Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

Đại diện của đương sự trong vụ án giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại tòa án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (22.41 MB, 123 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

VÕ TUẤN NHU

ĐẠI DIỆN CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG VỤ ÁN
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH THƢƠNG MẠI
TẠI TÒA ÁN

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

VÕ TUẤN NHU

ĐẠI DIỆN CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG VỤ ÁN
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH THƢƠNG MẠI
TẠI TÒA ÁN

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Kinh tế - Mã số: 60380107

Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. Mai Hồng Quỳ

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2014



LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan Luận văn cao học “Đại diện của đương sự trong vụ án
giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án” là cơng trình nghiên cứu
do chính tác giả tìm hiểu, nghiên cứu và xây dựng nên. Những nội dung và ý tưởng
của các tác giả khác được sử dụng trong luận văn này đều được ghi chú trích dẫn
đầy đủ theo quy định.
Tơi xin chịu trách nhiệm về tính trung thực của luận văn.
Tác giả

Võ Tuấn Nhu


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLDS

: Bộ luật Dân sự

DNNN : Doanh nghiệp nhà nước
DNTN

: Doanh nghiệp tư nhân

HĐTP

: Hội đồng thẩm phán

KDTM : Kinh doanh thương mại
LDN

: Luật doanh nghiệp


LTM

: Luật thương mại

NQ

: Nghị quyết

TTDS

: Tố tụng dân sự

TNHH

: Trách nhiệm hữu hạn

UBND : Ủy ban nhân dân


MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƢƠNG 1 LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ ĐẠI DIỆN CỦA
ĐƢƠNG SỰ TRONG VỤ ÁN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH,
THƢƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN ...............................................................................10
1.1.

Lý luận về đại diện của đƣơng sự trong vụ án giải quyết tranh chấp


kinh doanh, thƣơng mại tại Tòa án ....................................................................10
1.1.1. Khái niệm đại diện của đương sự trong vụ án giải quyết tranh chấp
kinh doanh, thương mại tại Tòa án ....................................................................10
1.1.2 Đặc điểm đại diện của đương sự trong vụ án giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại tại Tòa án ............................................................................12
1.1.3. Phân loại đại diện của đương sự trong vụ án giải quyết tranh chấp
kinh doanh, thương mại tại Tòa án ....................................................................14
1.1.4. Ý nghĩa của đại diện đương sự trong vụ án giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại tại Tòa án ............................................................................14
1.2

Quy định pháp luật Việt Nam về đại diện của đƣơng sự trong vụ án

giải quyết tranh chấp kinh doanh, thƣơng mại tại Tòa án ..............................16
1.2.1 Đại diện theo pháp luật của đương sự trong vụ án giải quyết tranh
chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án ...........................................................16
1.2.2 Đại diện theo ủy quyền của đương sự trong vụ án giải quyết tranh chấp
kinh doanh, thương mại tại Tòa án ....................................................................18
1.3

Quyền, nghĩa vụ của đại diện đƣơng sự trong vụ án giải quyết tranh

chấp kinh doanh, thƣơng mại tại Tòa án ..........................................................20
1.4 Trách nhiệm pháp lý của đại diện đƣơng sự trong vụ án giải quyết tranh
chấp kinh doanh, thƣơng mại tại Tòa án ..........................................................36
1.5 Thay đổi, chấm dứt đại diện của đƣơng sự trong vụ án giải quyết tranh
chấp kinh doanh, thƣơng mại tại Tòa án ..........................................................38



1.6

Hậu quả của việc chấm dứt đại diện của đƣơng sự trong vụ giải quyết

tranh chấp kinh doanh, thƣơng mại tại Tòa án ................................................43
CHƢƠNG 2 MỘT SỐ BẤT CẬP TRONG THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY
ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ ĐẠI DIỆN CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG VỤ ÁN GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH, THƢƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN VÀ
CÁC KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ................................................46
2.1 Một số bất cập trong thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về đại
diện theo ủy quyền của đƣơng sự trong vụ án giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thƣơng mại tại Tòa án ............................................................................46
2.2 Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về đại diện của
đƣơng sự trong vụ án giải quyết tranh chấp kinh doanh thƣơng mại tại Tòa
án

.....................................................................................................................53

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ........................................................................................60
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
BẢN ÁN THAM KHẢO


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sau khi Đảng và Nhà nước xóa bỏ cơ chế bao cấp, phát triển kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần, thực hiện chính sách mở cửa. Các hoạt động sản xuất kinh

doanh phát triển mạnh mẽ, thu hút nhiều chủ thể tham gia. Số lượng doanh nghiệp
đăng ký mỗi năm ngày càng nhiều. Song song với quá trình phát triển của nền kinh
tế thì hệ thống pháp luật ngày càng hồn thiện để tạo hành lang pháp lý cho các
doanh nghiệp phát triển. Bên cạnh đó, các dịch vụ pháp lý đã ra đời nhằm hỗ trợ
cho các chủ thể hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động sản
xuất kinh doanh, các chủ thể khơng dự liệu được những khó khăn, mâu thuẫn quyền
và lợi ích của các bên trong quá trình hoạt động. Khi mâu thuẫn, xung đột quyền lợi
mà các bên không thống nhất được với nhau, các bên thường lựa chọn một cơ quan
tài phán làm trung gian để dung hịa quyền lợi của mình như Trung tâm trọng tài
hay Tịa án. Một phần do thói quen và thêm vào đó là cơ sở pháp lý của Trung tâm
trọng tài thương mại chưa có lịch sử lâu đời như Tòa án, nên các chủ thể thường
chọn Tòa án là cơ quan tài phán để giải quyết những tránh chấp của mình. Tuy
nhiên, giải quyết tranh chấp thơng qua Tịa án là một q trình tố tụng thường kéo
dài lâu hơn so với Trọng tài thương mại. Vì tính chất cơng việc cũng như cần có
người am hiểu pháp luật, thông thường các chủ thể trong tranh chấp không trực tiếp
tham gia mà ủy quyền cho người thứ ba thay mặt họ để giải quyết các tranh chấp tại
Tòa án.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, pháp luật nước ta đã có
những quy định về đại diện của đương sự trong quá trình giải quyết tranh chấp tại
Tòa án. Chế định pháp luật về đại diện của đương sự trong các tranh chấp KDTM
đã được quy định chính thức từ Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm
1994. Khi Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994 hết hiệu lực
được thay thế bằng Bộ luật TTDS năm 2004, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011
(sau đây được gọi chung là “Bộ luật TTDS”), Bộ luật TTDS vẫn tiếp tục duy trì


2

chế định đại diện của đương sự trong vụ án giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại tại Tòa án.

Qua thực tiễn cho thấy, phần lớn đại diện của đương sự là những người rất
am hiểu pháp luật nên cũng góp phần thúc đẩy cho Tịa án giải quyết vụ án đúng
thời hạn và đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi cịn
có những vướng mắc, khó khăn cần tiếp tục nghiên cứu và hồn thiện. Do vậy cần
thiết phải nghiên cứu một cách toàn diện những quy định pháp luật về đại diện của
đương sự trong vụ án giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại và thực tiễn áp
dụng trong quá trình tố tụng tại Tịa án, để từ đó chỉ ra những bất cập và kiến nghị
những giải pháp hoàn thiện chế định này trong TTDS tại Tịa án.
Từ những phân tích trên, tác giả quyết định chọn đề tài “Đại diện của đương
sự trong vụ án giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án” cho
luận văn thạc sĩ luật học của mình. Tác giả mong muốn thơng qua việc nghiên cứu
những vấn đề lý luận và thực tiễn về chế định pháp luật đại diện của đương sự tại
Tòa án địa phương, đồng thời tham khảo một số kinh nghiệm quốc tế để từ đó có
thể đề xuất được những giải pháp cụ thể nhằm góp phần hồn thiện chế định này
trong TTDS tại Tịa án.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đại diện của đương sự trong vụ án giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại tại Tòa án là đề tài hiện chưa được nghiên cứu thành một nội dung riêng
lẻ nhưng là vấn đề được nhiều tác giả đề cập tại các cơng trình nghiên cứu khác
nhau dưới dạng tài liệu chuyên khảo, tham khảo, giáo trình, bình luận khoa học,
luận văn thạc sĩ Luật học và tại các bài viết trên các Tạp chí chuyên ngành, các
chuyên đề tại Hội nghị, Hội thảo.
Đối với các cơng trình nghiên cứu dưới dạng tài liệu chun khảo, tham
khảo, giáo trình, bình luận khoa học: đây là những tài liệu mang tính chất phổ biến
cung cấp những kiến thức lý luận cơ bản nhất liên quan đến đề tài tác giả nghiên
cứu. Bao gồm các cơng trình:


3


- Trường Đại học Luật Hà Nội (2013), Giáo trình Luật dân sự Việt Nam
tập I, NXB Công an nhân dân, Hà Nội; Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí
Minh (2014), Giáo trình những quy định chung về luật dân sự, NXB Hồng Đức Hội luật gia Việt Nam, Hà Nội. Các cơng trình này nghiên cứu rất nhiều nội dung
khác nhau, trong đó, nội dung về Đại diện được các tác giả đề cập đến bao gồm:
khái niệm, đặc điểm, điều kiện hình thành, chủ thể của quan hệ đại diện; các loại đại
diện, phạm vi đại diện và chấm dứt đại diện.
- Nguyễn Văn Cường, Trần Anh Tuấn, Đặng Thanh Hoa (Chủ biên)
(2012), Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi, NXB Lao động - Xã
hội. Tại cơng trình này, các quy định pháp luật tố tụng về người đại diện của đương
sự được các tác giả nghiên cứu dưới góc độ đây là một phần nội dung của chuyên
đề 3 “Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng”.
- Hà Thị Mai Hiên, Trần Văn Biên (Đồng chủ biên) (2012), Bình luận
khoa học Bộ luật Tố tụng dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã
được sửa đổi, bổ sung năm 2011, NXB Tư pháp, Hà Nội. Tại tác phẩm này, các tác
giả phân tích điều luật quy định về khái niệm người đại diện, quyền và nghĩa vụ của
người đại diện, những trường hợp không được làm người đại diện, chỉ định người
đại diện trong tố tụng dân sự, chấm dứt đại diện trong tố tụng dân sự và hậu quả của
việc chấm dứt đại diện trong tố tụng dân sự.
Đối với các cơng trình nghiên cứu là luận văn thạc sĩ Luật học, đây là các
nguồn tài liệu cung cấp cho tác giả những quan điểm, cách nhận định của các nhà
nghiên cứu Luật học về đại diện của đương sự tại Tịa án dưới nhiều khía cạnh khác
nhau. Bao gồm:
- Nguyễn Thị Thu Hiếu (2006), Thẩm quyền giải quyết các vụ việc về KDTM
của Tòa án Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, Luận văn thạc sỹ luật
học. Luận văn này phân biệt thẩm quyền của Tòa án với thẩm quyền của các cơ
quan Nhà nước khác có thẩm quyền giải quyết một số các tranh chấp như: các tổ
chức hòa giải của Ủy ban nhân dân cấp phường, Hội đồng trọng tài lao động cấp
tỉnh, hòa giải viên lao động cấp huyện v v... Khơng chỉ có ý nghĩa pháp lý đối với



4

việc hồn thiện cơ chế hoạt động của Tịa án, mà cịn có ý nghĩa quan trọng trong
việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam và hội nhập kinh tế quốc tế. Việc
phân biệt thẩm quyền về KDTM giữa Tòa án về thương mại và các Tòa án về dân
sự, lao động...cũng như Trọng tài thương mại là nhằm đáp ứng với tình hình thực tế
hiện nay. Để giải quyết các vụ việc về KDTM tại Tòa án, luận văn đã đề ra giải
pháp là pháp luật cần phải tiếp tục hoàn thiện dựa trên những căn cứ nhất định đảm
bảo tính khoa học, tính thực tiễn, tính khả thi của hệ thống pháp luật nhằm đảm bảo
sự hài hịa tương thích với pháp luật và tập qn quốc tế.
- Lê Tự (2007), Giải quyết tranh chấp KDTM bằng con đường Tòa án trong
điều kiện hiện nay, Luận văn thạc sỹ luật học. Luận văn này đề cập đến hệ thống
pháp luật của chúng ta chưa thật sự đồng bộ, pháp luật về việc giải quyết tranh chấp
kinh doanh, thương mại còn nhiều bất cập, hệ thống tổ chức bộ máy Tịa án hiện
hành khơng phù hợp với u cầu hội nhập, công tác xét xử tranh chấp kinh doanh,
thương mại của Tòa án chưa thật sự hiệu quả, đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm nhân
dân dân, Luật sư chưa ngang tầm nhiệm vụ. Luận văn còn đề ra giải pháp hoàn
thiện các những quy định pháp luật tố tụng dân sự liên quan đến việc giải quyết
tranh chấp kinh doanh, thương mại đang là yêu cầu cấp bách hiện nay. Pháp luật tố
tụng dân sự phải thật sự là công cụ pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
các bên tranh chấp, đảm bảo quyền tự định đoạt của các chủ thể kinh doanh và đáp
ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại bằng Tòa án.
- Huỳnh Tất Ngọc Trân (2009), Hòa giải vụ án kinh doanh thương, mại tại
Tòa án, Luận văn thạc sỹ luật học. Luận văn này phân tích các chủ thể trong tranh
chấp kinh doanh, thương mại hồn tồn có quyền tự định đoạt, quyền tìm sự thương
lượng với nhau và với những người có quyền và lợi ích liên quan về một giải pháp
tối ưu để giải quyết tranh chấp. Việc cịn lại của Tịa án là cơng nhận, bảo vệ những
thỏa thuận mà các đương sự đã đạt được, miễn là chúng không trái với pháp luật và
đạo đức xã hội. Vì lẽ đó, hịa giải khơng chỉ thể hiện rõ nét nhất quyền tự định đoạt

của đương sự, là giải pháp tối ưu giải quyết tranh chấp mà còn là một biện pháp hàn


5

gắn mối quan hệ đang đứng trước nguy cơ rạn nứt giữa các bên. Và rộng hơn, hòa
giải là phương tiện củng cố tình đồn kết, tương thân tương ái trong nội bộ quần
chúng nhân dân, quan hệ hợp tác quốc tế.
Đối với các cơng trình nghiên cứu thể hiện qua những bài viết trên các Tạp
chí chuyên ngành, Hội nghị, Hội thảo, các số chuyên đề: Tạp chí Luật học, Tạp chí
Tịa án, Tạp chí Khoa học pháp lý, Tạp chí Kiểm sát… đây là nguồn tài liệu phong
phú nhất. Nội dung của các cơng trình này phần lớn đều có sự đối chiếu, so sánh
giữa lý luận và thực tiễn; chỉ ra sự “đa chiều” trong cách hiểu các quy định của
pháp luật:
- Nguyễn Văn Lâm (2006), “Có nên xem việc ủy quyền của đương sự không
đúng thủ tục làm căn cứ hủy bản án sơ thẩm”, Tạp chí Tịa án nhân dân, (15), tr.3132. Tác giả dẫn chứng vụ án “tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn là bà
Nguyễn Thị Ngọc Em và bị đơn là ơng Lê Văn Sáu, bà Lê Thị Liễu có bản án sơ
thẩm bị hủy 02 lần với lý do liên quan đến thủ tục ủy quyền. Từ đó, tác giả đưa ra
các quan điểm khác nhau bàn luận về thủ tục ủy quyền trong vụ án và suy nghĩ cá
nhân tác giả về các quy định pháp luật liên quan đến ủy quyền, đánh giá quyết định
hủy bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm.
- Hồ Ngọc Hiển (2007), “Nghĩa vụ của người đại diện và người ủy quyền theo
pháp luật kinh doanh của Hoa Kỳ trong sự so sánh với các quy định pháp luật tương
ứng của Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật (3), tr.66. Trong phạm vi bài
viết, tác giả đã phân tích nghĩa vụ của người đại diện và người ủy quyền với nhau,
nghĩa vụ của các bên trong quan hệ ủy quyền với người thứ ba theo pháp luật kinh
doanh Hoa Kỳ; phân tích quy định của pháp luật Việt Nam về nghĩa vụ của người
đại diện và người ủy quyền trong sự so sánh với các quy định tương ứng của Hoa
Kỳ. Từ đó, tác giả đề nghị bổ sung các quy định về trường hợp mà người ủy quyền
phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người thứ ba khi người ủy quyền có

lỗi, cho dù người thực hiện hành vi gây thiệt hại là người đại diện: sự cẩu thả của
người ủy quyền khi chỉ dẫn sai, thiết lập các quy tắc không đúng đắn, không ngăn
chặn các hành vi gây thiệt hại của người khác khi họ chiếm hữu tài sản của người


6

ủy quyền hoặc sử dụng các dụng cụ tài liệu của người ủy quyền; người ủy quyền
chủ ý ủy quyền cho người ủy quyền thực hiện hành vi gây thiệt hại cho người thứ
ba; người đại diện nhầm lẫn nhưng người ủy quyền biết mà khơng đính chính...
- Hồng Thế Vịnh (2007), “Ủy quyền tham gia tố tụng trong vụ án thương
mại: một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Tạp chí nhà nước và pháp luật, (8), tr.2935. Tại bài viết, tác giả ghi nhận sự quan trọng của người đại diện theo ủy quyền
của đương sự trong tranh chấp kinh doanh, thương mại “Trường hợp đương sự ủy
quyền toàn bộ cho người khác tham gia tố tụng thì sự ủy quyền tố tụng có vai trị vơ
cùng quan trọng trong việc bảo vệ quyền, lợi ích của đương sự ủy quyền trong việc
giải quyết vụ án cụ thể”; nêu thực trạng pháp luật về ủy quyền tham gia tố tụng vụ
án thương mại như: quy định về thời điểm tham gia tố tụng của người đại diện được
đương sự ủy quyền, quy định về người đại diện theo ủy quyền thực hiện việc ủy
quyền kéo dài từ thời điểm khiếu nại sang giai đoạn tố tụng, quy định về việc người
cấp phó của người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức tự mình nhân danh
cơ quan tổ chức tham gia tố tụng vụ án kinh doanh thương mại, quy định về hình
thức của việc ủy quyền tham gia tố tụng vụ án thương mại. Từ những phân tích các
quy định pháp luật trên, tác giả đã nêu các đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp
luật về người đại diện theo ủy quyền tham gia tố tụng trong vụ án thương mại.
- Đào Thị Huệ (2010), “Bàn về quyền khởi kiện của người đại diện hợp pháp
của cá nhân, cơ quan, tổ chức theo Điều 161 Bộ luật tố tụng dân sự”, Tạp chí Tòa
án nhân dân, (05), tr. 14-16, tr.48. Tại bài viết, tác giả bàn về quyền ký đơn khởi
kiện của người đại diện hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức; phân tích các quy
định pháp luật liên quan đến quyền khởi kiện và ký đơn khởi kiện của người đại
diện hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức theo quy định tại Bộ luật dân sự 2005,

Bộ luật tố tụng dân sự 2004, Nghị quyết 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12 tháng 5 năm
2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
- Nguyễn Văn Bường (2010), “Hợp đồng ủy quyền - Những vấn đề lý luận và
thực tiễn áp dụng pháp luật”, Tạp chí Tịa án nhân dân, (08), tr.32-33. Tại bài viết,
tác giả đối chiếu quy định pháp luật về hợp đồng ủy quyền với hành vi bảo lãnh, thế


7

chấp; nêu sự sai sót của cơ quan cơng chứng, chứng thực trong việc cơng chứng,
chứng thực văn bản có tên “Hợp đồng ủy quyền” nhưng nội dung hợp đồng là liên
quan đến việc bảo lãnh, thế chấp. Từ đó dẫn đến sự thiệt hại cho người ủy quyền và
việc xử lý hình sự đối với người đại diện theo ủy quyền.
- Võ Quốc Tuấn (2013), “Về đơn phương chấm dứt hợp đồng ủy quyền theo
Điều 588 Bộ luật dân sự”, Tạp chí Tịa án nhân dân, (07), tr 25-26. Tác giả nêu sự
bất cập về việc đơn phương chấm dứt hợp đồng ủy quyền của người ủy quyền như
quy định pháp luật tại Điều 588 của Bộ luật dân sự 2005, dẫn chứng thiệt hại phát
sinh đối với người thức ba từ việc đơn phương chấm dứt hợp đồng ủy quyền của
người ủy quyền. Từ đó, kiến nghị sửa đổi Điều 588 của Bộ luật dân sự 2005.
- Ngoài ra một số bài viết khác có liên quan như: Trần Văn Biên (2006),“Hình
thức hợp đồng theo quy định của Bộ luật dân sự 2005”, Tạp chí Tịa án nhân dân,
(3); Hoàng Thu Yến (2006), “Người đại diện và người bảo vệ quyền lợi của đương
sự trong tố tụng dân sự”, Tạp chí nhà nước và pháp luật, (5); Nguyễn Hải An
(2007), “Một người có thể ủy quyền cho nhiều người tham gia tố tụng”, Tạp chí
Tịa án nhân dân, (17); Đặng Văn Hưng (2012), “Áp dụng pháp luật trong thực
hiện các giao dịch về đại diện, thế chấp tài sản và bảo lãnh”, Tạp chí Tịa án nhân
dân, (04); Lê Khắc Hạnh và Nguyễn Minh Hằng (2013), “Xác định đại diện của
dòng họ - Những ý kiến trao đổi từ thực tiễn xét xử” Tạp chí Tịa án nhân dân,
(12);
Những cơng trình nghiên cứu và những bài viết được nêu trên chỉ đề cập

những vấn đề riêng lẻ, chưa phải là một cơng trình nghiên cứu chun sâu chế định
pháp luật về đại diện của đương sự trong vụ án giải quyết tranh chấp KDTM tại Tòa
án. Luận văn của tác giả sẽ nghiên cứu trên cơ sở phân tích chuyên sâu về phạm vi,
nội dung về đại diện của đương sự trong vụ án KDTM tại Tòa án. Trên cơ sở các
quy định của pháp luật, lý giải các hạn chế, vướng mắc trong quá trình thực hiện và
đề xuất giải pháp có khả năng áp dụng trong thực tế, nhằm hướng đến hoàn thiện
pháp luật hơn.


8

3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản và quy định pháp luật
về đại diện của đương sự trong vụ án giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
tại Tòa án, tác giả phân tích những quy định pháp luật hiện hành, từ đó chỉ ra những
bất cập trong quy định pháp luật so với thực tiễn hoặc sự thiếu thống nhất giữa các
quy định pháp luật có liên quan và đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy
định pháp luật về đại diện của đương sự trong vụ án giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại tại Tòa án nói riêng và đại diện nói chung.
4. Phƣơng pháp tiến hành nghiên cứu
Toàn luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của
Chủ nghĩa Mác - Lênin, chính sách của Nhà nước về chiến lược cải cách tư pháp.
Bên cạnh đó, tác giả cịn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như phân tích, tổng
hợp, thống kê, so sánh. Cụ thể:
- Phương pháp phân tích là phương pháp được tác giả sử dụng xuyên suốt
trong 02 chương của luận văn. Tại chương 1, tác giả sử dụng phương pháp phân
tích để phân tích các khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa và quy định pháp luật về đại diện
của đương sự trong vụ án giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án.
Tại chương 2, khi đề cập đến những vướng mắc, khó khăn của việc áp dụng các quy
định pháp luật hiện hành về đại diện của đương sự trong vụ án giải quyết tranh chấp

kinh doanh, thương mại tại Tòa án trong thực tiễn, tác giả đã sử dụng phương pháp
này để phân tích, từ đó đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật.
- Phương pháp so sánh là phương pháp được dùng để so sánh quy định
pháp luật của Việt Nam và pháp luật của các quốc gia trên thế giới về đại diện của
đương sự trong vụ án giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án.
- Phương pháp thống kê được tác giả sử dụng để thống kê những vướng
mắc, khó khăn của việc áp dụng các quy định pháp luật hiện hành về đại diện của
đương sự trong vụ án giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án.
- Phương pháp tổng hợp là phương pháp được sử dụng để hoàn thành luận
văn trên cơ sở tập hợp các tài liệu, số liệu đã thu thập.


9

5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Ý nghĩa khoa học: kết quả từ công trình nghiên cứu này sẽ cung cấp những
kiến thức chuyên sâu về những vướng mắc, khó khăn của việc áp dụng các quy định
pháp luật hiện hành về đại diện của đương sự trong vụ án giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại tại Tòa án, chỉ ra những vướng mắc trong quy định của pháp
luật, từ đó đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật.
Giá trị ứng dụng của đề tài: đề tài nghiên cứu giúp ích cho hoạt động của
ngành Tịa án và cho cá nhân, tổ chức trong việc xác định đại diện của cá nhân,
pháp nhân khi tham gia giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tịa án có
thẩm quyền.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
trình bày thành 02 chương như sau:
Chương 1: Lý luận và quy định pháp luật về đại diện của đương sự trong
vụ án giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án.
Chương 2: Một số bất cập trong thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật

về đại diện của đương sự trong vụ án giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
tại Tòa án và các kiến nghị hoàn thiện pháp luật.


10

CHƢƠNG 1
LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ ĐẠI DIỆN CỦA ĐƢƠNG SỰ
TRONG VỤ ÁN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH,
THƢƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN

1.1.

Lý luận về đại diện của đƣơng sự trong vụ án giải quyết tranh

chấp kinh doanh, thƣơng mại tại Tòa án
1.1.1. Khái niệm đại diện của đương sự trong vụ án giải quyết tranh
chấp kinh doanh, thương mại tại Tịa án
Dưới góc độ ngơn ngữ, đại diện là “một người hoặc cơ quan (ví dụ Văn
phòng đại diện, Cơ quan đại diện ngoại giao) thay mặt một người, một tổ chức, một
quốc gia, một tổ chức quốc tế, một tổ chức chính phủ, một tổ chức phi chính phủ với
những nhiệm vụ quyền hạn cụ thể để làm những cơng việc nhất định vì lợi ích của
người, của tổ chức đã cử họ làm đại diện”1,“Người đại diện (Personal
Representative) là người đảm nhận công việc của người khác, dưới một quyền năng
được ủy quyền hoặc do người được đại diện khơng có khả năng thực hiện cơng việc
đó là vì lý do chết, mất năng lực hành vi hoặc chưa thành niên. Ví dụ như người
quản lý và phân chia di sản (excutor) được chỉ định trong di chúc của người để lại
di sản hoặc người giám hộ của người mất năng lực hành vi”2. Đại diện của đương
sự “là người thay mặt đương sự tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của đương sự trước Tòa án”3 và đại diện của đương sự “là người tham gia tố tụng

thay mặt đương sự thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp cho đương sự trước Tòa án”4.

Từ điển luật học (1999), NXB Từ điển Bách khoa, Hà Nội, tr.142.
Theo English for lawyer tr 127.
3
Từ điển giải thích thuật ngữ pháp lý của Trường Đại học Luật Hà Nội.
4
Trường Đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, NXB Tư Pháp, Hà
Nội, tr.115.
1
2


11

Dưới góc độ pháp luật, đại diện của đương sự là “việc một người (sau đây
gọi là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của người khác (gọi là người được
đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện”5.
Nhìn chung, khi xem xét thuật ngữ “đại diện của đương sự” dưới nhiều góc
độ khác nhau thì thuật ngữ “đại diện của đương sự” đều chỉ người nhân danh người
khác để thực hiện quyền, lợi ích của người được nhân danh. Trong giới hạn của
luận văn này, người được nhân danh được gọi là “đương sự trong vụ án kinh doanh
thương mại”.
- Đương sự “là người, là đối tượng trực tiếp của một việc đang giải
quyết”6, “là người có liên quan trực tiếp đến một việc”7,“là người có quyền, nghĩa
vụ được giải quyết trong một việc khiếu nại hoặc một vụ án”8. Đương sự “người
đưa ra hoặc chống lại người đưa ra việc kiện”9, đương sự “là người tham gia tố
tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc bảo vệ lợi ích cơng cộng, lợi
ích của Nhà nước thuộc lãnh vực mình phụ trách”10 Đương sự trong vụ án giải

quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại có thể là cá nhân, pháp nhân và tham gia
tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án với tư cách nguyên đơn, bị đơn và
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Nguyên đơn trong vụ án giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại là
người khởi kiện vụ án về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại để yêu cầu
Tòa án giải quyết tranh chấp khi quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị xâm phạm;
nguyên đơn tham gia tố tụng với tính chất chủ động.
Bị đơn là người bị nguyên đơn khởi kiện, là người tham gia tố tụng để trả lời
về việc tranh chấp do bị nguyên đơn khởi kiện; bị đơn tham gia tố tụng với tính chất
bị động, bị bắt buộc.
Khoản 1 Điều 139 Bộ luật dân sự năm 2005.
Nguyễn Như Ý (chủ biên), Đại từ điển Tiếng Việt, NXB Văn hóa thơng tin.
7
Từ điển từ và ngữ Hán Việt.
8
Nguyễn Hữu Đắc (1999), Từ điển luật học, NXB Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
9
Bryan A. Garner (2001), Blacks law dictonari. ST Paul MNN.
10
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, NXB Tư Pháp, Hà Nội,
tr.106.
5
6


12

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là người không khởi kiện, không bị
kiện nhưng việc giải quyết vụ án kinh doanh, thương mại của Tịa án có liên quan
đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên tự mình đề nghị hoặc được các đương sự khác

đề nghị và được Tòa án chấp nhận việc đưa vào tham gia tố tụng.
- Tranh chấp kinh doanh, thương mại là mâu thuẫn giữa các bên phát sinh
trong các hoạt động kinh doanh, thương mại. Khi tranh chấp kinh doanh, thương
mại được Tịa án xem xét giải quyết theo trình tự, thủ tục luật định thì được gọi là
vụ án kinh doanh, thương mại. Tranh chấp kinh doanh, thương mại bao gồm tranh
chấp phát sinh từ hoạt động nhằm mục đích sinh lợi như mua bán hàng hoá, cung
ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại,…
Tóm lại, mặc dù thuật ngữ “đại diện của đương sự trong vụ án giải quyết
tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án” hiện chưa được định nghĩa thành
một khái niệm cụ thể, nhưng qua các khái niệm “đại diện”, “đương sự” và “tranh
chấp kinh doanh, thương mại” được ghi nhận tại các cơng trình khoa học khác nhau
dưới góc độ ngơn ngữ và pháp lý nêu trên, tác giả khái quát “Đại diện của đương sự
trong vụ án giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án là một hoặc
nhiều cá nhân nhân danh cá nhân, pháp nhân để thực hiện quyền và nghĩa vụ của
cá nhân, pháp nhân đó khi tham gia giải quyết tranh chấp phát sinh từ hoạt động
kinh doanh, thương mại của họ tại Tòa án”.
1.1.2 Đặc điểm đại diện của đương sự trong vụ án giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại tại Tòa án
Thứ nhất, Đại diện của đương sự trong vụ án giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại là người thực hiện quyền và nghĩa vụ của đương sự tại Tòa án
Khi tham gia giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án, đại
diện của đương sự không căn cứ vào quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân mình
để quyết định các vấn đề tranh chấp mà họ phải thực hiện các hoạt động tố tụng trên
danh nghĩa của đương sự. Bởi lẽ, vụ án kinh doanh, thương mại Tòa án đang giải
quyết là tranh chấp phát sinh từ hoạt động kinh doanh, thương mại của các đương
sự (nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan). Do đó, tranh chấp


13


này không tác động, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp đại diện của đương
sự. Mặc khác, đây cũng chính là điều kiện quan trọng hình thành quan hệ đại diện,
vì nếu đại diện nhân danh mình thì ở đây không phải là quan hệ đại diện nữa, lúc
này đại diện và người thứ ba sẽ là chủ thể của giao dịch dân sự. Việc nhân danh này
có thể được hiểu rõ ràng hay ngầm hiểu trong bối cảnh không thể khác đi được11.
Đại diện theo pháp luật của đương sự được thực hiện tất cả các quyền và
nghĩa vụ tố tụng của đương sự mà họ đại diện để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
cho đương sự. Đại diện của đương sự theo ủy quyền chỉ thực hiện các quyền, nghĩa
vụ tố tụng của đương sự trong phạm vi ủy quyền. Phạm vi ủy quyền được ghi nhận
tại giấy ủy quyền hoặc hợp đồng ủy quyền của đương sự và đại diện của đương sự.
Những hành vi vượt q phạm vi ủy quyền đều khơng có giá trị pháp lý.
Về nguyên tắc, khi người đại diện thực hiện cơng việc trong phạm vi ủy
quyền thì sẽ phát sinh quyền và nghĩa vụ của người ủy quyền đối với cơng việc đó.
Do đó khi người đại diện thực hiện hành vi vượt quá phạm vi ủy quyền thì người ủy
quyền sẽ khơng chịu trách nhiệm đối với phần giao dịch vượt quá đó, trừ khi người
ủy quyền đồng ý hoặc có những biểu hiện chứng tỏ mình biết và chấp nhận giao
dịch dân sự đó.
Thứ hai, Đại diện của đương sự là người làm phát sinh các quyền và nghĩa
vụ của đương sự trong vụ án giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tịa
án.
Q trình tham gia vụ án giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại
Tịa án là q trình mà đại diện của đương sự tiến hành các giao dịch với các đương
sự khác trong phạm vi đại diện mà đại diện của đương sự và đương sự đã thỏa thuận
và theo quy định của pháp luật. Do vậy, mọi quyết định của đại diện của đương sự
không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của đại diện của đương sự với các đương sự
khác mà sẽ là căn cứ phát sinh quyền, nghĩa vụ của đương sự với đương sự đó.

Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Tập bài giảng “Những vấn đề chung về luật dân sự”,
tr.318.
11



14

Xuất phát từ bản chất của quan hệ đại diện là việc xác lập, thực hiện giao
dịch dân sự từ đại diện lại làm phát sinh quyền và nghĩa vụ đối với đương sự nên để
bảo vệ quyền lợi của đương sự, pháp luật buộc đại diện phải thực hiện cơng việc
trong phạm vi đại diện, chỉ có giao dịch phát sinh trong phạm vi đại diện mới mang
tính ràng buộc đối với đương sự, mới làm phát sinh trách nhiệm của đương sự, mọi
giao dịch dân sự vượt quá phạm vi đại diện thì về nguyên tắc sẽ thuộc trách nhiệm
của đại diện.
1.1.3. Phân loại đại diện của đương sự trong vụ án giải quyết tranh chấp
kinh doanh, thương mại tại Tịa án
Căn cứ nguồn gốc hình thành đại diện của đương sự trong vụ án giải quyết
tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tịa án gồm có: Đại diện theo pháp luật và
Đại diện theo ủy quyền:
- Đại diện theo pháp luật: là đại diện của đương sự hình thành theo quy
định của pháp luật bao gồm cả đại diện hình thành theo quyết định của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền. Đại diện hình thành theo quy định của pháp luật còn được gọi
là đại diện đương nhiên, đại diện hình thành từ quyết định của cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền (Tịa án) gọi là đại diện do Tòa án chỉ định.
- Đại diện theo ủy quyền: là đại diện tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp cho đương sự theo sự ủy quyền của đương sự12. Đại diện theo ủy
quyền là đại diện hình thành theo sự ủy quyền giữa các bên dưới dạng hành vi pháp
lý13. Đại diện của đương sự theo ủy quyền chỉ thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng
của đương sự trong phạm vi ủy quyền.
1.1.4. Ý nghĩa của đại diện đương sự trong vụ án giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại tại Tòa án
Đại diện của đương sự trong vụ án giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương
mại tại Tòa án nhằm bảo vệ ngun tắc hiến định“Mọi cơng dân đều bình đẳng

Trường Đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, NXB Tư Pháp,
Hà Nội, tr.118.
13
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (Lê Nết), Giáo trình Những quy định chung về
luật dân sự, NXB Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam, Hà Nội, tr.301.
12


15

trước pháp luật”. Vì trong thực tiễn, khơng phải mọi cá nhân, tổ chức đều có thể tự
mình tham gia giải quyết vụ án kinh doanh, thương mại tại Tòa án, đương sự có thể
thơng qua chủ thể khác (đại diện của đương sự) để trình bày quan điểm của chính
mình, thực hiện quyền và lợi ích hợp pháp của mình, mang lại lợi ích cao nhất cho
bản thân. Ngồi ra, đại diện của đương sự trong vụ án giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại tại Tòa án còn là bảo đảm sự công bằng cho tất cả đương sự
trước pháp luật. Cụ thể, đã giúp một số đương sự chưa đáp ứng các điều kiện của
pháp luật: năng lực hành vi dân sự,…kịp thời thực hiện quyền và lợi ích hợp pháp
của mình. Việc tồn tại quy định đại diện của đương sự nhằm kịp thời bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của họ, phù hợp với quy định pháp luật của các quốc gia trên thế
giới.
Khái niệm và quy định pháp luật về đại diện của đương sự khi tham gia giải
quyết tranh chấp tại Tòa án là một khái niệm và quy định cần thiết. Bởi lẽ, quy định
này đã giúp phân định đại diện theo ủy quyền với một số chế định pháp lý khác
như: ủy thác14 và đại lý15. Đại diện và các quy định về ủy thác, đại lý giống nhau là
hai bên chủ thể trong giao dịch xác lập. Tuy nhiên, do các đặc điểm của đại diện đã
nêu tại phần 1.1.3 nên đại diện của đương sự luôn nhân danh đương sự khi tham gia
giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tịa án và vì lợi ích của đương sự,
cịn các quy định ủy thác hay đại lý thì chủ thể thực hiện hoạt động nhân danh chính
họ.

Như vậy, Đại diện của đương sự trong vụ án giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại tại Tòa án là rất cần thiết trong đời sống xã hội và đặc biệt trong
sự tăng nhanh về số lượng và tính chất phức tạp của các tranh chấp kinh doanh,
thương mại tại Tòa án như hiện nay.

14
15

Điều 155 của Luật Thương mại 2005.
Điều166 của Luật Thương mại 2005.


16

1.2 Quy định pháp luật Việt Nam về đại diện của đƣơng sự trong vụ án
giải quyết tranh chấp kinh doanh, thƣơng mại tại Tòa án
Quy định về khái niệm đại diện theo pháp luật và đại diện theo ủy quyền tại
các quy định pháp luật Việt Nam khơng có sự khác biệt so với lý luận về đại diện
của đương sự. Đại diện theo pháp luật của đương sự trong vụ án giải quyết tranh
chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án là đại diện do pháp luật quy định hoặc cơ
quan nhà nước có thẩm quyền quyết định. Đại diện theo ủy quyền là người được cá
nhân hoặc đại diện theo pháp luật của pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác uỷ quyền
thực hiện việc tham gia tố tụng tại Tịa án. Tuy nhiên, do tình hình lịch sử, đặc điểm
kinh tế, đặc biệt là quy định pháp luật về các loại hình doanh nghiệp trong từng thời
kỳ của đất nước nên quy định pháp luật về đại diện của đương sự, quyền và nghĩa
vụ đại diện của đương sự và quy định pháp luật Việt Nam về thay đổi đại diện của
đương sự, chấm dứt đại diện của đương sự trong vụ án giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại tại Tòa án vào mỗi thời điểm cũng khác nhau.
1.2.1 Đại diện theo pháp luật của đương sự trong vụ án giải quyết tranh
chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án

Tranh chấp KDTM tại Tòa án là tranh chấp giữa các đương sự mà trong đó
một hoặc các đương sự có đăng ký kinh doanh và cùng có mục đích lợi nhuận.
Đương sự trong tranh chấp KDTM tại Tịa án có thể là cá nhân hoặc pháp nhân. Do
đó, đại diện theo pháp luật của đương sự trong KDTM khi đương sự là cá nhân và
khi đương sự là pháp nhân là khác nhau.
Đối với pháp nhân: Từ năm 1991 đến năm cuối năm 1994, theo quy định của
Luật Công ty 1991, doanh nghiệp tại thời điểm này bao gồm: công ty trách nhiệm
hữu hạn, công ty cổ phần và chủ doanh nghiệp tư nhân. Đến năm 1995, khi Luật
doanh nghiệp nhà nước có hiệu lực pháp luật ngày 20 tháng 4 năm 1995 thì xuất
hiện thêm một loại hình doanh nghiệp mới là doanh nghiệp nhà nước. Sau đó, vào
thời điểm Luật doanh nghiệp 1999 có hiệu lực pháp luật ngày 01 tháng 01 năm
2000, thì tại văn bản quy phạm pháp luật này, loại hình cơng ty trách nhiệm hữu
hạn được phân định thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên và công ty


17

trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, đồng thời bổ sung thêm một hình thức
doanh nghiệp mới: cơng ty hợp danh. Đến ngày 01/7/2004, thời điểm Luật doanh
nghiệp 2004 có hiệu lực pháp luật, nền kinh tế Việt Nam xuất hiện thêm một loại
hình doanh nghiệp: cơng ty của Nhà nước với hai hình thức hoạt động: Cơng ty Nhà
nước có Hội đồng quản trị và Cơng ty nhà nước khơng có hội đồng quản trị.
Tuy nhiên, dù các pháp nhân này có tổ chức, hình thức và tên gọi khác nhau
nhưng nhìn chung, đại diện theo pháp luật của các pháp nhân trong KDTM tại Tòa
án là Giám đốc/Tổng giám đốc/Chủ tịch Hội đồng quản trị. Cụ thể:
- Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên: Đại diện theo pháp luật
trong KDTM là Giám đốc công ty/Tổng giám đốc công ty16;
- Công ty cổ phần: Đại diện theo pháp luật trong KDTM là Giám đốc công
ty/Tổng giám đốc cơng ty17;
- Cơng ty nhà nước có Hội đồng quản trị: Đại diện theo pháp luật trong

KDTM là Tổng giám đốc công ty18;
- Công ty nhà nước không có Hội đồng quản trị: Đại diện theo pháp luật
trong KDTM là Giám đốc cơng ty19.
Ngồi ra, Chủ doanh nghiệp tư nhân cũng được Luật Doanh nghiệp tư nhân
1991 rồi Luật Doanh nghiệp 2004 quy định là đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp tư nhân trong tranh chấp KDTM tại Tòa án “Chủ doanh nghiệp tư nhân là
nguyên đơn, bị đơn trước Tòa án trong các tranh chấp và vụ kiện liên quan đến
doanh nghiệp”20.
Đối với cá nhân: Theo quy định tại khoản 1, khoản 2, khoản 3 Điều 150 của
BLDS năm 1995; đại diện theo pháp luật của cá nhân là người giám hộ đối với
người bị giám hộ, người được Tòa án chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự. Do đó, khi một bên tham gia tranh chấp KDTM tại Tòa án mà họ là
Khoản 3 Điều 27 của Luật Công ty 1991.
Điều 40 của Luật Công ty 1991.
18
Khoản 1 Điều 38 của Luật Doanh nghiệp nhà nước 2004.
19
Khoản 1 Điều 23 của Luật Doanh nghiệp nhà nước 2004.
20
Khoản 3 Điều 143 của Luật Doanh nghiệp 2005.
16
17


18

cá nhân đang được giám hộ, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì người đại diện
của họ tại Tịa án chính là người giám hộ, người được Toà án chỉ định. Quy định
này được BLDS năm 2005 duy trì.
Tuy nhiên, dù là đại diện theo pháp luật của cá nhân hay pháp nhân thì đại

diện của đương sự theo pháp luật tại Tịa án ln là cá nhân và để trở thành đại
diện theo pháp luật, cá nhân phải có đầy đủ năng lực chủ thể dân sự và năng lực tố
tụng hành vi dân sự và đại diện của đương sự phải không thuộc những trường hợp
sau:
“Những trường hợp không được làm người đại diện:
1. Những người sau đây không được làm người đại diện theo pháp luật:
a) Nếu họ cũng là đương sự trong cùng một vụ án với người được đại diện mà
quyền và lợi ích hợp pháp của họ đối lập với quyền và lợi ích hợp pháp của
người được đại diện; b) Nếu họ đang là người đại diện theo pháp luật trong tố
tụng dân sự cho một đương sự khác mà quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự đó đối lập với quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại diện trong
cùng một vụ án.
2. Quy định tại khoản 1 Điều này cũng được áp dụng đối với trường
hợp đại diện theo uỷ quyền trong tố tụng dân sự.
3. Cán bộ, cơng chức trong các ngành Tồ án, Kiểm sát, Công an
không được làm người đại diện trong tố tụng dân sự, trừ trường hợp họ tham
gia tố tụng với tư cách người đại diện cho cơ quan của họ hoặc với tư cách là
người đại diện theo pháp luật.” 21
1.2.2 Đại diện theo ủy quyền của đương sự trong vụ án giải quyết tranh
chấp kinh doanh, thương mại tại Tịa án
Đương sự có thể ủy quyền cho luật sư hoặc người khác đại diện cho mình
tham gia tố tụng22, người được ủy quyền này gọi là người đại diện theo ủy quyền.
Từ ngày 01/7/1996 Bộ luật dân sự 1995 có hiệu lực pháp luật thì người đại diện
21
22

Điều 75 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2004.
Điều 9 của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế 1994.



19

theo uỷ quyền của cá nhân hay pháp nhân trong tranh chấp KDTM tại Tòa án phải
thỏa mãn điều kiện tại khoản 2 Điều 152 của BLDS 1995: “Người chưa thành niên,
người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự không
được làm người đại diện theo uỷ quyền”. Đến ngày 01/01/2005, điều kiện trở thành
người đại diện theo ủy quyền còn được bổ sung như sau: người đại diện theo ủy
quyền không được cùng là đương sự trong cùng một vụ án với người được đại diện
mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ đối lập với quyền và lợi ích hợp pháp của
người được đại diện; người đại diện theo ủy quyền không đang là người đại diện
theo pháp luật trong tố tụng dân sự cho một đương sự khác mà quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự đó đối lập với quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại
diện trong cùng một vụ án; người đại diện theo ủy quyền là cán bộ, công chức trong
các ngành Tồ án, Kiểm sát, Cơng an.
Cá nhân trở thành người đại diện theo ủy quyền của đương sự thông qua việc
đương sự ký giấy ủy quyền hoặc cá nhân và đương sự cùng ký kết hợp đồng ủy
quyền23. Đại diện theo ủy quyền phát sinh từ sự thỏa thuận, giao kết giữa người đại
diện và đương sự, nội dung, phạm vi, thời hạn ủy quyền do các bên tự thỏa thuận.
Các bên có thể thỏa thuận với nhau tham gia trong suốt quá trình giải quyết vụ án
hay từng giai đoạn cụ thể và pháp luật cũng không bắt buộc quan hệ giữa người đại
diện và đương sự phải gắn kết với nhau trong qua trình giải quyết vụ án. Do đó, các
bên có thể thay đổi người đại diện. Việc thay đổi người đại diện là do hai bên tự
thỏa thuận, hậu quả pháp lý như thế nào thì do hai bên tự giải quyết. Bởi lẽ, BLDS
2005 và Bộ luật TTDS không quy định cụ thể việc trình tự, thủ tục thay đổi người
đại diện của đương sự. Việc bỏ ngỏ quy định về trình tự, thủ tục thay đổi người đại
diện có lẽ xuất phát từ việc tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự, tơn trọng
tính thỏa thuận của luật dân sự. Khi có sự thay đổi về người đại diện của đương sự,
đương sự, người đại diện của đương sự chỉ cần có văn bản thơng báo đến Tịa án về
việc thay đổi đó.
Khoản 2 điều 142 của Bộ luật dân sự 2005 quy định: “2. Hình thức uỷ quyền do các bên thoả

thuận, trừ trường hợp pháp luật quy định việc uỷ quyền phải được lập thành văn bản.”.
23


×