Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Tieu luan lanh dao quan ly báo chí thực trạng công tác quản lý báo chí ở việt nam và những vấn đề đặt ra hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.66 KB, 18 trang )

MỞ ĐẦU
Có thể nói, ngay từ khi mới thành lập, báo chí cách mạng Việt Nam đã
đóng vai trị vơ cùng to lớn trong mặt trận tư tưởng của đất nước. Báo chí vừa
thực hiện tốt nhiệm vụ tuyên truyền đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước; vừa phản ánh nhanh nhạy, kịp thời các sự
kiện, vấn đề xoay quanh mọi lĩnh vực của đời sống, từ đó đưa ra định hướng
đúng đắn thúc đẩy xã hội tiền lên. Báo chí khơng chỉ là diễn đàn, là nhu cầu
không thể thiếu của nhân dân mà cịn góp phần rất lớn vào việc giáo dục tư
tưởng, tình cảm, đạo đức, lối sống,...; khơng ngừng đấu tranh chống lại mọi
quan điểm sai trái, các hiện tượng tiêu cực của xã hội đồng thời nêu cao
những tấm gương người tốt, việc tốt trong xã hội để toàn dân cùng học tập,
noi theo. Những năm trở lại đây, báo chí khơng ngừng được nâng cao về số
lượng lẫn chất lượng. Đội ngũ người làm báo ngày càng được đào tạo bài bản
hơn, chuyên nghiệp hơn về nghiệp vụ, tinh thơng hơn về kiến thức, khơng
ngừng hồn thiện về đạo đức, nhân cách để gánh vác trọng trách là thư kí, là
thủ lĩnh thơng tin của thời đại.
Song song với sự phát triển của hệ thống báo chí, cơng tác lãnh đạo –
quản lý báo chí ở nước ta cũng được chú trọng hoàn thiện, nâng cao, tạo sự
thống nhất từ trên xuống dưới và tạo ra hành lang pháp lý đảm bảo cho nền
báo chí hoạt động, phát triển đúng theo tơn chỉ, mục đích đã đề ra cũng như đi
đúng định hướng xã hội chủ nghĩa của đất nước từ trước đến nay. Tuy nhiên,
từ thực tế cho thấy cơng tác lãnh đạo – quản lý báo chí ở nước ta hiện nay vẫn
còn bộc lộ nhiều thiếu sót, khuyết điểm và cần được xem xét kỹ lưỡng để tìm
ra nguyên nhân cũng như đề xuất giải pháp nhẳm nâng cao hiệu quả lãnh đạo
– quản lý báo chí phù hợp với tình hình hiện tại.
Trong khn khổ một bài tiểu luận, tơi xin phép khơng trình bày
ngun tắc Đảng lãnh đạo hoạt động báo chí – truyền thơng mà chỉ đi vào vấn
đề chính mà bài tiểu luận muốn đề cập đó là: Thực trạng cơng tác quản lý
báo chí ở Việt Nam và những vấn đề đặt ra hiện nay.

1




1. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BÁO CHÍ:
1.1. Làm rõ khái niệm Quản lý:
Trước khi đi vào xem xét các nguyên tắc cũng như nội dung quản lý
Nhà nước về báo chí ở Việt Nam, ta cần hiểu thế nào là quản lý?
Xuất phát từ những góc độ nghiên cứu khác nhau, rất nhiều học giả của
các trường phái quản lý học khác nhau đã đưa ra sự giải thích không giống nhau
về quản lý. Cho đến nay, vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về quản lý. Đặc
biệt là kể từ thế kỷ 21, các quan niệm về quản lý lại càng phong phú. Các trường
phái quản lý học đã đưa ra những định nghĩa về quản lý như sau:
- Fayel: "Quản lý là một hoạt động mà mọi tổ chức (gia đình, doanh
nghiệp, chính phủ) đều có, nó gồm 5 yếu tố tạo thành là: kế hoạch, tổ chức,
chỉ đạo, điều chỉnh và kiểm soát. Quản lý chính là thực hiện kế hoạch, tổ
chức, chỉ đạo điều chỉnh và kiểm soát ấy”.
- Hard Koont: "Quản lý là xây dựng và duy trì một mơi trường tốt giúp
con người hoàn thành một cách hiệu quả mục tiêu đã định".
- Peter F Druker: "Suy cho cùng, quản lý là thực tiễn. Bản chất của nó
khơng nằm ở nhận thức mà là ở hành động; kiểm chứng nó khơng nằm ở sự
logic mà ở thành quả; quyền uy duy nhất của nó là thành tích".
Từ quan niệm của các nhà quản lý học có thể thấy, khi nói đến quản lý
là nói đến sự quản trị của một tổ chức nào đó. Trong hoạt động quản lý có chủ
thể quản lý và đối tượng quản lý. Chủ thể quản lý là nhân tố quyết định việc
thực hiện mục tiêu đã đặt ra. Cịn đối tượng quản lý có thể là con người hoặc
khơng là con người.
Như vậy, có thể hiểu rằng quản lý chính là sự tác động có ý thức, có
chủ trương, có mục đích, kế hoạch của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý
nhằm thực thi quyền lực thông qua những chức năng chỉ đạo, thực thi, giám
sát quyền lực để đạt được những mục tiêu nhất định trong điều kiện bình
thường hoặc bất thường. Quản lý khơng chỉ là kỹ thuật mà cịn là nghệ thuật


2


bởi nó là q trình điều khiển xã hội giữa các yếu tố xã hội – con người – phi
con người. Quản lý xác định thực hiện mục tiêu ngắn hạn và trung hạn.
Trên cơ sở đó, quản lý Nhà nước về báo chí cũng như bất kỳ một dạng
quản lý xã hội nào khác, là dạng quản lý công vụ quốc gia của bộ máy Nhà
nước - là công việc của bộ máy hành pháp. Nó là sự tác động có tổ chức và
được điều chỉnh bằng pháp luật, trên cơ sở quyền lực Nhà nước đối với các
quá trình xã hội và hoạt động báo chí do các cơ quan có thẩm quyền trong hệ
thống hành pháp từ Trung ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện chức năng
và nhiệm vụ của Nhà nước, phát triển các mối quan hệ xã hội, thỏa mãn nhu
cầu tự do báo chí của cơng dân.
1.2. Nội dung quản lý Nhà nước về báo chí:
Nhà nước quản lý báo chí là một trong những nguyên tắc hàng đầu của
hoạt động báo chí ở Việt Nam. Đó là ngun tắc bất di bất dịch, đòi hỏi tất cả
các tòa soạn, cơ quan báo chí đều phải tn thủ. Có 5 nội dung quản lý Nhà
nước về báo chí cần phải nhắc đến, đó là:
1- Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch phát triển
báo chí:
Bộ Thơng tin và Truyền thơng có nhiệm vụ giúp Chính phủ xây dựng
chiến lược thơng tin báo chí, lập kế hoạch phát triển sự nghiệp báo chí, lập kế
hoạch trang bị kỹ thuật cho báo chí cả nước. Đồng thời, Bộ cũng là cơ quan
tham mưu cho Chính phủ trong việc lập kế hoạch đầu tư ngân sách, bồi
dưỡng, đào tạo cán bộ báo chí.
Dưới Bộ Thơng tin và Truyền thơng là các Sở Thơng tin và Truyền
thơng của các tỉnh, có nhiệm vụ giúp ủy ban nhân dân các tỉnh trong xây dựng
quy hoạch hoạt động báo chí theo hướng dẫn của Bộ. Đảm bảo báo chí địa
phương phát triển theo tổng thể quy hoạch của báo chí cả nước.

2- Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về báo chí; xây dựng
chế độ, chính sách về báo chí:
Theo các văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 và Luật sửa đổi bổ
sung một số điều của luật này, Bộ Thông tin và Truyền thơng có nhiệm vụ
3


soạn thảo dự án luật liên quan đến báo chí. Chỉ có Quốc hội mới có quyền ban
hành luật, pháp lệnh về báo chí. Các văn bản dưới luật liên quan đến báo chí
như: nghị định, quyết định do Chính phủ ban hành trên cơ sở kiến nghị của
Bộ Thông tin và Truyền thông.
Bộ Thông tin và Truyền thông ra các văn bản dưới luật khác thuộc
thẩm quyền của mình về chính sách, chế độ báo chí, các văn bản, chức danh,
tiêu chuẩn nhà báo, các văm bản hướng dẫn thực hiện các nghị quyết, nghị
định của Chính phủ.
3- Tổ chức thơng tin cho báo chí; quản lý thơng tin của báo chí:
Bộ Thơng tin và Truyền thơng trực tiếp thơng tin cho báo chí, trả lời
những câu hỏi do báo chí đặt ra hoặc phối hợp với các bộ để tổ chức thơng tin
cho báo chí.
Các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí cũng có nhiệm vụ kiểm sốt,
quản lý những thơng tin đã đăng, phát trên báo đài, internet và quản lý họp
báo.
4- Cấp, thu hồi giấy phép hoạt động báo chí, thẻ nhà báo:
Cơ quan báo chí phải có giấy phép do cơ quan nhà nước về báo chí cấp
mới được hoạt động. Bộ Thơng tin và Truyền thông cấp giấy phép hoạt động
cho báo chí. Hồ sơ xin phép hoạt động báo chí và xuất bản đặc san theo quy
định và mẫu thống nhất của Bộ Thông tin và Truyền thông.
5- Quản lý hoạt động đối ngoại, hợp tác của báo chí:
Bộ Thơng tin và Truyền thông là cơ quan thực hiện chức năng quản lý
nhà nước về hoạt động báo chí của Việt Nam liên quan đến nước ngồi. Bộ

cũng có chức năng quản lý và cấp phép cho các hoạt động báo chí, thơng tin
nước ngồi tại Việt Nam.
Ngồi 5 nội dung chính vừa nêu trên, Luật Báo chí cịn quy định một số
nội dung khác của quản lý Nhà nước về báo chí như: Tổ chức, chỉ đạo cơng
tác khen thưởng trong hoạt động báo chí; thanh tra, kiểm tra việc thực hiện
chế độ, chính sách, quy hoạch phát triển báo chí và việc chấp hành pháp luật
4


về báo chí; Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chính trị, nghiệp vụ, đạo
đức nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ báo chí; tổ chức quản lý hoạt động khoa
học cơng nghệ trong lĩnh vực báo chí.
2. THỰC TRẠNG CỦA CƠNG TÁC QUẢN LÝ BÁO CHÍ Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY:
Theo quy định của Luật Báo chí năm 1999 (đã sửa đổi, bổ sung), cơ
quan quản lý nhà nước về báo chí gồm: cơ quan quản lý nhà nước về báo chí
ở trung ương (Bộ Thơng tin và truyền thông); các bộ, cơ quan ngang bộ; cơ
quan quản lý nhà nước về báo chí ở địa phương (UBND tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương).
2.1. Quản lý nhà nước về báo chí ở trung ương:
Thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được Luật Báo chí quy
định, Bộ Thơng tin và truyền thông thực hiện chức năng quản lý nhà nước về
báo chí trên nhiều lĩnh vực, điển hình là các lĩnh vực sau:
2.1.1. Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch và phát triển sự nghiệp báo chí:
Thời gian qua, hoạt động này được Bộ Thông tin và truyền thông đã
thực hiện nghiêm túc, đúng định hướng và sự chỉ đạo của lãnh đạo Đảng và
Nhà nước. Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị và Thủ tướng Chính
phủ, “Bộ đã và đang tiếp tục tiến hành rà soát chức năng, nhiệm vụ các cơ
quan báo chí, xác định những ấn phẩm chồng chéo về tơn chỉ, mục đích, chức

năng, nhiệm vụ, khơng phù hợp quy hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt năm 1999; trình Thủ tướng Chính phủ ký ban hành “Chiến lược phát
triển thông tin đến năm 2010”... xây dựng quy hoạch hệ thống báo chí tồn
quốc”. Tuy nhiên, việc quy hoạch làm không đều, liên tục. Thêm nữa, cơng
tác quản lý nhà nước về báo chí cịn “thiếu chủ động trong định hướng chiến
lược; chạy theo vụ việc, lúng túng trong quy hoạch, sắp xếp”. Thực tế hoạt
động báo chí hiện nay vẫn tồn tại tình trạng mất cân bằng chỗ nội dung một
số mảng đề tài không được đề cập đến, trong khi nhiều mảng đề tài lại được
5


đề cập quá nhiều dẫn đến sự “ngộ độc” thông tin của cơng chúng khi tiếp
nhận. Tình trạng mất cân bằng còn thể hiện ở việc báo được xuất bản, phát
hành phân bố không đều, tập trung chủ yếu ở thành thị, cịn nơng thơn, nhất là
vùng sâu, vùng xa, vùng miền núi, nhân dân có rất ít báo hoặc khơng có báo
để đọc. “Nhiều cơ quan báo chí chỉ coi trọng địa bàn thành phố, thị xã vì ở đó
có thể phát hành được nhiều, cịn các địa bàn khác khơng được quan tâm đúng
mức. Tình trạng đó dẫn đến mức hưởng thụ sách báo quá chênh lệch giữa
thành phố, thị xã và vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa. Hiện nay,
75% báo chí chủ yếu phát hành ở thành phố, thị xã, vùng trung tâm, còn 25%
báo chí phát hành ở vùng nơng thơn”.
2.1.2. Xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy
phạm pháp luật về báo chí:
Từ năm 1999 đến nay, Bộ Thơng tin và truyền thơng đã chủ trì, phối
hợp xây dựng và trình Chính phủ ký ban hành, tự ban hành hơn 30 văn bản
quy phạm pháp luật trong lĩnh vực báo chí. Cùng với Luật Báo chí, các văn
bản pháp luật này bước đầu phục vụ có hiệu quả cơng tác quản lý báo chí.
Tuy nhiên, với sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin và sự thay
đổi nhanh chóng của đời sống thì nhìn chung, các văn bản quy phạm pháp
luật này còn thiếu đồng bộ, việc sửa đổi, bổ sung chậm được tiến hành. Với

chức năng là cơ quan quản lý cấp trung ương, Bộ Thông tin và truyền thông
chưa kịp thời, chủ động trong việc tổ chức tập huấn triển khai nội dung các
văn bản pháp luật cho cán bộ quản lý của các sở; đề xuất, kiến nghị, xây dựng
văn bản liên quan đến báo chí cịn hạn chế.
2.1.3. Thanh tra, kiểm tra hoạt động báo chí:
Hoạt động thanh tra, kiểm tra báo chí đang ngày càng đi vào nề nếp.
“Từ năm 1999 đến nay, Bộ đã tiếp nhận và giải quyết hơn 1.750 đơn thư
khiếu nại, tố cáo, phản ánh về những thơng tin khơng chính xác trên báo chí
do các cá nhân, tổ chức trong cả nước gửi tới liên quan đến gần 1.000 vụ
việc”. Một số nhà báo lợi dụng uy tín nghề nghiệp làm trái với đạo đức, trách
6


nhiệm của người làm báo, vi phạm Luật Báo chí đã bị xử lý nghiêm bằng các
hình thức: cảnh cáo, tịch thu thẻ nhà báo, phê bình, khiển trách. Những người
đứng đầu cơ quan báo chí có người vi phạm, do bng lỏng quản lý cũng phải
chịu những hình thức kỷ luật đúng mức.
Lưu chiểu là một khâu quan trọng của quản lý nhà nước về báo chí
nhằm thực hiện chức năng kiểm tra trước khi cho lưu hành nhưng hiện nay,
vẫn có một số tạp chí khơng thực hiện nộp lưu chiểu hoặc lưu chiểu không
đúng thời hạn theo quy định của pháp luật. Điều đó dẫn đến việc phát hiện
chậm các vi phạm, gây khơng ít khó khăn cho quá trình xử lý và để lại hậu
quả phức tạp. Hơn nữa, “khối lượng công việc phải xử lý trong cơng tác quản
lý nhà nước về báo chí ngày càng nhiều và phức tạp, trong khi đó, đội ngũ cán
bộ quản lý còn thiếu và yếu, một bộ phận cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu của
công tác quản lý trong tình hình mới”.
2.1.4. Quản lý, bồi dưỡng nâng cao trình độ cán bộ báo chí:
Trong những năm qua, Bộ Thơng tin và Truyền thơng đã có những
chương trình nâng cao trình độ cán bộ báo chí như mở lớp bồi dưỡng nghiệp
vụ cho hàng trăm phóng viên, biên tập viên trên toàn quốc; tổ chức các lớp

tập huấn về quản lý báo chí cho các trưởng, phó ban nghiệp vụ, các bộ phận
chuyên trách của Sở Thông tin và Truyền thông,... Đội ngũ người làm báo
ngày càng phát triển với hơn 15.000 nhà báo được cấp thẻ vào năm 2009.
Tuy nhiên, công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ của cán bộ
quản lý báo chí vẫn còn rất nhiều hạn chế như: chưa đào tạo chuyên sâu vào
mảng phát thanh, truyền hình, báo trực tuyến; khối lượng công việc trong
công tác quản lý nhà nước về báo chí ngày càng khó khăn, phức tạp, trong khi
đó đội ngũ cán bộ quản lý còn thiếu và yếu, một bộ phận chưa đáp ứng được
tình hình mới của đất nước.
2.2. Quản lý nhà nước về báo chí ở các bộ, cơ quan ngang bộ:
Các bộ, cơ quan ngang bộ với vai trò là cơ quan chủ quản báo chí đã có
nhiều cố gắng trong cơng tác chỉ đạo, quản lý cơ quan báo chí thuộc quyền
7


trong việc thực hiện phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch hoạt động; đồng thời
tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ báo chí đảm bảo các tiêu chuẩn về
chính trị, nghiệp vụ. Nhiều cơ quan chủ quản báo chí đã chủ động xây dựng
quy chế quản lý cơ quan báo chí thuộc quyền, tạo điều kiện cho cơ quan báo
chí hoạt động đúng quy định, có sự rành mạch, thống nhất trong chỉ đạo, quản
lý và trong công tác phối hợp của cơ quan báo chí với các đơn vị liên quan
thuộc Bộ Thông tin và truyền thông.
Tuy nhiên trên thực tế, mối quan hệ giữa cơ quan chủ quản và cơ quan
báo chí theo luật định chưa được thực hiện một cách rõ ràng, rành mạch.
Nhiều trường hợp cơ quan chủ quản bng lỏng vai trị, trách nhiệm của
mình. Một số cơ quan chủ quản khơng kiên quyết sáp nhập những tờ báo có
tơn chỉ, mục đích trùng lặp, hoặc khơng đình chỉ những cơ quan báo chí thiếu
các điều kiện đảm bảo cho tờ báo hoạt động bình thường, gây khó khăn cho
việc quy hoạch hệ thống báo chí cả nước… Tình trạng bng lỏng chỉ đạo,
quản lý của một số cơ quan chủ quản vẫn diễn ra. Khơng ít tờ báo xa rời tơn

chỉ mục đích, chạy theo mục đích thương mại, khơng chấp hành nghiêm túc
sự chỉ đạo, quản lý của cấp trên. Báo thuộc lĩnh vực này lại đưa tin về lĩnh
vực khác, nhiều khi những sự kiện lớn của ngành mình, lĩnh vực mình lại
phản ánh rất mờ nhạt, nhưng cơ quan chủ quản vẫn bỏ qua hoặc có nhắc nhở
nhưng cơ quan báo chí khơng thực hiện thì cũng khơng xử lý. Tiêu chuẩn, quy
trình bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo báo chí của nhiều cơ quan chủ quản thực hiện
khơng chặt chẽ. Khơng ít cơ quan chủ quản phó mặc cho cơ quan báo chí
tuyển chọn phóng viên, cộng tác viên, thu nhận cả những người không đủ tư
cách đạo đức, chun mơn vào làm báo. Có cơ quan chủ quản sau khi xin ra
số phụ đã khoán trắng cả về nội dung lẫn kinh phí.
Vẫn cịn hiện tượng cơ quan chủ quản bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo báo chí
khơng được đào tạo chun mơn, nghiệp vụ. Một số cơ quan chủ quản báo chí
khơng thực hiện đúng quy trình bổ nhiệm, miễn nhiện cán bộ, khơng gửi văn
bản thỏa thuận tới cơ quan quản lý nhà nước. Một số cơ quan xin thành lập cơ
8


quan báo chí khi chưa đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật như: điều
kiện về trụ sở, trang thiết bị, nguồn tài chính, tổ chức bộ máy, cán bộ...
Một số cơ quan báo chí chấp hành sự chỉ đạo khơng nghiêm túc,
thường xun vi phạm hoặc có những vi phạm nghiêm trọng, Bộ Thông tin và
truyền thông đã nhắc nhở, phê bình nhiều lần nhưng cơ quan chủ quản khơng
tích cực chấn chỉnh, xử lý kỷ luật; hoặc xử lý không nghiêm.
2.3. Quản lý nhà nước về báo chí ở địa phương:
Trong thời gian qua, các Sở Thông tin và truyền thông đã chú trọng
thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về báo chí ở địa phương. Các Sở cũng
chú trọng công tác tham mưu cho Tỉnh ủy, Thành ủy, UBND tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương về quy hoạch báo chí; soạn thảo mới, cụ thể hóa, hướng
dẫn việc thực hiện các văn bản pháp quy về báo chí trên cơ sở nội dung của
Luật Báo chí và Nghị định 51/2002/NĐ-CP; thực hiện tốt chức năng quản lý

hoạt động của các Văn phòng đại diện và phóng viên thường trú của báo chí
trung ương và địa phương khác trên địa bàn…
Tuy nhiên, công tác quản lý báo chí ở địa phương cịn những mặt hạn
chế. Nhiều địa phương chưa có bộ phận, thậm chí chưa có cán bộ chun
trách quản lý báo chí, xuất bản. Trong cơng tác quản lý hoạt động phát thanh,
truyền hình, Internet - lĩnh vực có tính đặc thù, địi hỏi phải có kiến thức về
cơng nghệ, kỹ thuật - trình độ, năng lực của cán bộ quản lý ở một số địa
phương còn chưa đáp ứng được yêu cầu; đa số địa phương chưa có kinh phí
đầu tư trang thiết bị đáp ứng yêu cầu ngày càng đa dạng và phức tạp của công
tác quản lý. UBND và Sở Thông tin và truyền thông một số tỉnh, thành phố
chưa nhận thức hết vai trò, trách nhiệm lãnh đạo, quản lý các đài phát thanh,
truyền hình thuộc quyền quản lý của mình. Một số địa phương, mặc dù có
nhiều cơ quan báo chí, nhưng cho đến nay vẫn khơng có tổ chức bộ máy hoặc
cán bộ chuyên trách giúp UBND thực hiện chức năng quản lý nhà nước về
báo chí. Một số địa phương thực hiện việc xử lý vi phạm của cơ quan báo chí
khơng nghiêm, có nơi khơng thực hiện đúng thẩm quyền.
9


3. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CHO CÔNG TÁC QUẢN LÝ BÁO
CHÍ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY:
Từ thực trạng nêu trên, có thể nhận thấy rằng bên cạnh những ưu điểm
và thành tựu mà hoạt động quản lý báo chí đạt được thì trong cơng tác quản lý
vẫn cịn bộc lộ khơng ít non kém, khuyết điểm.
Một là, một số cơ quan báo chí cịn thiếu nhạy bén chính trị, chưa quản
lý tốt việc thực hiện chức năng tư tưởng, văn hóa, có biểu hiện xa rời sự lãnh
đạo của Ðảng, sự quản lý của Nhà nước, xa rời tôn chỉ, mục đích của cơ quan
chủ quản và cơ quan báo chí.
Hai là, sự quản lý về thơng tin và cung cấp thơng tin cho báo chí cịn
lỏng lẻo, thiếu sâu sát dẫn đến hiện tượng thông tin không trung thực, thiếu

chính xác, phản ánh quá nhiều về tiêu cực và tệ nạn xã hội dẫn đến mất lòng
tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa cũng như mất
lòng tin của con người vào cuộc sống. Trong khi đó, những gương người tốt
việc tốt, gương điển hình tiên tiến có tác dụng củng cố lịng tin của cơng
chúng lại ít được báo chí đề cập, tun truyền, ca ngợi. Ngồi ra, hiện tượng
đưa thơng tin khơng phù hợp với văn hóa, thuần phong mỹ tục của người Việt
Nam trên các báo trực tuyến dẫn đến sự lệch chuẩn trong việc tiếp nhận văn
hóa của một bộ phận giới trẻ hiện đại.
Ba là, khuynh hướng tư nhân hóa, thương mại hóa báo chí, tư nhân núp
bóng để ra báo, kinh doanh báo chí ngày càng tăng. Một số báo ngành, đoàn
thể, địa phương đã vượt ra khỏi phạm vi tơn chỉ, mục đích để trở thành (hoặc
muốn trở thành) một tờ báo chính trị - xã hội của cả nước. Ðiều này dẫn tới
việc các báo ít nhiều sao nhãng nhiệm vụ chính của mình; đề cập quá nhiều
các vấn đề của các ngành, đoàn thể, địa phương khác; nội dung thơng tin trên
báo chí thường giống nhau, bắt chước hoặc sao chép nhau, nhất là khi có các
vấn đề phức tạp, nhạy cảm, các vụ án, các vụ việc giật gân, câu khách.
Bốn là, việc xây dựng, thực hiện quy hoạch phát triển hệ thống các đài
phát thanh, truyền hình cịn nhiều lúng túng, bất cập, gây lãng phí, tốn kém.
10


Đặc biệt là việc xã hội hóa hoạt động truyền hình vẫn có tình trạng bng
lỏng, khơng tn thủ những nguyên tắc cơ bản, vừa "khoán trắng" cho đối tác
liên kết, thậm chí "bán kênh", "bán sóng" cho tư nhân... Điều này khơng chỉ
dẫn đến tình trạng kém chất lượng của một số chương trình thực tế, chương
trình đối thoại,… trên trun hình mà cịn dẫn đến tình trạng ỷ lại, chây ỳ,
thiếu sáng tạo của phóng viên, biên tập viên của các báo, đài trong cả nước.
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến các vấn đề nêu trên. Chẳng hạn,
phương thức, năng lực lãnh đạo, quản lý của Ðảng và Nhà nước đối với báo
chí chậm đổi mới, có mặt cịn lúng túng, bất cập; chưa có các quyết sách cơ

bản, lâu dài; có biểu hiện vừa bng lỏng, hữu khuynh, vừa áp đặt, khiên
cưỡng. Việc cung cấp thông tin cho báo chí, thực hiện cơ chế người phát ngơn
của các ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị cịn nhiều sơ hở. Luật Báo chí
(năm 1989) được bổ sung, sửa đổi năm 1999, đến nay đã bộc lộ nhiều bất cập,
hạn chế, nhất là ở loại hình báo chí điện tử, phát thanh, truyền hình. Năng lực,
bản lĩnh, trách nhiệm của đội ngũ những người làm báo, nhất là người đứng
đầu cơ quan báo chí cịn bất cập, hạn chế. Việc nhìn nhận, chọn lọc, xử lý
thơng tin, nhất là những thông tin quan trọng, phức tạp, nhạy cảm cịn lúng
túng. Cơng tác đào tạo, giáo dục, tiếp nhận, sử dụng cán bộ, phóng viên, nhân
viên ở một số cơ quan báo chí chưa tốt. Cả nước có ba cơ sở đào tạo phóng
viên báo chí ở trình độ đại học, sau đại học, nhưng chưa có cơ sở đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cơ quan báo chí. Cơng tác tổng
kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về báo chí khơng theo kịp sự phát triển của
báo chí. Các khái niệm: quyền tự do báo chí ; quyền tự do ngơn luận trên báo
chí; thơng tin trung thực về mọi mặt của tình hình đất nước và thế giới và việc
xâm phạm lợi ích của Nhà nước, tập thể và cơng dân chưa được làm rõ, đôi
lúc mơ hồ, không đề cao trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân của người
làm báo. Năm Mâu thuẫn giữa chức năng tư tưởng, văn hóa với hoạt động
kinh tế của báo chí; giữa thơng tin, tun truyền và thương mại của báo chí
ngày càng gay gắt. Chiến lược thông tin quốc gia, công tác quy hoạch phát
11


triển báo chí chưa theo kịp bước phát triển của ngành. Hệ thống báo chí của ta
hiện nay cịn nhiều điểm bất hợp lý, vi phạm tơn chỉ, mục đích, trùng lặp,
chồng chéo về nội dung, nặng về bao cấp, gây lãng phí, tốn kém. Cơng tác
xây dựng Ðảng, vai trị của tổ chức đảng, các đồn thể chính trị - xã hội ở một
số cơ quan báo chí chưa được coi trọng đúng mức. Một số tổng biên tập, ban
biên tập báo, đài, tạp chí chưa thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao,
chưa tuân thủ nghiêm túc sự chỉ đạo của cơ quan chủ quản và các cơ quan làm

cơng tác quản lý báo chí.
Từ đó có thể thấy rằng công tác quản lý hoạt động báo chí ở Việt Nam
hiện nay là vơ cùng quan trọng và cần thiết. Nội dung quản lý nhà nước đối
với hoạt động báo chí đã được đặt ra ngay từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa mới ra đời, và từ đó đến nay, cùng với sự phát triển của cách mạng Việt
Nam, hệ thống văn bản pháp luật về báo chí ngày càng được bổ sung, hồn
thiện. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí (năm 1999) đặc biệt
quan tâm đến trách nhiệm nhà báo, vai trò quản lý nhà nước đối với hệ thống
thơng tin đại chúng... Tuy nhiên, để báo chí Việt Nam có thể phát triển và hịa
vào dịng chảy chung của báo chí thế giới thì vai trị quản lý của Nhà nước đối
với hoạt động báo chí rất cần được đẩy mạnh hơn bao giờ hết.
4. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC VỀ BÁO CHÍ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY:
4.1. Đẩy mạnh hồn thiện quy hoạch phát triển hệ thống báo chí:
Mặc dù đã có Chiến lược phát triển thơng tin đến năm 2010 nhưng
trước thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay, nền báo chí Việt Nam đang
đứng trước những thách thức vơ cùng lớn, địi hỏi cần phải xây dựng một
chiến lược phát triển thông tin lâu dài, chất lượng và có sức cạnh tranh cao
cho đất nước.
Trên cơ sở đó, chiến lược thông tin phải bao quát được những mục tiêu
chung như sau: Một là, phát triển thông tin theo mơ hình hợp lý, đáp ứng nhu
cầu thơng tin của nhân dân, theo kịp trình độ, khả năng phát triển thông của
12


các nước trong khu vực và thế giới. Hai là, phát triển đồng bộ và hiện đại hóa
các phương tiện thơng tin đại chúng, bảo đảm cho tồn bộ dân cư các vùng
miền, các vùng miền núi, biên giới, hải đảo xa xôi đều được tiếp nhận thông
tin một cách tốt nhất, nhanh nhất. Ba là, nhanh chóng và triệt để khắc phục
tình trạng thơng tin thiếu cân đối, thu hẹp khoảng cách hưởng thụ thông tin

của nhân dân giữa các vùng miền. Bốn là, khuyến khích việc hợp tác, liên
doanh, liên kết với nước ngồi trên lĩnh vực thơng tin nhằm thu hút vốn đầu
tư, kinh nghiệm quản lý, cơng nghệ,...
Hiện nay, ở Việt Nam đã có một số cơ quan manh nha hoặc đã cho triển
khai quản lý tịa soạn theo dạng tập đồn báo chí và bước đầu đã thu được
những kết quả khả quan như báo Tuổi Trẻ TP. Hồ Chí Minh, báo Tiền Phong,
Thời báo Kinh tế Việt Nam. Có thể thấy rằng, tập đồn báo chí là mơ hình có
triển vọng trong q trình phát triển nền báo chí nước nhà. Tuy nhiên đây là
mơ hình mới ở Việt Nam nên cần được nghiên cứu lỹ lưỡng, xây dựng đề án
và có hành lang pháp lý chặt chẽ để phát triển.
4.2. Rà soát, bổ sung chế độ, chính sách và đầu tư ngân sách phát
triển báo chí:
Thời gian qua chúng ta đã có những bước chuyển biến nhất định trong
việc thực hiện chế độ, chính sách mềm dẻo đối với báo chí. Tổng Biên tập đã
tự chịu trách nhiệm xây dựng báo giá phù hợp với giá thị trường, sức tiêu thụ
và yêu cầu phụ vụ nhiệm vụ chính trị; các cơ quan báo chí chủ động trả nhuận
bút theo quy định; khuyến khích phát hành báo chí; chủ động kêu gọi quảng
cáo,... Tuy nhiên, các chế độ, chính sách về báo chí lại tồn tại nhiều thiếu sót,
lạc hậu so với thực tiễn hoạt động báo chí. Vì vậy, cơng tác rà sốt để kịp thời
sửa đổi, bổ sung các chính sách, chế đọ dành cho báo chí là hết sức cần thiết
hiện nay.
Đồng thời, để báo chí làm tốt chức năng thơng tin – tuyên truyền, Nhà
nước cần đầu tư ngân sách một cách hợp lý, nhất là đầu tư cho các báo, đài
địa phương, vùng sâu, vùng xa để mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính
13


sách, pháp luật của Nhà nước đều đến được với quần chúng nhân dân một
cách sâu, rộng hơn.
4.3. Không ngừng hồn thiện hệ thống pháp luật báo chí:

Việc hồn thiện hệ thống pháp luật về báo chí và tổ chức thực hiện luật
pháp một cách nề nếp, quy củ là một địi hỏi tất yếu hiện nay. Việc thực hiện
hồn thiện khung pháp lý về báo chí cần hướng vào những nội dung như sau:
Một là, hoàn thiện theo hướng cụ thể hóa, chí tiết hóa các điều khoản
quy định.
Hai là, hoàn thiện theo hướng xác định rõ trách nhiệm của các chủ thể
tham gia hoạt động báo chí.
Ba là, rà soát, bổ sung những vấn đề mới do thực tiễn và sự phát triển
báo chí đặt ra.
Bốn là, hồn thiện pháp luật theo hướng đảm bảo quyền tự do báo chí,
tự do ngơn luận của cơng dân.
4.4. Đào tạo, nâng cao năng lực quản lý của bán bộ báo chí và kỹ
năng nghề nghiệp của đội ngũ người làm báo:
Như bất cứ một ngành nghề nào khác, công tác đào tạo, quản trị nhân
sự luôn là vấn đề được quan tâm hàng đầu. Báo chí là một trong những ngành
nghề đặc biệt cùng với sư phạm, nghệ thuật,… nên không chỉ cần năng khiếu
thiên bẩm của người làm báo mà cịn cần mơi trường đào tạo chun nghiệp,
chun sâu hơn những ngành nghề khác. Thực tế cho thấy rằng nếu đội ngũ
những người làm báo và những người làm cơng tác quản lý báo chí có năng
lực tốt, có đầy đủ phẩm chất, nhận thức chính trị cao thì nền báo chí cũng phát
triển hơn. Vì vậy, rất cần có sự đổi mới về phương pháp đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ quản lý báo chí cũng như đội ngũ những người làm báo sao cho phù
hợp với tình hình thực tế. Hướng đào tạo, bồi dưỡng cần tập trung vào một số
điểm như sau:
Một là, đào tạo theo hướng vừa hồng vừa chuyên, học phải đi đôi với
hành, lý luận phải đi đôi với thực tiễn để đội ngũ cán bộ báo chí khơng chỉ
14


giỏi về kiến thức chun mơn, có tư duy logic khoa học, có nhận thức chính

trị đúng đắn, có quan điểm, lập trường vững vàng,… mà còn phải giỏi về
nghiệp vụ dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, cơ quan công tác nào, địa phương nào.
Hai là, đào tạo theo hướng đa dạng hóa kỹ năng hành nghề để phù hợp
với việc phát triển mơ hình tập đồn báo chí. Người làm báo cũng như người
làm công tác quản lý phải tích hợp trong mình đầy đủ các kỹ năng mà một
người làm báo hiện đại cần có.
Ba là, tuyển chọn nhân sự đưa đi tào tạo ở nước ngoài hay đi thực tế cơ
sở để có cái nhìn tổng thể, bao quát, học tập cách thức làm báo từ các nước
bạn và hiểu rõ tình hình của từng địa phương. Từ đó đề xuất những nhóm giải
pháp phù hợp với tình hình phát triển của báo chí nước nhà nói chung, từng
loại hình báo chí, từng địa phương nói riêng.

15


KẾT LUẬN
Quản lý Nhà nước về báo chí là một nguyên tắc được xem là bất di bất
dịch, không thể thay đổi được trong sự nghiệp phát triển báo chí nước nhà.
Cùng với sự lãnh đạo của Đảng, nền báo chí Việt Nam đang ngày một đi lên
cùng với những thành tích rất đang khen ngợi. Song song đó cũng đặt ra cho
nền báo chí những thách thức trước một nền cơng nghiệp hóa tiên tiến, hiện
đại, một thời đại cơng nghệ số bùng nổ như hiện nay. Từ đó cho thấy vai trò
quản lý của Nhà nước về báo chí hiện nay trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.
Mặc dù cịn rất nhiều hạn chế trong q trình phát triển báo chí cần được xem
xét, giải quyết. Nhưng dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng, công tác quản lý của
Nhà nước, chúng ta hồn tồn có thể tin rằng nền báo chí cách mạng của
chúng ta sẽ khơng ngừng lớn mạnh để sánh vai cùng với các nền báo chí phát
triển khác trên thế giới.

16



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS. Hoàng Quốc Bảo: Lãnh đạo và quản lý hoạt động báo chí ở
Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị - Hành chính, H.2010.
2. PGS. TS Lê Thanh Bình – Th.s Phí Thị Thanh Tâm: Quản lý nhà
nước và pháp luật về báo chí, Nxb Văn hóa – Thơng tin, H.2009.
3. TS. Lê Thanh Bình: Quản lý và phát triển báo chí – xuất bản, Nxb
Chính trị Quốc gia, 2004.
4. Ban Tuyên giáo TW: Tăng cường lãnh đạo, quản lý tạo điều kiện để
báo chí nước ta phát triển mạnh mẽ và vững chắc trong thời gian tới, Nxb Lý
luận chính trị, H.2007.
5. Tạp chí Đảng Cộng sản

17


MỤC LỤC



×