Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

LỊCH sử các học THUYẾT KINH tế:CÁC LÝ THUYẾT HIỆN ĐẠI VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU CÁC LÝ THUYẾT NÀY ĐỐI VỚI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (404.32 KB, 20 trang )

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

Học phần: LỊCH SỬ CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ

ĐỀ TÀI : CÁC LÝ THUYẾT HIỆN ĐẠI VỀ PHÁT
TRIỂN KINH TẾ Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU CÁC LÝ THUYẾT
NÀY ĐỐI VỚI VIỆT NAM

Giảng viên hướng dẫn : Phạm Thị Nguyệt
Sinh viên thực hiện : Hoàng Thị Duyên
Lớp
: K22QTMA
: 22A4030591
Mã sinh viên

Hà Nội, ngày 30 tháng 10 năm 2020


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU....................................................................................................3
CHƯƠNG 1: CÁC LÝ THUYẾT HIỆN ĐẠI VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN..............................................................4
1.1. Khái quát và đặc điểm cơ bản của các nước đang phát triển..............4
1.1.1. Khái quát về các nước đang phát triển................................................4
1.1.2. Những đặc điểm của các nước đang phát triển....................................5
1.2. Một số lý thuyết về tăng trưởng và phát triển kinh tế tại các nước
đang phát triển.....................................................................................................7
1.2.1. Khái niệm về tăng trưởng và phát triển kinh tế...................................7
1.2.2. Lý thuyết về “Cái vịng luẩn quẩn” của sự nghèo đói và “Cú huých”


từ bên ngoài...........................................................................................................8
1.2.3. Lý thuyết cất cánh của W.W.Rostow..................................................9
1.2.4. Lý thuyết về mơ hình kinh tế nhị ngun của Athur Lewis..............11
1.2.5. Lý thuyết và tăng trưởng kinh tế ở các nước châu Á - gió mùa........11
CHƯƠNG 2: Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU CÁC LÝ THUYẾT
HIỆN ĐẠI VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT
TRIỂN ĐỐI VỚI VIỆT NAM..........................................................................12
2.1. Tăng trưởng kinh tế...............................................................................12
2.2. Phát triển kinh tế....................................................................................12
2.3. Phát triển bền vững................................................................................14
2.4. Lý thuyết về “ Cái vòng luẩn quẩn” và “ cú huých” từ bên ngoài.....15
2.4.1. Sự vận dụng lý thuyết “cái vòng luẩn quẩn” và “cú huých” từ bên
ngồi vào q trình phát triển kinh tế ở Việt Nam..............................................15
2.4.2. Những kết quả đạt được..................................................................16
2.4.3. Những hạn chế.................................................................................16
2.5. Sự vận dụng lý thuyết tăng trưởng và phát triển kinh tế ở các nước
châu Á -gió mùa của Harry Toshima vào Việt Nam......................................17
CHƯƠNG 3 : MỘT SỐ ĐỀ XUẤT VỀ GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI VIỆT NAM
TRONG BỐI CẢNH PHÁT TRIỂN HIỆN NAY...........................................18
KẾT LUẬN........................................................................................................19
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................20


MỞ ĐẦU
Hiện nay, mỗi quốc gia đều có những mục tiêu phấn đấu cho sự tiến bộ của
quốc gia mình. Sự tiến bộ của mỗi quốc gia trong những thời gian nhất định
thường được đánh giá ở hai mặt: sự gia tăng về kinh tế và sự biến đổi về xã hội.
Đã có rất nhiều khái niệm của lý thuyết kinh tế học phát triển mà cơ sở xuất phát
của nó là từ các khái niệm rất cơ bản của lý thuyết hiện đại về phát triển kinh tế
ở các nước đang phát triển. Trong hơn 20 năm đổi mới của Việt Nam vừa qua đã

và đang có khá nhiều các khái niệm của lý thuyết kinh tế học phát triển được
vận dụng vào thực tiễn nước ta.
Mục đích của bài tiểu luận nhằm giúp cho người đọc hiểu rõ hơn các lý
thuyết hiện đại về phát triển kinh tế ở các nước đang phát triển. Từ đó nêu ra ý
nghĩa của việc nghiên cứu các lý thuyết này đối với Việt Nam . Nội dung bài
tiểu luận được chia làm 3 phần:
Chương 1: Các lý thuyết hiện đại về phát triển kinh tế ở các nước đang phát
triển
Chương 2: Ý nghĩa của việc nghiên cứu các lý thuyết này đối với Việt Nam
Chương 3: Đề ra một số giải pháp đối với Việt Nam trong bối cảnh phát
triển hiện nay
Đối tượng nghiên cứu: Các lý thuyết hiện đại về phát triển kinh tế ở các
nước đang phát triển, từ đó nêu ra ý nghĩa của việc nghiên cứu các lý thuyết này
vào Việt Nam
Cơ sở lý luận dựa trên các học thuyết của các nhà kinh tế học, cùng với các
phương pháp nghiên cứu : Kinh tế vĩ mô, khảo sát thực tiễn, thống nhất, logic và
lịch sử, phân tích, tổng hợp khái qt hóa và hệ thống hóa.
Cái mới của đề tài đã đưa ra phương pháp phát triển kinh tế của các nhà
kinh tế học, nêu ra những kết quả đạt được và hạn chế của các lý thuyết kinh tế
này đối với Việt Nam. Từ đó đề xuất các giải phát nhằm thúc đẩy phát triển kinh
tế nước ta.

3


CHƯƠNG 1: CÁC LÝ THUYẾT HIỆN ĐẠI VỀ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
1.1. KHÁI QUÁT VÀ ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA CÁC NƯỚC ĐANG
PHÁT TRIỂN
1.1.1. Khái quát về các nước đang phát triển

Các nước đang phát triển là hầu hết các nước nghèo ở Châu Á, Châu Phi và
Châu Mỹ Latinh. Căn cứ chủ yếu vào thu nhập quốc dân bình quân đầu người để
phân biệt giữa các nước nghèo với các nước giàu. Các nhà kinh tế học còn gọi
các nước nghèo là các nước Nam, các nước giàu là các nước Bắc. Từ cuối thập
kỷ 50 của thế kỷ XX, “Thế giới thứ ba” là cách gọi đối với các nước đang phát
triển với hàm ý đề cập đến các nước không thuộc phe xã hội chủ nghĩa cũng như
tư bản chủ nghĩa. Đa số quốc gia trong Thế giới thứ ba (77 nước) tập hợp trong
diễn đàn chung gọi là phong trào không liên kết nhằm phối hợp đấu tranh chống
lại chủ nghĩa thực dân, giành quyền kinh tế, chính trị.
Việc phân loại các nước đang phát triển dựa trên những căn cứ chủ yếu
sau đây:
Một là, thu nhập quốc dân tính theo đầu người. Năm 1990, WB đã phân loại
các nước dựa trên cơ sở thu nhập GDP bình quaand dầu người như sau: Nước có
thu nhập thấp (từ 450 USD/người/năm trở xuống); Nước có thu nhập trung bình
được phân thành hai cấp độ là thu nhập trung bình thấp từ 460 USD đến
6000USD/người/năm và thu nhập trung bình cao trên 6000USD/người/năm( tiêu
chí này khơng cố định và hiện nay mức thu nhập của các nước có thu nhập trung
bình đã là từ 600 đến 10.000USD/người/năm).
Hai là, dựa vào việc kết hợp một số chỉ tiêu kinh tế cơ bản như tổng sản
phẩm nội địa, thu nhập bình qn tính trên đầu người; tỷ lệ giữa tiêu dùng và
tích lũy hay cịn gọi là mức độ thỏa mãn các nhu cầu mà xã hội coi là cơ bản; cơ
cấu của nền kinh tế. Một nước đang phát triển là một nước mới ở giai đoạn đầu
cơng nghiệp hóa, đại bộ phận dân cư sống nhờ bằng nghề nông và chưa đạt được
những nhu cầu
4


1.1.2 . Những đặc điểm cơ bản của các nước đang phát triển
*Mức sống thấp:
Mức sống của đa số dân chúng ở các nước đang phát triển đều rất thấp.

Điều này thể hiện cả về lượng lẫn về chất như thu nhập thấp, thiếu nhà ở, sức
khỏe kém, không được hoặc ít được học hành, tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh cao,
tuổi thọ và thâm niên lao động khơng cao. Thu nhập quốc dân tính theo đầu
người thấp: Khoảng 83% tổng thu nhập của thế giới được tạo ra trong những
khu vực kinh tế phát triển, nơi có chưa được ¼ dân số thế giới. Thu nhập bình
qn đầu người tổng cộng của các nước đang phát triển tính trung bình chỉ bằng
1/16 thu nhập bình qn đầu người của các nước giàu.
* Bất bình đẳng cao trong phân phối thu nhập quốc dân:
Trong những năm 60 của thế kỷ trước, một số nước như Braxin, Êcuađo,
Côlômbia, Pêru, Mêhicơ, Vênêxla, Kênia, Xiêra, Philipin…có độ bất bình
đẳng rõ rệt trong thu nhập. Các nước khác như Ấn Độ, Tanzania, Chilê, Đan
Mạch và New Zealand thì có độ bất bình đẳng ở mức trung bình. Đài Loan có
mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập tương đối thấp hơn.
* Mức độ nghèo đói cao:
Theo báo cáo của WB, nếu những người sống với mức dưới 1 USD/1 ngày
là nghèo đói. Nhìn chung trên tồn thế giới, số người nghèo đói đã tăng từ 1,2 tỷ
người năm 1987, lên 1,5 tỷ người năm 1999 và dự kiến sẽ tăng lên 1,9 tỷ người
vào năm 2015.
* Tình trạng suy dinh dưỡng cao, bệnh tật cao và sức khỏe kém:
Nhiều người ở các nước đang phát triển thường xuyên phải chống chọi với
nạn suy dinh dưỡng và bệnh tật hoành hành . Trong số 42 nước “kém phát triển
nhất” của thế giới, thì tuổi thọ trung bình năm 1988 là vào khoảng 49 tuổi so với
74 tuổi ở các nước công nghiệp phát triển. Tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh trung bình
vào khoảng 118/1000 trẻ em ở các nước kém phát triển nhất so với khoảng
73/1000 ở các nước đang phát triển và 12/1000 ở các nước phát triển. Có thể nói
5


rằng, tình trạng suy dinh dưỡng và sức khỏe kém ở các nước đang phát triển là
một vấn đề về nghèo đói nhiều hơn là một vấn đề về sản xuất lương thực.

* Dịch vụ y tế rất khan hiếm:
Các số liệu mới đây cho thấy rằng vào đầu những năm 90, trung bình chỉ
có 9,4 bác sĩ tổng số 100.000 dân ở các nước đang phát triển so với con số 161
bác sĩ ở các nước phát triển. Tương tự như vậy, tỷ lệ giường bệnh so với số dân
cũng rất chênh lệch giữa hai nhóm nước nói trên.

Các cơ sở y tế ở các nước

đang phát triển lại tập trung ở các khu vực thành thị, nơi chỉ có 25% số dân sinh
sống.
* Tỷ lệ người biết chữ thấp:
Trong số 31 nước kém phát triển nhất, thì tỷ lệ người biết chữ chỉ chiếm
có 34% dân số. Tỷ lệ này đối với các nước đang phát triển là khoảng 65% so với
khoảng 99% so vơi các nước phát triển
* Năng suất thấp
Nguyên nhân là các nước này không có hoặc thiếu trầm trọng các đầu
vào bổ sung như vốn vật chất hoặc đội ngũ quản lý có kinh nghiệm. Có thể nói,
mức sống thấp và năng suất thấp đang làm trầm trọng thêm những vấn đề kinh
tế và xã hội ở các nước đang phát triển, đó là những biểu hiện chủ yếu của tình
trạng kém phát triển của họ
* Tốc độ tăng dân số cao và gánh nặng người ăn theo tỷ lệ sinh đẻ và
tử vong rất khác biệt nhau:
Tỷ lệ sinh đẻ ở các nước đang phát triển thường là ở mức rất cao, khoảng
từ 35 đến 45/1000 người hoặc hơn nữa, trong khi tỷ lệ trên ở các nước phát triển
chưa bằng một nửa. Số trẻ em dưới 15 tuổi chiếm gần một nửa tổng số dân,
trong khi ở các nước phát triển chỉ gần bằng ¼ tổng số dân. Tồn bộ gánh nặng
ăn theo (tức là cả già lẫn trẻ) ở các nước phát triển chỉ chiếm khoảng 1/3 dân số,
so với một nửa số dân ở các nước đang phát triển. Ở những nước đang phát triển

6



có trên 90% số người ăn theo là trẻ em, trong khi đó ở các nước giàu có là 66%.
* Mức thất nghiệp và bán thất nghiệp cao và ngày càng gia tăng
Trong những thập kỷ gần đây, tỷ lệ thất nghiệp hiện tại ở các khu vực
thành thị thuộc các nước đang phát triển trung bình ở mức từ 10% đến 15% lực
lượng lao động thành thị. Số thanh niên thất nghiệp tuổi từ 15 đến 24, mà nhiều
người trong số họ có học vấn đáng kể, thường là cao gần gấp đơi mức trung bình
chung. Nền nơng nghiệp của các nước đang phát triển có năng suất thấp, sử
dụng các loại công nghệ lỗi thời, tổ chức kém và bị hạn chế về các đầu vào là
vật lực và nhân lực.
1.2. MỘT SỐ LÝ THUYẾT VỀ TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH
TẾ TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
1.2.1. Khái niệm về tăng trưởng, phát triển kinh tế
* Tăng trưởng kinh tế
Hiện nay có nhiều cách định nghĩa về tăng trưởng kinh tế, song có thể định
nghĩa một cách khái quát như sau: “ Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về tổng
sản phẩm xã hội và tăng thu nhập binh quân đầu người”. Các quốc gia luôn
quan tam đến sự tăng trưởng kinh tế liên tục trong một thời kì tương đối dài- tức
là tăng trưởng kinh tế bền vững. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sựu tăng trưởng
kinh tế, song tăng tưởng kinh tế phụ thuộc vào những yêu cầu cơ bản là vốn, con
người, kỹ thuật, và công nghệ, cơ cấu kinh tế, thể chế chính trị và quản lý của
nhà nước...
*Phát triển kinh tế
Hiện nay, người ta định nghĩa khái quát phát triển kinh tế như nhau: “ Phát
triển kinh tế là sự tăng trưởng kinh tế đi kèm với sự tiến bộ của cơ cấu kinh
tế, thể chế kinh tế và chất lượng cuộc sống”
Như vậy, phát triển kinh tế bao gồm những nội dung chủ yếu: Thứ nhất,
sự tăng trưởng là sự tăng lên của tổng sản phẩm xã hội và thu nhập bình quân
đầu người. Thứ hai là sự biến đổi cơ cấu kinh tế theo hướng: tỷ trọng ngành

7


nông nghiệp ngày càng giảm, con tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ ngày
càng tăng ( đặc biệt là dịch vụ) trong tổng sản phẩm quốc dân. Thứ ba là, đời
sống của nhân dân ngày càng cao về phúc lợi xã hội, tiêu chuẩn sống, giáo
dục, sức khỏe và sự bình đẳng về kinh tế, chính trị, xã hội.
Phát triển kinh tế phụ thuộc những yếu tố cơ bản là: lực lượng sản
xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Mục tiêu của các quốc gia
không chỉ dừng lại ở phát triển kinh tế mà cơ bản hơn là phát triển kinh tế bền
vững.
1.2.2. Lý thuyết về “Cái vịng luẩn quẩn” của sự nghèo đói và “Cú huých”
từ bên ngoài
Lý thuyết này do nhiều nhà kinh tế học tư sản sáng lập, trong đó tiêu biểu
là Paul A. Samuelson nhà kinh tế học người Mỹ đưa ra. Theo thuyết này, để
tăng trưởng kinh tế, phải bảo đảm bốn nhân tố là nhân lực, tài nguyên thiên
nhiên, cơ cấu tư bản và kỹ thuật.
* Về nhân lực
Ở những nước nghèo, tuổi thọ trung bình thấp, đạt khoảng 57-58 tuổi.
Trong khi đó, ở các nước tiên tiến là 72-75 tuổi. Do vậy, phải kiểm soát bệnh tật,
nâng cao sức khỏe và chất dinh dưỡng để họ làm việc có năng suất cao hơn.
Điều đó địi hỏi phải xây dựng bệnh viện, hệ thống bảo vệ sức khỏe, coi đó là
những vốn xã hội có lợi ích sống cịn chứ không phải là loại hàng xa xỉ. Ở các
nước đang phát triển, số người biết chữ chỉ chiếm 32-52%. Do vậy, phải đầu tư
cho chương trình xóa nạn mù chữ, trang bị cho con người những kỹ thuật mới
trong nông nghiệp, công nghiệp; gửi những người thông minh nhất đi nước
ngoài để lấy về kiến thức và kỹ thuật kinh doanh.
* Về tài nguyên thiên nhiên
Các nước nghèo thường cũng nghèo tài nguyên thiên nhiên. Đất đai chật
hẹp, khoáng sản ít ỏi so với số dân đông đúc. Tài nguyên thiên nhiên quan trọng


8


nhất của các nước đang phát triển là đất nông nghiệp. Do vậy, việc sử dụng đất
đai có hiệu quả sẽ có tác dụng làm tăng sản lượng quốc gia
* Về cơ cấu tư bản
Ở các nước nghèo, công nhân có ít tư bản, năng suất của họ thấp. Muốn có
tư bản phải có tích lũy vốn. Song các nước nghèo năng suất lao động thấp, chỉ
đảm bảo cho dân cư có mức sống tối thiểu, khơng có tiết kiệm. Trước đây các
nước giàu cũng có đầu tư vào nước nghèo và q trình này cũng mang lại lợi ích
cho cả hai bên. Nhưng gần đây, do phong trào giải phóng dân tộc đe dọa sự an
tồn của tư bản đầu tư, nhiều nhà đầu tư ngần ngại không muốn gửi tiền ra nước
ngồi. Thêm vào đó, hầu hết các nước đang phát triển là những con nợ lớn và
không có khả năng trả nợ cả gốc và lãi. Vì vậy, tư bản đối với nước này là vấn
đề nan giải
* Về kỹ thuật
Các nước đang phát triển có trình độ kỹ thuật rất kém, nhưng có lợi thế là
có thể bắt chước kỹ thuật và công nghệ của các nước đi trước. Đây là con đường
rất hiệu quả để nắm được khoa học công nghệ, quản lý và kinh doanh vì sự
nghiệp phát triển. Nhìn chung ở các nước đang phát triển, bốn nhân tố trên đây
là khan hiếm. Việc kết hợp chúng đang gặp trở ngại lớn. Ở nhiều nước khó khăn
lại càng thêm trong “cái vịng luẩn quẩn” của sự nghèo khổ. Muốn vậy, phải tạo
ra các điều kiện thuận lợi nhằm kích thích tính tích cực đầu tư của tư bản nước
ngoài.
1.2.3. Lý thuyết cất cánh của W.W.Rostow
Lý thuyết điển hình của nhà kinh tế học người Mỹ là Ross Tow, nhằm nhấn
mạnh những giai đoạn phát triển kinh tế. Theo ơng q trình tăng trưởng kinh tế
đối với một nước phải trải qua năm giai đoạn: Trong phạm vi ở đây chỉ trình bày
lý thuyết điển hình của nhà kinh tế học người Mỹ là Ross Tow, nhằm nhấn

mạnh những giai đoạn phát triển kinh tế. Theo ơng q trình tăng trưởng kinh tế
đối với một nước phải trải qua năm giai đoạn:
* Giai đoạn xã hội truyền thống: Giai đoạn này sản xuất nông nghiệp là
9


chủ yếu do trình độ phát triển cịn mang tính chất sơ khai, năng suất lao động
còn rất thấp cuộc sống vật chất thiếu thốn chưa đủ để đáp ứng mức sống tối
thiểu của con người. Quan hệ xã hội và sinh hoạt xã hội còn đơn giản.
* Giai đoạn tiền cất cánh: là giai đoạn chuẩn bị cho giai đoạn cất cánh. Ở
giai đoạn này hai khu vực kinh tế nông nghiệp truyền thống và kinh tế tư bản
chủ nghĩa tồn tại song song với nhau. Ngồi ra cịn nhiều nhân tố từ bên ngồi
tác động có tính thúc đẩy nền kinh tế
* Giai đoạn cất cánh: Sau khi hoàn thành giai đoạn tiền cất cánh xã hội
chuyển sang giai đoạn cất cánh. Ở giai đoạn này phát triển mạnh trong cơ cấu hạ
tầng. Hệ thống giao thông thông tin liên lạc phát triển. Trong xã hội xuất hiện
nhiều nhân tố có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế.
* Giai đoạn trưởng thành: Sau giai đoạn cất cánh nền kinh tế bước sang
giai đoạn phát triển cơ cấu xã hội thay đổi. Ngành công nghiệp đã bước sang
giai đoạn “trưởng thành” hiện đại. Đời sống vật chất, tinh thần của người dân
được nâng cao. Các chủ tư bản tham gia vào công việc quản lý kinh tế Nhà nước,
điều khiển sự phát triển kinh tế, xã hội đất nước.
* Giai đoạn tiêu dùng cao: Đến giai đoạn này công nghiệp đã phát triển
cao, kinh tế xã hội đã đạt đến mức phát triển, các nhu cầu về vật chất cũng như
văn hóa tinh thần đã đáp ứng đầy đủ đối với cuộc sống con người. Con người
làm việc hoàn toàn trên cơ sở tự nguyện, lao động đã trở thành nhu cầu của con
người. Trong sơ đồ của Ross Tow, giai đoạn cất cánh là trọng tâm, là then chốt
nhất tạo nên bước ngoặt cho sự phát triển.
* Giai đoạn cất cánh chỉ xảy ra với ba điều kiện: Tỷ lệ đầu tư mới đạt trên
10% thu nhập quốc dân, phát triển được tốc độ cao một vài ngành công nghiệp

chế biến nông sản hoặc khoáng sản dẫn đầu và đẩy mạnh kinh tế đối ngoại, phải
xây dựng một cơ cấu xã hội, một thể chế chính trị phù hợp để khai thác được
tiềm năng của đất nước cho sự phát triển các khu vực kinh tế hiện đại bảo đảm
sự tăng trưởng liên tục.

10


1.2.4. Lý thuyết về mơ hình kinh tế nhị ngun của Athur Lewis
Lý thuyết được Athus Lewis nêu lên, sau đó được John Fei và Gustab
Ranis phát triển. Lý thuyết này bàn về sự phát triển ở các nước nghèo có tỷ
trọng nơng nghiệp lớn. Để phát triển vấn đề có tính chất quyết định là chuyển
lao động nơng nghiệp thành lao động cơng nghiệp có năng suất cao. Tư tưởng
cơ bản của mơ hình này là chuyển số lao động dư thừa trong nông nghiệp sang
các ngành hiện đại của khu vực công nghiệp thành thị do hệ thống tư bản nước
ngoài đầu tư vào các nước lạc hậu. Quá trình này sẽ tạo điều kiện cho nền kinh
tế phát triển.
1.2.5. Lý thuyết tăng trưởng và phát triển kinh tế ở các nước chấu Á-gió
mùa
Lý thuyết này do nhà kinh tế học Nhật Bản là Harry Toshima đưa ra. Ông
phê phán lý thuyết tăng trưởng của Athur Lewis không thực tế với các nước
châu Á gió mùa. Trong giai đoạn đầu của tăng trưởng kinh tế thế, năng suất lao
động trong nơng nghiệp có thể tăng lên bằng cách giảm tình trạng thiếu việc làm
trong những thời kỳ nhàn rỗi, bằng cách tăng vụ, đa dạng hóa vật ni, cây
trồng như trồng thêm rau, quả, cây lấy củ, tả cây ăn quả, mở rộng chăn nuôi gia
súc gia cầm, nuôi và đánh bắt cá, trồng cây nông nghiệp.
Mặt khác, để tăng năng suất lao động tăng hiệu quả công việc thì khu vực
nơng nghiệp cần có sự hỗ trợ của nhà nước về các mặt như hệ thống cơ kết cấu
hạ tầng vật chất hạ tầng nông nghiệp, nông thôn, giúp đỡ về cải tiến các tổ chức
kinh tế nông thôn như hợp tác xã nông nghiệp, tổ chức dịch vụ nơng thơn, tổ

chức tín dụng. Khi đó sự quá độ từ nền kinh tế nông nghiệp chuyển sang nền
kinh tế cơng nghiệp được hồn thành. Nền kinh tế tiếp tục chuyển sang giai
đoạn sau là sự quá độ từ cơng nghiệp sang dịch vụ. Từ đó ơng kết luận nơng
nghiệp hóa là con đường tốt nhất để bắt đầu một chiến lược phát triển kinh tế ở
các nước châu Á -gió mùa, tiến tới một xã hội có cơ cấu kinh tế thế nông công
nghiệp dịch vụ hiện đại.

11


CHƯƠNG 2: Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU CÁC
LÝ THUYẾT HIỆN ĐẠI VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở CÁC
NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN ĐỐI VỚI VIỆT NAM
Trong hơn 20 năm đổi mới của Việt Nam vừa qua đã và đang có khá
nhiều các khái niệm của lý thuyết kinh tế học phát triển được vận dụng vào công
cuộc đổi mới, phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hơn 20 năm vừa qua.
2.1. Tăng trưởng kinh tế
Để đo lường kết qủa sản xuất xã hội hàng năm, dùng làm thước đo so sánh
quốc tế về mặt lượng của trình độ phát triển kinh tế giữa các nước, các nước có
nền kinh tế thị trường vẫn thường sử dụng 2 loại chỉ tiêu kinh tế tổng hợp: Tổng
sản phẩm quốc dân ( Gross National Product, viết tắt là GNP), tổng sản phẩm
quốc nội (Gross Domestic Product, viết tắt là GDP). Các chỉ tiêu này phản ánh
mức tăng trưởng sản xuất hàng hoá và dịch vụ của mỗi quốc gia sau một giai
đoạn nhất định nào đó được biểu thị bằng chỉ số % (thường là 1 năm). Theo đó,
liên hệ với việc vận dụng vào Việt Nam suốt hơn 20 năm đổi mới vừa qua,
chúng ta vẫn sử dụng chỉ số GDP và tương ứng theo GDP/người là phù hợp với
trình độ phát triển kinh tế hiện tại của nước ta và thông lệ quốc tế.
2.2. Phát triển kinh tế
Cũng theo lý thuyết tăng trưởng và phát triển kinh tế của kinh tế học phát

triển: Phát triển kinh tế là khái niệm có nội dung phản ánh rộng hơn so với khái
niệm tăng trưởng kinh tế. Nếu như tăng trưởng kinh tế về cơ bản chỉ là sự gia
tăng thuần tuý về mặt lượng của các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp: GNP, GNP/đầu
người hay GDP, GDP/đầu người… thì phát triển kinh tế ngồi việc bao hàm q
trình gia tăng đó, cịn có một nội hàm phản ánh rộng lớn hơn, sâu sắc hơn.
Liên hệ vào việc vận dụng lý thuyết này ở Việt Nam, đó là những biến đổi
về mặt chất của nền kinh tế – xã hội, mà trước hết là sự chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và kèm theo đó là việc khơng
ngừng nâng cao mức sống tồn dân, trình độ phát triển văn minh xã hội thể hiện
12


ở hàng loạt tiêu chí như: thu nhập thực tế, tuổi thọ trung bình, tỷ lệ chết của trẻ
sơ sinh, trình độ dân trí, bảo vệ mơi trường, và khả năng áp dụng các thành tựu
khoa học – kỹ thuật vào phát triển kinh tế – xã hội… Với nội hàm rộng lớn trên
đây, về cơ bản khái niệm phát triển kinh tế đã đáp ứng được các nhu cầu đặt ra
cho sự phát triển toàn diện nhiều lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội ở Việt Nam
Tuy nhiên như đã biết, trong khoảng hơn hai thập niên vừa qua, do xu hứớng hội
nhập, khu vực hố, tồn cầu hoá phát triển ngày càng mạnh mẽ hơn nên đã nảy
sinh nhiều vấn đề dù là ở phạm vi từng quốc gia, lãnh thổ riêng biệt, song lại có
ảnh hưởng chung đến sự phát triển của cả khu vực và tồn thế giới, trong đó có
những vấn đề cực kỳ phức tạp, nan giải địi hỏi phải có sự chung sức của cả
cộng đồng nhân loại, ví dụ như: mơi trường sống, thiên tai, dịch bệnh, chiến
tranh, khủng bố… Thực tiễn đó đã thúc đẩy sự ra đời một khái niệm mới về
phát triển mang nội hàm phản ánh tổng hợp hơn, toàn diện hơn tất cả các khái
niệm về tăng trưởng kinh tế, phát triển kinh tế…, đó là khái niệm phát triển bền
vững mà sau đây ta sẽ xem xét kỹ hơn.
2.3. Phát triển bền vững
Khái niệm "phát triển bền vững" xuất hiện trong phong trào bảo vệ môi
trường từ những năm đầu của thập niên 70 của thế kỷ 20. Năm 1987, trong Báo

cáo "Tương lai chung của chúng ta" của Hội đồng Thế giới về Môi trường và
Phát triển (WCED) của Liên hợp quốc, "phát triển bền vững" được định nghĩa
"là sự phát triển đáp ứng được những yêu cầu của hiện tại, nhưng không gây trở
ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau". Tiêu chí để đánh giá sự
phát triển bền vững là sự tăng trưởng kinh tế ổn định; thực hiện tốt tiến bộ và
công bằng xã hội; khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên,
bảo vệ và nâng cao được chất lượng môi trường sống. Phát triển bền vững là nhu
cầu cấp bách và xu thế tất yếu trong tiến trình phát triển của xã hội lồi người.
Về phía Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta từ nhiều năm qua đã luôn nhận
thức sâu sắc về tầm quan trọng của sự phát triển bền vững khơng chỉ riêng với
Việt Nam mà cịn có liên đới trách nhiệm với sự phát triển bền vững chung của
tồn cầu. Chính phủ ta đã cử nhiều đồn cấp cao tham gia các Hội nghị nói trên
13


và cam kết thực hiện phát triển bền vững; đã ban hành và tích cực thực hiện "Kế
hoạch quốc gia về Môi trường và Phát triển bền vững giai đoạn 1991-2000"
(Quyết định số 187-CT ngày 12 tháng 6 năm 1991), tạo tiền đề cho quá trình
phát triển bền vững ở Việt Nam. Quan điểm phát triển bền vững đã được khẳng
định trong Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 25 tháng 6 năm 1998 của Bộ Chính trị về
tăng cường cơng tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước,
trong đó nhấn mạnh: "Bảo vệ mơi trường là một nội dung cơ bản không thể tách
rời trong đường lối, chủ trương và kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội của tất cả
các cấp, các ngành, là cơ sở quan trọng bảo đảm phát triển bền vững, thực hiện
thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH".
Quan điểm phát triển bền vững đã được tái khẳng định trong các văn kiện
của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001) của Đảng Cộng sản Việt Nam
và trong Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2001-2010 là: "Phát triển nhanh,
hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công
bằng xã hội và bảo vệ môi trường" và "Phát triển kinh tế – xã hội gắn chặt với

bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hồ giữa mơi trường nhân tạo
với mơi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học". Gần đây, Đại hội X
(2006) của Đảng cũng đã rút ra 5 bài học kinh nghiệm lớn từ thực tiễn phát triển
hơn 20 năm đổi mới vừa qua và đó cũng là tư tưỏng chỉ đạo về phát triển kinh tế
– xã hội nước ta giai đoạn 5 năm 2006-2010 và kể cả nhiều năm tiếp theo. Trong
đó, bài học đầu tiên đã được Đảng ta đặc biệt nhấn mạnh là “Bài học về phát
triển nhanh và bền vững”. Phát triển bền vững rõ ràng đã và đang trở thành
đường lối, quan điểm của Đảng và định hướng chính sách phát triển của Nhà
nước. Để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững, những năm vừa qua đã có
nhiều chỉ thị, nghị quyết khác của Đảng, nhiều văn bản quy phạm pháp luật của
Nhà nước đã được ban hành và triển khai thực hiện; nhiều chương trình, đề tài
nghiên cứu về lĩnh vực này đã được tiến hành và thu được những kết quả bước
đầu. Nhờ đó, nhiều nội dung cơ bản về phát triển bền vững đã đi vào cuộc sống
và dần dần trở thành xu thế tất yếu trong sự phát triển của đất nước. Như vậy là
theo từng thang bậc tiến trình phát triển của lý thuyết kinh tế học phát triển hiện
14


đại mà các khái niệm cơ bản nhất của lý thuyết này như đã đề cập ở những nét
khái quát nhất trên đây đã cho thấy, cho đến thời điểm này thì phát triển bền
vững đã và đang cịn là khái niệm được sử dụng phổ biến nhất trên toàn thế giới
đương đại và nội hàm phản ánh của nó là rất rộng lớn, sâu sắc.
2.4. Lý thuyết về “ Cái vòng luẩn quẩn” và “ cú huých” từ bên ngồi
Lý thuyết “Cái vịng luẩn quẩn” và “cú hch” từ bên ngồi thuộc nhóm
các lý thuyết tăng trưởng và phát triển kinh tế của Samuelson - nhà kinh tế học
người mỹ. Theo lý thuyết này, có bốn nhân tố ảnh hưởng tới tăng trưởng và phát
triển kinh tế là: nhân lực, tài nguyên thiên nhiên, cấu thành tư bản và kỹ thuật
công nghệ. Tuy nhiên ở các nước đang phát triển cả bốn nhân tố trên đều khan
hiếm và, điều đó dẫn đến các nước đang phát triển đều vướng phải cái “vịng
luẩn quẩn” của sự đói nghèo. Vì vậy để phá vỡ cái “vịng luẩn quẩn” cần phải có

một “cú hch” từ bên ngồi vào. Chính “cú hch” này sẽ giúp các nước đang
phát triển phá vỡ được vòng luẩn quẩn từ đó mới có thể cất cánh. Vậy, cái “vòng
luẩn quẩn” mà các nước đang phát triển đang vấp phải là gì? Yếu tố nào được
coi là “cú hch” có thể phá vỡ được cái “vịng luẩn quẩn” của sự đói nghèo? Là
một nước đang phát triển, Việt Nam đã vận dụng lý thuyết này như thế nào?
Trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết tăng trưởng và phát triển kinh tế của
Sammuelson và thực trạng phát triển kinh tế Việt Nam hiện nay, dưới đây sẽ
góp phần làm rõ những câu hỏi nêu trên.
2.4.1. Sự vận dụng lý thuyết “cái vịng luẩn quẩn” và “cú hch” từ
bên ngồi vào quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam
Trong q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, đầu tư nước ngoài
được xem là một trong những trụ cột góp phần vào tăng trưởng kinh tế của Việt
Nam. Năm 1987, Việt Nam ban hành Luật Đầu tư nước ngồi trong bối cảnh
kinh tế – xã hội cịn phát triển ở mức rất thấp, cơ sở hạ tầng nghèo nàn, khoa học
và công nghệ lạc hậu, nguồn nhân lực dồi dào nhưng phần lớn trong lĩnh vực
nông nghiệp và chưa qua đào tạo. Từ khi thực hiện Luật Đầu tư nước ngoài (nay
là Luật Đầu tư năm 2005) đến nay, Việt Nam đã thu hút được một khối lượng
đáng kể các nguốn vốn từ bên ngoài. Năm 2006, Việt Nam gia nhập Tổ chức
15


thương mại thế giới (WTO). Sự kiện này đánh dấu bước ngoặt lớn trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Các dòng vốn đầu tư nước ngoài đổ
vào Việt Nam tăng đột biến, nhất là nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI). Năm 2007, lượng vốn FDI đăng ký đạt 21,348 tỷ USD, tăng gần 80% so
với năm 2006 (năm 2006 đạt 12,044 tỷ USD), và đạt mức kỷ lục gần 72 tỷ USD
vào năm 2008.
2.4.2. Những kết quả đạt được
Thứ nhất, Các nguồn vốn đầu tư nước ngồi đã góp phần bổ sung vốn cho
nền kinh tế và tăng thu ngân sách cho Việt Nam

Thứ hai, thông qua chuyển giao công nghệ cung cấp công nghệ mới cho các
nước. Đồng thời, chuyển giao công nghệ đã góp phần hình thành một đội ngũ
các cán bộ, cơng nhân có trình độ kỹ thuật và tay nghề cao, góp phần làm tăng
năng lực nghiên cứu và phát triển công nghệ của nước chủ nhà
Thứ ba, Việc thu hút vốn đầu tư nước ngồi giải quyết cơng ăn việc làm và
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Thứ tư, góp phần mở rộng hợp tác đầu tư
với các nước, mở rộng thị trường và thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
của Việt Nam, đặc biệt sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO).
2.4.3. Những hạn chế
Bên cạnh những đóng góp tích cực, đầu tư nước ngồi, đặc biệt là FDI
cũng đã và đang tạo ra những tác động tiêu cực, ảnh hưởng đến mục tiêu phát
triển bền vững của đất nước.
Thứ nhất, phần lớn các doanh nghiệp có vốn FDI tập trung vào khai thác
lợi thế giá nhân công rẻ, nguồn tài nguyên có sẵn, thị trường tiêu thụ dễ tính để
lắp ráp, gia cơng sản phẩm tiêu thụ nội địa và xuất khẩu. Vì vậy, cơ cấu xuất
khẩu của Việt Nam không thay đổi, tập trung chủ yếu các mặt hàng nông, thuỷ
sản, thực phẩm và các mặt hàng có giá trị gia tăng thấp như dệt may, tạp phẩm
chiếm đến 49,4%.
16


Thứ hai, do mục tiêu lợi nhuận cao, các doanh nghiệp có vốn FDI cũng
đang gây ơ nhiễm mơi trường nghiêm trọng, làm giảm tính bền vững của tăng
trưởng kinh tế.
Thứ ba, do các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chủ yếu tập trung
vào đầu tư tại các khu vực đô thị lớn nên một mặt, đây là một trong những
nguyên nhân làm gia tăng khoảng cách phát triển giữa vùng đô thị và vùng nông
thôn, giữa miền ngược và miền xuôi. Mặt khác, điều này cũng làm gia tăng sức
ép cho các đô thị này về dân số, hạ tầng đô thị.

2.5. Sự vận dụng lý thuyết tăng trưởng và phát triển kinh tế ở các nước
châu Á -gió mùa của Harry Toshima vào Việt Nam
Đối với một quốc gia, tăng trưởng GDP nếu chỉ dựa trên tăng việc làm giản
đơn, trình độ cơng nghệ và tay nghề lao động thấp thì thường khơng cao và thiếu
bền vững. Trong khi tăng trưởng GDP theo hướng tăng năng suất lao động
(NSLĐ), tuy là thách thức lớn, nhất là đối với một nước mà đội ngũ lao động có
tư duy nông nghiệp lâu đời và tỷ lệ qua lao động qua đào tạo không cao
như Việt Nam, nhưng đây lại là hướng đi có tiềm năng để tạo ra tăng
trưởng cao, bền vững và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế
Trong bối cảnh tự do hóa thương mại và Cách mạng công nghiệp 4.0 (CMCN
4.0) ngày càng phát triển, đây vừa là cơ hội để Việt Nam phát triển kinh tế. Một
trong những điểm nhấn căn bản để thúc đẩy tăng trưởng, chính là cải thiện
NSLĐ.
Cần nhìn lại quá trình tạo nên năng suất lao động Việt Nam trong những năm
qua. Trước hết là kết quả của chuyển dịch từ khu vực nông nghiệp sang công
nghiệp và dịch vụ, với 80% số lao động thì giờ cịn khoảng 40%. Đó là q trình
cơng nghiệp hóa.

17


CHƯƠNG 3: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT VỀ GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI VIỆT NAM
TRONG BỐI CẢNH PHÁT TRIỂN HIỆN NAY
Mặc dù đã đạt được những kết quả quan trọng trong phát triển kinh tế - xã
hội, khẳng định môi trường kinh doanh Việt Nam đã có sự cải thiện đáng kể
trong những năm qua. Tuy nhiên, trước bối cảnh sự cạnh tranh mạnh mẽ trong
thu hút đầu tư giữa các quốc gia, Việt Nam cần:
Thứ nhất, đổi mới mạnh mẽ cơ chế chính sách thu hút đầu tư nước ngồi,
tạo mơi trường kinh doanh hấp dẫn. Cần thu hút và sử dụng có lựa chọn nguồn
đầu tư nước ngồi hơn là chạy theo số lượng, cần tính đến hiệu quả kinh tế và sự

phát triển bền vững cũng như đảm bảo về môi trường. Tập trung nguồn vốn
(nhất là FDI) vào các ngành sản xuất có giá trị gia tăng cao, các ngành cơng
nghệ cao, ít tiêu tốn năng lượng, khơng làm cạn kiệt các nguồn tài ngun thiên
nhiên. Có chính sách nhằm tăng cường các mối quan hệ, liên kết giữa các công
ty xuyên quốc gia (TNCs) với DN trong nước, giữa các DN đầu tư nước ngoài
với nhau.
Thứ hai, phát triển đồng bộ cơ sở hạ tầng, quy hoạch hợp lý các khu công
nghiệp tại các địa phương, đặc biệt chú trọng hình thành các khu cơng nghệ cao
thu hút đầu tư nước ngoài để nâng cao hiệu quả của khu vực FDI
Thứ ba, phát triển nguồn nhân lực theo hướng chun mơn hố, tập trung
đào tạo nguồn nhân lực có kỹ thuật, tay nghề và trình độ quản lý tốt để chủ động
hơn, sẵn sàng nắm bắt và tiếp nhận cơng nghệ ở trình độ cao.
Thứ tư, tập trung cải cách hành chính, khuyến khích khởi nghiệp, thị
trường tài chính ổn định, đặc biệt an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, chủ
quyền quốc gia được vững chắc, giáo dục, y tế được chấn chỉnh, nhân dân an cư,
lạc nghiệp.
Thứ năm, ổn định nền kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng, cơ cấu lại nền
kinh tế, đẩy nhanh, bảo đảm hiệu quả vốn đầu tư là những giải pháp quan trọng

18


nhằm tháo gỡ kịp thời khó khăn về vốn, sớm đưa dịng vốn vào nền kinh tế, qua
đó tạo hiệu ứng lan tỏa, kích thích tăng trưởng kinh tế.
Thứ sáu, cần nâng cao năng lực thể chế trong đấu tranh chống gian lận
thương mại để xử lý vụ kiện, tranh chấp thương mại trong nước, quốc tế, từ đó
hỗ trợ cộng đồng doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ trong tiếp
cận thị trường bền vững.
Thứ bảy, phát triển thị trường là khâu quyết định đến sự tăng trưởng của
ngành nơng nghiệp nói riêng, tăng trưởng nền kinh tế nói chung. Bên cạnh các

thị trường EU, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, ngành đặc biệt coi trọng hướng tới thị
trường ASEAN.

KẾT LUẬN
Các lý thuyết hiện đại về phát triển kinh tế ở các nước đang phát triển có
nhiều điểm phù hợp khi áp dụng vào tình hình kinh tế xã hội nước ta. Việt Nam
hiện đang trong công cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa mạnh mẽ. Cũng giống
như các nước đang phát triển khác, Việt Nam cũng gặp nhiều khó khăn về vốn,
kỹ thuật và trình độ nhân lực.
Vì vậy thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngồi chính là một “cú huých” cho
sự phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên vai trò của vốn đầu tư nước ngoài, của
FDI chỉ thực sự phát huy hiệu quả và góp phần vào sự phát triển bền vững khi
nó được lựa chọn và khuyến khích vào những ngành, những khu vực thật sự cần
thiết cho nền kinh tế để đảm bảo tính bền vững cho phát triển lâu dài và phục vụ
sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố của Việt Nam.
Để thực hiện được điều này, cần có hệ thống chính sách đồng bộ, cần có sự
ổn định kinh tế vĩ mô và thống nhất về pháp luật để vừa thu hút nhiều vốn đầu
tư, vừa sử dụng đầu tư đó một cách có hiệu quả, góp phần thúc đẩy kinh tế tăng
trưởng và phát triển bền vững.

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đảng cộng sản Việt Nam: “ Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI ”,
NXB Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội
2. Harvard University, John F. Kennedy School of Gorvernment, Chương trình
châu Á (2008) : “ Lựa chọn Thành cơng: Bài học từ Đông Á và Đông Nam Á
cho tương lai của Việt Nam ”

3. Kỷ yếu hội thảo khoa học về “Chủ trương, chính sách mới thu hút mạnh mẽ
các nguồn lực bên ngoài”; Ban Kinh tế Trung ương phối hợp với Trường Đại
học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh tổ chức, tháng 12/2013
4. Ngơ Ngọc Thắng & Đồn Minh Huấn “ Một số lý thuyết về phát triển xã hội
và quản lý phát triển xã hội” , NXB CTQG 2014.
5. TS. Trần Anh Phương (2008) “ Một số khái niệm của lý thuyết kinh tế học
phát triển đang được vận dụng ở nước ta hiện nay ”, Thông tin Pháp luật Dân sự.
6. Tài liệu học tập và bài tập thực hành “ Lịch sử các học thuyết kinh tế ”
7. Thông tấn xã Việt Nam (2017), “ Đề xuất các giải pháp phát triển kinh tế,
bảo đảm an sinh xã hội ”, Thời sự Thế giới và Việt Nam.
8. Tài liệu Ebook (2014), “ Các lý thuyết hiện đại về phát triển kinh tế ở các
nước đang phát triển ” nguồn Zun.vn.
9. Phan Phương (2019), “ Đề xuất các giải phát đột phá phát triển kinh tế-xã
hội ”, Báo Điện tử của Bộ xây dựng

20



×