Tải bản đầy đủ (.docx) (45 trang)

Tiểu luận cao học môn chính sách đối ngoại VLADIMIR PUTIN KHÓ KHĂN và THÁCH THỨC TRONG CHÍNH SÁCH đối NGOẠI của nước NGA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.87 KB, 45 trang )

TIỂU LUẬN
MƠN: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI

VLADIMIR PUTIN: KHĨ KHĂN VÀ THÁCH
THỨC TRONG CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI
CỦA NƯỚC NGA


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Liên Bang Nga khi còn là một trong 15 nước Cộng hòa Liên bang xã
hội chủ nghĩa Xơ viết đã ln ln có tiếng nói quyết định trong hầu hết các
cơng việc nội trị và giữ vai trò quan trọng trên trường quốc tế. Ngày nay với
tư cách là quốc gia kế thừa Liên Xô cũ, Liên Bang Nga vẫn là một chủ thể
quan trọng trên bàn cờ địa- chính trị quốc tế nói chung và ở khu vực châu ÁThái Bình Dương nói riêng.
Trong q trình tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế hiện nay, các nước lớn
thông qua việc tổ chức thực hiện chính sách đối ngoại đang ngày càng thể
hiện vai trò chi phối xu hướng phát triển của đời sống quốc tế. Đó cũng là
điều dễ hiểu bởi những nước này là những quốc gia khổng lồ về diện tích, về
dân số hoặc là cường quốc về kinh tế và Liên Bang Nga là một quốc gia như
vậy.
Nhờ thực hiện chính sách đối ngoại một cách đúng đắn và triệt để đã
mang lại cho Liên Bang Nga những khởi sắc mới, từng bước thoát ra khỏi
khủng hoảng. Từng bước lấy lại vị thế của một nước lớn khiến tất cả các quốc
gia khi tiến hành thực hiện chính sách đối ngoại của mình đều phải xem xét
tới Liên Bang Nga. Quan hệ đối ngoại của Liên Bang Nga và những cường
quốc khác trên thế giới có nhiều thay đổi theo chiều hướng tích cực.
Quan hệ Nga- Việt hiện nay cũng ngày càng phát triển theo chiều
hướng tích với nhiều thành tựu đáng tự hào. Việt Nam xác định Nga là một
đối tác quan trọng trong quan hệ quốc tế
Vậy chính sách đối ngoại của Liên Bang Nga từ 1991 đến nay có gì


đặc biệt, việc tổ chức thực hiện như thế nào mà mang lại hiệu quả to lớn như
vậy và mối quan hệ Nga- Việt Nam đang đạt được những thành tựu gì, tiểu
luận sẽ từng bước làm rõ.

1


2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Tiểu luận với mục đích nghiên cứu chính sách đối ngoại của Liên Bang
Nga với những điểm mới từ sau năm 1991 đến nay nhằm đem lại cái nhìn
tổng quan hơn cho mọi người về chính sách đối ngoại ở Nga. Đồng thời đi
sâu hơn nữa mối quan hệ giữa Liên Bang Nga và Việt Nam cùng những triển
vọng tốt đẹp sau này trong mối quan hệ giữa hai nước.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là chính sách đối ngoại của Liên Bang Nga
Phạm vi nghiên cứu là từ sau năm 1991 đến nay
4. Phương pháp nghiên cứu
Đi sâu vào phân tích, đánh giá, lập luận, trình bày, ngồi ra cịn sử
dụng một phương pháp khác như so sánh, thống kê, diễn dịch quy nạp, đối
chiếu.
5. Kết cấu của tiểu luận
Tiểu luận gồm có 4 chương, cụ thể là:
Chương 1: Những nhân tố tác động đến sự điều chỉnh chính sách đối
ngoại của Liên Bang Nga từ sau năm 1991.
Chương 2: Sự điều chỉnh đường lối đối ngoại của Liên Bang Nga từ
1991 đến nay.
Chương 3: Những khó khăn, thách thức đối với PuTin.
Chương 4: Một số thành tựu đạt được về vị trí, vai trị của Liên Bang
Nga từ sau năm 1991.


2


NỘI DUNG
Chương 1
NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH
ĐỐI NGOẠI CỦA LIÊN BANG NGA TỪ SAU NĂM 1991
1.1 Tình hình thế giới sau năm 1991
1.1.1 Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông
Âu dẫn tới sự tan rã của trật tự hai cực Ianta
Sự sụp đổ của trật tự hai cực Ianta trong những năm cuối thập niên 80,
đầu thập niên 90đã cho thấy những biến động chính trị to lớn diễn ra ở Liên
Xô và Đông Âu. Công cuộc cải tổ ở Liên Xơ do Gcbachốp khởi xướng đã
phạm phải những sai lầm nghiêm trọng, gây ra tình trạng hỗn loạn về chính trị
và làm cho nền kinh tế Liên Xơ ngày càng trì trệ hơn. Những nhân tố đó là
tiền đề cho sự tan vỡ khơng thể tránh khỏi của Nhà nước liên bang. Ngày 21 12 - 1991, Liên Xô tuyên bố giải thể, 15 nước Cộng hồ trở thành các quốc
gia độc lập ở Đơng Âu.
Từ thập niên 80, các nước xã hội chủ nghĩa Đơng Âu cũng tiến hành
chính sách cải cách với những mức độ khác nhau. Công cuộc cải tổ ở Liên Xơ
đã tác động tiêu cực đến tình hình kinh tế, chính trị Đơng Âu. Trong khi đó,
các nước phương Tây đã lợi dụng tình hình khó khăn của các nước Đơng Âu
để gây ảnh hưởng về kinh tế, chính trị ở khu vực này. Cũng với những sai lầm
chủ quan trong chính q trình cải cách ở Đơng Âu, những nhân tố khách
quan nêu trên đã góp phần dẫn tới sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở
các nước Đông Âu. Sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và
Liên Xô đã dẫn tới sự giải thể của khối quân sự Vácxava (7 - 1991) và Hội
đồng tương trợ kinh tế SEV (6 - 1991) đánh dấu sự kiện trật tự hai cực Ianta
khơng cịn nữa.
Trong hơn 40 năm tồn tại, trật tự hai cực Ianta đã từng bị tấn công
nhiều lần bởi thắng lợi của cách mạng Trung Quốc năm 1949 đã mở ra bước

3


đột phá đầu tiên, phá tan âm mưu khống chế Trung Quốc của Mĩ và những
đặc quyền của Liên Xô ở vùng Đông Bắc Trung Quốc; sự lớn mạnh của các
nước Tây Âu, Nhật Bản đã làm suy giảm vị trí và phạm vi ảnh hưởng của Mĩ;
thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc và sự ra đời của hàng trăm quốc
gia độc lập trên thế giới đã làm thay đổi “khuôn khổ Ianta” được sắp xếp từ
sau Chiến tranh thế giới thứ hai… Tuy thế, hệ thống Ianta vẫn tiếp tục tồn tại,
chủ yếu là do sự cân bằng lực lượng giữa Liên Xô và Mĩ trên phạm vi toàn
cầu, cũng như sự cân bằng lực lượng giữa Đông Âu và Tây Âu ở châu Âu.
Những cuộc xung đột quân sự, chiến tranh cục bộ diễn ra ở nhiều khu vực
trên thế giới đều có sự hỗ trợ của hai siêu cường dưới những hình thức, mức
độ khác nhau, nhưng cả hai nước đều tránh sự đụng đầu trực tiếp về quân sự,
và không bên nào sử dụng biện pháp quân sự để thay đổi hiện trạng của trật tự
này. Đó là đặc trưng cơ bản của Trật tự hai cực Ianta.
Quá trình sụp đổ của Trật tự hai cực Ianta bắt nguồn từ nhiều nguyên
nhân: Trước hết, cuộc chạy đua vũ trang đã được đẩy lên đến mức độ cao nhất
mà cả hai siêu cường đều nhận thấy rằng khơng thể xố bỏ được nhau, nên
buộc phải tự dàn xếp để đi đến hạn chế cuộc chạy đua tốn kém và căng thẳng
chưa từng thấy trong lịch sử này. Tình trạng đối đầu đã từng bước được thay
thế bằng đối thoại, đàm phán để hạn chế và cắt giảm vũ khí chiến lược tấn
cơng. Thứ hai, sự đối lập Đông - Tây cũng mờ nhạt dần cùng với các cuộc
đàm phán Đông - Tây ở châu Âu. Chính sách hồ dịu có chọn lọc và hợp tác
của Liên Xô, Đông Âu với Tây Âu đã tạo ra xu thế hồ hỗn ở châu Âu. Cuối
thập niên 80, khi Gcbachốp đưa ra ý tưởng về “Ngơi nhà chung châu Âu”
thì sự đối đầu Đơng - Tây ở châu Âu về cơ bản đã chấm dứt. Thứ ba, sự vươn
lên của các nước trong thế giới thứ ba nhằm thoát khỏi ảnh hưởng của hai cực
đã làm suy giảm sức mạnh của trật tự Ianta, đặc biệt là sự vươn lên của Trung
Quốc, sự hình thành tam giác chiến lược Mĩ - Xô - Trung cũng tác động mạnh

mẽ đến quá trình giải thể trật tự hai cực. Thứ tư, một nhân tố quan trọng cần
phải kể đến là sự thay đổi trong cán cân kinh tế thế giới, sự nổi lên của Nhật
4


Bản, các nước Tây Âu đã tạo ra những trung tâm kinh tế đối trọng với Mĩ
trong thế giới tư bản. Năm 1975, trong nội bộ chủ nghĩa tư bản đã xuất hiện
cơ chế điều hoà với sự ra đời của tổ chức G7 (gồm 7 nước công nghiệp phát
triển), điều đó chứng tỏ Mĩ khơng cịn là nước duy nhất quyết định thế giới
phương Tây. Về phía Liên Xơ, những sai lầm trong chiến lược phát triển kinh
tế, nhất là chiến lược đầu tư quá lớn vào công nghiệp nặng, chi phí qn sự
cao… đã làm méo mó cơ cấu kinh tế và suy giảm sức mạnh của Liên Xô.
Trước những biến đổi về kinh tế và quan hệ quốc tế trong thập niên 80, Liên
Xơ khơng có khả năng xoay chuyển được tình thế, vai trị siêu cường bị suy
yếu, dẫn tới sự giải thể của trật tự hai cực Ianta.
1.1.2 Sự tác động của xu thế toàn cầu hóa
Xu thế tồn cầu hóa sau chiến tranh lạnh ngày càng phát triển với
những đặc trưng:
- Sự phát triển nhanh chóng của nền thương mại thế giới: Thương mại
thế giới đã tăng 5 lần trong 23 năm (1948-1971), trong khi chỉ tăng 10 lần
trong 100 năm trước đó (1850-1948). Thương mại thế giới tăng nhanh hơn sự
tăng trưởng của kinh tế thế giới. Từ những năm 50 đến những năm 70, tốc độ
phát triển kinh tế của thế giới là 5,9%, nhưng tốc độ phát triển của thương mại
thế giới từ 1948 đến 1971 là 7,3%. Thương mại quốc tế tăng có nghĩa là nền
kinh tế của các nước trên thế giới quan hệ chặt chẽ và phụ thuộc lẫn nhau,
tính quốc tế hóa của nền kinh tế thế giới tăng lên.
Ngoại thương đóng vai trị rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế
của các nước trên thế giới. Những nước xuất khẩu nhiều nhất thì cũng là
những nước có nền kinh tế phát triển nhất. 24 nước công nghiệp phát triển của
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) chỉ chiếm 14,5% dân số thế

giới, nhưng sản xuất ra 71,4% tổng sản phẩm thế giới và nắm 60% xuất khẩu
thế giới. Ngoại thương chiếm từ 40-60% tổng sản phẩm của các nước Tây Âu.
Cuộc cách mạng về liên lạc viễn thơng với những máy tính, vệ tinh
viễn thông, sợi quang học và việc vận chuyển cực nhanh của điện tử đã thúc
5


đẩy mạnh mẽ q trình tồn cầu hóa nền kinh tế thế giới. Đã hình thành một
hệ thống liên lạc tồn cầu. Tốc độ thơng tin tồn cầu được tăng lên hàng triệu
lần. Khơng có hệ thống này thì khơng thể ra đời những công ty xuyên quốc
gia và không thể có cuộc cách mạng về tài chính trên thế giới.
- Tính quốc tế hố cao của nền kinh tế thế giới còn được nâng cao
trong vai trò ngày càng lớn của các Công ty xuyên quốc gia. Năm 1960, 200
công ty xuyên quốc gia lớn nhất thế giới chiếm 17% tổng sản phẩm của toàn
thế giới, năm 1984, 200 Cơng ty này chiếm 26%, dự đốn đến năm 2000 các
công ty xuyên quốc gia sẽ chiếm 50% tổng sản phẩm thế giới. Năm 1985 có
600 cơng ty xun quốc gia có số vốn trên 1 tỷ đơ la, với tổng doanh số 3000
tỷ đôla, với tổng số công nhân là 50 triệu người. Nếu như các nước chậm phát
triển có quan hệ tốt với các cơng ty xun quốc gia thì có thể tranh thủ được
vốn, kỹ thuật cũng như sự phân công lao động trong nền kinh tế thế giới, có
lợi cho việc phát triển kinh tế với tốc độ cao. Xã hội thông tin là một nội dung
quan trọng của quốc tế hóa nền kinh tế thế giới.
Các cơng ty xun quốc gia thúc đẩy q trình tồn cầu hóa trên thế
giới, ngược lại q trình tồn cầu hóa lại ảnh hưởng mạnh mẽ đến các cơng ty
xuyên quốc gia và chiến lược kinh doanh của họ, kể cả đưa tới làn sóng sáp
nhập chúng để trở thành các công ty xuyên quốc gia siêu lớn với bao hệ quả
tích cực và tiêu cực. Gần đây, vào những năm cuối cùng của thế kỷ, làn sóng
sáp nhập của các công ty xuyên quốc gia tăng lên nhanh chóng. Nếu từ năm
1980 đến năm 1989 ước tính tổng giá trị các vụ sáp nhập và mua bán vào
khoảng 1.300 tỷ đơla thì riêng năm 1998 đã có tới 7700 vụ sáp nhập với tổng

giá trị lên đến 1200 tỷ đơla . Trong đó có những cuộc "hơn nhân" lớn về kinh
tế như của hai Công ty dầu mỏ khổng lồ Exxon sáp nhập với Mobil với giá trị
77,3 tỷ đôla, tạo thành công ty dầu mỏ lớn nhất thế giới. Hoặc Travellers sáp
nhập với Citicorp, với trị giá 72,6 tỷ đơla, nhằm tạo ra tập đồn tài chính
khổng lồ cung cấp các dịch vụ ngân hàng, đầu tư, bảo hiểm... Tập đồn mới
này sẽ có tổng tài sản khoảng 700 tỷ đôla. Hai ngân hàng Hoa Kỳ Bank
6


America và Nations Bank sáp nhập với trị giá 61,6 tỷ đôla... "Nhờ cuộc cách
mạng khoa học - công nghệ lần thứ ba với mũi nhọn là công nghệ tin học mà
các công ty xuyên quốc gia, đa quốc gia được phát triển thành một hệ thống
toàn cầu - tạo ra "cốt vật chất" cho xu thế tồn cầu hóa"
- Tính quốc tế hóa của nền kinh tế thế giới được tăng cường mạnh mẽ
do q trình quốc tế hóa rất nhanh của nền tài chính thế giới. Từ đầu những
năm 70, hoạt động về ngân hàng trên thế giới tăng với tốc độ 20% hàng năm,
nhanh hơn tốc độ phát triển thương mại thế giới và hơn tốc độ phát triển của
tổng sản phẩm thế giới nhiều lần. Gần đây, những trao đổi về tiền tệ tăng lên
rất nhiều, gấp 20 lần trao đổi về thương mại. Trao đổi về tài chính và tiền tệ là
350 tỷ đơla mỗi ngày. Năm 1988, 10.000 tỷ đôla đã vượt biên giới quốc gia để
đầu tư ở nước ngồi.
Việc chấm dứt tình trạng chia cắt thế giới thành hai hệ thống xã hội đối
lập nhau càng thúc đẩy nền kinh tế thế giới trở thành tồn cầu hóa.
Với việc xóa bỏ phân công lao động trên sự phân chia thế giới thành
những khu vực độc quyền của chủ nghĩa thực dân và sự phân chia thế giới
thành hai hệ thống xã hội đối lập, nền kinh tế thế giới được quốc tế hóa và
tồn cầu hóa đang tạo ra những điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế.
Với những đặc trưng cơ bản cùng sự thay đổi nhanh chóng của thế
giới, Liên Bang Nga nhận thức được sâu sắc rằng hội nhập là một con đường
cơ bản và tất yếu để phát triển đất nước trong bối cảnh tồn cầu hóa. Trên

thực tế, xu thế tồn cầu hóa đã Liên Bang Nga trước yêu cầu phải liên tục đổi
mới tư duy chính trị nhằm hồn thiện chiến lược đưa đất nước cùng hội nhập
phát triển. Dưới tác động của toàn cầu hóa cần đổi mới, ổn định và phát triển
quan hệ đối ngoại với các nước trong và ngoài khu vực, đồng thời thúc đẩy
Liên Bang Nga phải đổi mới tư duy nhận thức kết hợp hài hịa các lợi ích;
định hướng một con đường phát triển tối ưu nhất cho quốc gia mình.
Tuy nhiên với những hạn chế như đẩy mạnh sự cạnh tranh giữa các
quốc gia lên gay gắt,làm trầm trọng thêm sự bất công xã hội, đào sâu hố ngăn
7


cách giàu-nghèo, làm cho mọi mặt của cuộc sống con người kém an toàn, tạo
ra nguy cơ đánh mất bản sắc dân tộc và độc lập tự chủ của các quốc gia...cũng
là trở thành rào cản trong quá trình hội nhập và mở rộng quan hệ hợp tác với
các nước của Liên Bang Nga.
1.2 Tình hình kinh tế, chính trị và xã hội của Liên Bang Nga sau
1991
Sau 74 tồn tại, đến năm 1991, Chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô bị sụp đổ,
đã làm mất đi một cực quan trọng trong Trật tự hai cực Ianta vốn được xác lập
từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 – 1945). Sau khi Liên bang Xô Viết
tan rã, 11 nước cộng hòa tách ra và lập Cộng đồng các quốc gia độc lập
(SNG) (21 – 12 – 1991), trong đó có Liên Bang Nga. Nước Nga xuất hiện với
một diện mạo mới.
Liên Bang Nga là “quốc gia kế tục Liên Xơ”. Chính vì thế, Liên Bang
Nga nhanh chóng được kế thừa quyền lợi và nghĩa vụ của Liên Xô trên tất cả
các mặt. Trong đó, được kế thừa địa vị pháp lí của Liên Xơ tại Hội đồng Bảo an
Liên Hợp Quốc cũng như tại cơ quan ngoại giao của Liên Xơ ở nước ngồi.
Liên Bang Nga được thừa hưởng một cơ sở công – nông nghiệp hùng
hậu với các ngành cơng nghiệp mũi nhọn, có một đội ngũ cán bộ khoa học- kĩ
thuật đơng đảo, có hàm lượng chất xám cao, với nhiều trung tâm khoa học

lớn… mà chế độ trước đã tạo dựng được.
Nhưng đồng thời, nước này cũng phải gánh chịu tình trạng rối loạn về
kinh tế, chính trị, xã hội… của Liên Xơ sau khi cơng cuộc cải tổ của M.
Goócbachốp thất bại.
- Về kinh tế, từ năm 1990 đến năm 1995, tốc độ tăng trưởng Tổng sản
phẩm trong nước (GDP) của LB Nga luôn luôn là số âm : năm 1990 là –
3,6%, năm 1995 là – 4,1%.
Từ năm 1992, Chính phủ Nga đề ra cương lĩnh tư nhân hóa nền kinh
tế, cố gắng đưa đất nước đi vào kinh tế thị trường. Nhưng việc tư nhân hóa ồ
ạt càng làm cho nền kinh tế rối loạn hơn.
8


Sản xuất cơng nghiệp năm 1992 giảm xuống cịn 20%. Mức lương
trung bình của cơng nhân viên chức thấp hơn của người Mĩ 25 lần. Tầng lớp
tư sản mới hình thành và ngày càng đông đảo trong xã hội Nga.
Từ năm 1996 trở đi, nền kinh tế Nga dần dần phục hồi. Năm 1997, tốc
độ tăng trưởng đã đạt 0,5%, đến năm 2000 lên đến 9%.
- Về chính trị, tháng 12 – 1993, Hiến pháp của Liên Bang Nga ra đời.
Theo Hiến pháp, nước Nga theo thể chế Cộng hòa Liên bang. Đứng đầu nhà
nước là Tổng thống điều hành mọi hoạt động của đất nước. Đứng đầu chính
phủ là Thủ tướng. Quốc hội gồm 2 viện : Thượng viện (Hội đồng Liên bang)
và Hạ viện (Đuma Quốc gia). Hệ thống tư pháp gồm Tòa án Hiến pháp và
Tòa án tối cao. Tổng thống đầu tiên của LB Nga là B. Enxin (1992 – 1999) ;
từ năm 2000 là V. Putin.
Dưới thời Tổng thống B. Enxin, tình hình chính trị Nga bất ổn do sự
tranh chấp quyền lực giữa các tập đồn tài chính – chính trị và do địi hỏi dân
chủ hóa của nhân dân. Đồng thời, do những vụ xung đột sắc tộc, nhất là
phong trào li khai của vùng Trécxnia, gây ra nhiều tổn thất nặng nề đối với
nước Nga…

- Về đối ngoại, trong những năm 1992 – 1993, nước Nga theo đuổi
chính sách “định hướng Đại Tây Dương”, ngã về các nước phương Tây nhằm
tranh thủ sự ủng hộ về chính trị và sự viện trợ về kinh tế. Nhưng từ năm 1994,
nước Nga chuyển sang chính sách đối ngoại “định hướng Âu – Á”, vừa tranh
thủ phương Tây, vừa phát triển quan hệ với các nước châu Á (như các nước
trong khối ASEAN, một số nước SNG, Trung Quốc, Ấn Độ…).
Từ năm 2000, chính phủ của Tổng thống Putin đã có những cố gắng
trong phát triển kinh tế, cũng cố nhà nước pháp quyền, ổn định tình hình
chính trị xã hội và nâng cao vị thế quốc tế của nước Nga…
Mặc dù đạt được nhiều thành tựu về mọi mặt, nhưng khó khăn vẫn cịn
đó, đặc biệt là xu hướng li khai và nạn khủng bố vẫn là 2 vấn nạn mà nước
Nga đang tìm cách tháo gỡ. Nước Nga tiếp tục khắc phục những trở ngại trên
9


con đường phát triển, giữ vững và nâng cao địa vị của một cường quốc Âu –
Á trên trường chính trị thế giới.
Hiện nay, Liên Bang Nga đang chứng tỏ được vai trị của mình trong
quan hệ quốc tế mới. Đó là quan hệ hợp tác, hữu nghị, bình đẳng, cùng phát
triển. Với sự đúng đắn của các nhà lãnh đạo, nước Nga sẽ còn tiến bước trên
con đường phát triển và đang khẳng định hơn nữa vai trò của mình tại Hội
đồng Bảo an Liên Hợp Quốc cũng như trên thế giới.

10


Chương 2
SỰ ĐIỀU CHỈNH ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA LIÊN BANG NGA
TỪ 1991 ĐẾN NAY
2.1. GIAI ĐOẠN YELTSIN (1991-1999)

2.1.1.Chính sách của Yeltsin-Kozurev (1991-1995)
-Từ 1991-1993:Yeltsin theo đuổi chính sách “Nhất biên đảo”, thân Hoa
Kỳ và phương Tây nhằm thanh thủ sự hậu thuẫn, ủng hộ mục tiêu phục hưng
nước Nga chống cộng, theo mơ hình phương Tây, “đi theo phương Tây vô
điều kiện” nhưng không đạt được kết quả.
-Từ cuối 1993, bắt đầu điều chỉnh theo hướng cân bằng Âu-Á. Trong
thông điệp Liên Bang ngày 29/9/1994, Tổng thống Enxin khẳng định: “Năm
1994 chúng ta sẽ chấm dứt thực tiễn sai lầm đơn phương nhượng bộ và nhấn
mạnh việc chuyển sang xây dựng quan hệ đối tác bình đẳng thể hiện trên hai
mặt - trong hợp tác kinh tế và phối hợp hành động trong việc giải quyết các
vấn đề quốc tế”.
Sở dĩ có sự điều chỉnh này là do sự thay đổi và xu hướng lớn trong môi
trường chiến lược khu vực và thế giới, thực tế tình hình an ninh (xu hướng ly
khai và xung đột) cùng sự phát triển trong nước, do mục tiêu kiềm chế Nga
của Hoa Kỳ và phương Tây; thay đổi tương quan lực lượng trên chính trường
sau bầu cử Quốc hội năm 1993 (phái dân chủ thân phương Tây chiếm khơng
cịn vị thế áp đảo), đấu tranh nội bộ, sức ép của dư luận xã hội về cả đối nội
và đối ngoại...
2.1.2 Sự điều chỉnh chính sách của Yeltsin-Primacov (1996-1999)
Từ 1/1/1996, Primacov giữ chức Bộ trưởng ngoại giao thay Kozurev,
thực hiện chính sách “Cân bằng Đông Tây” khôi phục và thúc đẩy quan hệ
với Trung Quốc và Ấn Độ, cân bằng khơng có nghĩa là khơng có ưu tiên
nhưng tránh “nhất biên đảo” và tạo vị thế tốt hơn nhờ hợp tác đa phương, đa
dạng nhằm tận dụng “sức mạnh cấu trúc” và “sức mạnh cộng sinh”.
11


2.2 GIAI ĐOẠN PUTIN (2000-2008)
Vladimir Vladimirovich Putin: được bổ nhiệm giữ chức Thủ tướng
Liên Bang Nga vào tháng 8/1999, được trao quyền Tổng thống Liên Bang

Nga tháng 12/1999 và được bầu là Tổng thống Liên Bang Nga vào tháng
5/2000.
2.2.1 Nhiệm kỳ I (2000-2004)
- Chính sách đối ngoại của Liên Bang Nga thời kỳ này được xác định:
Ưu tiên tối cao là bảo vệ lợi ích con người, xã hội và Nhà nước. Bảo vệ lợi ích
của Liên Bang Nga như một cường quốc vĩ đại, một trong những trung tâm có
ảnh hưởng cao trên thế giới. Thực hiện chính sách đối ngoại độc lập và xây
dựng, có thể dự báo được, thực dụng cùng có lợi. Bảo đảm sự cân bằng giữa
mục tiêu và khả năng thực hiện, bảo đảm lợi ích cả các nước khác, cùng tìm
kiếm giải pháp chung.
Cấu trúc thế giới với Liên Hợp Quốc là trung tâm, duy trì Hiệp ước
chống tên lửa đạn đạo (ABM) như trụ cột ổn định chiến lược.
Ưu tiên số 1 đối ngoại với các nước SNG, mở rộng hơn nữa mối quan
hệ với các khu vực khác như châu Âu, châu Hoa Kỳ, châu Á, châu Phi.
- Sau sự kiện khủng bố 11/9/2001, trong phát biểu tại Hội nghị Ngoại
giao Liên Bang Nga ngày 12/7/2002, Tổng thống Putin đã nêu rõ những ưu
tiên trong chính sách đối ngoại: Một là, đấu tranh ngăn chặn các nguy cơ
khủng bố, tham gia liên minh quốc tế chống khủng bố; hai là, củng cố và đẩy
mạnh quan hệ đối tác tin cậy Nga-Hoa Kỳ; ba là, tăng cường hội nhập với EU
và bốn là, thúc đẩy hội nhập kinh tế trong khuôn khổ SNG.
- Sau sự kiện 11/9/2001 tới trước khi triển khai kế hoạch “Mở rộng
cuộc chiến chống khủng bố” (tiến hành cuộc chiến Irắc 3/2003) xác định rõ
cần tăng cường hợp tác chống khủng bố với Hoa Kỳ nhằm tạo bước đột phá
trong xây dựng quan hệ đối tác thực sự với Hoa Kỳ. Khác với “tuần trăng
mật” Nga-Hoa Kỳ thời Enxin (theo phương Tây bằng mọi giá), Tổng thống
Putin thúc đẩy hợp tác với Hoa Kỳ trên cơ sở “có đi có lại”.
12


- Nga ủng hộ Hoa Kỳ sử dụng khu vực Trung Á (Udobekixtan,

Tatgikixtan,
Curoguxtan) để tiến hành cuộc chiến chống khủng bố tiêu diệt Taliban
ở Ápganixtan (Taliban hậu thuẫn cho lực lượng Hồi giáo chống Nga ở
Chechnya). Đổi lại, Hoa Kỳ ít đề cập đến vấn đề Chechnya, cam kết cùng
Nga xây dựng quan hệ đối tác chiến lược, hợp tác chống khủng bố (lập Nhóm
làm việc phối hợp Hoa Kỳ- Nga về chống khủng bố), giảm vũ khí hạt nhân,
chống buôn lậu ma túy, giúp Nga về kinh tế và ủng hộ Nga gia nhập WTO...
Đồng thời, đáp lại việc Hoa Kỳ rút khỏi ABM (12/2001), cùng với phản ứng
“nhẹ”, Nga cũng đã có những biện pháp phịng ngừa như tham gia SCO
(6/2002), cổ vũ hợp tác tay ba Nga-Trung-Ấn, tăng cường quan hệ với Xyri,
Iran (những nước có tư tưởng bài Hoa Kỳ) ở Trung Đông...
- Từ sau khi bắt đầu triến khai kế hoạch “Mở rộng cuộc chiến chống
khủng bố” và sau cuộc chiến Irắc (3/2003) quan hệ Nga-Hoa Kỳ bắt đầu căng
thẳng. Nga biết rõ mục tiêu kép của kế hoạch “Mở rộng cuộc chiến chống
khủng bố” nên đã phản đối quyết liệt cuộc chiến của Hoa Kỳ ở Irắc (về kinh
tế, Nga bị thiệt hại khoảng 40 tỉ USD về các hợp đồng dầu khí, điện lực, giao
thơng đã ký với Chính phủ Saddam Hussein). Hoa Kỳ đã nhận xét: “Nước
Nga ngày nay khơng cịn là nước Nga cách đây 15 năm, đã có sự thay đổi, kể
cả trong quan hệ với Hoa Kỳ”. Từ đây, Nga bắt đầu cuộc đấu tranh nhằm xác
lập “vị thế nước lớn” của Nga trong quan hệ với Hoa Kỳ.
- Nguyên nhân điều chỉnh là do Liên Bang Nga thấy rõ hơn ý đồ chiến
lược của Hoa Kỳ từ Ban Căng (Kosovo) và Đơng Âu, qua Trung Á (ngồi
việc đưa qn vào 3 nước cịn lơi kéo Grudia vào “cách mạng hoa hồng” năm
2003) tới Trung Đông; đồng thời thời điểm này xu hướng chống Hoa Kỳ và
phản đối Hoa Kỳ trên thế giới (Đức, Pháp, Trung Quốc cũng phản đối Hoa Kỳ
tiến hành chiến tranh ở Irắc) có dấu hiệu tăng cao; giá dầu tăng đáng kể giúp
kinh tế Nga tăng trưởng và nội bộ nhất trí, dư luận xã hội ủng hộ cũng là một

13



trong những nguyên nhân giúp Liên Bang Nga thay đổi chính sách đối ngoại
trong thời kỳ này.
2.2.2 Nhiệm kỳ II (2004-2008)
Chính sách đối ngoại trong giai đoạn này chủ yếu là tiếp tục đấu tranh
xác lập “vị thế nước lớn” của Liên Bang Nga trong quan hệ với Hoa Kỳ và
trên trường quốc tế.
-Vấn đề mở rộng NATO:Liên Bang Nga củng cố mối quan hệ với các
nước trong SNG, sử dụng dầu khí để gây sức ép với Ucraina (mùa đông 2006).
-Trong quan hệ đa phương: Phát biểu của Tổng thống Putin tại Hôi
nghị An ninh Munic (2/2007) nhân danh thế giới ngoài phương Tây đã thách
thức quyền lực của Hoa Kỳ. Đồng thời Liên Bang Nga tăng cường quan hệ
với châu Á-Thái Bình Dương và khu vực Mỹ Latinh
2.3 GIAI ĐOẠN MEDVEDEV (5/2008- 2012)
Học thuyết chính sách đối ngoại của Liên Bang Nga (7/2008)
- Học thuyết đối ngoại LB Nga” năm 2008 nhấn mạnh: “Tình hình thế
giới đầu thế kỷ XXI đã có những chuyển biến lớn, vị thế và vai trò của Liên
Bang Nga ngày càng được củng cố, Nga khơng chỉ có trách nhiệm trong việc
giải quyết các vấn đề quốc tế, mà cịn có vai trị trong việc hình thành chương
trình nghị sự quốc tế, vì vậy cần phải có một cách nhìn nhận mới về tình hình
cũng như các ưu tiên trong chính sách ối ngoại của Liên Bang Nga. Ưu tiên
cao nhất là bảo vệ an ninh quốc gia, bao gồm an ninh của cá nhân, xã hội và
Nhà nước”.
- Trên cơ sở phân tích đặc điểm, xu thế của mơi trường chiến lược mới và
sức mạnh tổng hợp của Liên Bang Nga, Học thuyết này đã xác định 8 mục tiêu
cơ bản trong chính sách đối ngoại của Liên Bang Nga trong giai đoạn tới là:
 Bảo đảm an ninh, giữ gìn và củng cố chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ
cũng như vị thế và uy tín vững chắc của Liên Bang Nga trên thế giới, đáp ứng
ở mức cao nhất lợi ích của Liên Bang Nga như một trong những trung tâm có
ảnh hưởng của thế giới hiện đại.

14


 Tạo điều kiện bên ngồi thuận lợi cho cơng cuộc hiện đại hóa nước
Nga, nâng cao đời sống nhân dân, hòa hợp xã hội, củng cố nhà nước pháp
quyền và các thể chế dân chủ, bảo đảm tính cạnh tranh của nước Nga trong
thế giới tồn cầu hóa.
 Thúc đẩy các quá trình nhằm xây dựng trật tự thế giới bình đẳng và
dân chủ dựa trên nguyên tắc tập thể trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế
và tuyệt đối tuân thủ luật pháp quốc tế, trước hết là Hiến chương Liên hợp
quốc, cũng như quan hệ bình đẳng và đối tác giữa các quốc gia. Liên hợp
quốc đóng vai trị trung tâm điều hịa các mối quan hệ quốc tế.
 Xây dựng quan hệ láng giềng thân thiện, ngăn chặn và triệt tiêu các
nguồn gốc gây căng thẳng và xung đột tại những vùng tiếp giáp với Nga và
các khu vực khác trên thế giới.
 Hợp tác với các nước và các tổ chức đa phương trên cơ sở đồng quan
điểm và song trùng lợi ích nhằm thực hiện những nhiệm vụ ưu tiên quốc gia,
thiết lập hệ thống quan hệ quốc tế đối tác song phương và đa phương nhằm
bảo đảm vị thế quốc tế vững chắc của Nga trước những biến động của tình
hình quốc tế và khu vực.
 Bảo vệ quyền và những lợi ích hơp pháp của công dân Nga và người
Nga sống ở nước ngồi.
 Xây dựng hình ảnh một nước Nga dân chủ, có nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội và chính sách đối ngoại độc lập trong cách nhìn của cộng
đồng quốc tế.
 Hỗ trợ và truyền bá tiếng Nga và văn hóa đa dân tộc của Nga nhằm
góp phần làm phong phú, đa dạng nền văn hóa và văn minh của thế giới hiện
đại và sự phát triển quan hệ bang giao giữa các nền văn minh.
2.4. GIAI ĐOẠN PUTIN TÁI ĐẮC CỬ TỔNG THỐNG (2012 đến nay)


15


- Quan hệ với các nước SNG: Nga chủ trương phát triển quan hệ hữu
nghị với các nước SNG trên cơ sở bình đẳng và tơn trọng lẫn nhau; xây dựng
quan hệ đối tác chiến lược.
- Quan hệ Nga – châu Âu: EU là đối tác kinh tế - thương mại lớn nhất
của Nga, chiếm hơn 50% kim ngạch ngoại thương của Nga. Trong bối cảnh
EU và Nga đang chịu ảnh hưởng nặng nề bởi những khó khăn kinh tế - tài
chính, việc hai bên tăng cường hợp tác và phối hợp chính sách là điều kiện
quan trọng đảm bảo phục hồi kinh tế bền vững.
- Quan hệ Nga – Châu Á-Thái Bình Dương: Nga coi trọng hợp tác
với các nước trong khu vực CÁ-TBD và tham gia tích cực vào các tổ chức
khu vực (APEC, Cấp cao Nga – ASEAN, ARF, ASEM, ADMM+, CICA,
ACD). Nga ủng hộ giải pháp chính trị-ngoại giao cho tất cả những vấn đề
tranh chấp trên cơ sở tuân thủ nghiêm chỉnh các nguyên tắc của luật pháp
quốc tế và với sự tham gia của các bên liên quan.
- Quan hệ Nga – Trung phát triển tích cực:
 Về hợp tác kinh tế - thương mại và đầu tư: hai bên thúc đẩy hợp tác
thực chất trong các lĩnh vực đầu tư, tài chính, cơ sở hạ tầng, đặc biệt là năng
lượng.
 Nga thể hiện vai trị nước lớn có trách nhiệm trong việc giải quyết
các điểm nóng trên thế giới (đề xuất việc Syria giao nộp vũ khí hố học khi
Syria đứng bên bờ vực bị Hoa Kỳ và phương Tây tấn công quân sự, thúc đẩy
đàm phán về vấn đề hạt nhân Iran).
 Một trong những ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Nga trong
là mở rộng quan hệ hợp tác song phương với các nước thành viên Cộng đồng
các quốc gia độc lập (SNG). Trong bối cảnh hiện nay, hoạt động của Tổ chức
Hợp tác Thượng Hải (SCO) bao gồm Nga, Trung Quốc, Kazakhstan, Kirgizia,
Tadjikistan và Uzbekistan có ý nghĩa đặc biệt trong quan hệ Nga - SNG.

Trong khuôn khổ của mình, SCO đã làm được khơng ít việc nhằm chấn chỉnh
các mối quan hệ giữa các bên trong các lĩnh vực giao thông vận tải, phát triển
16


kinh tế, tình trạng khẩn cấp, văn hóa, quốc phịng… Hiện nay tổ chức này đã
được cộng đồng thế giới cơng nhận là một thực thể địa chính trị, một yếu tố
mang tính xây dựng quan trọng của đời sống quốc tế.
- Quan hệ với Hoa Kỳ: vẫn còn những mâu thuẫn nhưng nhìn chung
vẫn ổn định trong giai đoạn 2008- 2012. Nhưng gần đây quan hệ giữa 2 nước
rơi vào căng thẳng gay gắt đặc biệt là sau sự kiện khu vực Crimera(thuộc
miền Đơng Ukraine) chính thức sáp nhập vào Liên Bang Nga ngày 18/3/2014
 Trong 4 năm nhiệm kỳ I của Tổng thống B.Obama: quan hệ Hoa Kỳ
- Nga cũng đầy thăng trầm với hai năm đầu (2009 - 2010) như mùa xuân ấm
áp thì hai năm cuối (2011 - 2012) lại rơi vào mùa đông lạnh giá.
Do sai lầm cả trong chính sách đối nội và chính sách đối ngoại, sau 8
năm cầm quyền Bush đã bàn giao cho Obama một nước Hoa Kỳ suy yếu trên
tất cả các lĩnh vực: nền kinh tế rơi vào khủng hoảng nặng nề nhất kể từ sau
cuộc Đại suy thoái 1929 - l933; chính trị nội bộ chia rẽ sâu sắc; đời sống đại
đa số người dân khó khăn, xã hội phân tâm; vai trò vị thế của Hoa Kỳ trên thế
giới suy giảm nghiêm trọng; hơn một tỷ người Hồi giáo trên thế giới coi Hoa
Kỳ là kẻ thù nguy hiểm nhất; các đồng minh bạn bè truyền thống, nhất là các
nước Tây Âu, Mỹ Latinh, Trung Đông, Nam Á, thiếu lòng tin đối với
Oasinhtơn; Trung Quốc trỗi dậy mạnh mẽ thách thức vai trị và lợi ích của
Hoa Kỳ tại nhiều khu vực chiến lược quan trọng. Trong bối cảnh đó, Tổng
thống B.Obama đã tỉnh táo nhận ra rằng: không thể để quan hệ Hoa Kỳ - Nga tiếp
tục suy giảm hơn nữa mà phải khôi phục, phát triển mỗi quan hệ này.
Mặt khác, Nga cũng không hề có lợi thậm chí có thể gặp thách thức,
thua thiệt lớn khi quan hệ Hoa Kỳ - Nga tụt dốc. Vì lợi ích của Nga, bộ đơi
Medvedev - Putin đã chủ động phát tín hiệu sẵn sàng hợp tác với Tổng thống

thứ 44 của Hoa Kỳ trong việc giải quyết những vấn đề quốc tế và khu vực.
Cuối tháng 11/2008 Tổng thống D.Medvedev là một trong những
nguyên thủ đầu tiên gửi điện chúc mừng B.Obama trúng cử Tổng thống thứ

17


44 của Hoa Kỳ và nhắn gửi Oasinhtơn là điện Kremli sẵn sàng hợp tác với
Hoa Kỳ về mọi vấn đề mà hai bên quan tâm.
 Trong nhiệm kỳ II của tổng thống Obama: đã chứng kiến thời kỳ
quan hệ Nga- Hoa kỳ rơi vào căng thẳng trầm trọng với sự phản đối của Hoa
Kỳ trong vấn đề Crimea quay trở lại Liên Bang Nga hay sự đối đầu gay gắt
của hai nước trong vấn đề Syria...
- Quan hệ với châu Âu :
 Nga và EU luôn tiến hành thảo luận về việc xây dựng quan hệ "đối
tác chiến lược" Nga- EU nhằm mục đích thúc đẩy quan hệ trên 4 không gian
chung bao gồm: kinh tế; tự do - an ninh - tư pháp; an ninh đối ngoại; nghiên
cứu - giáo dục - văn hoá. Tuy nhiên, phần lớn các cuộc thảo luận về những
vấn đề trên đã gặp khơng ít khó khăn. Khơng có tiến bộ nào đáng kể đạt được
trong việc thiết lập "bốn không gian chung" đã nói ở trên ngồi việc thoả
thuận về hợp tác giáo dục, văn hoá và kinh tế từ năm trước.
 Hai bên vẫn còn bất đồng về các vấn đề an ninh, đặc biệt là quan
điểm giải quyết xung đột tại các nước cộng hồ thuộc Liên Xơ trước đây. Nga
không muốn EU gia tăng ảnh hưởng ở khu vực này, xem nó như là khu vực
lợi ích thiết thân mà Nga cần bảo vệ. Vấn đề an ninh nội địa và tư pháp cũng
khơng có tiến triển, kể cả vấn đề liên quan tới bãi bỏ hạn chế visa cho cơng
dân hai bên.
 Sự khác biệt trong tầm nhìn chiến lược về dải đất phía Đơng của lục
địa châu Âu, là láng giềng của cả Nga và EU sau khi mở rộng qua cách giải
quyết cuộc khủng hoảng ở Ukraine cho thấy, sự mong manh của quan hệ đối

tác chiến lược mà Moscow và Brussels đang cố gắng xây dựng.
 Mặc dù cả EU và Nga không muốn cho quan hệ hai bên xấu đi vì
điều này rất nguy hiểm, nhưng rõ ràng những khác biệt trong nhiều vấn đề
khiến cho hai bên chưa thể có được tiếng nói chung. Đặc biệt Nga vẫn coi các
nước láng giềng ở biên giới phía Tây là khơng gian ảnh hưởng của Nga và

18


cảm thấy bị đe dọa bởi chủ trương Đông tiến của cả NATO và EU trong thập
kỷ qua.
 Điều duy nhất khiến cho quan hệ Nga-EU khơng đổ vỡ hồn tồn
chính là mối hợp tác kinh tế ngày càng chặt giữa hai bên. Nga là đối tác thương
mại lớn thứ năm của EU, cung cấp tới 1/3 nhu cầu nhập khẩu năng lượng của
khối, trong khi EU là một đối tác thương mại chủ chốt của Nga, chiếm trên 50%
tổng kim ngạch buôn bán của nước này.
- Quan hệ với Châu Á - Thái Bình Dương: Chính sách đối ngoại của
Nga ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương được xây dựng trên nguyên tắc phát
triển và củng cố toàn diện các mối quan hệ song phương với các quốc gia
trong khu vực kết hợp với việc tham gia tích cực vào các tổ chức chính trị và
kinh tế đa phương.
 Nga đặc biệt chú trọng quan hệ với người láng giềng lớn Trung
Quốc. Hiện nay có thể coi mối quan hệ này đang phát triển khá mạnh. Sự phối
hợp hành động giữa Nga và Trung Quốc đã trở nên sâu rộng và tích cực: hai
bên đã bắt đầu có các quan điểm trùng hợp hoặc gần gũi trên tất cả các vấn đề
quốc tế nóng bỏng. Các mối quan hệ kinh tế - thương mại đã phát triển đáng
kể. Tổng Bí thư- Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình chọn Nga là nước đầu
tiên đến thăm trên cương vị mới và hai bên cam kết thúc đẩy quan hệ hợp tác,
đối tác chiến lược giữa 2 nước.
 Ở hướng Nam ưu tiên hàng đầu của Nga là quan hệ với Ấn Độ. Có

thể nói rằng, hai nước hiện đã bước sang tầm cao mới của sự hợp tác đầy chất
lượng. Đã xuất hiện trở lại sự gắn bó ba bên Nga - Ấn - Trung với mong
muốn phối hợp hành động bền vững. Moscow, New Delhi và Bắc Kinh đặt
trọng tâm vào việc tạo đột phá trong lĩnh vực hợp tác kinh tế và đầu tư.
 Trong thời gian gần đây, Nga đã tạo dựng thành công những cơ hội
thuận lợi để phát triển các mối quan hệ với Nhật Bản trên cơ sở thỏa thuận ở
cấp cao "Kế hoạch hành động Nga-Nhật". Hợp tác kinh tế-thương mại Nga-

19


Nhật quy mô lớn được đặc biệt chú ý, mà nếu thiếu nhân tố này sẽ không thể
giải quyết các vấn đề chính trị cịn tồn tại giữa Nga với Nhật Bản.
 Vấn đề đang được phía Nga chú ý là tình hình phức tạp tại bán đảo
Triều Tiên. Nga cũng như các quốc gia khác quan tâm đến việc đảm bảo quy
chế phi hạt nhân và không phổ biến vũ khí hạt nhân, phát triển đối thoại hịa
bình ở khu vực Đơng Bắc Á.
 Tình hình qn sự-chính trị ở Nam Á cũng khơng nằm ngồi sự quan
tâm của Nga. Nga luôn theo dõi sát sao và bày tỏ quan điểm ủng hộ các nỗ lực
cải thiện quan hệ Ấn Độ - Pakistan. Trong thời gian gần đây quan hệ Nga với các
đối tác quan trọng ở châu Á như Mơng cổ, Malaysia, Thái Lan, Indonesia, Lào,
Campuchia đã có những bước tiến đáng kể. Quan trọng là Nga không có mâu
thuẫn với bất kỳ nước nào ở châu Á có thể dẫn đến xung đột. Hơn nữa, đa số các
nước này với Nga có quan điểm giống nhau về các vấn đề kiến tạo hịa bình và
xây dựng hệ thống phối hợp hành động chung đối với châu Á, Nga cịn tính đến
một xu thế rất quan trọng nổi lên gần đây, đó là liên kết song phương gia tăng rõ
rệt, và xuất hiện những cơ chế tập thể mới.
- Quan hệ với ASEAN: Quan hệ đối tác của Nga với Hiệp hội các
quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đang bước lên một tầm cao mới có chất
lượng. Hình thức quan hệ này là "hạt nhân" của quá trình Nga hịa nhập với

khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Bước quan trọng trong việc tạo cơ sở
pháp lý cho quan hệ Nga - ASEAN là việc ký Tuyên bố chung Nga - ASEAN
về phòng chống tội phạm quốc tế tháng 7/2004. Tiếp theo là văn kiện tương tự
về phối hợp hành động kinh tế. Sau khi tham gia Hiệp ước Bali, Nga đã trở
thành thành viên của một trong những định ước pháp lý cơ bản của khu vực
châu Á - Thái Bình Dương. Thỏa thuận về tổ chức Hội nghị thượng đỉnh đầu
tiên Nga - ASEAN trong năm 2005 đã đánh dấu một giai đoạn mới trong quan
hệ Nga và ASEAN. Nguyên tắc của AEAN về sự phối hợp hành động đa
phương, sự gắn bó chặt chẽ của Hiệp hội với Hiến chương Liên Hợp Quốc, với
các giải pháp chính trị nhằm giải quyết tranh chấp… hồn toàn đáp ứng quyền
20


lợi của Nga ở châu Á-Thái Bình Dương. Nền tảng quan trọng nhất để đảm bảo
nguyên tắc này là Diễn đàn khu vực ASEAN về an ninh (ARF).
Trong 2 nhiệm kỳ tổng thống trước đây, ơng Putin đã có cơng lớn đưa
nước Nga thốt khỏi cuộc khủng hoảng tồn diện về kinh tế, chính trị-xã hội
và sự giảm sút về thực lực quân sự trong suốt một thập niên kể từ sau khi Liên
Xơ tan rã. Do đó, việc ơng Putin giành chiến thắng trong cuộc bầu cử ngày
4/3/2012 và trở lại làm Tổng thống của Liên bang Nga được phần lớn cử tri
Nga kỳ vọng, đó là: Ơng có khả năng duy trì được trật tự xã hội; Mang lại đời
sống thịnh vượng cho người dân; Không ngừng nâng tầm vị thế của Nga trên
trường quốc tế. Tuy nhiên, những biến động của tình hình thế giới và ngay
trong nước Nga những năm gần đây đang đặt ra cho chính quyền của Tổng
thống Putin khơng ít khó khăn, thách thức.

21


Chương 3.

NHỮNG KHÓ KHĂN, THÁCH THỨC ĐỐI VỚI PUTIN.
3.1. Ở trong nước
Trước hết, Tổng thống Putin sẽ phải có giải pháp hợp lý để vực lại nền
kinh tế đang gặp rất nhiều khó khăn và thực hiện được kế hoạch đã đặt ra
trong chiến dịch tranh cử tổng thống vừa qua với những mục tiêu kinh tế to
lớn đó là: Xây dựng một nền kinh tế mới cho đất nước có cơ sở hạ tầng tốt và
nền cơng nghiệp có khả năng cạnh tranh, dịch vụ phát triển và nền nông
nghiệp hiệu quả trên cơ sở công nghệ hiện đại và thành lập một số trường đại
học tầm cỡ thế giới có thể đầu tư lớn cho các nghiên cứu khoa học như là cơ
sở cho nền kinh tế dựa trên công nghệ; và Đến năm 2020, nước Nga vươn lên
nhóm 5 nền kinh tế lớn nhất thế giới, với GDP bình quân đầu người đạt
35.000 USD, vượt các nước như Pháp và Italia 1 . Đồng thời, ông Putin cũng
phải thực hiện cam kết đến cuối năm 2012 sẽ dỡ bỏ mọi rào cản để tạo điều
kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh.
Mặt khác, sự phân hóa giàu nghèo và giải quyết thế nào để giảm bớt
khoảng cách giàu nghèo cũng là một thách thức to lớn đối với chính quyền
Putin, mặc dù khơng phải bây giờ vấn đề này mới được đặt ra. Số liệu thống
kê cho thấy, sự chênh lệch giàu nghèo giữa các nhóm dân cư, giữa các vùng
miền ở nước Nga là rất lớn. Năm 2009, 10% những người thu nhập cao nhất
đạt 30,4% tổng thu nhập quốc dân (nửa đầu năm 2008 đạt 30,5%), còn với
10% những người thu nhập thấp nhất chỉ đạt 1,9% tổng thu nhập. Hiện nay,
khoảng cách thu nhập giữa 10% số người giàu nhất và 10% số người nghèo
nhất ở thủ đô Mátxcơva đã lên tới khoảng 29 lần và giữa các địa phương là
khoảng 20 lần . Rõ ràng, nếu chính quyền Putin khơng có sự điều chỉnh chính
sách kinh tế hợp lý thì trong thời gian tới sự chênh lệch giàu nghèo ở Nga sẽ
còn tăng lên. Bởi lẽ, sự bất ổn của nền kinh tế, của thị trường lao động sẽ đẩy
những người thất nghiệp và những người lao động nghỉ phép bất đắc dĩ vào
22



nhóm những người thu nhập thấp. Điều này cũng làm cho sự chênh lệch về
thu nhập giữa người giàu và người nghèo tăng lên.
Hơn nữa, một thách thức lớn nữa mà không chỉ tân Tổng thống Putin,
mà cả hệ thống chính trị Nga đang phải đối mặt là tệ tham nhũng hiện đã và
đang ở mức đáng báo động. Một con số thống kê gần đây cho thấy, các khoản
hối lộ dưới mọi hình thức tại Nga chiếm tới hơn 15% GDP. Năm 2010 có đến
8.000 vụ tham nhũng và 720 cơng chức phải ra tịa, trong đó đa số là cơng
chức cấp thấp; có khoảng 1.300 cán bộ của các cơ quan bảo vệ pháp luật đã
nhận tội vì nhận hối lộ. Tổ chức Minh bạch Quốc tế xếp Nga ở vị trí 154/176
quốc gia trong bảng xếp hạng về tham nhũng, trên Yêmen và Cộng hòa Trung
Phi. Cùng với đó là tình trạng quan liêu. Nga hiện đang xếp thứ 120 trong
bảng xếp hạng của Ngân hàng Thế giới (WB) về mức độ thoải mái trong kinh
doanh. Trung bình phải mất 281 ngày để được nối điện và 423 ngày để có một
giấy phép xây dựng . Do đó, các tập đồn đa quốc gia đầu tư ở Nga chủ yếu
vào ngành mỏ và khống sản nặng, cịn các nhà đầu tư lâu dài vào cơ sở hạ
tầng và dịch vụ, với công nghệ hiện đại cùng với các kỹ năng quản lý tiên tiến
thì lại có xu hướng đầu tư vào Trung Quốc và Braxin... Hơn thế, hậu quả của
chế độ tham nhũng, quan liêu ở Nga còn làm thui chột những sáng kiến mới,
đồng thời cũng khiến những nhà kinh doanh lớn của Nga có xu hướng di cư
sang Mỹ, châu Âu hoặc Israen... để đầu tư. Đây cũng là một vấn đề lớn địi
hỏi chính quyền Putin phải có ngay những biện pháp hữu hiệu để hạn chế tình
trạng này. Chính Tổng thống Putin cũng đã từng thừa nhận: “Bộ máy quốc gia
ngày nay ở chừng mực rất lớn là chế độ quan liêu, tham nhũng, nó khơng có
động lực tìm kiếm tích cực thay đổi chứ đừng nói đến có động lực tìm kiếm
phát triển với tốc độ nhanh” .
Thêm vào đó, tâm lý chống lại Chính phủ đang nổi lên xuất phát từ
nhiều vấn đề. Trải qua nhiều năm tương đối ổn định đã dẫn đến một tâm lý về
an ninh chính trị, xã hội và kinh tế trong một số người Nga rằng, đất nước
không cần một “vị cứu tinh” như Tổng thống Putin nữa. Giá năng lượng tăng
23



cao trong một thời gian dài và nền kinh tế Nga đang mạnh lên đã tạo ra một
tầng lớp trung lưu mới, một điều mà trước đây chưa từng có ở Nga. Hơn nữa,
nhiều người trưởng thành hiện nay không được nuôi dưỡng dưới chế độ Liên
bang Xô viết hoặc trong những năm nổi loạn ngay sau sự sụp đổ của Liên
bang này. Một loại chủ nghĩa dân tộc cực đoan cũng đã nổi lên trên khắp nước
Nga dẫn đến có nhiều người Nga khơng quan tâm đến một chính phủ cân
bằng. Chính phủ của Putin lại khơng lường trước được những thay đổi này
trong những năm gần đây nên đã dẫn đến sự bất đồng trong nội bộ Đảng
Nước Nga Thống nhất và tâm lý chống Chính phủ tiếp tục nổi lên.
Có thể nói, những thách thức nêu trên chỉ là một số vấn đề nổi trội
trong vô số các vấn đề từ bên trong đang đặt ra cho chính quyền của Tổng
thống Putin cần phải giải quyết. Bên cạnh đó, chính quyền Nga lại đang phải
đối mặt với những thách thức vơ cùng lớn từ bên ngồi tác động vào.
3.1.2. Thách thức từ bên ngoài
Thách thức lớn nhất từ bên ngoài tác động đến chiến lược đối ngoại của
chính quyền Putin hiện nay là sức ép từ Mỹ và phương Tây.
Thứ nhất, về chính trị, Mỹ và phương Tây đang ra sức gây sức ép lên
chính quyền mới của Tổng thống Putin. Thực tế cho thấy, việc Putin quay trở
lại Điện Kremli là điều Mỹ và phương Tây khơng muốn nhìn thấy. Từ cuối
năm 2011, khi Thủ tướng Putin chuẩn bị cho cuộc tranh cử vị trí tổng thống
vào đầu năm 2012, Mỹ và một số nước khác đã lên tiếng sẵn sàng ủng hộ
những người biểu tình chống chính phủ Nga. Sau cuộc bầu cử Quốc hội Nga
tháng 12/2011, các phương tiện truyền thông tuyên truyền rằng cơ quan giám
sát bầu cử cáo buộc chính phủ Nga gian lận bầu cử đã được Mỹ tài trợ. Sau đó
Ngoại trưởng Mỹ H. Clinton lên tiếng phản đối kết quả bầu cử mà theo đó
đảng cầm quyền Nước Nga Thống nhất của Putin giành đa số ghế trong
Đuma, mặc dù trong cuộc bầu cử đó đảng này đã mất vị thế “đa số tuyệt đối”
trong Đuma và các đảng đối lập, đặc biệt Đảng Cộng sản gần như đã tăng gấp

đơi sự hiện diện của mình. Một tuần lễ sau bầu cử Quốc hội, được sự cổ súy
24


×