nay. Bởi vì, tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa… chính là cái đảm bảo cho nhà nước ta giữ vững bản chất giai cấp, quyền
lực nhà nước thống nhất và tập trung ở nơi nhân dân và nguyên tắc tập trung dân
chủ mới trở thành hiện thực. Với bản Hiến pháp được thông qua, hệ thống pháp
luật ở nước ta trên thực tế đã trải qua bốn giai đoạn phát triển và cải cách. Ở mỗi
giai đoạn lịch sử cụ thể, vai trò của pháp luật được thể hiện ở những mức độ khác
nhau nhưng ở mọi thời kỳ, pháp luật luôn là một trong những công cụ quan trọng
để nhà nước quản lý xã hội, củng cố kỷ cương và tăng cường dân chủ.
Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, theo pháp luật là ngun tắc có tính
hiến định xác lập các cơ sở chủ yếu điều chỉnh các quan hệ cơ bản trong xã hội
giữa công dân với công dân, giữa công dân với Nhà nước, giữa Nhà nước với các tổ chức
xã hội. Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa phải được tiến hành một cách đồng bộ trên

cả ba mặt: Xây dựng pháp luật, chấp hành pháp luật và bảo vệ pháp luật. Vì vậy, tuân thủ
nghiêm chỉnh pháp luật, thực hiện tích cực các quy định của pháp luật, sống và làm việc
có kỷ cương, kỷ luật là đòi hỏi khách quan đối với mọi công dân.


Bên cạnh việc quản lý xã hội bằng pháp luật, nhà nước phải coi trọng giáo dục
nâng cao đạo đức, kết hợp biện pháp hành chính với giáo dục tư tưởng, nâng cao dân
trí kết hợp sức mạnh của pháp luật với sức mạnh của quần chúng. Đây chính là nét
đặc sắc trong tư tưởng văn hóa pháp lý truyền thống của các thế hệ người Việt Nam
được hun đúc qua mấy nghìn năm lịch sử.
Để thực hiện thắng lợi nội dung trên trước mắt cần tập trung thực hiện tốt
một số phương hướng, nhiệm vụ cơ bản: mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát
huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng và quản lý nhà nước; cải cách nền
hành chính nhà nước nhằm nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước; đẩy mạnh đấu
tranh chống tham nhũng…
Mở rộng dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân là một trong
những nhân tố quan trọng làm nên nội lực trong nước đưa sự nghiệp cách mạng
của nước ta phát triển. Thực tế trong quá trình đổi mới đất nước, Đảng ta đã chỉ ra rằng
nơi nào thực hiện được dân chủ, phát huy được trí tuệ của đơng đảo cán bộ và nhân
dân, thì nhất định thành cơng. Ngược lại, nơi nào để mất dân chủ, tạo ra sự bất mãn
trong quần chúng thì nơi đó khơng tránh khỏi khó khăn và dẫn tới những hậu quả đáng
tiếc. Để “làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của
mình, dám nói, dám làm”17 cần thiết phải: Hồn thiện Hiến pháp và hệ thống pháp luật,
đưa pháp luật vào cuộc sống, tạo ra cơ chế đảm bảo cho pháp luật được thi hành; Đổi
mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước; Tạo ra những điều kiện
vật chất và tinh thần, nâng cao năng lực làm chủ của nhân dân; phát huy dân chủ với
tăng cường pháp chế, thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật, theo pháp luật.
Cùng với việc mở rộng dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân thì
đẩy mạnh cải cách nền hành chính nhà nước nhằm nâng cao hiệu lực quản lý của nhà
nước giữ một vị trí đặc biệt quan trọng. Thực tế cho thấy, đường lối, chính sách đúng

đắn của Đảng, pháp luật của Nhà nước là điều kiện tiên quyết, song nếu khơng có một
nền hành chính mạnh, có hiệu lực thì chính sách, luật pháp dù đúng cũng khơng thể đi
vào cuộc sống. Hiện nay, nền hành chính của ta cịn nhiều yếu kém, điều đó cản trở
lớn đến sự phát triển của sự nghiệp cách mạng nói chung, do đó cải cách nền hành
17

Hồ Chí Minh, tồn tập, Nxb CTQG, H. 1996, t. 12, tr. 223.


chính đang là một yêu cầu bức xúc. Cải cách nền hành chính ở nước ta hiện nay là
một quá trình, phải được quán triệt và tiến hành đồng bộ trên nhiều mặt. Những vấn
đề bức xúc nổi lên hiện nay cần đặc biệt quan tâm giải quyết đó là: Nâng cao trách
nhiệm và trình độ nhận thức cho đội ngũ cán bộ viên chức của Nhà nước; Cải cách
thủ tục hành chính, hồn thiện chế độ cơng vụ; sắp xếp, sử dụng một cách khoa học
đội ngũ cán bộ, thực hiện tinh giảm biên chế v.v..
Sức mạnh, hiệu quả của nhà nước một mặt dựa vào tính nghiêm minh của
việc thi hành pháp luật, mặt khác còn dựa vào sự gương mẫu, trong sạch về đạo
đức của người cầm quyền. Vì vậy, xây dựng đạo đức cách mạnh, chống các biểu
hiện tiêu cực là một vấn đề có tính quy luật trong xây dựng sức mạnh của nhà nước
ta.
Hiện nay, một bộ phận cán bộ có chức, có quyền đang rơi vào tham nhũng,
thối hóa, biến chất, làm giảm đi sức mạnh và hiệu lực của nhà nước, phá hoại
niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. Việc đấu tranh chống lại các biểu
hiện tiêu cực càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Để triệt xóa tận gốc các hiện
tượng này cần có những giải pháp đồng bộ, trong đó đặc biệt coi trọng cuộc đấu
tranh chống bệnh quan liêu. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Vì những người
và những cơ quan lãnh đạo từ cấp trên đến cấp dưới không sát công việc thực tế,
không theo dõi và giáo dục cán bộ, khơng gần gũi quần chúng. Đối với cơng việc
thì trọng hình thức mà khơng xem xét khắp mọi mặt, khơng vào sâu vấn đề. Chỉ
biết khai hội, viết chỉ thị, xem báo cáo trên giấy, chứ không kiểm tra đến nơi, đến

chốn… thành thử có mắt mà khơng thấy suốt, có tai mà khơng nghe thấu, có chế
độ mà khơng giữ đúng, có kỷ luật mà khơng nắm vững… Thế là bệnh quan liêu đã
ấp ủ, dung túng, che chở cho nạn tham ơ, lãng phí…”18.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhiệm vụ
chung của mọi lực lượng xã hội. Quân đội nhân dân Việt Nam với tư cách là một
bộ phận không tách rời của nhà nước, cần phải quán những vấn đề có tính ngun
tắc chung đó để tự hồn thiện mình, tự nâng cao trách nhiệm của mình trong thực
hiện các nhiệm vụ do cách mạng giao phó. Mặt khác, với tính cách là một lực
18

Hồ Chí Minh, tồn tập, Nxb CTQG, H. 1995, t. 6, tr. 489 - 490.


lượng tiên tiến của xã hội, cần tham gia tích cực vào hoạt động xây dựng Nhà nước
ta nói chung.



×