Tải bản đầy đủ (.pdf) (48 trang)

Giáo dục ý thức bảo tồn di sản cho học sinh huyện Con Cuông thông qua tổ chức hội thi tìm hiểu về di sản trong dạy học ngoại khóa Địa lí - THPT_2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.93 MB, 48 trang )

tai lieu, luan van1 of 98.

PHẦN I - ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài.
Ngày 27/7/2018, tại Hà Nội, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức Hội nghị
Bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa Việt Nam vì sự phát triển bền vững. Thủ
tướng Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh: “việc bảo tồn và phát huy di sản không chỉ là
trách nhiệm của Nhà nước mà còn là sự nghiệp của quần chúng và cộng đồng; cần sử
dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội cho bảo vệ và phát huy giá trị di sản, tạo điều
kiện thuận lợi nhất để nhân dân trực tiếp tham gia bảo vệ và phát huy giá trị di sản”.
Thủ tướng khẳng định: “Di sản là báu vật mà thiên nhiên ban tặng cho đất nước, là
kết tinh lao động sáng tạo mà ông cha ta từ đời này qua đời khác đã dày công tạo
dựng. Cái gì cũng có thể xây được, sản xuất được, sáng tác được nhưng di sản thì
khơng thể tạo ra được”. Vì vậy, cần bảo vệ, giữ gìn, phát huy giá trị của các di tích
lịch sử, di sản văn hóa, nghệ thuật, danh lam thắng cảnh đất nước mà nhân dân đóng
vai trị then chốt trong việc bảo vệ, gìn giữ, lưu truyền và phát huy giá trị các di sản
đó.
Trong chương trình giáo dục phổ thơng, Địa lý là mơn học có nhiều thuận lợi để
giáo dục cho học sinh tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước. Trong đó các
kiến thức về địa lý địa phương, về các di sản, các danh lam thắng cảnh đóng vai trị
quan trọng. Vì thế, việc dạy học địa lý địa phương gắn với thực tiễn các di sản, danh
lam thắng cảnh tạo điều kiện cho học sinh nâng cao hiểu biết về các di sản có tại quê
hương, địa phương mình; đồng thời giáo dục cho học sinh ý thức gìn giữ, bảo tồn và
phát huy giá trị những di sản văn hóa của q hương, giúp học sinh tìm hiểu, đánh giá
đúng tiềm năng các điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và thực trạng kinh tế xã hội của địa phương. Từ đó giúp học sinh định hướng nghề nghiệp, lao động sản
xuất, góp phần xây dựng quê hương, đất nước ngày càng giàu đẹp hơn.
Việc đưa kiến thức địa lý địa phương gắn với thực tiễn các di sản vào dạy học sẽ
góp phần bổ sung kiến thức thực tế về địa phương cho học sinh. Giúp cho học sinh
hiểu về địa phương mình và làm giàu tình yêu quê hương đất nước trong tâm hồn các
em. Tuy nhiên, hiện nay dung lượng kiến thức về địa lý địa phương trong trường phổ
thơng vẫn cịn chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong chương trình Địa lý THPT. Ngoài các tiết


dạy địa lý địa phương theo quy định trong phân phối chương trình, các thầy (cơ) giáo
chưa thường xuyên đưa kiến thức địa lý địa phương, kiến thức về các di sản, các danh
lam thắng cảnh vào bài giảng. Do đó, việc cung cấp và bổ sung kiến thức địa lý địa
phương gắn với các di sản vào dạy học hiện nay là rất cần thiết, góp phần phát triển
kỹ năng học tập, kỹ năng tự lĩnh hội kiến thức cho học sinh.
Theo công văn 3414/ BGDĐT-GDTrH hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ giáo dục
trung học 2020 – 2021, Bộ Giáo dục và Đào tạo một lần nữa nhắc đến việc “tiếp tục
1
document, khoa luan1 of 98.


tai lieu, luan van2 of 98.

thực hiện tốt việc sử dụng di sản văn hóa trong dạy học một số mơn học phù hợp” đây
cũng là một hình thức dạy học, giáo dục theo định hướng phát triển năng lực học sinh.
Và tại Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện Con Cng lần thứ XXVII (nhiệm kì 2020 –
2025) vấn đề phát triển du lịch cũng đã được nhấn mạnh: “tập trung phát triển du lịch
sinh thái gắn với du lịch cộng đồng, di sản văn hóa, du lịch mạo hiểm, du lịch văn
hóa”. Theo đó, Con Cng tiếp tục thực hiện nhiều biện pháp, chỉ đạo quyết liệt hơn
theo tinh thần “làm” du lịch một cách thực chất, hiệu quả và có tính bền vững. Tăng
cường cơng tác bảo tồn và phát huy giá trị các di sản là một trong những nhiệm vụ
hàng đầu; Bên cạnh đó vấn đề tuyên truyền, quảng bá hình ảnh các di sản, di tích lịch
sử, di tích văn hóa và di sản thiên nhiên của huyện nhà cũng có vai trị rất quan trọng.
Là một người lớn lên và trưởng thành từ mảnh đất Con Cuông, tiếp tục được
phục vụ cho huyện nhà trong ngành giáo dục, bản thân tôi rất tự hào về quê hương và
mong muốn với bộ môn của mình giáo dục cho học sinh tình yêu quê hương thơng
qua giáo dục ý thức gìn giữ, bảo tồn và phát huy giá trị các di sản của huyện Con
Cuông, đồng thời nhằm “trang bị cho học sinh những hiểu biết về nơi sinh sống, bồi
dưỡng cho học sinh tình yêu quê hương, ý thức tìm hiểu và vận dụng những điều đã
học để góp phần giải quyết những vấn đề của q hương” như cơng văn

3414/BGDĐT-GDTrH (ngày 04/9/2020). Vì vậy, tôi đã chọn đề tài “Giáo dục ý thức
bảo tồn di sản cho học sinh huyện Con Cuông thông qua tổ chức hội thi tìm hiểu
về di sản trong dạy học ngoại khóa Địa lí - THPT” làm sáng kiến kinh nghiệm với
hi vọng đề tài của mình sẽ góp phần làm đẹp thêm quê hương, là tư liệu để đồng
nghiệp tham khảo ứng dụng trên các trường phổ thông của huyện Con Cuông.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Giáo dục tình yêu quê hương đất nước, ý thức gìn giữ, bảo tồn và phát huy giá
trị những di sản của quê hương cho học sinh.
Cung cấp và bổ sung các kiến thức về địa lý địa phương, cũng như các kiến thức
về di sản huyện Con Cuông để giáo viên lựa chọn phương pháp giảng dạy ngoại khóa
địa lý địa phương phù hợp với tình hình và đặc điểm học sinh của đơn vị mà mình
giảng dạy.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài tập trung vào các nhiệm vụ sau:
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận dạy học gắn với bảo tồn di sản, dạy học ngoại khóa.
- Tìm hiểu thực trạng dạy học gắn với di sản trong trường phổ thơng.
- Tìm hiểu tổng quan về huyện Con Cuông
2
document, khoa luan2 of 98.


tai lieu, luan van3 of 98.

- Xây dựng hoạt động dạy học ngoại khóa di sản ở huyện Con Cng trong dạy học
Địa Lý - THPT.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu tích hợp kiến thức địa lý địa phương gắn với di sản của
huyện Con Cuông vào dạy học Địa Lý cho học sinh THPT, qua đó giáo dục ý thức

bảo tồn và phát triển di sản cho HS.
3.2. Phạm vi nghiên cứu.
- Đề tài được tổ chức thực nghiệm ở trường THPT Con Cuông và thử nghiệm ở
các trường THPT trên địa bàn huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An.
- Nội dung nghiên cứu: giáo dục bảo tồn, cung cấp thêm một số kiến thức về di
sản huyện Con Cuông. Qua tổ chức hội thi nhằm phát triển một số phẩm chất, năng
lực cho học sinh qua dạy học ngoại khóa Địa lý - THPT.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
a. Phương pháp thu thập tài liệu, kiến thức.
Việc thu thập tài liệu kiến thức phục vụ cho đề tài nghiên cứu thông qua các sách
tham khảo chuyên ngành, các sách báo, tạp chí, các báo cáo khoa học và các trang
Web có kiến thức liên quan đến đề tài. Để đề tài đảm bảo tính khoa học và tính sư
phạm, trong quá trình thu thập tài liệu phải chú ý đến tính chính xác, tính vừa sức và
phải lựa chọn sắp xếp sao phù hợp với thời gian của khung phân phối chương trình.
b. Phương pháp tham quan khảo sát thực tế.
Tổ chức cho học sinh đi tham quan, khảo sát thực tế tại một số địa điểm. Với
phương pháp này giúp học sinh có được các kiến thức cơ bản về các di sản trên địa
bàn huyện, đồng thời thông qua phương pháp này giúp giáo viên tổ chức đánh giá
việc thu thập và nắm các kiến thức về di sản của học sinh tốt hơn.
5. Đóng góp của đề tài
- Bổ sung và làm sáng tỏ được cơ sở lí luận và thực tiễn về giáo dục di sản và
dạy học ngoại, vận dụng chúng vào nghiên cứu ở huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An.
- Đánh giá được thực trạng dạy học ngoại khóa di sản trong trường THPT huyện
Con Cng, tỉnh Nghệ An.
- Đề xuất được quy trình, cách thức tổ chức hội thi tìm hiểu về di sản trong hoạt
động ngoại khóa Địa lí ở trường THPT.

3
document, khoa luan3 of 98.



tai lieu, luan van4 of 98.

- Tổ chức hoạt động ngoại khóa di sản, góp phần nâng cao ý thức và phát triển
kĩ năng sống cho học sinh THPT huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An.
- Tăng cường công tác giáo dục địa phương trong chương trình mơn Địa lí.
6. Tính mới của đề tài
Hoạt động ngoại khóa mơn địa lí là vấn đề khơng cịn thực sự mới, tuy nhiên
bằng hình thức tổ chức hội thi để đưa các kiến thức địa lí địa phương, khéo léo lồng
ghép quảng bá hình ảnh địa phương thơng qua đó học sinh có thể thấy được động lực
phát triển ngành du lịch nói riêng và kinh tế - xã hội địa phương nói chung lại là một
hình thức dạy học mới, mục đích đưa hoạt động ngoại khóa chuyển mạnh sang hướng
hoạt động trải nghiệm cho học sinh, học sinh sẽ hứng thú hơn, u thích hơn mơn địa
lí, đồng thời phát huy được phẩm chất năng lực học sinh. Trước hết là biết yêu quê
hương và có trách nhiệm với các di sản của quê hương mình.

4
document, khoa luan4 of 98.


tai lieu, luan van5 of 98.

PHẦN II: NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận của đề tài
1.1.1. Khái niệm di sản
1.1.1.1. Di sản thiên nhiên
Theo Công ước Di sản thế giới thì di sản thiên nhiên là:
- Các đặc điểm tự nhiên bao gồm các hoạt động sáng tạo vật lý hoặc sinh học
hoặc các nhóm các hoạt động kiến tạo có giá trị nổi bật tồn cầu xét theo quan điểm

thẩm mỹ hoặc khoa học.
- Các hoạt động kiến tạo địa chất hoặc địa lý tự nhiên và các khu vực có ranh
giới được xác định chính xác tạo thành một mơi trường sống của các lồi động thực
vật đang bị đe dọa có giá trị nổi bật tồn cầu xét theo quan điểm khoa học hoặc bảo
tồn.
- Các địa điểm tự nhiên hoặc các vùng tự nhiên được phân định rõ ràng, có giá
trị nổi bật tồn cầu về mặt khoa học, bảo tồn hoặc thẩm mỹ.
1.1.1.2. Di sản văn hóa
- Di sản văn hóa Việt Nam bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn
hóa vật thể là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được
lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác.
- Là những giá trị kết tinh từ sự sáng tạo văn hoá của cộng đồng 54 dân tộc anh
em.
- Được sáng tạo từ việc học hỏi, giao lưu và kế thừa từ các nền văn hoá và văn
minh của nhân loại.
- Đang được bảo tồn và phát huy trong đời sống của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam.
a) Di sản văn hóa vật thể
- Là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, bao gồm :
+ Di tích lịch sử - văn hóa là cơng trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ
vật, bảo vật quốc gia thuộc cơng trình, địa điểm đó có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa
học.
+ Danh lam thắng cảnh là cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết hợp
giữa cảnh quan thiên nhiên với cơng trình kiến trúc có giá trị lịch sử thẩm mỹ, khoa
học.
5
document, khoa luan5 of 98.


tai lieu, luan van6 of 98.


b)
Di
sản
văn
hố
phi
vật
- Tiếng nói, chữ viết của các dân tộc Việt Nam;

thể

bao

gồm:

- Ngữ văn dân gian, bao gồm sử thi, ca dao, dân ca, tục ngữ, hị, vè, câu đố,
truyện cổ tích, truyện trạng, truyện cười, truyện ngụ ngôn, hát ru và các biểu đạt khác
được chuyển tải bằng lời nói hoặc ghi chép bằng chữ viết;
- Nghệ thuật trình diễn dân gian, bao gồm âm nhạc, múa, hát, sân khấu và các
hình thức trình diễn dân gian khác;
- Tập quán xã hội, bao gồm luật tục, hương ước, chuẩn mực đạo đức, nghi lễ và
các phong tục khác;
- Lễ hội truyền thống;
- Nghề thủ công truyền thống;
- Tri thức dân gian;
1.1.2. Ý nghĩa của di sản đối với hoạt động dạy học, giáo dục trong trường
phổ thông
Di sản là một nguồn nhận thức, một phương tiện trực quan quý giá trong dạy
học nói riêng, giáo dục nói chung.

- Góp phần đẩy mạnh, hướng dẫn hoạt động nhận thức cho học sinh.
- Giúp học sinh phát triển kỹ năng học tập, tự chiếm lĩnh kiến thức.
- Kích thích hứng thú nhận thức của học sinh.
- Phát triển trí tuệ của học sinh.
- Giáo dục nhân cách học sinh.
Góp phần phát triển một số kỹ năng sống ở học sinh
- Kỹ năng giao tiếp
- Kỹ năng lắng nghe tích cực
- Kỹ năng trình bày suy nghĩ ý tưởng
- Kỹ năng hợp tác
- Kỹ năng tư duy phê phán
- Kỹ năng đảm nhận trách nhiệm
- Kỹ năng đặt mục tiêu
- Kỹ năng quản lí thời gian
- Kỹ năng tìm kiếm và xử lí thơng tin
6
document, khoa luan6 of 98.


tai lieu, luan van7 of 98.

1.1.3. Phương thức tổ chức dạy học với di sản trong trường phổ thông
- Lồng ghép nội dung dạy học di sản văn hóa vào mơn học (nội khóa hoặc
ngoại khóa).
- Xây dựng kế hoạch và tổ chức dạy học, các hoạt động có chủ đề liên quan đến
di sản có tính chất điển hình và hướng dẫn học sinh tự tìm hiểu, khai thác các nội
dung khác của di sản văn hóa thơng qua tư liệu, hiện vật. Tổ chức chăm sóc di tích,
các hoạt động giáo dục tại di tích.
- Lựa chọn hình thức tổ chức dạy học phù hợp:
+ Dạy học trên lớp hoặc tổ chức các hoạt động ngoại khóa tại nhà trường;

+ Dạy học tại nơi có di sản văn hóa;
+ Tổ chức tham quan - trải nghiệm di sản văn hóa;
+ Dạy học thơng qua các phương tiện truyền thơng, đa phương tiện;…
1.1.4. Vai trị, vị trí của ngoại khóa Địa lí trong trường THPT
Tuy khơng được quy định trong phân phối chương trình, nhưng ngoại khố là
một hoạt động bắt buộc vô cùng quan trọng. Hoạt động ngoại khố Địa lí vừa là hoạt
động giáo dục, vừa là hoạt động góp phần hình thành nhân cách học sinh. Nhận thức
được tầm quan trọng của hoạt động ngoại khoá, nhà trường đã chú trọng đưa vào kế
hoạch chỉ đạo trong việc thực hiện nhiệm vụ năm học. Việc đưa ra một hình thức
ngoại khố mới mẻ, ứng dụng cơng nghệ thơng tin hợp lí, có hiệu quả, thu hút được
sự chú ý của học sinh là một vấn đề hết sức cần thiết trong tình hình học sinh hiện
nay.
Hoạt động ngoại khố Địa lí theo quan niệm đổi mới phương pháp dạy học là
một hình thức tự học tích cực, bổ ích và có hiệu quả, nối liền bục giảng với thực tiễn
đời sống, mở rộng, kéo dài trường suy tưởng - thẩm định về bài học cho học sinh;
phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của người học, kiểm tra lại chất lượng dạy
học trong giờ chính khố.
Hoạt động ngoại khố Địa lí càng cần thiết và bổ ích khi được áp dụng vào q
trình dạy học tích hợp lồng ghép giữa kiến thức mơn học với kiến thức thực tiễn ở
trường THPT. Ngoại khoá Địa lí góp phần làm sáng tỏ hơn, cho phép chúng ta khai
thác thêm kiến thức sâu rộng - điều mà giáo viên và học sinh rất khó thực hiện trong
giờ chính khố do hạn chế về điều kiện cơ sở vật chất, khơng gian và thời gian giảng
dạy. Ngoại khố Địa lí cịn tăng cường tính thời sự, tính xã hội cho nội dung bài
học. Hoạt động ngoại khố có tính giáo dục cộng đồng, xã hội sâu rộng.
Tổ chức hoạt động ngoại khố Địa lí là một cơng việc vừa có ý nghĩa thực tiễn
vừa có ý nghĩa khoa học. Trong nỗ lực tìm kiếm và đổi mới PPDH nhằm nâng cao
7
document, khoa luan7 of 98.



tai lieu, luan van8 of 98.

chất lượng giảng dạy và góp phần khắc phục tình trạng học sinh thiếu hứng thú học
mơn Địa lí, tổ chức các hoạt động ngoại khố Địa lí là một xu hướng khả thi đáp ứng
tốt những yêu cầu đổi mới PPDH nhằm phát triển toàn diện phẩm chất năng lực học
sinh ở trường phổ thơng.
Hoạt động ngoại khố Địa lí, khơng chỉ góp phần nâng cao khả năng tư duy độc
lập, tăng cường khả năng sáng tạo trong học tập, kích thích lịng ham muốn tìm tịi,
khám phá những kiến thức mới của người học mà cịn góp phần hồn thiện khả năng
chun mơn và kỹ năng sư phạm của người thầy trong quá trình chuẩn bị và "đồng
hành" với người học khám phá kiến thức mới.
1.1.5. Hình thức tổ chức hội thi Địa lí khám phá di sản địa phương.
Hội thi là một trong những cách thức hoạt động hấp dẫn, lôi cuốn học sinh, đạt
hiệu quả tốt trong vấn đề giáo dục, rèn luyện và định hướng giá trị cho người tham
gia. Hội thi là dịp để mỗi cá nhân hoặc tập thể thể hiện khả năng của mình, khẳng
định thành tích, kết quả của quá trình tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu trong học tập và
trong các hoạt động tập thể. Quy mô của hội thi, đối tượng tham gia, cách thức tổ
chức hội thi như thế nào phụ thuộc vào mục đích, yêu cầu, ý nghĩa, tính chất và nội
dung của hội thi. Quy mơ của hội thi có thể tổ chức trong phạm vi một lớp, một khối
hoặc toàn trường. Có thể tổ chức vào các thời gian khác nhau của năm học. Đối tượng
tham gia hội thi là các cá nhân hoặc nhóm học sinh.
1.1.5.1. Các bước tiến hành hội thi Địa lí:
- Bước 1: Nêu chủ trương tổ chức hội thi.
- Bước 2: Dự thảo kế hoạch tổ chức hội thi.
- Bước 3: Thông qua kế hoạch hội thi và triển khai thực hiện nội dung của kế
hoạch hội thi, ban tổ chức và ban giám khảo họp triển khai và thực hiện các nhiệm vụ
của mình.
- Bước 4: Tổ chức thi và công bố kết quả (Do ban tổ chức và ban giám khảo thực
hiện).
- Bước 5: Tổng kết hội thi (Đánh giá toàn bộ các hoạt động của hội thi, rút kinh

nghiệm, đề ra phương pháp mới và cơng khai tài chính hội thi).
1.1.5.2 Tiến trình hội thi:
- Khai mạc (khơng nhất thiết phải đọc diễn văn, có thể chỉ bằng hình thức ra mắt
của các đội dự thi, giới thiệu đại biểu…).
- Thi từng phần, từng mục theo sự điều khiển của người dẫn chương trình. Sau mỗi
phần thi giám khảo cho điểm cơng khai, ban thư ký cộng điểm cho từng đội.
8
document, khoa luan8 of 98.


tai lieu, luan van9 of 98.

- Giữa các phần thi có thể chuẩn bị một số tiết mục văn nghệ xen kẽ.
- Công bố kết quả, trao giải hoặc quà lưu niệm: Giá trị giải thưởng không cần lớn,
chủ yếu để động viên tinh thần. Nên có quà lưu niệm cho các đội tham gia nhằm
khuyến khích, động viên học sinh.
1.1.5.3 Một số nội dung của hội thi Địa lí:
- Thi trả lời nhanh: Sau khi nêu câu hỏi, đội nào có tín hiệu trước sẽ đựợc trả lời.
Thời gian để suy nghĩ cho một câu hỏi là cố định, ví dụ: 10 giây. Sau 10 giây từ khi
nêu câu hỏi mà khơng có đội nào có tín hiệu trả lời hoặc trả lời sai thì có thể mời khán
giả trả lời hoặc đọc đáp án. Nếu đội có tín hiệu trả lời sai thì sau 5 giây đội khác có
quyền trả lời.
- Thi giải thích hiện tượng: Sau khi nêu hiện tượng, yêu cầu giải thích diễn biến,
kết quả. Trong thời gian ấn định, các đội cùng trả lời ra giấy hoặc viết lên một bảng
và sau đó lần lượt đọc câu trả lời. Căn cứ vào câu trả lời, giám khảo cho điểm cụ thể.
Sau khi các đội trả lời, người dẫn chương trình cơng bố đáp án chính xác.
Cũng với kiểu thi này, có thể dùng hình thức nêu lần lượt các gợi ý trả lời và cho
điểm tuỳ theo các nấc gợi ý. Sau mỗi gợi ý có một thời gian suy nghĩ nhất định.
- Thi giải ô chữ: Tạo một ô chữ gồm nhiều hàng ngang và một cột dọc. Cột dọc
được sắp xếp sao cho nó do các chữ ở các hàng ngang nối lại tạo thành. Từ việc trả lời

các câu hỏi tìm ra các từ hàng ngang, từ đó dự đốn từ ở cột dọc. Nên chọn từ ở cột
dọc mang một ý nghĩa nào đó.
- Thi năng khiếu: Hướng dẫn viên, thuyết trình, hùng biện
- Thi vẽ nhanh bản đồ, lược đồ…
Có nhiều hình thức khác nhau cho phần này. Có thể phát cho các đội thi các dụng cụ,
yêu cầu trình bày cách vẽ, tiến hành vẽ nhanh trong thời gian nhất định.
- Thi chơi một số trị có sử dụng kiến thức.
- Ra câu hỏi: Các đội ra câu hỏi vòng tròn hoặc đặt ra câu hỏi cho khán giả. Các
câu hỏi này phải được ban giám khảo thẩm định trước và đảm bảo tính bí mật. Để thu
hút sự nhiệt tình của khán giả nên có phần thi dành cho lực lượng này và có phần
thưởng cho người trả lời đúng.
Trong q trình dạy học Địa lí, việc lồng ghép nội dung giáo dục di sản vào
trong mỗi bài học, hoặc đa dạng hóa các hình thức tổ chức hoạt động ngoại khoá sẽ
giúp học sinh tiếp cận với di sản nhiều hơn, phát triển kĩ năng học tập, tự chiếm lĩnh
kiến thức và kích thích hứng thú học tập cho học sinh, để từ đó biết giữ gìn và tơn
trọng bản sắc văn hố dân tộc.
9
document, khoa luan9 of 98.


tai lieu, luan van10 of 98.

1.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài
1.2.1. Thực trạng giáo dục ý thức bảo tồn di sản trong dạy học Địa Lý THPT
Thực tế, các hoạt động gắn kết giữa di sản với hoạt động giáo dục bấy lâu nay
đã được triển khai thông qua các hoạt động ngoại khóa, tham quan, trải nghiệm đặc
biệt là qua phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” được triển
khai rộng rãi những năm gần đây…Song công tác giáo dục di sản trong nhà trường
còn nhỏ lẻ, chưa được tiến hành một cách bài bản và thường xuyên.
Trong quá trình thực hiện đề tài, để tìm hiểu về nhận thức, thái độ và phương

pháp tổ chức dạy học giáo dục di sản huyện Con Cng thơng qua hoạt động ngoại
khóa địa lí tại trường THPT. Đề tài đã tiến hành khảo sát, phỏng vấn, trao đổi ý kiến
với các GV đang giảng dạy ở các trường trong huyện Con Cuông và học sinh THPT
trên địa bàn huyện, với tổng số mẫu phiếu điều tra là 400 phiếu, trong đó có 328 phiếu
có giá trị sử dụng đạt tỉ lệ 82 %.
Bảng 1.1. Phân bố mẫu nghiên cứu của đề tài
Số
phiếu
khảo
sát
GV

Tỉ
lệ

Con
Cuông

62

Mường
Quạ
Tổng

Trƣờng
THPT

%

Số

phiếu Tỉ
khảo lệ
sát
%
HS

Khối lớp
10

11

12

HS

TL%

HS

TL%

HS

TL%

18,9 176

53,7 61

34.7


67

38.0

48

27.3

20

6,1

70

21,3 25

35.7

20

28.6

25

35.7

82

25


246

75

35,0

87

35.4

73

29,6

86

1.2.2. Thực trạng về giáo viên.
Về nhận thức: phần lớn số GV được điểu tra có nhận thức đầy đủ và đúng đắn về
vấn đề giáo dục ý thức bảo tồn di sản huyện Con Cuông thông qua hoạt động ngoại
khóa Địa lí ở trường THPT (85%), cịn lại 15% GV nhận thức tương đối đầy đủ và
chưa đầy đủ.
Về thái độ: 87% GV có thái độ tích cực đối với việc giáo dục ý thức bảo tồn di sản
huyện Con Cng thơng qua hoạt động ngoại khóa Địa lí ở trường THPT. Tuy vậy,
vẫn cịn một bộ phận GV chưa thật sự tích cực trong việc giáo dục bảo tồn và phát
huy giá trị của các di sản huyện Con Cng cho HS của mình. Bên cạnh đó, một số
10
document, khoa luan10 of 98.



tai lieu, luan van11 of 98.

GV lại nghĩ rằng muốn làm được điều này cho HS cần phải có các chương trình hỗ
trợ của địa phương, của nhà nước và phải có nguồn kinh phí lớn.
Về hình thức tổ chức và phương pháp: qua phỏng vấn các GV đều cho rằng có
thể sử dụng cả dạy học chính khóa và ngoại khóa. Tuy nhiên, các GV thường sử dụng
dạy học chính khóa vì rất khó có thể tổ chức các hoạt động ngoại khóa cho HS một
cách thường xuyên do điều kiện thời gian và cơ sở vật chất của các trường phổ thông.
Về phương pháp dạy học muốn đạt hiệu quả cao thì phải sử dụng các phương pháp
dạy học tích cực, phát huy tính năng động, sáng tạo và chủ động của HS, khắc phục
những hạn chế về cơ sở vật chất của trường học. Thực tế đánh giá về mức độ dạy học
nội dung này qua các tiết dạy địa lý địa phương của mình, các GV cũng thẳng thắn
nói rằng chỉ thỉnh thoảng mới đề cập đến và liên hệ thực tế các di sản ở địa phương
mình. Nguyên nhân chủ yếu là do kiến thức trong bài nhiều, mà thời gian và cơ sở vật
chất còn rất hạn chế.
1.2.3. Thực trạng về nhận thức của học sinh.
Tiến hành khảo sát HS của 2 trường THPT trên địa bàn huyện Con Cuông đã thu
được những kết quả đáng kể, từ đó hiểu được các mặt nhận thức, thái độ và hành vi
của HS về các di sản của huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An cụ thể như sau:
Bảng 1.2. Kết quả phiếu điều tra HS về mức độ hiểu biết về các di sản của huyện
Con Cuông, tỉnh Nghệ An
Nhận thức
Tổng số HS điều tra

246

Thái độ

Đầy đủ


Chưa
đầy đủ

Hiểu

Số lượng

52

109

Tỉ lệ (%)

21.1

44.3

Tích cực

Tiêu cực

85

165

81

34.6

67.1


32.9

ít

Về nhận thức: qua các số liệu điều tra có thể thấy rằng phần lớn HS ở các
trường phổ thông đều cho rằng môn Địa lí là mơn phụ, các em chủ yếu chỉ chú ý đến
các mơn như tốn, văn, anh…cho nên khi được hỏi các em đều có nhận thức chưa
đầy đủ (chiếm tới 44,3%); đặc biệt, còn tới 34,6% các em HS hiểu biết rất ít, thậm chí
chưa biết hết các di sản có ở trong huyện.
Qua điều tra cho thấy việc nhận thức của HS THPT còn rất hạn chế và chưa có
kiến thức đầy đủ về các di sản của huyện Con Cuông. Như vậy, qua kết quả điều tra
có thể thấy rằng: hiện nay, việc đưa các nội dung giáo dục ý thức bảo tồn và phát huy
giá trị các di sản vào trong các bài học ở nhà trường phổ thông, đặc biệt là các bài học
Địa lí chưa nhận được sự quan tâm thích đáng.
11
document, khoa luan11 of 98.


tai lieu, luan van12 of 98.

Về thái độ: Đa số HS khi được hỏi đều có thái độ tích cực đối với các vấn đề
bảo vệ các di sản của huyện Con Cuông và tỏ ra rất hứng thú (67,1%). Đặc biệt các
em thích thú khi tham gia các hoạt động ngoại khóa của nhà trường, vì theo các em
học ngoại khóa thoải mái mà khả năng ghi nhớ kiến thức lại cao, đồng thời các em có
thể phát huy tinh thần đoàn kết giữa các thành viên trong tổ, trong lớp với nhau. Tuy
nhiên vẫn còn 32,9% HS đang cịn có thái độ chưa tốt đối với những vấn đề về di sản
trong huyện, điều này thực sự đáng lo ngại khi thế hệ trẻ không hiểu hết giá trị của
việc bảo tồn và phát huy các di sản ở địa phương.
Hiện nay, công tác bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa cũng cịn nhiều bất

cập. Nguy cơ thất truyền, mai một của nhiều loại hình di sản văn hóa phi vật thể và sự
xuống cấp của các di tích lịch sử vẫn cịn ở mức báo động; việc phát huy giá trị các lễ
hội truyền thống còn nhiều hạn chế, hiện tượng thương mại hóa trong lễ hội chưa
được ngăn chặn một cách có hiệu quả; sự hạn hẹp về kinh phí để bổ sung hiện vật cho
bảo tàng; nạn trộm cắp, buôn bán cổ vật vẫn diễn biến phức tạp, tình trạng lấn chiếm
di tích, danh lam, thắng cảnh; hiện tượng xây dựng trái phép, tu bổ di tích sai ngun
tắc chưa có biện pháp ngăn chặn kịp thời…
Trong khi cuộc sống xã hội ngày càng sơi động, thì khơng gian dành cho các loại
hình văn hóa truyền thống ngày càng thu hẹp hoặc bị thay đổi, nhiều khi còn bị lãng
quên. Giới trẻ hiện nay số đông không hiểu hết giá trị của các di sản văn hóa, mà có
xu hướng ưa chuộng những hình thức nghệ thuật mới, hiện đại, ít quan tâm tìm hiểu
cái hay, cái đẹp của nghệ thuật dân tộc. Vì vậy, vấn đề đặt ra hiện nay là cần nâng cao
hiệu quả việc giáo dục di sản cho các em học sinh.
Sử dụng di sản trong dạy học là vấn đề được đưa vào dạy học lồng ghép theo
hướng tích hợp một số mơn học, trong đó có mơn Địa lí ở trường phổ thơng. Nhưng
thực tế, chỉ dựa vào thời lượng được bố trí trong giáo án chương trình chính khóa thì
cả giáo viên và học sinh đều thấy quá tải về thời gian và nội dung. Lâu nay, những
tiết học trên lớp, phần lớn giáo viên chủ yếu dừng lại ở việc cung cấp những kiến thức
cơ bản, đơn thuần, giới thiệu qua một vài di sản, thiếu tính thực tiễn. Chính vì thế, để
nâng cao hiểu biết cho học sinh, đồng thời để giáo dục ý thức bảo vệ di sản đặc biệt là
di sản văn hóa địa phương cho học sinh quả là một vấn đề cịn gặp nhiều khó khăn,
chưa mang lại được hiệu quả như mong muốn.
Vì vậy, hình thức hoạt động ngoại khóa mơn địa lí bằng việc tổ chức hội thi cũng
là một hình thức dạy học mới, mục đích đưa hoạt động ngoại khóa chuyển mạnh sang
hướng hoạt động trải nghiệm cho học sinh, học sinh sẽ hứng thú hơn, u thích hơn
mơn địa lí, đồng thời phát huy được phẩm chất năng lực học sinh. Trước hết là biết
yêu quê hương và có trách nhiệm với các di sản của quê hương mình.

12
document, khoa luan12 of 98.



tai lieu, luan van13 of 98.

1.3. Ý nghĩa của đề tài
Đối với nhà trường: Áp dụng được đa dạng hình thức dạy học trong nhà trường;
tổ chức đa dạng các hình thức hoạt động ngoại khóa; đổi mới hình thức các hoạt động
chun mơn; tạo sân chơi bổ ích cho học sinh nhằm phát triển phẩm chất, năng lực
học sinh; phát triển các năng khiếu của học sinh, hướng tới phát triển toàn diện và tạo
hứng thú cho học sinh tìm tịi, nghiên cứu
Đối với giáo viên: được áp dụng các hình thức dạy học đa dạng trong nhà
trường; có điều kiện để nghiên cứu, tìm hiểu các di sản của địa phương và đưa vào
giảng dạy, giáo dục trong nhà trường; Thể hiện được các kĩ năng sư phạm trong hoạt
động ngoại khóa, hoạt động trải nghiệm cùng học sinh; nâng cao hiểu biết về các di
sản vốn có của địa phương và nâng cao ý thức bảo tồn các di sản.
Đối với học sinh: Phát triển được các phẩm chất, năng lực, kĩ năng sống của học
sinh; nâng cao hiểu biết các di sản và ý thức gìn giữ, bảo tồn các di sản; giáo dục tình
yêu quê hương đất nước, ý thức trách nhiệm đối với quê hương, đất nước. Thơng qua
hoạt động ngoại khóa địa lí bằng tổ chức hội thi nhằm phát huy được tính chủ động
tích cực của học sinh, qua đó tăng thêm sự u thích, hứng thú của học sinh đối với
mơn địa lí trong trường học.

13
document, khoa luan13 of 98.


tai lieu, luan van14 of 98.

CHƢƠNG 2: GIÁO DỤC DI SẢN CHO HỌC SINH THƠNG QUA HỘI THI
TÌM HIỂU VỀ DI SẢN HUYỆN CON CNG TRONG HOẠT ĐỘNG NGOẠI

KHĨA ĐỊA LÍ Ở TRƢỜNG THPT
2.1. Khái quát về địa bàn huyện Con Cuông
Con Cuông là huyện miền núi vùng cao biên giới nằm phía Tây Nam tỉnh
Nghệ An, cách Thành phố Vinh khoảng 130km, có đường biên giới với nước bạn Lào
với chiều dài 61,8 km, có hai xã biên giới Châu Khê và Mơn Sơn. Tổng diện tích tự
nhiên 1.738,31Km2. Phía đơng nam giáp huyện Anh Sơn, phía đơng bắc giáp huyện
Quỳ Hợp và Tân Kỳ, phía tây bắc giáp huyện Tương Dương.

Huyện Con Cng có địa hình phân hóa khá phức tạp, trong đó phân cách bởi
Sơng Lam thành 2 vùng hữu ngạn và tả ngạn: Vùng hữu ngạn Sơng Lam có 7 xã:
Mơn Sơn, Lục Dạ, n Khê, Chi Khê, Châu Khê, Lạng Khê và thị trấn Con Cng.
Địa hình này có độ cao trung bình 150m so với mực nước biển; Vùng tả ngạn Sơng
Lam gồm có 5 xã: Cam Lâm, Đôn Phục, Mậu Đức, Thạch Ngàn và Bình Chuẩn.
Vùng này có nhiều thung lũng và khe suối lớn.
Con Cng nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới bán cầu Bắc, ơ gió mùa châu Á,
tiểu vùng khí hậu Bắc Trung Bộ với đặc điểm chung là nhiệt đới ẩm gió mùa; có hai
mùa: mùa nóng (mưa nhiều) từ tháng 4 đến tháng 10 và mùa lạnh (mưa ít) từ tháng 11
đến tháng 3 năm sau; xen giữa là hai mùa chuyển tiếp. Mùa hạ chịu tác động mạnh mẽ
của gió mùa Tây Nam bị biến tính rất khơ và nóng, mùa đơng chịu ảnh hưởng của gió
14
document, khoa luan14 of 98.


tai lieu, luan van15 of 98.

mùa Đơng Bắc lạnh, có mưa phùn. Vì xa biển nên Con Cng ít có bão nhưng địa bàn
huyện thường có lốc xảy ra bất ngờ, mùa khơ thường bị hạn hán.
Con Cng có hệ thống sơng ngịi khá dày đặc, mật độ khoảng 4 - 6 km/km2.
Lượng mưa nhiều nên sơng suối có nguồn nước dồi dào; địa hình dốc nên thế năng
lớn. Nguồn nước mặt đáp ứng nhu cầu nước sản xuất và sinh hoạt. Sông suối chảy từ

Tây Bắc xuống Đông Nam. Sông Cả là con sông lớn nhất chảy qua địa bàn huyện
Con Cng dài 30 km, có 2 thác nước là Khe Trẩy và Con Cành. Sông cả là nguồn
cung cấp nước, các loại thủy sản và thuận lợi về đường giao thơng thủy. Ngồi sơng
Cả cịn có 1 lượng lớn khe suối đan xen giữa các dãy núi tạo nên cảnh quan thiên
nhiên hùng vỹ.
Là một huyện miền núi nên có tiềm năng rừng khá lớn; diện tích đất lâm nghiệp
năm 2007 là 157.800,94 ha, chiếm 90,79% so với tổng diện tích đất tự nhiên. Đặc biệt có
diện tích đất rừng Pù Mát thuộc khu bảo tồn thiên nhiên Pù Huống, đây là khu rừng
nguyên sinh rộng lớn còn lại ở Việt Nam rất đa dạng về sinh học, tài nguyên thực vật và
động vật phong phú.
Có nhiều cảnh quan đẹp như di tích lịch sử khảo cổ hang ốc (Thẳm Hoi) xã
Bồng Khê, di tích nhà cụ Vi Văn Khang ở xã Môn Sơn đây là nơi thành lập chi bộ
Đảng đầu tiên ở miền Tây Xứ Nghệ năm 1930- 1931, di tích lịch sử thành Trà Lân ở
xã Bồng Khê, Bia Ma Nhai khắc vào thế kỷ 13- 14 thời nhà Trần, đền thờ Lý Nhật
Quang, di tích lịch sử cây đa Cồn chùa, đập Pha Lài, Thác Kèm, eo vực Bồng, Thẳm
Nàng Màn, khe nước Mọc, đặc biệt có Vườn Quốc Gia Pù Mát.
2.2. Các di sản huyện Con Cuông
2.2.1. Di sản thiên nhiên
- Vƣờn quốc gia Pù Mát:

Ảnh: Trụ sở và vùng lõi vƣờn quốc gia Pù Mát
15
document, khoa luan15 of 98.


tai lieu, luan van16 of 98.

Vườn quốc gia Pù Mát nằm trên địa giới hành chính của 3 huyện: Anh Sơn,
Con Cng và Tương Dương; ranh giới phía Nam của vườn chạy dọc theo đường
biên giới Việt - Lào. Diện tích vùng lõi của vườn khoảng 94.275ha, vùng đệm khoảng

100.000ha thuộc địa bàn 16 xã của 3 huyện. Riêng huyện Con Cuông gồm 7 xã: Lạng
Khê, Châu Khê, Lục Dạ, Môn Sơn, Yên Khê, Bồng Khê, Chi Khê. Vườn quốc gia Pù
Mát có diện tích lớn, tính đa dạng sinh học cao với nhiều loài động vật, thực vật
phong phú, là một kho tàng về các nguồn gen hoang dã, quý hiếm, là một trong số ít
khu bảo tồn đa dạng sinh học lớn nhất nước ta. Theo khảo sát của Viện điều tra quy
hoạch rừng (năm 1992) thì Vườn quốc gia Pù Mát có 1.297 lồi thực vật bậc cao, 64
lồi thú, 137 lồi chim, 25 lồi bị sát, 15 loài lưỡng cư. Về thực vật, hiện đã xác định
được 2.494 loài thực vật, 931 chi thuộc 202 họ. Trong đó, 70 lồi nằm trong sách đỏ
Việt Nam có nguy cơ bị tiêu diệt. Về thú, tiêu biểu là các loài Voi, Hổ, Sao la, Vượn
đen má trắng, Chà vá chân nâu, Khỉ đi lợn, Mang trường sơn, Chó sói lửa... Về
chim, tiêu biểu có các lồi Trĩ sao, Công, Gà lôi trắng, Gà tiền... Tháng 11 năm 2007,
Vườn quốc gia Pù Mát được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế
giới.Vườn quốc gia Pù Mát không chỉ có giá trị về mặt kinh tế mà cịn rất hấp dẫn về
du lịch bởi sự hoang sơ, cảnh quan tuyệt đẹp và môi trường sinh thái chưa bị ô nhiễm,
rất thuận lợi cho sự phát triển loại hình du lịch sinh thái, du lịch khám phá, du lịch
mạo hiểm và tìm hiểu phong tục tập quán của đồng bào các dân tộc. Vì vậy, bên cạnh
nâng cao nhận thức cho nhân dân trong việc bảo vệ môi trường sinh thái, các cấp
chính quyền huyện Con Cng kết hợp với Ban quản lý Vườn quốc gia Pù Mát còn có
những hoạt động nhằm khuyến khích tham quan du lịch, gắn hoạt động tham quan du
lịch với bảo vệ cảnh quan thiên nhiên.
- Thác Bộc Bố (Thác Kèm)

Ảnh: Thác Bộc Bố (Thác Kèm)
16
document, khoa luan16 of 98.


tai lieu, luan van17 of 98.

Thác Bộc Bố thuộc Vườn quốc gia Pù Mát, nằm cách thị trấn Con Cuông

khoảng 15 km. Từ trên độ cao khoảng 500m, qua ba bậc thang, nước đổ xuống trông
như một dải lụa. Hai bên thác là thảm thực vật xanh tươi với hàng trăm loài hoa quanh
năm khoe sắc. Dưới chân thác là những hồ nhỏ nước trong xanh bao bọc bởi những
phiến đá phẳng lỳ trông như những chiếc bàn lớn. Giữa mùa hè nóng nực, nhưng
nhiệt độ ở khu vực xung quanh thác rất mát mẻ, chỉ khoảng 20 0 C. Từ đây, theo các
đường mịn, ta cũng có thể đi ngược lên thung lũng Khe Bu hoặc leo núi Pu Loong để
ngắm cảnh núi rừng trùng điệp.Thác Bộc Bố đã trở thành điểm du lịch thu hút nhiều
khách du lịch trong và ngoài nước. Nhiều cơ sở dịch vụ phục vụ du khách đã được
xây dựng. Đến đây, mọi người có thể thoả thích vui chơi bên dịng thác, tận hưởng
khơng khí mát mẻ, ngắm nhìn mơi trường tự nhiên còn hoang sơ, uống rượu cần, ăn
cơm lam và xem những điệu múa truyền thống của đồng bào dân tộc Thái.
- Hang Thẩm Hoi (Hang Ốc)

Ảnh: Hang Thẩm Hoi (Hang Ốc)
Thẩm Hoi là một hang đá vơi có chiều dài 27,74m, rộng 21,35m và cao 5,50m,
thuộc xã Yên Khê, cách thị trấn Con Cuông 4km về hướng Đông và cách đường quốc
lộ 7 khoảng 600m về hướng Nam. Trong hang có nhiều vỏ ốc nên đồng bào dân tộc
Thái đặt tên là Thẩm Hoi (Thẩm là hang, Hoi là ốc), nghĩa là Hang Ốc. Đây là một di
chỉ khảo cổ học quan trọng, được phát hiện vào năm 1967. Cửa hang bị chắn ở giữa
bởi nhiều tảng đá tạo thành một bình phong tự nhiên, lịng hang rộng rãi, khơ ráo tạo
điều kiện thuận lợi cho người nguyên thủy cư trú. Trong lần khai quật năm 1972, các
nhà khảo cổ học đã tìm thấy nhiều hiện vật, như: Di vật đá, xương, vỏ nhuyễn thể, di
cốt người,... trong đó, chủ yếu là cơng cụ đá. Loại hình cơng cụ phát hiện ở hang
Thẩm Hoi đều mang những đặc trưng cơ bản của văn hố Hồ Bình. Thẩm Hoi là một
di chỉ khảo cổ học quan trọng, đánh dấu sự có mặt của văn hóa Hịa Bình trên đất
17
document, khoa luan17 of 98.


tai lieu, luan van18 of 98.


Nghệ An nói chung, ở huyện Con Cng nói riêng. Qua xác định mẫu vỏ ốc bằng
phương pháp các-bon phóng xạ (C14), niên đại của cư dân Thẩm Hoi là 10.875 năm ±
175 năm và 10.125 năm ± 125 năm (cách ngày nay)
- Suối Nƣớc Mọc (Tạ Bó)

Ảnh: Suối Nƣớc Mọc (Tạ Bó)
Suối Nước Mọc (Tạ Bó) ở bản Nưa, xã n Khê. Khơng giống như những
dòng suối khác, nước ở đây như “mọc” lên từ lòng đất sâu, nên thường gọi là suối
Nước Mọc. Vào mùa hè, nước suối rất mát, nhưng mùa đông lại rất ấm; xuống tắm có
cảm giác như tắm nước nóng nên đồng bào dân tộc Thái gọi là Tạ Bó. Bao quanh
dịng suối là một rừng cây cổ thụ còn nguyên sơ. Những tảng đá rêu phong làm thành
các bậc thang, tạo thuận lợi cho người xuống suối.
Do sự kỳ bí của suối Nước Mọc nên có nhiều truyền thuyết dân gian xung
quanh dòng suối này. Chuyện kể rằng, ngày xưa ở huyện Con Cng có động Đào
Ngun nằm sát dịng sơng Lam. Ngọc Hồng thường cho các nàng tiên nữ giáng trần
xuống động Đào Nguyên để gặp gỡ những chàng trai tài giỏi ở chốn trần gian. Ngọc
Hoàng đã tạo một giếng tiên ở nơi kín đáo này để các nàng tiên hàng ngày đến tắm
gội trước khi đến gặp các chàng trai. Cũng có chuyện rằng, ngày xưa có một cơ tiên đi
du ngoạn qua đây, thấy suối đẹp nên xuống tắm. Vì thế suối Nước Mọc cịn có tên gọi
là Rốn cơ Tiên. Lại có chuyện kể là ngày xưa có một nhóm người đến bản Nưa khai
hoang, lập nghiệp. Nhưng ở đây đất đai khô hạn, khơng có nước để sản xuất, sinh
hoạt. Người dân mang lễ vật cầu xin Ngọc Hoàng; Ngọc Hoàng thương tình ban cho
họ suối Nước Mọc.
Suối Nước Mọc là một thắng cảnh của huyện Con Cuông, đang trở thành điểm
tham quan hấp dẫn của du khách. Hàng ngày có hàng trăm du khách tìm đến để ngâm
mình trong dịng nước trong xanh, ngắm cảnh núi rừng xinh đẹp, thưởng thức những
18
document, khoa luan18 of 98.



tai lieu, luan van19 of 98.

món ăn truyền thống độc đáo và lắng nghe những câu chuyện dân gian của đồng bào
dân tộc Thái.
- Hang Nàng Màn (Thẳm Nàng Màn)

Ảnh: Hang Nàng Màn (Thẳm Nàng Màn)
Hang Nàng Màn là một danh thắng ở bản Pha, xã Yên khê. Vào trong hang,
mùa hè thì mát mẻ, mùa đơng lại rất ấm. Tại hang Nàng Màn, thiên nhiên đã tạo nên
những nhũ đá, phiến đá với mn hình mn vẻ, trơng giống như cung điện nhà vua.
Trên vịm và sườn hang có những cảnh như rồng bay, phượng múa hay những tấm lụa
mềm mại. Có những tảng đá như chiếc giường, bộ bàn ghế… Có những phiến đá khi
ta gõ vào thì ngân lên những âm thanh kỳ ảo. Đặc biệt là có khối đá hình hai mẹ con
ơm chặt lấy nhau; mặt đứa con ngước nhìn qua khoảng lộ thiên trên hang; mặt người
mẹ hướng về cửa hang chính, nhìn xuống bản Yên Khê.
Người dân ở đây còn lưu truyền câu chuyện liên quan đến tên gọi và cảnh đẹp
của hang đá này. Chuyện kể rằng, ngày xưa có một gia đình ở chân núi này sinh được
người con gái tên là Nàng Màn. Gia đình của nàng giàu sang và quyền lực nhất bản.
Lớn lên, nàng vừa đẹp người, đẹp nết lại hát rất hay, dân bản ai cũng mến thương.
Mỗi khi nàng cất lên tiếng hát thì chim rừng bay qua cũng dừng lại lắng nghe. Mỗi
19
document, khoa luan19 of 98.


tai lieu, luan van20 of 98.

khi nàng xuống suối, tôm cá cũng vây lượn xung quanh ngắm nhìn đơi bắp chân trắng
nõn nà của nàng. Thế rồi, nàng đem lòng yêu thương một chàng trai nghèo trong bản.
Biết chuyện, cha mẹ nàng không cho nàng kết duyên với chàng trai vì gia đình chàng

trai nghèo khó, khơng xứng với nhà mình. Mặc dầu cha mẹ ngăn cấm, nhưng nàng
vẫn yêu chàng trai nghèo tha thiết. Sau khi đã biết con mình mang thai với chàng trai
nghèo, cha mẹ nàng nổi giận đã đem giam nàng vào hang đá. Lúc bấy giờ, hang đá
này có bề ngồi xấu xí, tối tăm, ẩm thấp. Chuyện đến tai Ngọc Hoàng. Thương người
con gái đẹp người, đẹp nết, lại bụng mang dạ chửa bị giam cầm trong hang đá tăm tối,
Ngọc Hoàng bèn chọn một số thợ giỏi trên thiên đình xuống trần gian sắp xếp, trang
trí lại hang đá cho thật đẹp để Nàng Màn sống và sinh nở mẹ trịn con vng. Từ đó
hang đá trở nên xinh đẹp như ta thấy ngày nay. Hình người trong hang chính là mẹ
con Nàng Màn hóa đá.
- Hang Thung Bừng

Ảnh: Hang Thung Bừng
Nằm trong thung lũng Tân Sơn, xã Môn Sơn (Con Cuông), hang Thung Bừng
được biết đến là một thắng cảnh đẹp, mời gọi bước chân của những người ưa thích
khám phá. Cửa hang nằm ở lưng chừng ngọn núi đá, muốn vào sâu trước hết phải
bám chặt vào các nhũ đá ở cửa hang để leo xuống nền hang, việc đi lại hết sức khó
khăn. Vì thế, việc khám phá hang Thung Bừng chỉ hợp với những người ưa thích sự
mạo hiểm. Trần hang Thung Bừng không cao, nền hang không rộng nhưng có nhiều
ngách sâu, địi hỏi người đi phía trong phải khéo léo luồn lách qua những khe đá. Nền
hang là những lớp thạch nhũ gợn sóng, như những thửa ruộng bậc thang của đồng bào
nơi rẻo cao. Những lớp kim tuyến bám vào thạch nhũ hiện lên lấp lánh mỗi khi có ánh
sáng chiếu vào. Đáy hang có một hố sụt, đường kính khoảng 3m, sâu hun hút. Theo
nhiều người phán đốn, hố sụt này chính là nơi gom toàn bộ nước trong hang mỗi
mùa mưa đến để dẫn xuống sông ngầm rồi chảy ra các con suối trong vùng. Mặc dù là
một hang đá vôi với thạch nhũ rất đẹp nhưng hang Thung Bừng đang được chính
20
document, khoa luan20 of 98.


tai lieu, luan van21 of 98.


quyền huyện Con Cuông và xã Môn Sơn bảo vệ rất nghiêm ngặt, chưa đưa vào xây
dựng và khai thác du lịch.
- Eo Vực Bồng
Eo Vực Bồng là một thắng cảnh thuộc xã Bồng Khê. Đây là vực sâu nhất của
sông Lam. Đứng trên núi nhìn xuống, chúng ta sẽ thấy một vùng non nước mây trời
tuyệt đẹp. Các dịng sơng uốn lượn quanh co mềm mại như những con rồng đang bơi,
đầu chụm lại ở Vực Bồng. Gắn với tên gọi Vực Bồng, truyền thuyết dân gian kể lại
rằng, ngày xưa có ba con rồng: Con Rồng Xanh từ thượng nguồn sông Lam xuống;
con Rồng Vàng từ hạ nguồn sông Lam lên và con Rồng Lửa từ Khe Diêm ra. Ba đầu
rồng gặp nhau ở Vực Bồng. Hàng năm, tại đây diễn ra cảnh “cá vượt vũ môn” rất
ngoạn mục. Rồng Xanh luyện các chú cá chép ở thượng nguồn sông Lam; Rồng Vàng
luyện những chú cá chép ở hạ lưu sông Lam; Rồng Lửa hút nước Khe Diêm, phun
nước tạo thành cửa Vũ môn ở Eo Vực Bồng. Người dân địa phương coi EoVực Bồng
là đất thiêng, là nơi ở của rồng, nên đã xây dựng đền Cửa Lũy, quanh năm thờ cúng.
- Cửa Rọ
Cửa Rọ là một danh thắng nằm ở phía Tây Thị trấn Con Cng. Tại đây, các
dãy núi vịng cung vây bốn mặt tạo thành một thung lũng rộng rãi, bằng phẳng ở giữa.
Muốn đi ra khỏi thung lũng chỉ có một cửa giáp với thị trấn Con Cng. Có lẽ vì hình
dáng như vậy, nên dân địa phương đặt tên là Cửa Rọ.
Theo lời kể của người dân địa phương, Cửa Rọ ngày xưa có con suối chảy qua
nên cây cỏ bốn mùa xanh tươi. Nhiều loại thú rừng như đười ươi, hổ, báo, voi, tê giác,
hàng đàn chim trĩ, chim công… hội tụ về đây đông đúc.
Cửa Rọ cịn là một di tích lịch sử, gắn liền với hoạt động của nghĩa quân Lam
Sơn trên đất Con Cuông. Tương truyền, khi biết nghĩa quân Lam Sơn đang đóng ở
đây, quân Minh ở thành Trà Lân huy động một lực lượng lớn bất ngờ tiến quân vào
thung lũng nhằm tiêu diệt nghĩa quân. Dựa vào thế hiểm yếu của Cửa Rọ “một người
giữ, trăm người khó qua”, Lê Lợi đã cho quân mai phục, giáng cho quân Minh một
địn chí tử, buộc chúng phải rút về cố thủ trong thành Trà Lân.
2.2.2. Di sản văn hóa

- Bia Ma Nhai
Bia Ma Nhai (còn gọi là bia Thành Nam) là di tích lịch sử tại xã Chi Khê, gắn
liền với chiến công của quân dân nhà Trần chống giặc Ai Lao. Bia được khắc vào
vòm núi trước cửa hang đá, nằm cách thị trấn Con Cng khoảng 300m về phía Tây
Nam, nét chữ to bằng bàn tay, khắc sâu hơn 1 tấc. Theo sử cũ, năm 1335, bọn cướp từ
Ai Lao thường xuyên sang quấy phá, cướp bóc các bản làng vùng Tây Nam Nghệ An.
Vua Trần Hiến Tơng đích thân vào đốc chiến. Đại bản doanh đặt tại núi Cự Đồn, Mật
21
document, khoa luan21 of 98.


tai lieu, luan van22 of 98.

Châu (nay thuộc địa phận xã Chi Khê). Với chiến thuật vừa tập kích tiêu diệt vừa
chiêu dụ gọi hàng của vua quan nhà Trần, các đảng cướp dần dần tan rã và rút lui về
bên kia biên giới. Duy chỉ có tên giặc Bổng khơng chịu khuất phục. Vì cơng việc triều
đình, vua Trần Hiến Tơng phải về Thăng Long; nhân cơ hội đó, giặc Bổng lại quấy
phá mạnh hơn. Sau đó, Thượng hồng Trần Minh Tông thân chinh lên Mật Châu dẹp
giặc. Nguyễn Trung Ngạn được triều đình cử làm phát vận sứ chuyển lương đi trước.
Trước binh hùng tướng mạnh của nhà Trần, Bổng đầu hàng, xin tha tội chết. Dẹp
xong giặc cướp, Thượng hồng Trần Minh Tơng sai Nguyễn Trung Ngạn mài đá khắc
bia ghi lại chiến công này. Sách Đại Việt sử ký toàn thư viết: “Thượng hoàng đi tuần
thú đạo Nghệ An, thân đi đánh nước Ai Lao, lấy Nguyễn Trung Ngạn làm phát vận sứ
ở Thanh Hóa vận lương đi trước. Xa giá Thượng hoàng đến châu Kiềm, quân thanh
lừng lẫy. Người Ai Lao nghe tin chạy trốn. Chiếu cho Trung Ngạn mài sườn núi khắc
chữ ghi công rồi về”.
Bia Ma Nhai đã được Bộ Văn hóa - Thể thao & Du lịch xếp hạng di tích lịch sử cấp
Quốc gia.

Ảnh: Bia Ma Nhai

- Nhà cụ Vi Văn Khang
Ngôi nhà của cụ Vi Văn Khang nằm bên bờ sơng Giăng thuộc bản Thái Hồ, xã
Mơn Sơn, cách thị trấn Con Cng 20 km về phía Nam. Ngơi nhà do bố đẻ của cụ Vi
Văn Khang xây dựng từ năm 1919 theo kiểu nhà sàn truyền thống của người Thái trên
vùng đất rộng khoảng 1000m2. Nhà gồm 3 gian, 2 hồi, cầu thang lên xuống đặt ở hai
bên. Khung nhà bằng gỗ, mái lợp lá cọ, vách ngăn bằng phên nứa, sàn lát bằng gỗ, có
12 cột kê bằng đá tảng tròn. Tầng trên đặt bàn thờ, nơi tiếp khách, phịng ngủ, bếp.
Phịng ngủ có một tấm sàn cao để lúa; khi có động, các chiến sỹ cách mạng lên đó ẩn
nấp. Dưới sàn để nơng cụ, chăn ni gia súc, gia cầm. Xung quanh là khu vườn rộng
trồng cây ăn quả.

22
document, khoa luan22 of 98.


tai lieu, luan van23 of 98.

Ngôi nhà cụ Vi Văn Khang đã được Bộ Văn hố - Thơng tin ra Quyết định số
152/QĐ-BT ngày 25/1/1994 xếp hạng là di tích lịch sử cách mạng cấp Quốc gia. Từ
năm 1994, ngày thành lập chi bộ Đảng đã trở thành ngày lễ hội truyền thống văn hố
hàng năm của nhân dân Mơn Sơn. Các hoạt động lễ hội được tổ chức tại nhà cụ Vi
Văn Khang và cây đa Cồn Chùa.

Ảnh: Nhà cụ Vi Văn Khang
- Cây đa Cồn Chùa
Cây đa Cồn Chùa ở làng Mơn, xã Mơn Sơn là di tích lịch sử gắn liền với cuộc
đấu tranh của nhân dân Con Cuông thời kỳ 1930 - 1931. Tháng 4/1931, chi bộ Đảng
xã Mơn Sơn được thành lập do đồng chí Vi Văn Khang làm bí thư. Vừa mới thành
lập, chi bộ đã tổ chức được các đoàn thể quần chúng như Nông hội, Thanh niên, Hội
cứu tế đỏ… Riêng tại Mơn Sơn đã có 5 tổ Nơng hội đỏ. Ngày 9/8/1931, chi bộ Đảng

Môn Sơn đã vận động quần chúng ở các bản Kẻ Yên, Sơn Vều, Khe Môn, Động
Khùa, Cửa Rào, Bàu Dạ, Kẻ Tại… mít tinh tại cây đa Cồn Chùa. Lần đầu tiên ở Con
Cuông, lá cờ đỏ búa liềm được tự vệ đỏ treo trên cây đa Cồn Chùa.
Cây đa Cồn Chùa như một minh chứng hùng hồn cho tinh thần đấu tranh cách
mạng kiên cường của nhân dân Con Cuông dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Ảnh: Cây đa Cồn Chùa
23
document, khoa luan23 of 98.


tai lieu, luan van24 of 98.

- Thành Trà Lân
Thành Trà Lân (còn gọi là thành Trà Long, Trà Lung, Thành Nam) được xây
trên một ngọn núi có tên là Pù Thanh (hay Pù Đồn), là thủ phủ của phủ Trà Lân xưa,
nay thuộc địa phận xã Bồng Khê, huyện Con Cuông. Thành Trà Lân là một căn cứ
quân sự trọng yếu có thể kiểm sốt cả một vùng rừng núi rộng lớn, đồng thời án ngữ
tuyến đường “thượng đạo” từ Bắc vào Nam và đường thuỷ theo sông Lam từ thành
Nghệ An lên miền Tây. Thành đắp theo thế núi có hình chữ Á, chu vi khoảng 4 km,
phía ngồi có hào và luỹ tre dày. Ngày nay cịn thấy dấu vết của 3 cửa thành. Cửa
phía Bắc thơng ra ngoài bằng một con đường lát đá, dân địa phương gọi là “cằn hia”
(đường đá). Trong thành còn dấu vết của tiểu thành, tiểu đồn, nền dinh trại, nền cung
điện. Di tích phía Đơng cịn lại là một đoạn hào dài khoảng 600 m, rộng khoảng 1m 1,2m. Phía ngồi hào là một lớp rào tre dày 3 m bao bọc, có chỗ tre mọc thành rừng
dày đến 20 m.
Trong khởi nghĩa Lam Sơn, tháng 10 - 1424, trên đường tiến quân từ Thanh
Hoá vào Nghệ An, nghĩa quân Lê Lợi bao vây thành Trà Lân do Cầm Bành đóng giữ.
Nghĩa quân đã kết hợp giữa tiến công quân sự với bao vây dụ hàng địch. Sau hai
tháng bị bao vây, quân địch rơi vào tình thế khốn quẫn, buộc Cầm Bành và hơn 1.000
thổ binh phải mở cửa thành ra hàng. Trong Lam Sơn thực lục, Nguyễn Trãi viết: “Bấy

giờ bọn giặc là Cầm Bành cứ giữ đất không chịu theo. Vua (Lê Lợi) chiêu vỗ nhân
dân, cho trở về làm ăn. Ai nấy đều vui được yên chỗ, cảm kích hăng hái cùng vua hết
sức vây Cầm Bành. Hơn hai tháng Cầm Bành giữ vững sơn trại để chờ viện binh, mà
giặc thì hoang mang, ngờ sợ khơng dám tiến. Quân của Bành oán phản, theo nhau đầu
hàng. Bành tự liệu kế cùng, mà viện binh khơng có, phải mở cửa ra hàng”
- Bảo tàng thiên nhiên - văn hóa mở miền Tây Nghệ An

Ảnh: Bảo tồn thiên nhiên - văn hó mở miền Tây Nghệ An
24
document, khoa luan24 of 98.


tai lieu, luan van25 of 98.

Sáng ngày 16 tháng 12 năm 2018 tại trụ sở Vườn quốc gia Pù Mát, huyện Con
Cuông, tỉnh Nghệ An đã làm lễ khai trương mơ hình Bảo tàng thiên nhiên – văn hóa
mở miền Tây Nghệ An. Khu dự trữ sinh quyển miền Tây Nghệ An có diện tích lớn
nhất khu vực Đơng Nam Á với tổng diện tích 1.303.285ha, thuộc 9 huyện miền núi
của tỉnh Nghệ An là Kỳ Sơn, Tương Dương, Con Cuông, Anh Sơn, Tân Kỳ, Thanh
Chương, Quỳ Hợp, Quỳ Châu và Quế Phong. Đây là Khu DTSQ thứ 6 của Việt Nam
được UNESCO công nhận. Khu dự trữ sinh quyển miền Tây Nghệ An có tính đa dạng
sinh học rất cao, bên cạnh đó có nhiều đặc trưng về văn hóa các tộc người sinh sống ở
Khu dự trữ đã góp phần tạo nên bức tranh thiên nhiên - con người đa màu. Bảo tàng
được hình thành với cách tiếp cận của bảo tàng hiện đại kết hợp giữa thiên nhiên và
văn hố, trong đó con người là trung tâm. Lựa chọn Vườn quốc gia Pù Mát là nơi
trưng bày mơ hình, cùng với các tuyến tham quan trải nghiệm thiên nhiên, văn hóa,
sinh kế của người dân địa phương và chiêm ngưỡng cảnh quan thiên nhiên tại một số
điểm thuộc vùng đệm của Khu dự trữ sinh quyển miền Tây Nghệ An.
2.3. Giáo dục di sản thông qua tổ chức hội thi tìm hiểu về di sản huyện Con
Cng

Để nâng cao hơn nữa hiệu quả giáo dục di sản huyện Con Cng cho các em học
sinh ngồi việc tổ chức cho học sinh tham quan trải nghiệm di sản, chăm sóc di sản
địa phương…thì tổ chức hội thi tìm hiểu về di sản địa phương là một trong những
hình thức hoạt động không chỉ mang lại hiệu quả cao về mặt cung cấp kiến thức mà
còn mang lại ý nghĩa giáo dục sâu sắc, đồng thời cuốn hút được sự tham gia của đơng
đảo học sinh tồn trường.
2.3.1. Về công tác chuẩn bị
2.3.1.1. Chuẩn bị về thời gian:
Kế hoạch ngoại khố phải được tổ KHXH và nhóm chun mơn đề ra từ cuối
năm học trước, giao nhiệm vụ cụ thể cho giáo viên tìm hiểu và chuẩn bị tài liệu, tư
liệu, xác nhận thơng tin, thậm chí là hoạt động trải nghiệm từ trong hè. Đăng kí từ đầu
năm học với ban chun mơn nhà trường để có kế hoạch hoạt động, nhất là về thời
gian thực hiện và kinh phí. Chương trình ngoại khố được tiến hành trong khoảng 2
tiếng vào tháng 9 năm 2020.
2.3.1.2. Chuẩn bị về địa điểm:
Trường THPT Con Cuông
2.3.1.3. Chuẩn bị đối tượng tham dự:
- Học sinh toàn trường, các giáo viên trong tổ Sử - Địa - GDCD

25
document, khoa luan25 of 98.


×