Tải bản đầy đủ (.pdf) (52 trang)

Báo cáo Nhận thức về bất bình đẳng giới tại thị trường lao động Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (812.15 KB, 52 trang )

Public Disclosure Authorized
Public Disclosure Authorized
Public Disclosure Authorized
Public Disclosure Authorized

QUAN HỆ ĐỐI TÁC CHIẾN LƯỢC ƠXTRÂYLIA-NHĨM NGÂN HÀNG THẾ GIỚI TẠI VIỆT NAM

Chuyên đề giới

NHẬN THỨC VỀ

BẤT BÌNH ĐẲNG GIỚI
TẠI THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG
VIỆT NAM

47



NHẬN THỨC VỀ

BẤT BÌNH ĐẲNG GIỚI
TẠI THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG
VIỆT NAM


Bản quyền © 2020
Ngân hàng Tái thiết và Phát triển Quốc tế / Nhóm Ngân hàng Thế giới
1818 H Street, NW, Washington, DC 20433 USA
Tài liệu này đã được bảo hộ bản quyền.
Các kết quả tìm hiểu, các giải thích và kết luận trong tài liệu này thuộc về các tác giả và không phản ánh


quan điểm của Ngân hàng Thế giới, các tổ chức thành viên, các thành viên Ban Giám đốc Điều hành Ngân
hàng Thế giới và các chính phủ mà họ đại diện. Ngân hàng Thế giới khơng đảm bảo tính chính xác của các
dữ liệu trong tài liệu này và được miễn trừ trách nhiệm đối với việc sử dụng các dữ liệu đó.
Ảnh bìa: © Ngân hàng Thế giới


MỤC LỤC
Lời cảm ơn
Tóm tắt báo cáo
Câu hỏi nghiên cứu
Các phát hiện
Khuyến nghị chính sách
Nhận thức về bất bình đẳng giới tại thị trường lao động Việt Nam
1. Giới thiệu
2. Bối cảnh Việt Nam
2.1. Thách thức liên quan bất bình đẳng giới
2.2. Môi trường kinh tế, thể chế, và pháp lý
2.3. Bất bình đẳng giới tại các địa phương trên thị trường lao động
3. Phương pháp nghiên cứu
4. Kết quả nghiên cứu
4.1. Nhận thức về thị trường lao động của sinh viên
4.2. Thái độ của cha mẹ về các vấn đề giới
4.3. Định kiến giới trong CSGDNN
4.4. Nhận thức của người dân tộc thiểu số về tiếp cận giáo dục và thị trường lao động
4.5. Nhận thức của người sử dụng lao động
4.6. Nhận thức của nhóm dễ bị tổn thương
4.7. Nhận thức của TTDVVL
5. Tóm tắt kết quả nghiên cứu ở Điện Biên và Quảng Nam
5.1. Kết quả nghiên cứu ở Điện Biên
5.2. Kết quả nghiên cứu ở Quảng Nam

6. Kết luận và khuyến nghị chính sách
6.1. Phát triển hoạt động tư vấn hướng nghiệp cho sinh viên và cha mẹ
6.2. Phá vỡ - hoặc chống lại – định kiến giới
6.3. Thay đổi nơi làm việc để giảm rào cản liên quan đến gia đình
6.4. Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ khởi nghiệp và phát triển
6.5. Hỗ trợ phụ nữ khuyết tật và mẹ đơn thân
6.6. Thi hành luật
Tài liệu tham khảo
Phụ lục 1. Thông tin người tham gia thảo luận nhóm và phỏng vấn người am hiểu
DANH SÁCH BIỂU ĐỒ
2.1. Tham gia lực lượng lao động ở Việt Nam
2.2. Chênh lệch tiền lương theo giới
DANH SÁCH BẢNG
1. Khuyến nghị chính sách rút ra từ nghiên cứu định tính
2.1. Chỉ tiêu lao động của Hà Nội năm 2017
2.2. Chỉ tiêu lao động chính của TP HCM, 2016-2017
2.3. Chỉ tiêu lao động của tỉnh Quảng Nam 2016-2017
2.4. Chỉ tiêu lao động của tỉnh Điện Biên năm 2017
3.1. Đặc điểm nhóm thảo luận

iv
1
1
2
3
5
5
7
7
8

8
12
15
15
17
20
22
24
26
31
32
32
33
35
35
36
36
37
38
38
39
42

7
8

4
9
9
10

11
14

III


LỜI CẢM ƠN
Báo cáo này là sản phẩm của Dự án Trao quyền Kinh tế cho Phụ nữ Việt Nam của Chương trình Quan hệ Đối tác
Ngân hàng Thế gới – Ơxtrâylia Giai đoạn II (ABP2) tại Việt Nam. Nhóm biên soạn báo cáo gồm bà Nina WeimannSandig (chuyên gia tư vấn thuộc Trường Evangelische Hochschule, Dresden), bà Wendy Cunningham, chuyên gia
kinh tế trưởng, bà Helle Buchhave, chuyên gia cao cấp về phát triển xã hội, và ông Nguyễn Tam Giang, chuyên gia
phát triển xã hội của Ngân hàng Thế giới. Nhóm tác giả xin cảm ơn nhóm nghiên cứu thuộc Viện Khoa học Lao
động và Xã hội đã đảm trách công tác nghiên cứu thực địa, cung cấp thông tin bối cảnh và thực hiện các cuộc thảo
luận nhóm tập trung. Nhóm tác giả cũng xin cảm ơn những đầu mối tại địa phương giúp xác định đối tượng tham
gia thảo luận nhóm. Đặc biệt, nhóm tác giả chân thành cảm ơn những người tham gia thảo luận nhóm, trả lời
phỏng vấn đã nhiệt tình chia sẻ vốn hiểu biết và kinh nghiệm của mình. Chúng tơi rất biết ơn hỗ trợ tài chính của
Ơxtrâylia.
Hoạt động biên soạn báo cáo chính sách này nằm trong Dự án Trao quyền Kinh tế cho Phụ nữ Việt Nam thuộc
Chương trình Quan hệ Đối tác Chiến lược Ơxtrâylia – Nhóm Ngân hàng Thế giới Giai đoạn 2 (ABP2). Dự án tiến
hành các phân tích tồn diện dựa trên số liệu và bằng chứng về những thách thức mới đối với bình đẳng giới và hỗ
trợ kỹ thuật cho các nhà hoạch định chính sách và các chương trình đầu tư xử lý những thách thức này nhằm tăng
cơ hội kinh tế cho phụ nữ. Các ấn phẩm khác của dự án liên quan trực tiếp đến báo cáo này gồm “Triển vọng Việc
làm ở Việt Nam dưới Góc nhìn Giới” (báo cáo khuyến nghị chính sách); “Đề xuất Sửa đổi Bộ Luật Lao động Việt
Nam nhằm Thúc đẩy Bình đẳng Giới” (báo cáo khuyến nghị chính sách); “Bình đẳng Giới và Lập Pháp ở Việt Nam”
(khóa học điện tử tồn diện bằng tiếng Việt), và “Số liệu Giới ở Việt Nam Năm 2016 của Tổng Cục Thống kê”. Để
có thêm thơng tin về các ấn phẩm này cũng như Chuyên đề Giới của ABP2, xin mời quý vị liên hệ Trưởng Nhóm
Chuyên đề, bà Helle Buchhave, tại địa chỉ (), hoặc cô Vũ Thùy Dung, Trợ lý Chương
trình, tại Ngân hàng Thế giới ở Hà Nội ().

IV



NHẬN THỨC VỀ BẤT BÌNH ĐẲNG GIỚI
TẠI TRƯỜNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM
TĨM TẮT BÁO CÁO
Việt Nam chỉ có thể đạt được mục tiêu trở thành
nước có thu nhập trung bình, phát triển bao trùm, và
dân chủ nếu xoá được các khoảng cách giới về kinh
tế và xã hội. Bình đẳng giới về việc làm được coi là
một yếu tố then chốt để đạt được mục tiêu phát triển
này. Nhưng điều gì đang cản trở bình đẳng giới tại thị
trường lao động Việt Nam? Báo cáo này sẽ trả lời câu
hỏi trên để cung cấp thông tin cho những nhà hoạch
định chính sách.
Qua hai thập niên tăng trưởng kinh tế ấn tượng, một số
nghiên cứu đã tìm hiểu về một số dạng bất bình đẳng
giới ở Việt Nam, nhưng rất ít nghiên cứu tìm hiểu về
những yếu tố gây ra những bất bình đẳng này. Một số
nghiên cứu gần đây đã chỉ ra những khoảng cách giới
trong tiếp cận giáo dục đại học, học nghề, cơ hội việc
làm, và thu nhập ở Việt Nam (Bộ Giáo dục và Đào tạo
2015; Viện Khoa học Lao động và Xã hội (KHLĐXH)
và Viện Phát triển Phụ nữ Hàn Quốc 2014; Ngân hàng
Thế giới 2011; Cunningham, Buchhave và Alidadi
2018; Tổ chức Lao động Quốc tế 2015). Những nghiên
cứu này cho thấy phụ nữ có ít cơ hội tiếp cận giáo dục
và việc làm hơn nam giới, đồng thời chỉ ra những nhóm
phụ nữ gặp nhiều bất lợi hơn, như nhóm phụ nữ dân
tộc thiểu số và phụ nữ khuyết tật. Tuy nhiên, những rào
cản gây nên bất bình đẳng giới tại thị trường lao động
chưa được nghiên cứu nhiều, vì thế có rất ít bằng chứng

để hỗ trợ các nhà hoạch định chính sách tìm giải pháp
giải quyết tình trạng này.
Chính phủ Việt Nam đang nỗ lực tăng cường hỗ trợ
người dân tìm việc làm. Nguồn hỗ trợ chính của Chính
phủ cho q trình tìm việc chính là các trung tâm dịch
vụ việc làm (TTDVVL), một tổ chức nhà nước chịu
trách nhiệm giới thiệu thông tin việc làm và hướng
dẫn tìm việc, cũng như quản lý trợ cấp bảo hiểm thất
nghiệp. Hệ thống TTDVVL được phân cấp mạnh,
nghĩa là mỗi tỉnh sẽ tự xác định vai trị, trách nhiệm,
và chức năng của TTDVVL của mình. Các trung tâm
không thu thập hay chia sẻ thông tin nhất quán toàn
quốc về người thụ hưởng, dịch vụ, và kết quả với địa
phương khác, vì thế khơng có cơ sở dữ liệu ai đang sử
dụng dịch vụ và nữ giới chiếm tỷ lệ bao nhiêu. Nguồn
hỗ trợ thứ hai là các cơ sở dạy nghề. Các cơ sở dạy nghề

cũng được phân cấp. Các bộ và sở, khu vực tư nhân
cung cấp dịch vụ này nhưng không thu thập và chia sẻ
thông tin về người sử dụng và dịch vụ của họ. Cơ chế
này khiến rất khó nắm bắt được mức độ hỗ trợ của các
cơ sở dạy nghề đối với phụ nữ và cần cải thiện như thế
nào để đáp ứng nhu cầu của phụ nữ tốt hơn. Việt Nam
cần tập trung vào các chính sách giảm các rào cản tham
gia thị trường lao động trên cơ sở giới để đảm bảo vừa
phát triển kinh tế, nâng tăng mức sống cho người dân,
vừa đạt các mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới. Bất
bình đẳng giới trên thị trường lao động ở một quốc gia
là vấn đề cần được xử lý vì ít nhất ba lý do sau đây. Thứ
nhất, nếu tận dụng được toàn bộ tiềm năng của phụ

nữ trên thị trường lao động, hiệu quả kinh tế vĩ mơ có
thể tăng. Thứ hai, việc làm có thể trực tiếp giúp phụ nữ
phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập và các lợi ích liên
quan. Thứ ba, nâng cao cơ hội việc làm cho phụ nữ có
tác động thúc đẩy tích cực tới quyền tự quyết, khả năng
kiểm soát, và quyền lực của phụ nữ, là những yếu tố
quan trọng với hạnh phúc và thành công của họ (xem
thêm ví dụ trong báo cáo của Cunningham, Buchhave
và Alidadi 2018).

Câu hỏi nghiên cứu
Để giúp bổ sung những khoảng trống kiến thức nói
trên, nghiên cứu này sử dụng ba phương pháp định
đính để tìm hiểu về quan điểm của các bên liên quan về
cơ chế gây ra bất bình đẳng giới tại thị trường lao động
Việt Nam và các chính sách liên quan: (1) phỏng vấn
theo đoạn đời từng cá nhân; (2) thảo luận nhóm tập
trung; và (3) phỏng vấn chuyên gia. Nghiên cứu trả lời
ba câu hỏi chung sau đây:
1. Những hạn chế nào gây ra bất bình đẳng giới tại thị
trường lao động Việt Nam?
2. Thông tin nào được sinh viên và người tìm việc
phân theo nam/nữ sử dụng để hỗ trợ họ quyết định
về ngành học, kỹ năng cần học, và để tìm việc?
3. Mức độ hiệu quả của các cơ sở dạy nghề và hệ thống
TTDVVL hiện nay trong việc giải quyết các hạn chế
trên cơ sở giới?

1



Nghiên cứu này bổ sung thêm nguồn tài liệu nghiên
cứu hiện có (chủ yếu là định lượng) về bất bình đẳng
giới tại thị trường lao động Việt Nam (gồm các nghiên
cứu của Ngân hàng Thế giới) bằng cách sử dụng các
phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội định tính
để tìm hiểu nguyên nhân những hướng đi khác nhau
giữa nam và nữ. Nghiên cứu này sử dụng ba phương
pháp thu thập dữ liệu: (1) thực hiện một số nhỏ các
phỏng vấn theo đoạn đời với những đối tượng nữ giới
khác nhau; (2) thảo luận nhóm tập trung với nam và nữ
ở các vùng miền khác nhau; và (3) phỏng vấn những
người ra quyết định trong lĩnh vực giáo dục và việc làm.
Trong khi các nghiên cứu định lượng kiểm chứng các
giả định thông qua sử dụng các tham số thống kê và
mẫu đại diện hay ngẫu nhiên, mục tiêu của nghiên cứu
định tính lại là tìm ra các vấn đề đối lập và vấn đề phổ
biến từ kinh nghiệm và quan điểm cá nhân.
Nghiên cứu này đặc biệt nhấn mạnh tới bối cảnh của
những khác biệt trên cơ sở giới trên thị trường lao
động. Nghiên cứu tiếp cận khái niệm giới không phải
được xác định tự nhiên mà được kiến tạo bởi xã hội1,
chịu sự chi phối của các yếu tố văn hố, chính trị, tơn
giáo, và dân tộc. Với phương pháp tiếp cận này, chính
sách thị trường lao động khơng thể phân tích riêng lẻ
mà khơng xem xét tới các chính sách xã hội và gia đình.
Các phát hiện nghiên cứu được hiểu là quan điểm phổ
biến của nam và nữ Việt Nam.
Các phát hiện này khơng mang tính đại diện thống kê,
nhưng phải cho thấy sự đa dạng về quan điểm giới trên

thị trường lao động. Sự so sánh (và những nhận thức
chung) được rút ra giữa nam và nữ, giữa những người
phụ nữ thuộc các nhóm khác nhau theo độ tuổi, học
vấn, dân tộc, vị trí địa lý, tình trạng việc làm, và tình
trạng làm cha mẹ.

Các phát hiện
Các phát hiện từ cuộc nghiên cứu định tính này khẳng
định sự tồn tại của các dạng bất bình đẳng giới trên thị
trường lao động Việt Nam, được tóm tắt thành sáu phát
hiện chính sau:

1

2

Thứ nhất, nhiều phụ nữ Việt Nam có cơng việc khơng
ổn định. Cụ thể, các thảo luận nhóm tập trung xác định
ba nhóm phụ nữ dễ bị tổn thương nhất và khó tìm được
việc làm: nhóm mẹ đơn thân, nhóm phụ nữ khuyết tật,
và nhóm phụ nữ dân tộc thiểu số.
Thứ hai, các cuộc thảo luận nhóm, phỏng vấn cá nhân
và chuyên gia khẳng định quan niệm của xã hội và
Chính phủ cho rằng vai trò quan trọng nhất của người
phụ nữ là làm vợ, làm mẹ, sau đó mới tới vai trị người
lao động, trong khi vai trị chính của nam giới là người
lao động, nhưng vai trò thứ hai của họ hầu như không
được nhắc đến. Những người tham gia nghiên cứu cho
rằng sự nghiệp là ưu tiên thứ hai của người phụ nữ, sau
việc chăm sóc gia đình, nên những phụ nữ trẻ lựa chọn

các con đường học hành và nghề nghiệp cho phép họ
ưu tiên nghĩa vụ gia đình. Các bạn gái và cha mẹ họ suy
nghĩ giống nhau, và rất ít bạn gái tham gia nghiên cứu
đặt nghi ngờ về quan điểm này. Các nhóm thảo luận
cho thấy phụ nữ trẻ cần hướng tới lựa chọn các cơng
việc có chế độ nghỉ thai sản, ít làm thêm giờ, và ít áp
lực – chủ yếu là công việc nhà nước – vì luật lao động
và các chính sách gia đình chưa tạo ra độ linh hoạt cần
thiết trong thị trường lao động nói chung. Ngược lại,
đàn ơng chịu nhiều áp lực từ gia đình, bạn gái, vợ, và
từ chính bản thân phải có được cơng việc thu nhập cao;
vấn đề cân bằng giữa sự nghiệp và gia đình của người
đàn ơng không được người tham gia đề cập tới trong
cuộc nghiên cứu.
Thứ ba, các cuộc thảo luận nhóm tập trung đều thống
nhất quan điểm cha mẹ có vai trị quan trọng trong việc
định hướng cuộc đời của con gái, mặc dù họ hiểu biết
hạn chế về thị trường lao động và cơ hội học tập. Cha
mẹ và con cái đều đề cao vai trò của cha mẹ trong việc
xác định cơ hội nghề nghiệp. Cả hai cho biết cha mẹ tìm
hiểu trên Internet và các cơ hội học tập và nghề nghiệp
của con cái. Cha mẹ đặc biệt khơng hài lịng về tình trạng
thiếu thơng tin tổng hợp và cho rằng chính phủ cần cải
thiện vấn đề này. Các bạn nữ cho rằng họ khá thụ động
trong việc theo đuổi đam mê, mà nhanh chóng nghe
theo lời khuyên của người thân. Định kiến giới nặng
nề của cha mẹ ảnh hưởng tới cơ hội của con gái, chẳng

Nghiên cứu này dựa trên các lý thuyết và mơ hình xử lý vấn đề “định hình giới” theo quan điểm kiến tạo xã hội – xác định giới không phải là
một khái niệm tự nhiên mà là một khái niệm được xã hội kiến tạo. Các yếu tố văn hố, chính trị, tơn giáo và dân tộc đều ảnh hưởng tới ý nghĩa

giới (Hagemann-White 1988:230). Theo đó, cấu trúc xã hội ảnh hưởng và thậm chí xác định ý nghĩa giới và bất bình đẳng giới ở Việt Nam.
Những tác động này có thể được nhìn thấy trong cấu trúc gần đây của thị trường lao động. “Định hình giới” là một quá trình tạo và tái tạo khái
niệm giới phụ thuộc vào các phát triển của xã hội (Gildemeister 2010:137). Vì thế, khái niệm này cho rằng các biện pháp chính trị-xã hội trung
và dài hạn, chính sách thị trường lao động, và chính sách gia đình sẽ ảnh hưởng tới khái niệm giới trong một xã hội. Hơn nữa, khái niệm này
còn cho thấy việc phân tích thị trường lao động của một quốc gia cần phải có sự hiểu biết về chính sách xã hội và gia đình.


hạn cha mẹ cho rằng con gái yếu đuối hơn con trai nên
cần đi học hoặc đi làm gần nhà để cha mẹ có thể bảo vệ
tới khi lập gia đình. Quan điểm này được nhấn mạnh
trong các cuộc thảo luận nhóm, ngay cả với nhóm nữ
dân tộc thiểu số và nữ khuyết tật. Phụ nữ dân tộc thiểu
số cho rằng họ chịu ảnh hưởng bởi các chuẩn mực và
truyền thống văn hoá coi con gái là vật sở hữu của cha
mẹ. Một số người giải thích hơn nhân của họ giúp cha
mẹ có thêm đất canh tác và vì thế tăng thu nhập cho gia
đình. Những phụ nữ này thường kết hơn sớm, và ít có cơ
hội học tới phổ thông trung học hay cao đẳng, đại học.
Trong những cộng đồng này, vai trò của phụ nữ đối với
việc sinh và chăm con còn quan trọng hơn so với nhiều
hộ người Kinh. Một lần nữa, rất ít bạn gái tham gia thảo
luận nhóm phản bác quan điểm này.
Thứ tư, thảo luận nhóm cho thấy các chính sách lao
động hiện thời của chính phủ chưa tính tới các nhu cầu
của gia đình hiện đại một cách đầy đủ. Ví dụ, luật chưa
khuyến khích giờ làm việc linh hoạt, làm việc bán thời
gian, hay cơ hội làm việc tại nhà, dẫn tới tình trạng bất
bình đẳng giới trên nhiều phương diện. Phụ nữ có trình
độ và con nhỏ nói rằng phải nghỉ việc vì khơng có dịch
vụ giữ trẻ, nhất là ở thành thị vì nhiều người khơng

thể nhờ người thân trông giúp. Mọi người cho rằng mẹ
đơn thân phải làm việc ni gia đình thường chấp nhận
cơng việc lương thấp, trình độ thấp, và khơng ổn định,
dù họ có học vấn cao.
Thứ năm, phụ nữ nghĩ rằng giáo viên và người sử dụng
lao động có các thiên kiến giới dẫn đến những đối xử
khác biệt giữa nam và nữ trong các chương trình dạy
nghề và tại nơi làm việc. Các bạn gái đánh giá cao trình
độ của giáo viên dạy nghề, nhưng giáo viên khơng
khuyến khích sinh viên nữ theo học các ngành nghề
thường dành cho nam, song lại khuyến khích sinh viên
nam theo học các ngành nghề thường dành cho nữ.
Một số người phản ánh tại nơi họ làm việc, người sử
dụng lao động không tuân thủ luật lao động quy định
về vấn đề cân bằng giữa công việc và gia đình. Tuy
nhiên, chính nhiều phụ nữ cũng phản đối những người
phụ nữ theo sự nghiệp chun mơn, vì cho rằng những

người đó ích kỉ, ưu tiên sự nghiệp hơn gia đình. Phụ
nữ khuyết tật cảm thấy chịu nhiều thiệt thịi đặc thù vì
người sử dụng lao động chỉ nhìn vào các hạn chế về thể
chất và tâm lý của họ, hơn là chú ý tới kỹ năng và kiến
thức của người khuyết tật.
Thứ sáu, các chương trình thị trường lao động hiện
thời có thể phục vụ tốt hơn cả nam và nữ đang tìm việc.
Hệ thống TTDVVL ở Việt Nam giúp những người lao
động tiềm năng có thể tiếp cận với việc làm và đào tạo.
Nghiên cứu định tính cho thấy cha mẹ và phụ nữ tìm
việc đánh giá nhân viên ở các trung tâm địa phương
hỗ trợ thơng tin tìm việc khơng hiệu quả. Thực tế, cả

nam và nữ tham gia thảo luận nhóm đều thiếu niềm tin
về sự trung thực và tin cậy của các TTDVVL và nghĩ
rằng các trung tâm này chỉ phù hợp với người tìm việc
khơng có tay nghề.
Phụ nữ khuyết tật chịu gánh nặng kép khi tiếp cận thị
trường lao động. Các chương trình thị trường lao động
nên quan tâm nhiều hơn tới giúp phụ nữ khuyết tật có
tay nghề tham gia thị trường lao động và giúp ảnh hưởng
nhận thức của người dân về các cách phụ nữ khuyết tật
có thể tham gia có ý nghĩa vào thị trường lao động.

Khuyến nghị chính sách
Các phát hiện từ nghiên cứu giúp tăng hiểu biết về những
rào cản tạo ra bất bình đẳng giới trên thị trường lao động
Việt Nam và các cách cải thiện chính sách và hoạt động
can thiệp như dịch vụ kết nối thị trường lao động để xử
lý những rào cản này. Các phát hiện từ thảo luận nhóm
nhìn chung đều có độ tin cậy cao và phù hợp với các kết
quả nghiên cứu định lượng. Kết quả cho phép đưa ra một
số khuyến nghị chính sách (bảng 1) dành cho những
người làm chính sách, đặc biệt là những người chịu trách
nhiệm cải thiện các trải nghiệm thị trường lao động của
phụ nữ. Báo cáo này cũng phù hợp với khu vực tư nhân
vì khu vực này cũng có trách nhiệm giải quyết những rào
cản việc tham gia bình đẳng vào thị trường lao động, như
hỗ trợ cung cấp dịch vụ giữ trẻ, đã được quy định trong
Bộ Luật Lao động năm 2019.

3



BẢNG 1. Khuyến nghị chính sách rút ra từ nghiên cứu định tính
Định hướng chính
sách chung

Các khuyến nghị chính sách cụ thể

Tăng cường tư vấn
hướng nghiệp cho
cha mẹ và học sinh

Cung cấp trực tuyến thông tin tổng hợp về nghề nghiệp, cơ hội học tập, tuyển dụng, theo hình thức
dễ sử dụng, gồm những thông tin cần thiết giúp xác định con đường học hành và nghề nghiệp.
Cải thiện hoạt động hướng nghiệp bằng cách tổ chức các buổi tư vấn ở trường phổ thông trung học
cho cha mẹ và học sinh.
Mở rộng và điều chỉnh dịch vụ của TTDVVL để giải quyết hiệu quả hơn các rào cản trên cơ sở giới của
người tìm việc.
Đào tạo cán bộ giới thiệu việc làm và các nhân viên khác của TTDVVL để cung cấp các dịch vụ tư vấn
và hướng dẫn đáp ứng nhu cầu cụ thể theo giới, đặt mục tiêu tiếp cận người khuyết tật.
Tổ chức các buổi cung cấp thông tin cho cha mẹ, giúp họ hiểu rõ hơn về cơ hội học tập và nghề
nghiệp cho con gái của họ.

Thay đổi định kiến
giới

Sản xuất các đoạn phim ngắn về các câu chuyện cá nhân thành công của các bạn trẻ (cả nữ và nam)
về nhiều ngành nghề.
Tổ chức tập huấn nâng cao nhận thức giới trong trường học (cho các nhà giáo dục và đào tạo) và nơi
làm việc (cho người sử dụng lao động và nhân viên), tạo cơ hội gặp những cá nhân đã góp phần thay
đổi các chuẩn mực giới.

Tổ chức các chương trình giúp các em nữ phát triển quyền tự quyết.

Thay đổi điều kiện
làm việc để giảm bớt
rào cản gia đình

Thúc đẩy các hình thức làm việc linh hoạt, như làm bán thời gian hoặc tại nhà và công việc với giờ làm
việc linh hoạt.
Thực hiện chế độ nghỉ thai sản cho cả cha mẹ (thay vì chỉ cho người mẹ) để góp phần thay đổi xã hội,
hướng tớis bình đẳng giới trong gia đình.
Thực hiện các hoạt động nâng cao nhận thức, thảo luận, và tập huấn cho người sử dụng lao động
và các nhà quản lý nhân sự về chiến lược phát triển nguồn nhân lực hiện đại và hoạch định kế hoạch
cơng việc có tính nhạy cảm giới.
Tiếp tục mở rộng việc cung cấp (đặc biệt ở vùng nông thôn) và nâng cao chất lượng dịch vụ giữ trẻ từ
0 tới 3 tuổi và giáo dục mầm non từ 4 tới 6 tuổi

Hỗ trợ phụ nữ
Thiết lập các tiêu chuẩn xây dựng và giao thông để người khuyết tật có thể dễ dàng ra vào các trung
khuyết tật và mẹ đơn tâm dạy nghề.
thân
Thực hiện các hoạt động nâng cao nhận thức ở vùng nông thôn nhằm vận động cho người khuyến
tật có khả năng tiếp cận việc làm và xem xét khen thưởng công khai người sử dụng lao động khuyết
tật nhằm đa dạng hóa lực lượng lao động.
Tăng cung cấp các dịch vụ giữ trẻ dưới 3 tuổi và tổ chức dịch vụ đáp ứng nhu cầu gửi trẻ ngồi giờ
hành chính.

4

Tăng cường hỗ trợ
doanh nghiệp siêu

nhỏ giúp phụ nữ
phát huy hết tiềm
năng làm chủ doanh
nghiệp siêu nhỏ

Mở rộng hỗ trợ tài chính và tập huấn cho các doanh nghiệp siêu nhỏ do nữ làm chủ hoặc quản lý.

Thực thi luật lao
động

Cung cấp thông tin và dịch vụ cho phụ nữ về quyền lao động và quy trình nộp đơn khiếu nại, tố cáo.

Xem xét tài trợ các doanh nghiệp siêu nhỏ khởi nghiệp và hoạt động.

Tăng cường đối thoại về các vấn đề giới giữa chính phủ, cơng đồn, hội doanh nghiệp, và các bên liên
quan khác.


NHẬN THỨC VỀ BẤT BÌNH ĐẲNG GIỚI
TẠI THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM
1. GIỚI THIỆU
Trong nhiều thập kỷ qua, Việt Nam đã có những phát
triển mạnh mẽ để trở thành quốc gia có thu nhập trung
bình thấp và giảm nghèo. Phần lớn người dân có việc
làm, khiến tỉ lệ thất nghiệp tồn quốc thấp hơn các
nước khác trong cùng nhóm thu nhập trung bình. Tuy
nhiên, chất lượng việc làm ở Việt Nam không đồng đều.
Chỉ khoảng 2,1 triệu người làm việc cho doanh nghiệp
nước ngồi và 9,8 triệu người có hợp đồng lao động
trong khu vực nhà nước hoặc doanh nghiệp nội địa,

cịn phần lớn người dân khơng có cơng việc ổn định,
điều kiện làm việc không đạt chuẩn, và khơng có hợp
đồng lao động. Hơn 30 triệu người làm nơng nghiệp gia
đình hoặc hộ kinh doanh. Khoảng 8 triệu người khơng
có hợp đồng lao đồng. Nói cách khác, phần lớn việc làm
ở Việt Nam không ổn định, lương thấp, và năng suất
thấp (Cunningham và Pimhidzai 2018).
Phụ nữ nhìn chung thiệt thòi hơn nam giới trên thị
trường lao động, dù nguyên nhân của các dạng bất
bình đẳng này chưa được xác định rõ. Phụ nữ chiếm
đa số trong số lao động nơng nghiệp hộ gia đình và hộ
kinh doanh. Nếu xét về các lợi ích xã hội, đây là những
cơng việc được trả lương thấp nhất và ít được bảo vệ
nhất ở Việt Nam. Ngược lại, lao động nữ (làm th) có
nhiều khả năng được kí hợp đồng lao động cao hơn so
với nam giới. Nhưng họ được trả lương ít hơn 10 phần
trăm so với nam, thậm chí tới 12 phần trăm khi so giữa
nam và nữ có cùng trình độ học vấn và cùng cơng việc.
Số liệu cho thấy sự khác biệt về loại công việc, ngành
học, và hồn cảnh gia đình (tình trạng hơn nhân và vị
thế cha mẹ) gây nên những khoảng cách giới này. Cơ
chế tạo ra những yếu tố này, bộc lộ trong những trải
nghiệm thị trường lao động của phụ nữ, cũng như các
yếu tố khác có thể đang gây ra các khoảng cách giới
không được thể hiện trên số liệu của cuộc khảo sát định
lượng (Cunningham, Buchhave và Alidadi 2018).
Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (LĐ-TB-XH)
đang cải cách một số dịch vụ liên quan đến thị trường
lao động nhằm giải quyết những hạn chế trên thị trường
lao động và những vấn đề ảnh hưởng tới các nhóm lao

động cụ thể. Cụ thể hơn, Bộ LĐ-TB-XH gần đây đã tiếp
nhận hệ thống cơ sở giáo dục nghề nghiệp (CSGDNN)

và cam kết cải thiện chất lượng dịch vụ của hệ thống.
Bộ LĐ-TB-XH cũng đang nâng cấp các TTDVVL để hỗ
trợ người tìm việc tốt hơn. Bộ cũng đang nghiên cứu
sử dụng nguồn dữ liệu phong phú của mình để cung
cấp cho sinh viên, người tìm việc, và phụ huynh thơng
tin về đặc điểm và xu hướng của thị trường lao động
giúp họ lên kế hoạch về con đường sự nghiệp, cũng như
cung cấp thông tin cho các các CSGDNN và cơ sở giáo
dục, người làm chính sách để họ có thể tối ưu hóa thiết
kế chương trình của mình.
Vì các cản trở tạo ra bất bình đẳng giới nói trên chưa
được làm rõ nên các nhà hoạch định chính sách khơng
có nhiều cơ sở để thiết kế các chính sách và chương
trình giảm các dạng bất bình đẳng này. Có rất ít thông
tin về nhu cầu các loại hỗ trợ cụ thể của nam giới và
nữ giới đối với các chính sách can thiệp thị trường lao
động để giảm thất nghiệp và đặc biệt từ CSGDNN và
TTDVVL. Bằng chứng khơng chính thức cho thấy các
yếu tố tác động các quyết định trước khi tuyển dụng
– rốt cuộc sẽ ảnh hưởng tới quyết định chọn việc làm,
nhưng hiện khơng có số liệu đáng tin cậy về cách thức
cha mẹ ảnh hưởng tới lựa chọn nghề nghiệp của con cái
từ quan điểm giới. Ngoài ra, nhận thức của nhóm phụ
nữ dễ bị tổn thương hơn (như mẹ đơn thân, phụ nữ
dân tộc thiểu số, và phụ nữ khuyết tật) cũng chưa được
phân tích thực nghiệm. Nghiên cứu này sẽ tìm hiểu về
những vấn đề nói trên để đưa ra các khuyến nghị giúp

cho người làm chính sách thực hiện các chương trình
cải thiện thị trường lao động manh tính bao trùm và
có nhạy cảm giới cho mọi người lao động ở Việt Nam.
Nghiên cứu này sử dụng phương pháp nghiên cứu định
tính trong khoa học xã hội để phân tích cơ chế tạo ra
bất bình đẳng giới trong thị trường lao động Việt Nam.
Nghiên cứu tìm hiểu nhận thức của nam và nữ, so sánh
họ theo giới và các đặc điểm mỗi giới để hiểu rõ hơn
các trải nghiệm cá nhân, nhận thức, và quan điểm về
nhu cầu của nữ và nam có được việc làm phù hợp hồn
cảnh sống.
Phần 2 cung cấp thơng tin về môi trường thể chế và
pháp lý ở Việt Nam, cũng như tóm tắt các phát hiện về
bất bình đẳng giới tại thị trường lao động Việt Nam.

5


Phần 3 miêu tả các phương pháp định tính sử dụng
trong nghiên cứu, cụ thể là phương pháp phỏng vấn
cá nhân theo đoạn đời, thảo luận nhóm tập trung, và

phỏng vấn những người am hiểu tình hình. Phần 4
thảo luận về các phát hiện thực nghiệm, phần 5 dành
cho khuyến nghị chính sách.

Xu hướng thị trường lao động và bình đẳng giới
Việt Nam chỉ có thể đạt được mục tiêu trở thành nước có thu nhập trung bình, phát triển bao trùm, và dân chủ nếu xoá được
các khoảng cách giới về kinh tế và xã hội. Bình đẳng giới về việc làm được coi là một yếu tố then chốt để đạt được mục tiêu phát
triển này. Phụ nữ được tiếp cận và thành công trong các công việc hiện đại sẽ tạo ra tăng trưởng kinh tế, có thu nhập cao hơn, và

phát triển quyền tự quyết và tiếng nói của mình để đóng vai trị tích cực hơn trong cuộc sống chung và riêng.
Những xu hướng chuyển biến lớn đang xuất hiện có thể đe doạ hoặc chuyển đổi tích cực bối cảnh việc làm ở Việt Nam. Ví dụ,
sự gia tăng các ngành cơng nghiệp thâm dụng tri thức sẽ đòi hỏi các kỹ năng, quy trình sản xuất, và mơ hình xuất khẩu mới;
tình trạng già hoá dân số làm tăng nhu cầu dịch vụ chăm sóc từ nhóm dân số trong độ tuổi lao động nhưng đang giảm đi về số
lượng; và tự động hố có thể thay thế vị trí một số cơng nhân và chuyển đổi hình thái cơng việc của số công nhân khác. Cơ cấu
việc làm ở Việt Nam chưa đủ khả năng thích ứng với những xu hướng lớn này. Phần lớn việc làm ở Việt Nam đến từ nơng nghiệp
hộ gia đình, hộ kinh doanh, hoặc lao động kỹ năng thấp nên không thể giúp người lao động chuyển sang cơng việc tốt hơn. Rất
ít việc làm có khả năng nắm bắt những xu hướng lớn: chỉ 2,2 triệu việc làm từ doanh nghiệp nước ngoài trả cao hơn mức lương
tối thiểu, trong khi các doanh nghiệp nội địa tạo ra không quá sáu triệu việc làm. Tuy nhiên, các hành động chính sách có thể hỗ
trợ các phân khúc của nền kinh tế có khả năng tận dụng các xu hướng lớn để tạo ra nhiều việc làm hơn, tốt hơn, và mang tính
bao trùm hơn. Có ba lĩnh vực cần cải cách: (1) tạo ra nhiều việc làm hơn trong phân khúc cần nhiều việc làm của khu vực hiện
đại, cụ thể thông qua doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam, công-nông nghiệp và chuỗi giá trị; (2) nâng cao chất lượng việc
làm trong khu vực truyền thống như nơng nghiệp hộ gia đình và hộ kinh doanh; và (3) kết nối lao động có trình độ với cơng việc
phù hợp, điều này địi hỏi kết hợp nâng cao kỹ năng, kết nối công việc với người lao động, và giảm rào cản đối với công việc.
Các xu hướng lớn mới được tin là sẽ tạo ra những rủi ro và cơ hội mới xoay quanh việc làm cho phụ nữ Việt Nam. Xu hướng nhân
khẩu học sẽ tạo ra nhiều việc làm ‘cổ hồng’ dưới hình thức dịch vụ chăm sóc người cao tuổi theo nhu cầu thị trường. Sự trỗi dậy
của nền kinh tế tri thức có thể mang lại lợi ích cho nữ giới hiện đang có tỷ lệ học vấn cao hơn nam giới. Tuy nhiên, nếu không
được quản lý tốt, chính những xu hướng này có thể đe dọa những tiến bộ mà phụ nữ đã đạt được. Già hoá dân số có thể buộc
phụ nữ dành nhiều thời gian chăm sóc gia đình hơn, do đó giảm thời gian cho công việc. Sự trỗi dậy của nền kinh tế tri thức có
thể bỏ qua phụ nữ, vì họ ít tham gia hơn nam giới vào các ngành học và công việc liên quan tới khoa học, công nghệ, kỹ thuật
và toán (STEM).
Hơn nữa, tác động của đại dịch COVID19 đang có dấu hiệu làm tăng tình trạng bất bình đẳng giới. Số liệu ban đầu cho thấy các
lĩnh vực bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi COVID19 đều sử dụng nhiều lao động nữ. Theo một phân tích vào tháng 4 năm 2020 của
Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), những ngành công nghiệp bị ảnh hưởng nặng nề nhất từ những tháng đầu bùng phát dịch
Covid sử dụng tới 64 phần trăm lao động nữ, gồm dịch vụ lưu trú và ăn uống, sản xuất; bán buôn, bản lẻ và sửa chữa; giao thông
vận tải; nghệ thuật và giải trí (Tổ chức Lao động Quốc tế 2020). Theo đánh giá của Tổ chức Phụ nữ Liên Hiệp quốc và Chương
trình Phát triển Liên hiệp quốc (tháng 6 năm 2020), tác động giới lớn nhất do COVID-19 gây cho hộ gia đình dễ bị tổn thương là
sự nhấn mạnh vào vai trò giới và định kiến giới, làm tăng vai trò và trách nhiệm của phụ nữ trong hộ gia đình và do đó tăng tình
trạng mất cân bằng của phụ nữ giữa vai trị trong gia đình và vai trị trên thị trường, vốn có từ trước đại dịch COVID19.
(Trích từ Cunningham, Buchhave, Alidadi 2018, “Tương lai Việc làm ở Việt Nam dưới Góc nhìn Giới”, Ngân hàng Thế giới. Ngồi ra, các

trích dẫn từ các nguồn khác đều được ghi rõ).

6


2. BỐI CẢNH VIỆT NAM

2.1. Thách thức liên quan bất bình đẳng giới
Trong những năm gần đây, Chính phủ Việt Nam được
thế giới cơng nhận đã có nhiều thành tựu đáng kể
trong thúc đẩy bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ.
Những thành tựu này gồm xây dựng và ban hành các
luật thể hiện nguyên tắc bình đẳng giới, và Việt Nam
cũng giảm bất bình đẳng giới nhanh hơn hầu hết các
nước đang phát triển trong 20 năm qua (Chương trình
Phát triển Liên hiệp quốc, 2018). Việt Nam cũng đạt
được Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỉ về trao quyền
cho phụ nữ và thúc đẩy bình đẳng giới.
Việt Nam có tỷ lệ tham gia lực lượng lao động tương
đối cao ở cả nam và nữ: trung bình 76,2 phần trăm so
với 63 phần trăm của Hàn Quốc và 66,7 phần trăm của

HÌNH 2.1. Tham gia lực lượng lao động ở Việt Nam
Tổng số %
78,8

76,9

76,4


73,24

17
/20
10
ng

7/2
ng
Th
á

Th
á

/20

01

7

16

6

10

7/2

01


6

ng

01

Th
á

4/2

1/2

01

ng
Th
á

/20

76,8

73,2

6

15


ng
Th
á

5

10
ng
Th
á

7/2

01

5

ng

01

76,7

73,2

Th
á

Phụ nữ %


ng

73,38

4/2

77,5

76,4

76,2

Th
á

77,3

ng

Tuy nhiên, Việt Nam vẫn đang đối mặt với nhiều thách
thức. Thành tựu giảm nghèo chưa bền vững, đặc biệt
ở khu vực nông thôn và dân tộc thiểu số. Tăng trưởng
năng suất lao động vẫn duy trì ở mức cao trong tồn bộ
nền kinh tế và trong các ngành nhưng trong nông nghiệp
thấp hơn so với hầu hết các nước trong cùng nhóm thu
nhập trung bình (Ngân hàng Thế giới, 2017). Bức tranh
tổng thể về việc làm tích cực vẫn tiềm ẩn những vấn đề
nghiêm trọng. Nhiều người Việt Nam đang làm công việc
gia đình khơng được trả lương, cơng nhân được trả lương
khơng có hợp đồng lao động, lao động thời vụ, hoặc lao

động tạm thời trong các cơng việc có thời gian làm việc
dài và khơng thường xun, khơng có bảo hiểm xã hội, và
thu nhập bấp bênh. Việc tự làm phi chính thức vẫn phổ
biến, với gần 60 phần trăm lao động làm chủ các hộ kinh
doanh trong lĩnh vực nông nghiệp và phi nông nghiệp.
Việc làm của nam và nữ có sự khác biệt: trong khi lao
động nữ tuổi từ 15 tới 24 làm việc trong khu vực chính
thức nhiều hơn nam, họ cảm thấy rất khó tìm được việc
làm trong khu vực chính thức khi tái gia nhập thị trường
lao động sau thời gian nghỉ việc để chăm lo cho gia đình.

Indonesia. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của phụ nữ
Việt Nam ở mức cao, đạt 73,2 phần trăm (Tổ chức Lao
động Quốc tế, 2018), khẳng định tầm quan trọng của
việc tham gia lực lượng lao động của phụ nữ (hình 2.1).

Th
á

Việt Nam đã được nhiều thành tựu kinh tế và xã hội kể từ
công cuộc cải cách kinh tế năm 1986 (Vu 2016). Từ một
nước nghèo, Việt Nam đã vươn lên trở thành nước có thu
nhập trung bình vào năm 2015. Tỉ lệ nghèo giảm nhanh.
Tỷ lệ dân số sống dưới mức 1,90$/ngày giảm từ 50 phần
trăm đầu thập niên 1990 xuống còn 3 phần trăm năm
2016 (IBRD và MPI, 2016). Mọi lĩnh vực đời sống xã hội,
gồm giáo dục và y tế, đều phát triển. Khả năng tiếp cận cơ
sở hạ tầng cơ bản, điện, nước, và điều kiện vệ sinh hiện
đại được cải thiện đáng kể. Công nghệ thông tin và truyền
thông cũng tăng trưởng nhanh, là động lực quan trọng để

duy trì và thúc đẩy sức cạnh tranh của nền kinh tế.

Nguồn: Tác giả dựa theo Tổ chức Lao động Thế giới 2018.

Do đó, thách thức liên quan tới bất bình đẳng giới trên thị
trường lao động không phải là vấn đề tham gia làm việc
mà là vấn đề chất lượng việc làm. Một cơng việc có chất
lượng cao được xác định bởi điều kiện làm việc tốt và ổn
định, thời gian làm việc ổn định, lương đều đặn, khơng
có cơng việc không được trả lương; nhưng bằng chứng
cho thấy nhiều phụ nữ không nhận được các công việc
như vậy (Cunningham và Pimhidzai 2018). Còn tồn tại
khoảng cách giới đáng kể trong việc phân bổ việc làm theo
ngành và lĩnh vực, theo khu vực địa lý, giữa các nhóm dân
tộc và giữa các tầng lớp xã hội. Mặc dù Bộ Luật Lao động
quy định doanh nghiệp phải thực hiện các chính sách
bình đẳng giới với người lao động, nhưng bằng chứng cho
thấy thực tế khơng diễn ra như Luật định.
Trong khi đó, tình trạng chênh lệch tiền lương theo giới
cịn phổ biến, lao động nữ có thu nhập thấp hơn nam ở
hầu hết các lĩnh vực ngành nghề. Năm 2015, thu nhập
của lao động nữ thấp hơn 10 phần trăm so với nam;
mức chênh lệch lương tang lên 12 phần trăm khi so sánh
nam và nữ cùng trình độ học vấn trong cùng ngành.
Chowdhury và cộng sự (2018) lượng hóa tình trạng này,
cho thấy lao động nữ kiếm được ít hơn nam ba triệu đồng
(129 đô-la)/năm – tức là gần một tháng thu nhập. Dù nữ
giới có trình độ học vấn cao và tốt nghiệp các đại học trên
toàn quốc, nhưng lao động nữ vẫn có xu hướng tập trung
vào các ngành sản xuất trả lương thấp hơn, trong ngành

may mặc và giày dép; trong ngành dịch vụ, như thương
mại, nhà hàng, khách sạn; trong lĩnh vực giáo dục, và
giúp việc gia đình được trả lương (Cunningham và cộng
sự 2018b).
7


HÌNH 2.2. Chênh lệch tiền lương theo giới
-10

Phần trăm

-11
-12

-12,6

-13
-14
-15
-16

-14,3

-14,2

2012

2013


-15,4
2011

2014

Năm
Nguồn: Demombynes và Testaverde, 2018.
Ghi chú: Ước tính có tính tới các phân bổ khác nhau giữa nam và nữ về
nhân khẩu, giới, và nghề nghiệp.

2.2. Môi trường kinh tế, thể chế, và pháp lý
Tính đến năm 2015, 50,4 triệu người tham gia thị
trường lao động Việt Nam, đồng đều nam và nữ.
Khoảng 30 triệu người làm nông nghiệp và làm cho gia
đình (Cunningham và Pimhidzai 2018); trong số những
người làm cơng ăn lương, gần một nửa khơng có hợp
đồng lao động. Mức lương trung vị theo giờ của người
lao động không có hợp đồng trong các doanh nghiệp
tư nhân thấp hơn khoảng 30 phần trăm so với mức của
những người có hợp đồng. Người lao động trong các
doanh nghiệp nhà nước hoặc các cơ quan chính phủ có
mức lương trung vị cao nhất, nhưng chỉ khu vực công
chỉ chiếm 10 phần trăm lực lượng lao động.
Mặc dù nhiều việc làm mới đã được tạo ra, nhưng có
tới 76 phần trăm người lao động vẫn đang làm công
việc chất lượng thấp, đặc trưng bởi những lương không
đều, thời gian làm việc dài và khơng có phúc lợi xã hội
(Cunningham và Pimhidzai 2018). Người lao động tự
làm và lao động khơng có hợp đồng đều không được
hưởng các phúc lợi xã hội hoặc bảo hiểm y tế. Dù 85

phần trăm người lao động có hợp đồng có cả bảo hiểm y
tế và bảo hiểm xã hội, số người này chỉ chiếm một phần
nhỏ trong số người lao động trên toàn quốc. Tỷ lệ phụ nữ
có bảo hiểm cao hơn một chút so với nam giới.
Trình độ học vấn của người lao động có liên hệ với việc có
việc làm có hợp đồng, quyền lợi và / hoặc bảo hiểm. Theo
Khảo sát Lực lượng Lao động Việt Nam năm 2014, trong
khi dưới 25 phần trăm người lao động có trình độ trung
học cơ sở có hợp đồng lao động thì hơn 80 phần trăm
người lao động có trình độ đại học hoặc cao đẳng có hợp
đồng. Lao động dân tộc thiểu số thường có trình độ học
2
3
8

vấn thấp hơn và do đó làm việc trong những điều kiện
kém hơn. Trong số thanh niên từ 20 đến 35 tuổi có trình
độ học vấn cao, nam có việc làm có tay nghề chun mơn
nhiều hơn nữ mặc dù nữ có nguyện vọng nghề nghiệp
giống hoặc thậm chí cao hơn nam. Trong ngắn hạn, Việt
Nam cần thu hẹp khoảng cách giới và xóa bỏ các chuẩn
mực giới trong thị trường lao động khi chính thị trường
lao động đang thay đổi, và các em gái có thể sẽ mất thêm
các cơ hội có được các kỹ năng cần thiết.

Tính tới tháng 4/2019 (Tổng điều tra dân số), Hà Nội có 8,05 triệu dân.
/>
2.3. Bất bình đẳng giới tại các địa phương
trên thị trường lao động
Nghiên cứu này phân tích nhận thức về bất bình đẳng

giới tại thị trường lao động Việt Nam và về vai trò của
các chương trình can thiệp thị trường lao động trong
việc duy trì hoặc làm giảm các dạng bất bình đẳng giới
này. Phân tích tập trung vào hai thành phố lớn nhất ở
Việt Nam là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh (TP.
HCM), và hai tỉnh Quảng Nam và Điện Biên. Hà Nội
và TP HCM là động lực phát triển của cả nước, tập
trung những cơ hội có thu nhập cao nhất và những
công việc năng suất cao nhất. Ngược lại, Điện Biên và
Quảng Nam là địa bàn nông thôn chủ yếu. Vì bối cảnh
của bốn địa phương này rất khác nhau, nên cần xem
xét sâu hơn đặc điểm của từng địa phương.
Hà Nội. Khơng chỉ là trung tâm chính trị, văn hố,
và khoa học, thủ đơ Hà Nội đóng vai trị quan trọng
trong kinh tế và thương mại quốc tế. Năm 2017, dân
số Hà Nội khoảng 7,6 triệu người. Thành phố có tốc
độ đơ thị hố nhanh, với mật độ dân cư trung bình
ở trung tâm đơ thị là 11.220 người/km2. Năm 2017,
Hà Nội có 3,8 triệu người lao động, với tỷ lệ tham gia
lực lượng lao động đạt 67,8 phần trăm (Cục Thống kê
Hà Nội 2017)2. Tỷ lệ tham gia thị trường lao động của
nữ gần bằng với nam. Trong cùng năm, 48.812 người
đang hưởng trợ cấp thất nghiệp hàng tháng, tăng
23,01 phần trăm so với năm 2016. Trong khi đó, 1.900
người đủ điều kiện được hỗ trợ học nghề, giảm 11,5
phần trăm so với năm 20163.
Hà Nội là trung tâm giáo dục của Việt Nam. Đến cuối năm
2017, Hà Nội có khoảng 2.600 trường, phần lớn là cơng
lập nhưng số lượng trường dân lập ngày càng tăng. Trong
những năm gần đây, trung bình mỗi hộ gia đình ở thành

phố có từ một đến hai con. Khi kinh tế gia đình cải thiện,
nhiều trẻ em, gồm cả nam và nữ, đã có thể học lên trung
cấp, cao đẳng, và đại học. Tuy nhiên, con em hộ nghèo, cận
nghèo và thu nhập trung bình vẫn khó chi trả học phí ở
bậc cao đẳng, đại học, và dạy nghề, kể cả được giảm.


BẢNG 2.1. Chỉ tiêu lao động của Hà Nội năm 2017
Chỉ số
Tổng dân số
Số nữ
Tỷ lệ
Số lao động từ 15 tuổi trở lên
Tỷ lệ phần trăm nữ
Phân bố dân cư năm 2017
Khu vực thành thị
Khu vực nông thôn
Tỷ lệ nữ ở khu vực thành thị
Tỷ lệ nữ ở khu vực nông thôn
Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo

7.654.800
3.834.400
50,09
3.800.000
50,05
3.800.000
2.000.000
1.800.000
53,1

46,9
60,7

Nguồn: Niên giám Thống kê Hà Nội năm 2016, 2017.

Thành phố Hồ Chí Minh. TP HCM là trung tâm kinh
tế lớn nhất cả nước, ở khu vực Đông Nam bộ. Năm
2017, các ngành dịch vụ như thương mại, tài chính,
ngân hàng, bảo hiểm, du lịch, thông tin và truyền
thông, và vận tải đóng góp 58,3 phần trăm GDP, tiếp
theo là cơng nghiệp và xây dựng chiếm 24,8 phần trăm
và nông nghiệp chỉ chiếm 0,8 phần trăm tổng GDP của
Thành phố (Ủy ban Nhân dân TP HCM, 2017).
TP HCM hiện có hơn 4 triệu lao động. Từ 2011 đến
2015, lực lượng lao động tăng 3,5 phần trăm mỗi năm,
với 619.169 công việc mới được tạo ra, trong đó có
310.703 việc làm do phụ nữ đảm nhiệm. Nhờ vậy, tỷ lệ
thất nghiệp giảm từ 4,73 phần trăm năm 2011 xuống 4,5
phần trăm năm 2015 (Uỷ ban Nhân dân TP HCM 2016).

BẢNG 2.2. Chỉ tiêu lao động chính của TP HCM,
2016-2017
Chỉ tiêu
Tổng dân số (số người)
Trong đó: Nữ (số)
Dân số trong độ tuổi lao động
(số)
Lực lượng lao động (số)
Tỷ lệ tham gia lực lượng lao
động (%)

Tổng số lao động

2016
8.441.902
4.400.261
5.965.753

2017
8.561.608
4.524.435
6.207.115

4.335.659
72,7

4.513.193
72,7

4.223.996

4.295.163

Nguồn: Niên giám thống kê TP HCM 2016 và 2017. Cục Thống kê TP HCM.
Nhà xuất bản Thanh Niên.

4
5
6

Theo số liệu năm 2017, ngành dịch vụ có nhu cầu lao

động cao nhất, đặc biệt là về lao động phổ thông hoặc
kỹ năng thấp, tương đương 32,1 phần trăm so với 27,2
phần trăm đối với lao động tốt nghiệp cao đẳng, đại
học hoặc sau đại học. Cùng năm, tỷ lệ thất nghiệp
của TP HCM xuống dưới 4 phần trăm (Uỷ ban Nhân
dân TP HCM 2016). Mặc dù số người đăng ký hưởng
trợ cấp thất nghiệp tăng nhưng số người tìm việc đến
TTDVVL lại giảm.4 Cuộc cạnh tranh tìm việc ở thành
phố rất khốc liệt, mỗi ứng viên phải cạnh tranh với 48
người khác cho một vị trí tuyển dụng.5 Nhu cầu lao
động năm 2017 tập trung trong lĩnh vực kinh doanh
và bán hàng (19,48 phần trăm); dịch vụ và ăn uống
(15,54 phần trăm); vận tải, kho bãi, xuất nhập khẩu
(7,1 phần trăm); dệt may và giày dép (6,63 phần trăm).
So với Hà Nội, TP HCM đã tiên phong phát triển
và hiện thực hoá các sáng kiến thúc đẩy bình đẳng
giới bằng nhiều cách. Đặc biệt, thành phố đã mở
rộng cung cấp dịch vụ giữ trẻ thông qua 91 cơ sở
giáo dục mầm non công lập và đã phát triển các dự
án xây trường mầm non tại 12 khu công nghiệp và
khu chế xuất. Thành phố hỗ trợ tài chính giúp thành
lập các trường tư và các nhóm trẻ độc lập tư thục.
Thành phố cũng có những chính sách trợ cấp cho
cán bộ, nhân viên nhà trẻ, mẫu giáo, thậm chí cho vay
khơng lãi suất đối với sinh viên cam kết làm cho các
trường công lập của thành phố sau khi tốt nghiệp. 6
Một số trường đại học, như Đại học Sư phạm TP
HCM giảm học phí cho sinh viên nữ học ngành STEM
(khoa học, công nghệ, kỹ thuật và tốn) hoặc kỹ thuật
điện tử, cơ khí tự động, kỹ sư xây dựng hoặc xây dựng

trong giao thông, vận tải, những môn học không phổ
biến với nữ. Năm 2015, có 253 phụ nữ trong tổng số
624 nhà khoa học làm việc ở lĩnh vực nghiên cứu,
phịng thí nghiệm, và những ngành dịch vụ liên quan
tại 11 cơ sở khoa học và công nghệ. Hơn nữa, trong số
4.896 thạc sỹ có 2.454 phụ nữ và trong 233 tiến sỹ có
69 phụ nữ (Uỷ ban Nhân dân TP HCM 2016).
Quảng Nam. Là tỉnh miền Trung, Quảng Nam là khu
kinh tế quan trọng vì toạ lạc ở khu vực địa lý thuận lợi
cho việc kết nối các vùng của Việt Nam với thế giới.
Quảng Nam có Chu Lai là khu kinh tế duyên hải đầu
tiên ở Việt Nam. Quảng Nam còn được biết đến bởi
những cánh rừng bạt ngàn và sản phẩm truyền thống
như quế và gừng. Năm 2017, nông lâm ngư nghiệp
chiếm 10,2 phần trăm GDP so với 89,8 phần trăm từ
khu vực phi nông nghiệp, gồm công nghiệp, xây dựng

Thông tin từ buổi phỏng vấn ông Trần Xuân Hải, Giám đốc TTDVVL TP HCM.
Trung tâm dự báo nhu cầu nhân lực và thông tin thị trường lao động TP HCM (2017). Báo cáo phân tích thị trường lao động 2017 và dự báo
nhu cầu nhân lực cho năm 2018 tại TP HCM (Số 424/BC – TTDBNL).
Nghị quyết Hội đồng Nhân dân TP HCM 13/2016/NQ-HĐND về việc hỗ trợ giáo dục mầm non.
9


và dịch vụ (Cục Thống kê Quảng Nam 2017). Du lịch
phát triển mạnh và từng bước trở thành ngành kinh tế
mũi nhọn của tỉnh. Năm 2017, có 6.000 doanh nghiệp
du lịch hoạt động.
Năm 2017, dân số Quảng Nam ước tính đạt 1,4 triệu
người, trong đó nữ chiếm 51 phần trăm. Qng Nam

có ít nhất 19 dân tộc thiểu số chung sống hịa bình,
gồm Kinh, Hoa, Cơ Tu, Xơ Đăng, Giẻ Triêng, và Co.7
Năm 2017, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên là
912.700 người, trong đó 887.200 lao động có việc làm
và 25.500 người thất nghiệp. Nữ giới chiếm tỷ lệ cao
hơn (51 phần trăm) so với nam giới (49 phần trăm)
trong lực lượng lao động. Chỉ có 23 phần trăm việc
làm ở thành thị và số lao động ở thành thị được đào
tạo chính thức nhiều gấp đơi so với nông thôn. Trong
quý IV năm 2017, tỷ lệ thất nghiệp trong dân số độ
tuổi lao động trong tỉnh chiếm 3,3 phần trăm – trên
3,6 phần trăm ở thành thị và khoảng 2,7 phần trăm ở
nông thôn (Cục Thống kê Quảng Nam 2017).
Quảng Nam có nhiều khu cơng nghiệp, lao động địa
phương không đủ cung cấp cho các vị trí tuyển dụng.
Giai đoạn 2013 – 2018, số lượng khu công nghiệp ở
tỉnh tăng nhanh, kéo theo nhu cầu lớn về lao động
trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ. Các doanh
nghiệp rất thiếu lao động phổ thông và kỹ năng cao.
Doanh nghiệp cần hàng ngàn lao động phổ thông
nhưng nguồn cung lao động hiện tại chỉ đáp ứng được
một phần ba nhu cầu. Trường đại học địa phương
cũng không đáp ứng đủ nhu cầu lao động trình độ cao
đang ngày một tăng. Theo các nhà quản lý nhân sự
và bên sử dụng lao động, thanh niên địa phương tốt
nghiệp khơng đủ kỹ năng và trình độ cơng nghệ theo
u cầu của doanh nghiệp lớn. Họ cho rằng những
thanh niên mới tốt nghiệp thiếu kỹ năng chuyên môn
và ngôn ngữ, có thái độ làm việc kém. Để thu hẹp
khoảng cách giữa cung và cầu, các công ty tuyển dụng

phải đào tạo nhân viên mới, nhưng hoạt động này lại
tốn thời gian, cơng sức và chi phí.
Vài năm trước, Quảng Nam có hàng chục ngàn lao
động rời đi làm việc ở các tỉnh và thành phố khác
trong và ngoài nước. Những năm gần đây, Quảng
Nam đón nhận dịng di dân về quê nhà và làm việc
trong những khu công nghiệp mới. Các doanh nghiệp
Quảng Nam trả lương ngang các doanh nghiệp ngồi
tỉnh dù chi phí sinh hoạt ở địa phương thấp hơn.

7
8

10

BẢNG 2.3. Chỉ tiêu lao động của tỉnh Quảng Nam
2016-2017
Chỉ tiêu

2016

Dân số
1.487.721
Nữ (phần trăm)
51,0
Lực lượng lao động (số)
903.500
Nữ (phần trăm)
50,0
Lực lượng lao động ở thành thị và nông thôn

Thành thị (số)
203.427
Nông thôn (số)
700.073
Người lao động từ 15 tuổi
879.977
trở lên
Nữ (phần trăm)
--Thành thị (số)
194.622
Nông thôn (số)
685.355
Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo (phần trăm)
Tổng số
18,2
Nam
20,5
Nữ
16,1
Thành thị
32,1
Nông thôn
14,2
Tỷ lệ thất nghiệp (phần trăm)
Tổng số
2,6
Nam
2,8
Nữ
2,4

Thành thị
4,3
Nơng thơn
2,1

2017
(ước tính)
1.494.000
51,0
912.700
50,1

887.200
----------------3,3
----3,6
2,7

Nguồn: Niên giám thống kê Quảng Nam 2016, 2017.

Lãnh đạo tỉnh Quảng Nam cho biết tỉnh đang triển khai
những giải pháp phát triển nguồn nhân lực bao trùm tập
trung tạo nhiều việc làm mới và cấu trúc lại lực lượng lao
động. Tỉnh chú trọng cải thiện chất lượng nguồn nhân
lực trong ba lĩnh vực chính: (1) lãnh đạo và quản lý; (2)
nhân sự khoa học và cơng nghệ; và (3) đội ngũ trí thức
và lao động nhân tay nghề cao nhằm đáp ứng yêu cầu
hội nhập và phát triển. Tỉnh đang tiếp tục sửa đổi, hồn
thiện thể chế và chính sách thu hút, tuyển dụng nhân tài,
đặc biệt trong những lĩnh vực còn thiếu hụt. Tỉnh cũng
đang triển khai các dự án dạy nghề cho lao động nơng

thơn (Cục Thống kê Quảng Nam, 2017).8
Chỉ có một TTDVVL công lập ở Quảng Nam, hoạt
động dưới sự quản lý của Sở LĐ-TB-XH với hai chi
nhánh và không có cơ sở tư nhân. Những hoạt động
chính của TTDVVL gồm thu thập thơng tin vị trí

/>Ngày 14/10/2016, tỉnh Quảng Nam ban hành Quyết định số 3577/QĐ-UBND, quy định chính sách hỗ trợ chương trình, dự án dạy nghề trọng
điểm trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2016-2020.


cần tuyển dụng trong và ngoài tỉnh; khảo sát nhu cầu
lao động trong tỉnh; vận hành và duy trì trang mạng
tuyển dụng và tìm việc; cập nhật cơ sở dữ liệu cung và
cầu lao động cho tỉnh. Trung tâm cũng cung cấp dịch
vụ tư vấn nghề và dạy nghề.
Điện Biên. Là tỉnh miền núi Tây Bắc, Điện Biên giáp
Vân Nam (Trung Quốc) ở phía Tây Bắc, giáp Lào phía
Tây và Tây Nam. Tây Trang từ lâu đã là cửa khẩu quan
trọng giữa Trung Quốc và vùng Tây Bắc Việt Nam.
Một khu kinh tế đang xây dựng có thể biến khu vực
này thành điểm trung chuyển chính trên tuyến đường
xuyên Á phía Bắc nối Tây Bắc Việt Nam với Bắc Lào,
Tây Nam Trung Quốc và Đông Bắc Myanmar.
Năm 2017, dân số tỉnh Điện Biên là 566.953, nữ chiếm
một nửa. Điện Biên có dân số tương đối trẻ, một phần
ba dân số dưới 15 tuổi và chỉ có 10 phần trăm trên tuổi
nghỉ hưu, tuổi nghỉ hưu của nam là 60 và của nữ là 55
(Cục Thống kê Điện Biên, 2017). Tỉnh có 19 nhóm dân
tộc, gồm Thái, H’Mong, Kinh, Dao, Khơ Mú, Hà Nhì,
Hoa, Kháng, Mường, Cống, Xinh Mun, Si La, Nùng,

Phù Lá, Thổ, Tày và Sán Chay.
Điện Biên có hơn 312.000 lao động, 49 phần trăm là nữ
và 17,6 phần trăm làm việc ở thành thị. Tỷ lệ thất nghiệp
là 0,5 phần trăm, nam gần như không thất nghiệp (0,1
phần trăm) và chỉ 1,1 phần trăm nữ đang tìm việc. Thất
nghiệp ở thành thị cao hơn 20 lần (2,9 phần trăm) so với
nông thôn. Năm 2017, 64 phần trăm lao động làm trong
lĩnh vực nông nghiệp (Cục Thống kê Điện Biên 2017).
Điện Biên chỉ có một TTDVVL (đơn vị nhà nước)
thuộc Sở LĐ-TB-XH, với ba chi nhánh tại huyện
Mường Chà, Điện Biên Đơng và Tủa Chùa. Hoạt động
chính của Trung tâm là phổ biến thông tin thị trường
lao động: các vị trí tuyển dụng của các doanh nghiệp
trong và ngồi tỉnh, thu thập khảo sát số liệu về nhu cầu
lao động trong tỉnh, phổ biến thông tin tuyển dụng cho
người tìm việc qua trang mạng. Năm 2017, trung tâm
tìm được việc làm cho 461 lao động, trong đó 81 cơng
việc ngoài tỉnh và 34 trong tỉnh.
Cơ hội việc làm của Điện Biên cịn hạn chế nên chính
quyền địa phương khuyến khích xuất cư9. Hầu hết đối
tượng xuất cư là nam thanh niên. Người dân tộc thiểu
số, lao động trung niên và phụ nữ đã kết hơn khơng
muốn làm việc ngồi tỉnh. Hầu hết di cư trong nước.

9

Mặc dù gần Trung Quốc, nhưng ít người sang nước
ngồi làm việc theo đường chính thức. Năm 2017, chỉ
có 30 lao động di cư hợp pháp sang làm việc ở Nhật và
Malaysia, khơng có số liệu về di cư khơng chính thức.

Có rất ít cơ hội làm việc có hợp đồng ở nước ngồi cho
người dân Điện Biên do hạn chế về trình độ chuyên
môn, nhận thức thấp, rào cản ngôn ngữ và khác biệt về
văn hoá. TTDVVL Điện Biên cho biết hầu hết lao động,
đặc biệt là dân tộc thiểu số và người dân nông thôn,
không đủ tự tin để làm việc ở nước ngoài theo các quy
định trong hợp đồng lao động.
Lực lượng lao động Điện Biên có kỹ năng thấp. Cơng
nhân có trình độ giáo dục và chun mơn thấp. Phụ nữ,
đặc biệt là phụ nữ dân tộc thiểu số, gặp nhiều khó khăn
hơn về ngơn ngữ, văn hố, phong tục và tập quán.

BẢNG 2.4. Chỉ tiêu lao động của tỉnh Điện Biên năm
2017
Chỉ tiêu
Dân số (số)
Nữ (phần trăm)
Lực lượng lao động (số)
Nữ (phần trăm)
Lực lượng lao động thành thị/nông thôn
Thành thị (số)
Nông thôn (số)
Người lao động từ 15 tuổi trở lên hàng năm,
tính đến 01/07/2017 (số)
Nữ (phần trăm)
Thuộc nhà nước
Thuộc ngồi nhà nước
Thuộc khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
Tổng tỷ lệ lao động đã qua đào tạo
(phần trăm)

Nam (phần trăm)
Nữ (phần trăm)
Thành thị (phần trăm)
Nông thôn (phần trăm)
Tổng tỷ lệ thất nghiệp (phần trăm)
Nam (phần trăm)
Nữ (phần trăm)
Thành thị (phần trăm)
Nơng thơn (phần trăm)

2017
(ước tính)
563.000
50,0
320.000
48,5
48.000
272.000
312.580
49,0
15,0
86,0
0,0
23,0
26,4
19,6
61,0
18,2
0.5
0,1

1,1
2,9
0.13

Nguồn: Niên giám Thống kê Điện Biên, năm 2016 và 2017.

Các doanh nghiệp ngoại tỉnh đến Điện Biên tuyển lao động nhưng thấy trình độ học vấn và kỹ năng của lao động địa phương khơng đáp
ứng nhu cầu của họ. Tuy nhiên, chính quyền tỉnh Điện Biên đã thực hiện các chính sách khuyến khích người dân di cư tìm việc làm, như hỗ trợ
người tìm việc nộp hồ sơ vào các khu cơng nghiệp và doanh nghiệp ngồi tỉnh hoặc tặng vé tàu, xe đi các tỉnh.

11


3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu này tập trung tìm hiểu khó khăn và thách
thức của phụ nữ khi tham gia hoặc rời thị trường lao
động. Thông quan thu thập dữ liệu định tính, nghiên
cứu tìm hiểu kinh nghiệm, động cơ, và ý kiến về các
xu hướng quan sát từ các nhóm nhỏ được lựa chọn
cẩn thận. Vì số lượng mẫu nghiên cứu nhỏ nên nhóm
nghiên cứu đã lưu ý cân nhắc thực tế là phụ nữ Việt
Nam đa dạng và khác nhau theo các yếu tố tuổi tác,
tình trạng hôn nhân, giáo dục, dân tộc, và các đặc điểm
khác. Sự cân nhắc này ảnh hưởng tới quyết định cách
thu thập dữ liệu cần thiết hiệu quả nhất10,11.
Chất lượng dữ liệu được đảm bảo thơng qua một quy
trình bốn bước. Bước một, thực hiện phỏng vấn theo
đoạn đời với 24 cá nhân có trình độ học vấn và thu
nhập khác nhau, đây là hai yếu tố được các tài liệu ghi
nhận góp phần củng cố bất bình đẳng xã hội. Tuổi tác

cũng được cân nhắc trong việc lựa chọn đối tượng
phỏng vấn. Ví dụ, phỏng vấn đoạn đời thực hiện với
hai phụ nữ, một người khơng có tay nghề sống tại
vùng quê nghèo Hà Nội, và một người là giáo viên có
trình độ chun mơn cao sống trong một ngơi nhà tiện
nghi. Hai người phụ nữ cùng độ tuổi nhưng có hai câu
chuyện cuộc đời khác nhau. Tiểu sử của bạn nam và nữ
mới tốt nghiệp đại học cũng được xem xét khi tìm hiểu
các rào cản cụ thể trên cơ sở giới.
Bước hai, các hướng dẫn kết cấu theo chủ đề được biên
soạn cho thảo luận nhóm tập trung, và chiến lược chọn
mẫu cũng được lập để chọn đối tượng tham gia thảo luận
nhóm. Dựa trên các cuộc phỏng vấn theo đoạn đời, đối
tượng tham gia thảo luận nhóm được phân tầng theo
giới, tuổi, dân tộc, học vsấn, tình trạng việc làm, tình
trạng hơn nhân, và địa phương. Các yếu tố khác cũng
được cân nhắc trong việc lựa chọn mẫu, như chủ doanh
nghiệp vừa và nhỏ, hoặc lớn, người khuyết tật hoặc
người dân tộc thiểu số. Việc thực hiện các cuộc thảo
luận với các nhóm tương phản với các nhóm đối tượng
nghiên cứu chính cũng hết sức cần thiết, như thảo luận
với nhóm nam có đặc điểm tương đồng với nhóm nữ.

Bảng 3.1 trình bày thành phần chi tiết đặc điểm quan
sát được của 32 nhóm thảo luận.
Bước ba, một nhóm nghiên cứu của Viện KHLĐXH của
Bộ LĐ-TB-XH đã tổ chức, thực hiện, và ghi chép nội
dung các cuộc thảo luận nhóm tập trung. Mỗi nhóm
thảo luận có một người điều hành với nhiệm vụ khuyến
khích người tham gia thảo luận các chủ đề chung và

hạn chế ảnh hưởng của bản thân đối với cuộc thảo luận
(Weimann-Sandig, 2014). Một thư kí ghi chép nội dung
thảo luận và hỗ trợ người điều hành các công tác hậu
cần. Người điều hành và thư kí là người Việt Nam để
hạn chế rào cản ngơn ngữ và xã hội trong q trình thu
thập thơng tin định tính. Tất cả thảo luận nhóm đều
được ghi âm và dịch sang tiếng Anh ngay sau thảo luận,
rồi sử dụng phần mềm MAXQDA để mã hóa một cách
hệ thống.
Bước bốn, nhóm nghiên cứu Viện KHLĐXH thực hiện
32 cuộc phỏng vấn với những người am hiểu tình hình
là những người ra quyết định trong lĩnh vực giáo dục
và việc làm, bao hiệu trưởng trường đại học và cơ sở
dạy nghề, cán bộ TTDVVL, và quản lý nhân sự ở các
doanh nghiệp địa phương. Khi chọn đối tượng phỏng
vấn, cán bộ Viện đã cân nhắc các vấn đề bất bình đẳng
giới trong các lĩnh vực này. Khác với phỏng vấn theo
đoạn đời, phỏng vấn chuyên gia nhằm khai thác hiểu
biết của người được phỏng vấn về chuyên môn, cơ quan
và công việc của họ (Gläser & Laudel, 2015).
Trước thảo luận nhóm, nhóm nghiên cứu Viện
KHLĐXH tổ chức một ngày tập huấn cho người điều
hành và thư kí về ý nghĩa và khó khăn đặc thù của thảo
luận nhóm tập trung. Sổ tay hướng dẫn giúp nhóm
nghiên cứu của Viện thực hiện khảo sát thực địa. Thảo
luận nhóm thường diễn ra từ một đến hai tiếng, tuỳ vào
mức độ nhiệt tình đóng góp của người tham gia vào
chủ đề thảo luận.

10 Nghiên cứu định lượng tìm ra các tham số thống kê và cố gắng đảm bảo tính đại diện và chọn mẫu ngẫu nhiên, cịn nghiên cứu định tính đưa

ra các giả định khác nhau từ phân tích định tính. Cụ thể, nghiên cứu định tính khơng kiểm định các giả thiết đã chuẩn hóa, mà hướng tới xây
dựng lại các trường hợp điển hình bằng cách xác định các vấn đề tương phản và phổ biến từ các trải nghiệm và nhận thức cá nhân. Việc này
chỉ có thể thực hiện được nếu các trường hợp tương phản thực sự có trong mẫu, vì thế cơ cấu mẫu chọn đúng theo các thuộc tính quan sát
được có vai trị vơ cùng quan trọng. Tính đại diện thống kê khơng có vai trị trong thiết kế nghiên cứu định tính, mà điều quan trọng là phải
cho thấy bộ mẫu có những trường hợp tương phản cần thiết. Ngồi ra, cũng cần phải sử dụng các phương pháp thực nghiệm phù hợp (Glaser
và Strauss 1967).
11 Thu thập và phân tích dữ liệu trong năm 2018 và 2019.

12


Tồn bộ 32 thảo luận nhóm và 32 phỏng vấn những
người am hiểu tình hình được thực hiện ở bốn địa
phương: hai thành phố lớn nhất Việt Nam là Hà Nội,

TP HCM, và hai địa bàn nông thôn là tỉnh Điện Biên và
Quảng Nam, được chọn theo các tiêu chí khác nhau về
kinh tế-xã hội và cơ cấu vùng miền.

Cân nhắc về mục tiêu, lựa chọn phương pháp, và các hạn chế
Nghiên cứu có mục đích thu thập thơng tin vượt ra khỏi khn mẫu khảo sát, tìm cách phát hiện ra các trải nghiệm, động lực
và quan điểm về các xu hướng quan sát được. Nói cách khác, chúng tôi quan tâm hiểu sâu hơn về một số trải nghiệm được lựa
chọn kỹ, thay vì chỉ thu thập thơng tin chung trên một mẫu lớn.
Nhóm nghiên cứu quyết định thu thập và phân tích dữ liệu định tính để bổ sung nguồn dữ liệu định lượng hiện có về việc
tham gia thị trường lao động của nam và nữ ở Việt Nam. Sử dụng phương pháp thu thập dữ liệu – trong nghiên cứu này dữ liệu
không phải là con số, mà là những ý kiến và khái niệm - từ các thảo luận nhóm nhỏ phi cấu trúc, sau đó chúng tơi chuyển thơng
tin từ phỏng vấn thành bộ dữ liệu và phân tích một cách hệ thống. Mục tiêu là nắm bắt được nhiều dạng quan điểm, vì vậy dữ
liệu khơng mang mục đích đại diện cho quần thể. Chúng tôi đưa ra giả thuyết phụ nữ với những đặc điểm giống nhau sẽ có
trải nghiệm và quan điểm giống nhau nhưng các nhóm phụ nữ khác nhau sẽ có những khác biệt rõ ràng. Việc so sánh giữa các
nhóm đặc biệt có giá trị vì mỗi nhóm sử dụng nhóm kia làm “chuẩn”.

Vì dân số Việt Nam đa dạng nên không thể thu thập dữ liệu từ tất cả các phan nhóm có đặc điểm chung. Thay vào đó, cần phải
tạo ra các phan nhóm với đặc điểm tương đồng thu hút được sự quan tâm của các nhà hoạch định chính sách chịu trách nhiệm
cải thiện trải nghiệm thị trường lao động của phụ nữ. Dựa trên tham khảo các nghiên cứu trước, các cuộc thảo luận nhóm với
người làm chính sách, và các thảo luận giới đang diễn ra tại Việt Nam, chúng tôi “phân tầng” mẫu (chọn mẫu có các thành viên
có các đặc điểm nhất định) theo các đặc điểm giả định sẽ tạo ra các yếu tố so sánh chuẩn và do đó có được thơng tin sâu về các
câu hỏi chính sách lớn. Các biến phân tầng gồm vai trị chính (lao động tiềm năng, người sử dụng/quản lý lao động, cha mẹ của
người lao động tiềm năng). Trong số những người lao động tiềm năng, chúng tôi phân tầng theo: giới tính, tuổi, trình độ học
vấn, tình trạng việc làm hoặc học vấn, tình trạng hơn nhân, địa phương / tỉnh, tình trạng làm cha mẹ (làm mẹ đơn thân), dân tộc,
nơi cư trú thành thị / nông thôn và tình trạng khuyết tật. Một nhóm thảo luận được chọn sao cho có được tập hợp các đặc điểm
này; ví dụ, phụ nữ trên trên độ tuổi trung học phổ thơng sống ở thành thị. Dữ liệu của nhóm này có thể được so sánh với dữ liệu
của những nhóm phụ nữ có cùng trình độ nhưng sống ở nông thôn hoặc với phụ nữ ở độ nhỏ tuổi hơn sống ở thành thị. Do
nguồn lực hạn chế, chúng tôi không thể đưa vào mẫu khảo sát một số phân nhóm cũng quan trọng, như nữ giới hay nam giới
lớn tuổi là lao động tiềm năng (trên 60 tuổi), cha mẹ (của lao động tiềm năng) với các đặc điểm khác nhau và nhiều nhóm có thể
so sánh khác không được liệt kê trong bảng 3.1.

13


BẢNG 3.1. Đặc điểm nhóm thảo luận
Nhóm

Giới

1

Nữ

Nhóm
tuổi
20–30


Học vấn*

Tình trạng việc làm

Địa phương

Sinh viên

Tình trạng
hơn nhân
Hỗn hợp

30–50

Trung cấp, cao
đẳng, đại học
Trung cấp, cao
đẳng, đại học
Trung cấp, cao
đẳng, đại học
Trung cấp, cao
đẳng, đại học
Trung cấp, cao
đẳng, đại học
Trung cấp, cao
đẳng, đại học
Trung cấp, cao
đẳng, đại học
Trung cấp, cao

đẳng, đại học
Trung cấp, cao
đẳng, đại học
Trung cấp, cao
đẳng, đại học
Hỗn hợp

2

Nữ

20–30

Sinh viên

Hỗn hợp

TP HCM

3

Nữ

20–30

Sinh viên

Hỗn hợp

Quảng nam


4

Nam

20–30

Sinh viên

Hỗn hợp

Hà Nội

5

Nam

20–30

Sinh viên

Hỗn hợp

TP HCM

6

Nam

20–30


Sinh viên

Hỗn hợp

Quảng Nam

7

Nữ

20–40

Thất nghiệp

Hỗn hợp

Thất nghiệp

Hỗn hợp

Thất nghiệp

Hỗn hợp

Thất nghiệp

Hỗn hợp

Thất nghiệp


Kết hôn

Hỗn hợp

Thất nghiệp

Kết hôn

30–50

Hỗn hợp

Thất nghiệp

Kết hôn

Nữ

20–40

Hỗn hợp

15

Nữ

20–40

16


Nữ

20–40

17

Nữ

20–40

19

Nữ

20–40

20

Nữ

20–40

21

Nữ

20–40

22


25

Nam
và nữ
Nam
và nữ
Nam
và nữ
Nam

26

Nam

27

Nữ

28

Nữ

29
30

Nam
và nữ
Nữ


Hỗn
hợp
Hỗn
hợp
Hỗn
hợp
Hỗn
hợp
Hỗn
hợp
Hỗn
hợp
Hỗn
hợp
Hỗn
hợp
30–50

Hà Nội/nông
thôn
TP HCM/
thành thị
Điện Biên/
thành thị
Quảng Nam/
nông thôn
Hà Nội/thành
thị
TP HCM/
thành thị

Quảng Nam/
thành thị
Hà Nội/nông
thôn
Điện Biên/
nông thôn
TP HCM/
thành thị
Quảng Nam/
nông thôn
Hà Nội/thành
thị
TP HCM/
thành thị
Quảng Nam/
nông thôn
Hà Nội/thành
thị
TP HCM/
thành thị
Quảng Nam/
thành thị
Điện Biên/
thành thị
Điện Biên/
thành thị
Điện Biên/
thành thị
Điện Biên/
thành thị

Quảng Nam

8

Nữ

20–40

9

Nữ

20–40

10

Nữ

20–40

11

Nam

12

Nam

30–50


13

Nam

14

31

Nữ

30–50

32

Nữ

30–50

23
24

14

Việc làm dễ tổn
thương
Hỗn hợp
Việc làm dễ tổn
thương
Hỗn hợp
Việc làm dễ tổn

thương
Hỗn hợp
Việc làm dễ tổn
thương
Hỗn hợp
Có việc và thất
nghiệp
Hỗn hợp
Có việc và thất
nghiệp
Hỗn hợp
Có việc và thất
nghiệp
Hỗn hợp
Chủ lao động và
quản lý
Hỗn hợp
Chủ lao động và
quản lý
Hỗn hợp
Chủ lao động và
quản lý
Tiểu học/trung Hỗn hợp
học cơ sở
Tiểu học/trung Hỗn hợp
học cơ sở
Tiểu học/trung Làm nông
học cơ sở
Tiểu học/trung Làm nông
học cơ sở

Hỗn hợp
Hỗn hợp
Tiểu học/trung
học cơ sở
Tiểu học/trung
học cơ sở
Tiểu học/cấp 2

Làm nơng và chăm
gia đình
Làm nơng và chăm
gia đình
Làm nơng và chăm
gia đình

Mẹ đơn
thân
Mẹ đơn
thân
Mẹ đơn
thân
Mẹ đơn
thân
Hỗn hợp
Hỗn hợp
Hỗn hợp
Hỗn hợp
Hỗn hợp
Hỗn hợp
Kết hôn

Kết hôn
Kết hôn
Kết hôn
Hỗn hợp
Hỗn hợp
Hỗn hợp
Hỗn hợp

Đặc điểm khác

Hà Nội

Hà Nội/nông
thôn
TP HCM/
nông thôn
Quảng Nam/
nông thơn

Nữ có học vấn cao nhưng
khơng tìm được việc
Nữ có học vấn cao nhưng
khơng tìm được việc
Nữ có học vấn cao nhưng
khơng tìm được việc
Nữ có học vấn cao nhưng
khơng tìm được việc
Nam thất nghiệp, sống nhờ
thu nhập của vợ
Nam thất nghiệp, sống nhờ

thu nhập của vợ
Nam thất nghiệp, sống nhờ
thu nhập của vợ

Nữ khuyết tật
Nữ khuyết tật
Nữ khuyết tật
Employers/HR managers
Chủ lao động/quản lý nhân
sự
Chủ lao động/quản lý nhân
sự
Người dân tộc Thái
Người dân tộc Hmong
Người dân tộc Thái
Người dân tộc Hmong
Cha mẹ có con tuổi từ 16-19
hoặc đang là sinh viên
Phụ nữ trở về nông thôn
Phụ nữ trở về nông thôn
Phụ nữ trở về nông thôn


4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Trong phần này,12 các kết quả nghiên cứu định tính sẽ
trình bày các khía cạnh khoảng cách giới khác nhau
trên thị trường lao động liên quan tới:
1. Nhận thức về thị trường lao động của sinh viên;
2. Thái độ của cha mẹ về giới;
3. Định kiến giới trong các CSGDNN;

4. Nhận thức về khả năng tiếp cận giáo dục và thị
trường lao động của người dân tộc thiểu số;
5. Nhận thức của người sử dụng lao động;
6. Nhận thức của các nhóm dễ tổn thương;
7. Nhận thức của các TTDVVL.

4.1. Nhận thức về thị trường lao động của
sinh viên
Để xác định các khác biệt giới trong nhận thức của nam
và nữ sinh viên về thị trường lao động, nhóm nghiên
cứu Viện KHLĐXH đã thực hiện các cuộc thảo luận
nhóm riêng với sinh viên nam và nữ ở bốn địa phương.
Sinh viên được chọn vào bộ mẫu đang theo học ngành
nghề khác nhau, gồm tiếp thị, kế tốn, Việt Nam học,
tiếng Anh, cơng tác xã hội, kinh tế, và kỹ thuật. Lựa
chọn như vậy cho phép so sánh nhận thức giữa các
sinh viên đã chọn những ngành học tiêu biểu dành cho
“nữ” và những bạn chọn ngành học tiêu biểu dành cho
“nam”. Phần trình bày dưới đây đưa ra những lí do lựa
chọn ngành học, nhận thức của họ về việc học, và suy
nghĩ của họ về sự nghiệp và thị trường lao động. Sinh
viên cũng đưa ra ý kiến về việc lựa chọn giáo dục nghề
nghiệp và tầm quan trọng của đậu đại học với thay đổi
con đường sự nghiệp của cả nam và nữ.

“Em muốn thay đổi cuộc sống của mình nhưng
cũng thấy phải theo ý muốn của bố mẹ.”

Khao khát tri thức nhưng khả năng tiếp cận việc
làm ổn định và thu nhập cao hạn chế

Hầu hết sinh viên nữ trong các thảo luận nhóm đều thể
hiện khao khát tri thức mãnh liệt. Dù ở nông thôn hay

thành thị, tất cả các bạn nữ đều nhấn mạnh được học
tiếp sau khi tốt nghiệp phổ thông là một cơ hội may
mắn, dù là đại học hay trung cấp, cao đẳng.
Mặc dù sinh viên nữ muốn có việc làm và mơ ước có sự
nghiệp phù hợp chuyên ngành đào tạo, nhưng mức độ
tham gia vào công việc được đào tạo sau khi ra trường
của họ rất khác nhau. Sinh viên nữ theo học đại học hoặc
cao đẳng nghề đều muốn trở thành lao động có tay nghề
và nhận được mức lương phù hợp. Do gắn chặt với gia
đình và nơng nghiệp truyền thống, sinh viên nữ ở nông
thôn muốn làm việc cho doanh nghiệp gần nhà, dù cơng
việc và mức lương có thể khơng được như ý muốn. Thực
tế, các doanh nghiệp ở nông thôn đã nắm bắt tâm lý này
để đưa ra mức lương thấp và hợp đồng thời hạn cố định.
Với các bạn sinh viên nữ nông thôn, điều quan trọng
nhất là phụ giúp cha mẹ bằng tiền tự kiếm.
F7: Em muốn làm gần nhà, tốt nhất là ở Tam Kỳ
hay Đà nẵng. Em muốn làm đúng chuyên ngành
ở trường đại học. Em hy vọng có một cơng việc
kinh doanh của riêng mình trong lĩnh vực em đang
học. Dù em có tiềm lực kinh tế nhưng kết quả hồn
tồn phụ thuộc thị trường. Đó là kết hoạch trong
tương lai của em (Thảo luận nhóm sinh viên nữ
Đại học Quảng Nam).
F2: Em muốn thành kỹ sư lâm nghiệp, có thể làm
ở Tam Kỳ hay tỉnh khác. Em muốn áp dụng được
hết chuyên ngành của mình. Em muốn có gia đình

đầm ấm và cơng việc ổn định để ba mẹ n lịng.
(Thảo luận nhóm nữ, Quảng Nam).

Nam giới được kì vọng chung sẽ thành trụ cột gia đình.
Sinh viên nữ khơng quan trọng kiếm được thu nhập
cao từ cơng việc, hồn tồn trái ngược với cảm nhận
của các nam sinh viên thấy rất áp lực phải có được cơng
việc thu nhập cao, đáp ứng kì vọng của cha mẹ và xã
hội. Chỉ một số ít sinh viên nam sẵn sàng chấp nhận
tương lai cả hai vợ chồng cùng phấn đấu cho sự nghiệp,
với cả hai cùng học cao, thu nhập cao như nhau, và
cùng có con đường sự nghiệp lâu dài.
Các bạn nam và nữ tham gia thảo luận nhóm đều cho
rằng đàn ơng làm trụ cột gia đình là hình mẫu phù
hợp nhất với gia đình Việt Nam. Thái độ của các bạn
gái về thị trường lao động chịu ảnh hưởng nhiều bởi

12 Các trích dẫn trực tiếp trong phần này ẩn danh người tham gia thảo luận nhóm. Các con số được sử dụng thay tên hoặc các yếu tố định danh
khác để bảo mật, và do đó đảm bảo độ chính xác cao hơn với thông tin được người trả lời chia sẻ.
15


quan điểm này, họ muốn có cơng việc ổn định với chế
độ thai sản và đảm bảo không phải làm ngồi giờ hơn là
cơng việc thu nhập cao. Theo họ, vị trí địa lý cũng ảnh
hưởng quyết định lựa chọn cơng việc vì họ muốn sống
gần cha mẹ để được giúp chăm con khi chồng đi làm.

Phụ nữ chỉ thi đại học một lần
Sinh viên nữ thường nhắc tới quá trình thi trượt đại

học nhiều hơn các bạn nam. Họ cho rằng sự nghiệp của
họ ngắn hơn nam giới và học đại học khơng phải là q
trình cả đời mà chỉ ở một độ tuổi nhất định, thường
từ 18 tới 25 tuổi. Trong khi nam giới có thể thay đổi
cơng việc hoặc tập trung xây dựng sự nghiệp, các bạn
gái xem rớt đại học là mất đi một cơ hội.
Q7: Em chưa từng nghĩ sẽ học ngành này. Em
không đậu Đại học Kinh tế Đà Nẵng nên phải nộp
hồ sơ vào trường này. Ban đầu em khơng thích
chun ngành này, nhưng dần cũng thích vì nhiều
lý do, trong đó có giáo viên và q trình đào tạo.
Nói chung, em muốn theo công việc này. Em nghĩ
công việc này phù hợp cho nam giới hơn vì phụ nữ
sẽ gặp nhiều áp lực. Nhưng ba em nói nên theo học
ngành này, và em làm theo ý ba. (Thảo luận nhóm
sinh viên nữ, Đại học Quảng Nam).

Nhiều sinh viên nữ cho rằng nữ thi rớt các trường đại
học kỹ thuật nhiều hơn nam13. Nên nếu muốn học
ngành kỹ thuật, họ chỉ có cách học trung cấp, cao đẳng.
Các cuộc thảo luận nhóm cũng cho thấy rõ thực tế là
phụ nữ trẻ dân tộc thiểu số trượt vào đại học, hay trung
cấp, cao đẳng nhiều hơn các nhóm phụ nữ khác.
Các bạn gái dân tộc thiểu số hoặc xuất thân gia đình
nghèo ở nơng thơn nói rằng họ khơng tự tin về kỹ năng
và trình độ của mình và tự đánh giá mình kém hơn các
nhóm sinh viên khác. Lý do đưa ra gồm cha mẹ có học
vấn thấp hoặc khơng quan tâm việc học hành hay học
lực của con, xem đây là trách nhiệm của nhà trường.
Vì thế, dù vượt qua kì thi đại học nhưng họ vẫn khơng

tin mình đủ khả năng tốt nghiệp. Họ coi đây là lý do
khiến các bạn gái nông thôn ngại đi học đại học xa mà
muốn đăng kí các trường trung cấp, cao đẳng nghề để
tìm công việc phù hợp gần nhà.
F1. Em sinh năm 1998, đã tốt nghiệp phổ thơng,
chưa lập gia đình, hiện là sinh viên năm hai ngành
công nghệ may. Ban ngày đi học, tối về em làm cho

một quán cafe để có tiền trang trải việc học. Em thi
đậu Cao đẳng Dược Quảng Nam nhưng sợ khơng
tìm được việc sau khi ra trường. Em là người Thăng
Bình. Em khơng ở ký túc xá mà ở trọ với vài người
bạn ngoài trường. (Thảo luận nhóm sinh viên nữ,
Cao đẳng Nghề Quảng Nam).
F3. Em sinh năm 1997 ở huyện Núi Thành, chưa
lập gia đình. Tốt nghiệp cấp ba, em nghỉ ở nhà
giúp dì trơng coi cửa hàng cafe. Dù đậu Đại học Sư
phạm Đà Nẵng nhưng em khơng học vì sợ khơng
kiếm được việc sau khi tốt nghiệp. Em thích may
vá, nên đăng kí học trường này. Em muốn kiếm
được công việc phù hợp để tự ni sống bản thân.
(Thảo luận nhóm sinh viên nữ, Cao đẳng Nghề
Quảng Nam).

Làm nội trợ và công nhân, khơng theo đuổi sự
nghiệp
Các nhóm thảo luận với sinh viên có sự khác biệt rõ
ràng giữa nam và nữ về cách định nghĩa thị trường lao
động mà không thể hiện ở những nhóm khác. Khác với
sinh viên nam, sinh viên nữ thích cơng việc nhà nước

hơn vì đấy là cách khả thi nhất giúp họ cân bằng giữa
công việc và gia đình (phát hiện này phù hợp với các
phát hiện từ một nghiên cứu khác trong Dự án nâng
cao quyền năng kinh tế cho phụ nữ Việt Nam, xem thêm
Chowdhurry và cộng sự 2018).
F3: [Em muốn], ví dụ, một cơng việc văn phòng
cho phép em rời nhà vào buổi sáng và quay về vào
buổi tối, có thời gian chăm con và gia đình. (Thảo
luận nhóm sinh viên nữ, Đại học Tơn Đức Thắng,
TP HCM).

Có sự khác biệt rõ ràng trong suy nghĩ giữa hai nhóm
sinh viên nữ, nhóm thứ nhất theo đuổi lối sống truyền
thống (lập gia đình ở độ tuổi 20, sinh con, và sống dựa
vào chồng) và nhóm thứ hai tự mình lựa chọn con
đường sự nghiệp hướng tới cuộc sống hiện đại, thốt
khỏi vai trị của người mẹ và người vợ nội trợ. Nhóm
theo đuổi lối sống truyền thống chỉ muốn có cơng việc
nhà nước, trong khi nhóm kia muốn làm cho doanh
nghiệp tư nhân. Tình trạng thiếu dịch vụ giữ trẻ tốt
cũng như thiếu các công việc bán thời gian hay công
việc làm tại nhà ở Việt Nam khiến cho nhóm thứ hai
tin rằng khơng thể vừa chăm lo việc gia đình, vừa có sự
nghiệp trong doanh nghiệp tư nhân.

13 Nhìn chung, các nghiên cứu tác động tâm lý của kì thi đại học cho thấy cuộc cạnh tranh cao này có thể gây trạng thái lo lắng về thể chất và
tinh thần, ảnh hưởng tiêu cực tới sự tự tin của người thi trượt (Gilbert và cộng sự 2009). Thi trượt cũng tác động tiêu cực đến nội lực vì lựa chọn
đầu tiên khơng đạt được (Seddigh và cộng sự 2016). Như đã chỉ ra, quốc gia phải xử lý nhiều yếu tố bất bình đẳng xã hội và chênh lệch tại địa
phương, cần cân nhắc có nên tổ chức thi vào đại học khơng. Từ góc độ giới, học sinh nữ cảm thấy thua thiệt so với các bạn nam.
16



F1: Em nghĩ khác nhiều bạn nữ. Em không muốn
lập gia đình hay sinh con. Sự nghiệp với em quan
trọng hơn. Một cơng việc tốt với người như em
phảicó tính phiêu lưu, thách thức bản thân và thu
nhập cao. Phụ nữ cũng thích mơi trường sáng tạo
và tự do. Trước đây, họ thích các cơng việc giản đơn,
nhưng bây giờ em thấy phụ nữ hiện đại khơng cịn
thích những cơng việc giản đơn, lặp đi lặp lại hàng
ngày. Đàn ông thích cơng việc lương cao và nhiều cơ
hội thăng tiến… Họ muốn gia đình tự hào về họ và
khá giả hơn để khẳng định vị trí xã hội. (Thảo luận
nhóm nữ, Đại học Tôn Đức Thắng, TP HCM).

Sinh viên nữ đánh giá sinh viên nam có lợi thế cạnh
tranh hơn, có định hướng nghề nghiệp rõ ràng, có khả
năng tổ chức tốt hơn, cũng như biết thể hiện nhu cầu
hiệu quả hơn. Sinh viên nam cũng được cho là có sức
khoẻ tốt hơn, giúp họ thích nghi với điều kiện làm việc
hay thay đổi và khối lượng công việc nặng tốt hơn nữ.
Ngược lại, các bạn nữ cho rằng mình hịa đồng xã hội
hơn, lý trí hơn, và tinh tế hơn nam nên phù hợp với các
công việc trong lĩnh vực xã hội hơn.

Kết luận

Các vấn đề như làm ngoài giờ, đi công tác, và thời gian
làm việc không linh hoạt không phải là vấn đề đối với
sinh viên nam. Họ xem đây là những yêu cầu cần thiết

của công việc.

Thảo luận nhóm với sinh viên nữ cho thấy phần lớn
các bạn gái thích những cơng việc cho phép họ hồn
thành vai trị của người vợ, người mẹ. Sinh viên nam
thường muốn có cơng việc tốt, thu nhập cao, làm giàu
từ năng lực cá nhân, nhưng chỉ một số ít sinh viên nữ,
những người được cha mẹ hay gia đình ủng hộ quyết
định theo đuổi này, có cùng quan điểm như vậy. Nhìn
chung, cả sinh viên nam và nữ đều cảm thấy áp lực xã
hội nặng nề với kế hoạch cuộc sống tương lai. Với nam,
áp lực tới từ kì vọng thành trụ cột gia đình, với nữ là áp
lực sinh con.

Một phát hiện thú vị là phần lớn sinh viên nữ khơng
ngưỡng mộ phụ nữ ở vị trí lãnh đạo. Ngược lại, họ cho
rằng những người này “sắt đá, nhỏ mọn, và ích kỉ”. Họ
thường ngại sếp nữ nhiều hơn sếp nam. Họ không coi
những người phụ nữ này đã có được bước tiến tích cực
trong sự nghiệp mà cho rằng quyết định khơng lập gia
đình và sinh con là đang đi ngược lại các chuẩn mực và
giá trị xã hội truyền thống. Nhóm sinh viên nữ cũng
nhận định phụ nữ ở vị trí lãnh đạo sẽ khơng hạnh phúc
hay thỏa mãn với cuộc sống.

Bất bình đẳng giới thể hiện rõ trong suốt những năm
học cao đẳng, đại học, bắt đầu từ kì thi tuyển sinh. Cả
sinh viên nam và nữ đều đồng ý sinh viên nam nhận
được nhiều hỗ trợ từ giáo viên và phương pháp giảng
dạy hơn sinh viên nữ. Tuy nhiên, có sự khác biệt trong

cách tiếp cận thị trường lao động giữa hai giới: sinh
viên nữ nhấn mạnh tầm quan trọng của khu vực công
trong việc cung cấp cơ hội việc làm ổn định và bình
đẳng giới, trong khi sinh viên nam thích khu vực tư
nhân với nhiều cơ hội nghề nghiệp hơn.

Định kiến giới nặng nề

4.2. Thái độ của cha mẹ về các vấn đề giới

Thảo luận nhóm sinh viên cho thấy rõ sinh viên nữ
quan tâm tới vấn đề định kiến giới nhiều hơn sinh viên
nam. Có thể lý do là sinh viên nữ chọn các ngành học
dành cho nam như khối kỹ thuật gặp nhiều khó khăn
khi phải cạnh tranh với sinh viên nam.

Trả lời câu hỏi về các tiêu chí chọn trường đại học hay
trung cấp, cao đẳng và chọn ngành học, phần lớn sinh
viên nữ cho biết đều theo ý kiến gia đình, bạn bè, đặc
biệt là cha mẹ. Đây là hiện tượng phổ biến. Trong hầu
hết gia đình người Việt, những người thành đạt trong
gia đình thường được hỏi ý kiến. Các bạn gái nói rằng
họ hàng của họ thường giới thiệu các trường mà những
thành viên khác trong gia đình đã tốt nghiệp hoặc có
mối quan hệ qua cơng việc.

F3: Em có chị gái làm cho một trường dạy nghề ở
TP HCM. Thu nhập không quan trọng với chị ấy.
Chị ấy muốn có thời gian làm việc linh hoạt để có
thể chăm con. (Thảo luận nhóm sinh viên nữ, Đại

học Tơn Đức Thắng, TP HCM).

F4. Lớp có 20 sinh viên nhưng chỉ có em là nữ, vì
thế được nhiều ưu ái hơn. Nhưng cũng vì chỉ có
một minh nên cũng gặp một số bất tiện, khơng
có ai để tâm sự. Nhiều khi các bạn nam cũng hay
châm trọc em. (Thảo luật nhóm sinh viên nữ, Cao
đẳng Cơng nghiệp Hà Nội).

Các bạn nữ cho rằng giáo viên thiên vị sinh viên nam như
cho họ cơ hội thực tập hay giúp tìm việc làm nhiều hơn.

“Nữ có sức khoẻ yếu hơn nên bị hạn chế trong
sự nghiệp.”

17


Vị trí trường học trong việc chọn trường có ý nghĩa
quan trọng với sinh viên nữ nhiều hơn với sinh viên
nam. Nhiều gia đình có ít nhất ba thế hệ cùng chung
sống, và các thành viên quan tâm, chăm sóc nhau14.
Nhìn chung, cha mẹ thường khuyên con gái chọn
trường gần nhà, vì cho rằng con gái yếu hơn và dễ tổn
thương hơn con trai, nên không muốn con gái học xa,
cha mẹ không bao bọc được.
PA5: Con gái yếu hơn con trai cả về ý chí và sự bền
bỉ, khơng phải về sức khoẻ. Nếu chỉ làm công việc
với mức lương trung bình, thì [cả nam và nữ] đều
như nhau, nhưng nếu muốn thăng tiến, họ phải

làm nhiều hơn. Phụ nữ không “rắn rỏi” và chịu
đựng tốt như đàn ông. Tôi thấy làm giáo viên phù
hợp với con gái tôi. Hạnh phúc gia đình sẽ bị ảnh
hưởng (xấu) nếu phụ nữ theo đuổi cơ hội thăng
tiến. (Thảo luận nhóm cha mẹ có con từ 16 tới 22
tuổi ở Hà Nội).

Cha mẹ nghĩ con gái chưa đủ trưởng thành để quyết
định sự nghiệp tương lai.
P5: Mấy đứa con tôi chưa biết sẽ làm gì. Giờ tụi hắn
chỉ lo học. Ai cũng có bằng đại học, nên tụi nó cũng
phải có cái bằng. Rồi 18 tuổi tốt nghiệp lớp 12. Ở tuổi
đó, mấy đứa chưa biết sẽ làm gì. (Thảo luận nhóm
cha mẹ có con từ 16 tới 22 tuổi ở Quảng Nam).

hầu hết sinh viên nữ đều thừa nhận muốn tự mình lựa
chọn hoặc ít nhất cũng có thể chọn một hoặc hai mơn
học chính phù hợp với sở thích và sở trường bản thân.
SF5: Từ nhỏ tôi đã ước mơ làm công an nhưng
không đủ chiều cao. Tôi biết trường Tôn Đức
Thắng qua Internet và nộp đơn vào khoa luật và
xã hội học. Ban đầu, tôi không biết nên học ngành
nào. Sau khi nghe cha tư vấn, tôi quyết định theo
học ngành này. Chị tôi là công chức nhà nước tại
tồ án huyện. Tơi đăng kí thi vào khoa luật nhưng
thiếu nửa điểm. Sau đó, tơi chọn ngành xã hội học,
giờ đã là sinh viên năm ba. Tôi cũng học luật từ
năm thứ hai. (Thảo luận nhóm nữ, Đại học Tôn
Đức Thắng, TP HCM).


Các bạn gái cho biết họ hoặc cha mẹ thường tìm thơng
tin trên Internet, xem đây là nguồn tìm kiếm thơng tin
quan trọng về danh tiếng và các ngành học của trường.
Cha mẹ trong các cuộc thảo luận nhóm phản ánh
tình trạng thiếu thơng tin trên Internet về nhu cầu thị
trường lao động, cũng như về các vị trí cơng việc đang
tuyển dụng trong từng ngành học cụ thể.
P2: Tôi đồng ý với chị, thông tin không rõ ràng và
minh bạch. Những cơ quan lớn và tốt như ngân
hàng, trường học, cơ quan nhà nước không bao giờ
đăng thông tin tuyển dụng. Chúng tôi không bao
giờ biết họ tuyển ai và yêu cầu trình độ thế nào. Họ
muốn giấu thông tin để dành cho con cái họ nộp
đơn vào. Tất cả vị trí ở những nơi này đều được
trả lương. Nếu tìm thơng tin trên các trang mạng
tuyển dụng hay giới thiệu việc làm, chỉ thấy thông
tin tuyển người của các doanh nghiệp nhỏ và cho
công việc thời vụ hoặc ngắn hạn, tồn những việc
trình độ thấp. Chúng tôi không thể thấy thông tin
tuyển dụng của những doanh nghiệp hay tổ chức
có tiếng như ngân hàng. (Thảo luận nhóm cha mẹ
có con từ 16 tới 22 tuổi ở Quảng Nam).

Nhiều em gái phụ tuộc hoàn toàn vào cha mẹ xác định
ngành học. Cha mẹ coi trọng việc sinh con sau này của
con gái khi lựa chọn ngành học và công việc tương lai.
DB2: Ba mẹ muốn tôi học ngành công tác xã hội để
sau này thành cán bộ nhà nước dễ hơn, giống như họ.
Tôi quyết định nghe theo cha mẹ. (Thảo luận nhóm
sinh viên nữ, Đại học Tôn Đức Thắng, TP HCM).

DB3: Ban đầu ba muốn tôi học ngành an ninh,
nhưng chúng tôi trễ hạn nộp hồ sơ. Ơng ấy nói tơi
nên học đại học một năm để quen môi trường. Tôi
nhận được tờ rơi từ trường này và tới tìm hiểu về
ngành cơng tác xã hội. Tơi thấy ngành này cũng hay
nên đăng kí học. Giờ học năm hai tơi lại khơng muốn
bỏ vì tơi đã thích ngành này rồi. (Thảo luận nhóm
sinh viên nữ, Đại học Tôn Đức Thắng, TP HCM).

Hầu hết các bạn gái cho rằng khơng thể chọn nghề mà
khơng có sự tư vấn của cha mẹ. Nhưng nhiều bạn gái
cũng cho biết dù khơng thích ngành đang học nhưng vẫn
chọn để làm vừa lịng cha mẹ. Trong các thảo luận nhóm,

Tuy nhiên, cha mẹ có quan điểm rõ về loại cơng việc
phù hợp cho nam và nữ, vốn bị ảnh hưởng mạnh mẽ
bởi các chuẩn mực xã hội phổ biến về vai trò giới và
định kiến giới. Cha mẹ muốn con gái làm những cơng
việc có thể nghỉ và quay lại sau khi nghỉ thai sản. Ở Việt
Nam, điều kiện này chỉ có cơng việc nhà nước đáp ứng
được, với hợp đồng lao động và chế độ bảo hiểm xã hội
được cung cấp đầy đủ. Cha mẹ xem những công việc
này là định hướng ổn định và cho phụ nữ cơ hội thăng
tiến lên những vị trí cao nhất dù có gia đình.

14 Gia đình nhiều thế hệ có vai trị rất quan trọng ở Việt Nam (Georgas 2003).

18



Tất cả cha mẹ trong các thảo luận nhóm đồng thuận
về tầm quan trọng của việc có nền giáo dục tốt. Nhìn
chung, họ ln cố gắng hết mình tạo điều kiện thuận
lợi cho việc học của con cái.
P6: Dù nhà nghèo nhưng chúng tôi luôn cố gắng
cho con học đại học. Chúng tôi không thể để con
thất học khi bạn bè của con đều được đến trường
(Thảo luận nhóm phụ huynh có con từ 16 tới 22
tuổi ở Hà Nội).

Tuy nhiên, cách tiếp cận của cha mẹ đối với việc học
của con gái khác với việc học của con trai. Ví dụ, cha
mẹ lo lắng hơn cho con gái đi học xa nhà vì cho rằng
con gái tự lập kém hơn con trai. Con gái chỉ được phép
đi học xa nhà nếu ở chung với họ hàng hoặc với chị gái.
Hầu hết cha mẹ đều thích con gái học gần nhà. Ngược
lại, cha mẹ cho rằng con trai cần đi ra nước ngoài để
trưởng thành hơn và tốt cho con đường sự nghiệp. Hầu
hết cha mẹ cho rằng con trai khoẻ mạnh và chịu đựng
tốt hơn con gái nên con trai có thể làm cho cơng ty tư
nhân, làm ca, hoặc làm ở nước ngồi. Dù tin rằng con
gái có khao khát tri thức và con trai ít siêng năng hơn,
nhưng hầu hết cha mẹ đều cho rằng con trai nên học
những ngành đòi hỏi khả năng nhận thức cao hơn và
giúp có chỗ đứng trong vị trí cạnh tranh cao.
Phần lớn cha mẹ ở thành thị muốn con gái có học vấn tốt
để dễ tìm được chồng có học thức tốt, thu nhập cao giúp
đảm bảo một cuộc sống an toàn và thoải mái. Điều quan
trọng cần nhấn mạnh là theo quan điểm của cha mẹ, học
vấn cao không đồng nghĩa với việc theo đuổi sự nghiệp.

Ngay từ đầu, khi con gái chọn trường, cha mẹ đã nghĩ về
thời điểm con gái lập gia đình và nghỉ việc.

Về hoạt động hướng nghiệp, cha mẹ cho biết trường
phổ thông không cung cấp đầy đủ thông tin về những
kỹ năng cần thiết cho thị trường lao động. Họ phải tư
vấn cho con dựa trên kinh nghiệm cá nhân hoặc dựa
trên thông tin từ họ hàng hoặc bạn bè. Tư vấn nghề
nghiệp kết hợp giữa doanh nghiệp và trường đại học
cũng thiếu. Họ thấy các trường cao đẳng làm tốt hoạt
động tư vấn nghề nghiệp, nhưng các trường đại học lại
tập trung đào tạo lý thuyết nhiều hơn. Nhiều cha mẹ
tự tìm thông tin về nghề nghiệp, về các trường đại học,
cao đẳng trên Internet để tư vấn hướng nghiệp cho con.
Họ cho rằng khơng có kênh thơng tin nào của ngành
lao động hoặc ngành giáo dục để các cha mẹ có trình
độ học vấn thấp có thể truy cập. Nhóm cha mẹ này cần
thông tin minh hoạ hơn là thông tin bằng văn bản để
biết được ngành nào cần bằng cấp gì và ngành nào có
nhiều cơ hội việc làm trong tương lai ở Việt Nam.
P4: Tôi nghĩ cần đề cập vấn đề này, và chính phủ cần
điều chỉnh. Rất khó tìm được thơng tin việc làm vì
khơng có một kênh thơng tin chính thức nào. (Thảo
luận nhóm cha mẹ có con từ 16 tới 22 tuổi ở Hà Nội).
P6: Thông tin việc làm trên các trang mạng không
đáng tin. Bây giờ khá hơn rồi, nhưng vài năm trước,
nhiều người bị lừa bởi các dịch vụ việc làm trên
mạng. Vấn đề quan trọng nhất là khơng có cơng
cụ hữu dụng nào cho chúng tơi tham khảo. Có rất
nhiều thơng tin về nghề nghiệp nhưng khơng đáng

tin. Chúng tơi khơng biết tìm ở đâu những thơng
tin có khả năng dự báo dài hạn, như ngành nào
cần nhiều lao động trong vài năm tới, ngành nào sẽ
dư thừa lao động, và những chuyên ngành nào cần
học để có những kỹ năng cần thiết cho thị trường
lao động. (Thảo luận nhóm cha mẹ có con từ 16 tới
22 tuổi ở Hà Nội).

P1: Con gái tơi thích ngành du lịch. Tơi khun con
gái khơng nên học ngành này, vì phải đi lại nhiều,
sau này có thể ảnh hưởng hạnh phúc gia đình. Phụ
nữ có gia đình phải lo việc nhà, chăm sóc chồng
con. Nhưng nó khơng nghe, nói để con được làm
những gì con thích. Nhưng khi lập gia đình, nó sẽ
tìm cách giải quyết. (Thảo luận nhóm cha mẹ có
con từ 16 tới 22 tuổi ở Hà Nội).

Chất lượng dịch vụ tư vấn nghề nghiệp của các
TTDVVL cũng khiến các cha mẹ băn khoăn. Một mặt,
họ sử dụng dịch vụ của các trung tâm này cho con,
nhưng mặt khác họ cũng không tin nhiều về chất lượng
tư vấn, vì họ nghe nhiều điều khơng tốt về độ tin cậy
của các trung tâm này.

Một điều đáng chú ý khác trong thảo luận nhóm là cha
mẹ có học vấn thấp thường lo ngại việc cho con học đại
học hoặc học lên cao vì họ sợ khơng giúp được việc học
của con. Các sinh viên dân tộc Thái nói rằng cha mẹ họ
trồng lúa, và chỉ vài người trong cộng đồng được học
cao đẳng, đại học. Những cha mẹ này sợ họ không thể

khuyên con về việc chọn ngành học hay công việc. Một
số cha mẹ thậm chí để con sống với những người thân
có học vấn cao hơn để thay cha mẹ kèm cặp.

P2: Tơi có con trai học lớp 11, năm sau thi đại học.
Nhưng tôi chưa bao giờ nghĩ sẽ đến các TTDVVL
hoặc các cơ sở tư vấn nghề nghiệp vì khơng tin họ.
Họ chỉ làm dịch vụ giới thiệu việc làm. Nếu con tơi
được đào tạo đầy đủ, nó sẽ tìm được một cơng việc
như ý. Nếu nó muốn làm cơng việc tự do hoặc buôn
bán như cha mẹ hay làm thuê, con tơi cũng khơng
cần tới các TTDVVL. Thời nay có rất nhiều việc, nếu
muốn, con tơi có thể đi làm ngay. Tôi thấy hoạt động

19


×