Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Tieu luan môn ngon ngu bao chi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (395.91 KB, 20 trang )

PHẦN I: MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn lựa đề tài
1. Vấn đề ngơn ngữ báo chí
Ngơn ngữ báo chí có những đặc điểm, quan hệ, qui phạm riêng của nó
phục vụ cho cách thức tiếp cận hiện thực của báo chí. Việc khảo sát ngơn ngữ
báo chí cần đặt cái khung của những tính chất đặc thù của báo chí để từ đó
tìm ra cách viết rất riêng của báo chí trong việc chiếm lĩnh thực tại, trong kiểu
tổ chức tác phẩm.
Ngơn ngữ báo chí là một khái niệm nghiệp vụ tương đương với khái
niệm tin, phóng sự, phỏng vấn… Ngơn ngữ báo chí phải đáp ứng những địi
hỏi của nghiệp vụ về phẩm chất, về hiểu biết mà ở những ngành khác không
cần thiết như vậy.
Để nắm bắt được đặc điểm ngơn ngữ trong báo chí địi hỏi chúng ta phải
có sự đào sâu tìm hiểu vấn đề này.
2. Vấn đề ngơn ngữ phóng sự
Phóng sự là một thể loại báo chí thuộc nhóm chính luận nghệ thuật, phản
ánh các sự kiện, con người, tình huống, hồn cảnh điển hình trong quá trình
phát sinh, phát triển, đồng thời thẩm định hiện thực đó qua cái tơi trần thuật
vừa tỉnh táo lý trí, vừa cảm xúc với bút pháp giàu chất văn học bằng phương
tiện ngôn ngữ khác nhau.
Với ưu thế phản ánh hiện thực sâu sắc và có sức “cơng phá” lớn, phóng
sự hiện nay chiếm một lượng khá lớn thời gian phát sóng của truyền hình, từ
những phóng sự dài kỳ như một thiên tiểu thuyết nhưng cũng có những phóng
sự chỉ độ 700 – 800 chữ thiên về mơ tả, thơng tin nhanh sự kiện.
Phóng sự là kết quả của những logic hội tụ dựa trên các phương tiện
ngơn ngữ chữ viết, hình ảnh và âm thanh.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài “Ngôn ngữ thể loại phóng sự trên Báo mạng điện tử” là một đề tài
mở, có quy mơ khá lớn, nếu tìm hiểu và phân tích một cách chi tiết đề tài này
thì quy mơ của nó rất lớn và dung lượng thơng tin khá đồ sộ. Vì vậy, đề tài
này chỉ dừng lại ở mức độ đặt những vấn đề chính có kèm theo những phân


tích đánh giá sơ lược; đồng thời có sự khảo sát nghiên cứu trên thực tế báo
chí. Xin tóm lược đề tài ở những bước sau:
1


- Vấn đề ngơn ngữ và nguồn gốc của nó
- Ngơn ngữ sử dụng trong lĩnh vực báo chí
- Phóng sự và vai trị của phóng sự
- Ngơn ngữ thể loại phóng sự nói chung và ngơn ngữ phóng sự trên báo
mạng điện tử
- Khảo sát, phân tích, đánh giá việc sử dụng ngơn ngữ thể loại phóng sự
trên báo mạng điện tử

PHẦN 2: GIẢI QUYẾT VẤN ĐÊ
I. NGÔN NGỮ VÀ NGƠN NGỮ BÁO CHÍ
1. Sự hình thành ngơn ngữ
Ngơn ngữ là hệ thống để giao thiệp hay suy luận dùng một cách biểu
diễn, phép ẩn dụ, và một loại ngữ pháp theo lơgic, mỗi cái đó bao hàm một
tiêu chuẩn hay sự thật thuộc lịch sử và siêu việt. Nhiều ngôn ngữ sử dụng điệu
bộ, âm thanh, ký hiệu, hay chữ viết, và cố gắng truyền khái niệm, ý nghĩa, và
ý nghĩ, nhưng mà nhiều khi những khía cạnh này nằm sát q, cho nên khó
phân biệt nó.
Khơng ai biết chính xác ngơn ngữ ra đời từ kia nào chỉ biết con người đã
sử dụng các công cụ ngôn ngữ như ký tự, tiếng nói, kình vẽ, âm thanh, hình
ảnh…Từ khi có chữ viết con người bắt đầu sử dụng văn bản và đến thế kỷ XV
báo chí mới chình thức ra đời. Cùng với sự phát triển của xã hội lồi người các
hình thức ngơn ngữ cũng trở nên đa dạng và phong phú, phương thức truyền tải
ngôn ngữ dần vượt ra khỏi giới hạn của thời gian, khơng gian. Con người có
thể tiếp cận ngơn ngữ từ bốn phương, từ nhiều nguồn văn hóa khác nhau.
Mục đích của ngôn ngữ là truyền tải thông tin, cảm xúc của con người,

sự vật, sự kiện từ người này đến người khác. Cho nên ngôn ngữ được dùng ở
tất cả các mặt, các lĩnh vực trong đời sống.
Trên báo chí, ngôn ngữ được dùng cho việc thông tin và giải trí là chủ
yếu, cho nên ngơn ngữ mang màu sắc sự kiện và có tính chất của ngơn ngữ
văn hoạc nghệ thuật

2


2. Ngơn ngữ báo chí
Ngơn ngữ báo chí phục vụ cho cách thức tiếp cận hiện thực của báo chí.
Cần đặt ngơn ngữ báo chí dưới cái khung đặc thù của báo chí để từ đó tìm ra
cách viết riêng của báo chí trong việc chiếm lĩnh thực tại, trong kiểu tổ chức
tác phẩm.
Ngơn ngữ báo chí phải đáp ứng những đòi hỏi nghiệp vụ về phẩm chất, về
hiểu biết mà ở những ngành khác không cần thiết như vậy. Để đáp ứng được
những địi hỏi đó, ngơn ngữ báo chí dựa trên những nhận thức cơ sở sau đây:
- Nhận thức về chính trị: Làm báo là trực tiếp tham gia vào hoạt động
chính trị xã hội. Nhà báo hoạt động khơng khác gì nha fchính trị, nhà ngoại
giao trong cách ứng sử, trong cách đối phó với tình hình. Trong nhận thức
chính trị của nhà báo, điều quan trọng nhất là sự thừa nhận sự lãnh đạo của
chính trị. Sự thừa nhận này là một nhận thức khoa học chưa không phải là sự
ép buộc.
- Nhận thức tiếng mẹ đẻ: Tiếng Việt là ngơn ngữ chính thống của quốc
gia; các tác phẩm báo chí đều thể hiện qua ngơn ngữ này vì vậy báo chí góp
phần tích cực hơn trong việc phản ánh, duy trì sự sinh động và tính hấp dẫn
của tiếng Việt đến các đối tượng công chúng.
- Nhận thức về vốn kiến thức: Làm báo địi hỏi một vốn kiến thức vừa
sâu vừa rộng, ngồi kiến thức sách vở còn đòi hỏi kiến thức cuộc sống đa
dạng. Vốn kiến thức ngôn ngữ phong phú sẽ làm cho ngòi bút và moik việc từ

khâu chọn lọc thông tin đến sử lý thông tinh diễn ra hết sức nhanh chóng và
xác đáng…
Ngơn ngữ báo chí là một lĩnh vực chuyên nghiệp của báo chí. Tuy chất
liệu chủ yếu của nó là ngơn ngữ và có mối liên hệ mật thiết với ngơn ngữ báo
nhưng khơng vì thế mà xem hai cái là một. Vì vậy, khơng phải cứ biết dùng từ
chính xác, biết viết câu dung qui tắc, biết vận dụng phép tu từ.. là có thể viết
báo được.
Ngơn ngữ báo chí và ngơn ngữ là hai lĩnh vực khác nhau.

3


3. Đặc điểm ngơn ngữ báo chí
3.1. Đặc điểm loại hình
a. Ngơn ngữ sự kiện
- Ngơn ngữ sự kiện là là phương tiện duy nhất để phản ánh của báo chí,
đồng thời là tiêu chí khu biệt với các ngơn ngữ khác.
- Ngôn ngữ sự kiện bao giờ cũng được nhìn nhận trong qui trình vận
động của sự kiện, do đó cần chú ý tới mối quan hệ tương tác giữa ba nội dung
của ngơn ngữ sự kiện.
Sự kiện có thật và nguyên dạng phải là sự kiện hiện hữu thì mới có giá
trị thời sự. Có những phản ánh mới nhìn thì đúng là có thật, ngun dạng và
hiện hữu vì khơng đặt trong qui trình vận động mà cái có thật thành cái khơng
thật, cái ngun dạng thành cái biến dạng, cái hiện hữu thành cái xa lạ.
- Chú ý tới sự vận động thì sẽ nhìn ra cái mới, cái thật của cuộc sống và
đem lại sự sáng tạo cho nhà báo.
b. Ngôn ngữ định lượng
Ngôn ngữ báo chí coi trọng lượng sự kiện; ngơn ngữ chỉ được khẳng
định ở lượng sự kiện, tính chất, bản chất, khuynh hướng của sự kiện. Những
cách diễn đạt theo ngôn ngữ định tính tỏ ra khồn phù hợp với nhà báo vì đó là

ngơn ngữ của các nhà chính trị, nhà tư tưởng.
Vì vậy, ngơn ngữ định lượng là cái phái sinh, sự cụ thể hóa của ngơn ngữ
sự kiện. Chính vì địi hỏi phản ánh cụ thể chính xác về sự kiện có thật, nguyên
dạng đã dẫn đến việc địi hỏi phải coi trọng số lượng.
c. Ngơn ngữ của độ không xác định
- Cách diễn đạt gợi lên sự liên tưởng, sự chú ý, kích thích sự tìm hiểu và
tạo ra sự suy nghĩ khơng dứt trong lịng người đọc, người xem.
- Cách diến đạt hạn chế tối đa khả năng đốn trước của người đọc nhờ
đó làm bùng phát cái bất ngờ của thông tin.
- Cấu trúc mở tạo cho tác phẩm báo chí có sức sống vượt thời gian.
Ngôn ngữ của độ không xác định là sự đồng hành của cấu trúc mở.

4


3.2. Những mối quan hệ của ngơn ngữ báo chí
a. Quan hệ phản ánh
Đây là quan hệ tạo ra được sự trùng khớp giữa mơ hình hiện thực với mã
ngon ngữ trong tác phẩm báo chí. Quan hệ phản ánh địi hỏi tin, bài bao giờ
cũng phải trung thực, chính xác, không mâu thuẫn.
b. Quan hệ đôi xứng
Quan hệ đối xứng là quan hệ tạo ra sự hài hòa, đối xứng hoặc đối lập
giữa mơ hình hiên thực với mã ngơn ngữ trong tác phẩm báo chí. Đây là một
sự cụ thể hóa quan hệ phản ánh. Thơng thương, người ta vi phạm quan hệ
phản ánh dưới dạng quan hệ đối xứng. Chẳng hạn trong truyền hình ta thường
gặp sự vênh nhau giữa hình và lời bình.
c. Quan hệ liên tưởng
Quan hệ liên tưởng tùy thuộc vào hai quan hệ trên. Nếu phản ánh đúng,
đối xứng đúng thì liên tưởng đúng và ngược lại.
Quan hệ liên tưởng là quan hệ tác động hai chiều: chiều nhà báo và chiều

người nhận thơng tin. Đối với nhà báo thì đây là chuẩn mực giúp cho mình
lựa chọn câu chữ, cách diễn đạt, cấu trúc tin, bài như thế nào để hướng sự liên
tưởng của độc giả, khan giả, thính giả theo chủ đích của mình, khơng tạo ra
những liên tưởng có hại cho bài báo. Đối với người nhận tin, quan hệ này có
tác động như một người kiểm tra bài báo. Bằng vốn kiến thức, vốn sống của
mình người nhận tin bao giờ bao giờ cũng có khát vọng hiện diện trong bài
báo.
II.

PHĨNG SỰ

1. Sơ lược về sự hình thành và phát triển thể loại phóng sự
I.1. Trên Thế Giới
Trong các thể loại báo chí, có một thể loại mà ngay từ khi mới ra đời đã
thu hút được đông đảo sự quan tâm của công chúng và là mối lo ngại của
chính quyền. Đó chính là thể loại phóng sự. Là đứa con của báo chí cho nên
khơng phải ngay từ khi báo chí xuất hiện thể loại phóng sự đã ra đời. Theo
các tài liệu nghiên cứu về báo chí và truyền thơng thì phóng sự ra đời lần đầu
tiên ở Châu Âu vào cuối thế kỉ XIX, gắn liền với sự thắng lợi của cuộc đấu

5


tranh vì tự do báo chí dài suốt 3 thế kỉ và sự phát triển vượt bậc của tư tưởng
dân chủ, tiến bộ ở các nước phương Tây.
1.2. Ở Việt Nam
Có ý kiến cho rằng vì báo chí xuất hiện ở nước ta khá muộn so với thế
giới cho nên thể loại phóng sự cũng xuất hiện cùng với sự xuất hiện của báo
chí năm 1865, nhưng phóng sự mới thực sự lộ diện vào những năm 30 của thế
kỉ XX với những lý do sau:

- Phong trào Duy Tân, du học sang các nước phương Tây đã làm thay
đổi bộ mặt báo chí nước nhà, liên tục những cuộc cải cách lớn trên báo chí
được thực hiện do các trí sĩ đã được tiếp cận với nền văn hóa phương Tây
hiện đại.
- Lịch sử dân tộc ta ở thời điểm này đang có nhiều những biến động
quan trọng. Bọn Đế quốc liên tục khủng bố cách mạng và đàn áp dân chúng;
nhu cầu thông tin liên tục của quần chúng nhân dân làm cho thể loai phóng sự
trở thành một thể loại chính của báo chí lúc bấy giờ.
- Các trường đào tạo học sinh, sinh viên được xây dựng cả về chất lẫn
về lượng. Đây là một lý do quan trọng thúc đẩy sự phát triển của báo chí, đặc
biệt khả năng tiếp nhận thơng tin của cơng chúng cũng có nhiều thay đổi quan
trọng. Mọi người khơng còn hứng thú với những câu hỏi hư cấu, lãng mạn
nữa mà lối viết tường thuật, kể và miêu tả lại sự kiện làm cho độc giả hứng
thú hơn.
Mới chỉ khoảng hơn 70 năm xuất hiện ở Việt Nam nhưng Phóng sự đã có
những bước tiến dài về thể loại. Càng ngày Phóng sự càng đi sâu vào những
vấn đề thời sự cập nhật, được thể hiện ngắn gọn nhưng nhiều thông tin nhanh,
gấp gáp của thời đại.
2. Thể loại phóng sự
II.1. Khái niệm
Phóng sự là kể lại một câu chuện có thật một cách ngắn gọn, chính xác,
các chi tiết tập trung trả lời câu hỏi: Cái gì? Xảy ra ở đâu? Xảy ra như thế
nào? Tại sao? Mức độ ảnh hưởng như thế nào?.
Ngồi ra, cịn có một quan niện nữa về phóng sự đó là coi phóng sự là
một thể loại báo chí mang bản chất tổng hợp, kế thừa phong cách sáng tạo của
tất cả các thể loại báo chí khác như Tin, Phỏng vấn, Tường thuật, Điều tra và
cả văn học.
6



Khái niệm:
Phóng sự là một thể loại báo chí quan trọng, thông tin cụ thể và sinh
động về con người, sự việc, tình huống, hồn cảnh có thật, có ý nghĩa thời sự,
theo một quá trình phát sinh – phát triển, thông qua cái tôi – tác giả và ngôn
ngữ, giọng điệu linh hoạt, với bút pháp mô tả, tường thuật kết hợp với nghị
luận.
2.2. Đặc điểm cơ bản của phóng sư
a. Đối tượng phản ánh là việc thật, người thật tiêu biểu, có ý nghĩa xã hội.
Ưu thế của phóng sự là đi sâu khám phá số phận một con người, một tập
thể người có tính chất điển hình trong hồn cảnh điển hình.
Cũng là phản ánh “việc thật” nhưng phóng sự khơng dừng lại ở hình thái
phản ánh giản đơn mà còn làm rõ bản chất bên trong của sự kiện, giúp cơng
chúng khơng những biết nó xảy ra mà còn hiểu nguyên nhân “tại sao” lại xảy
ra. Phóng sự ln bám sát vào một nhân vật hoặc một sự việc cụ thể để từ đó
xây dựng nên cấu trúc riêng của mình.
b. Phản ánh hiện thưc khách quan trong q trình vận đợng biện
chứng phát sinh – phát triển; nguyên nhân – kết quả, lượng – chất.
Cuộc sống bao hàm các sự vật, hiện tượng khác nhau, nhưng chúng luôn
nằm trong quy luật của sự vận động, quy luật thống nhất đấu tranh giữa các
mặt đối lập. Thể loại phóng sự có khả năng sắp xếp, ngăn ô các dữ kiện, dồn
nén thông tin của cả quá trình biến đổi từ lượng sang chất, vận động theo
nhiều chiều, nhiều tầng, diễn ra trong một chu kì thời gian nhất định.
c. Phóng sư sử dụng kết cấu, ngôn ngữ và bút pháp tạo ra sư uyển
chuyển trong quá trình tiếp cận thơng tin.
Đây được cho là sự kế thừa các tinh hoa của văn học và các thể loại
khác. Nó được thể hiện ở một số mặt cụ thể sau:
• Kết cấu: Phóng sự được tác giả “nhào nặn” rất linh hoạt phụ thuộc vào
đối tượng phản ánh và ý đồ riêng của tác giả. Các kết cấu được sử dụng
thường chặt chẽ và logic, hoàn chỉnh và rõ ràng, chất phác và bình dị. Thời
gian ln được sắp xếp theo những trật tự tuyến tính nhất định. Nó chi phối

nội dung và sự sáng tạo của tác giả.
• Ngơn ngữ: là phương tiện biểu đạt và biểu cảm chủ đề cũng như nội
dung của phóng sự. Ngơn ngữ phóng sự phải chính xác, hàm xúc và biểu cảm;
phải là ngôn ngữ của nhân dân, đa diện, đa góc độ để tạo sự sinh động cho bài
phóng sự.
7


• Các bút pháp thường được sử dụng nhiều nhất đó là mơ tả, thuật, kết
hợp với bút pháp nghị luận.
• Về các biện pháp tu từ: trong thể loại phóng sự các biện pháp như: so
sánh, tương phản, ẩn dụ, châm biếm, hài hước… luôn được sử dụng một cách
triệt để.
• Vai trị của cái tơi trong phóng sự thường xuất hiện với 3 tư cách và 2
vai trò chính:
Tư cách:
- Nhân chứng khách quan: người khám phá ra sự kiện, theo dõi, điều
tra…
- Thẩm định khách quan: kiểm tra tư liệu, nguồn để đảm bảo độ chính
xác của thông tin.
- Khâu nối dữ liệu, các chi tiết, chi tiết rời rạc thành một tác phẩm
phóng sự hồn chỉnh và sử dụng ngơn ngữ phù hợp.
Vai trị:
- Người dẫn chuyện: có thể trực tiếp xuất hiện với chủ thể “tơi”, tác giả
cũng có thể lấy mình ra để đối trọng với hiện thực như người trong cuộc để
tăng sự sâu sắc của bài phóng sự.
- Người định hướng: Lựa chọn, sắp xếp chi tiết, chọn lời nói, ngơn ngữ
phù hợp với ý đồ sắp xếp của mình, tạo ra sự khách quan trong nhận thức và
sự tiếp thu của cơng chúng.
III. NGƠN NGỮ PHĨNG SỰ

1. Sơ lược về ngơn ngữ phóng sự
Ngơn ngữ là phương tiện biểu cảm và biểu đạt cụ thể chủ đề, chủ đề tư
tưởng của tác phẩm Phóng sự. Để lựa chọn, sử dụng ngơn ngữ cho đúng,
trúng và hay trong tác phẩm Phóng sự, nhà báo phải xem xét tính chất, quy
mơ của đối tượng phản ánh, trình độ của đối tượng tiếp nhận thơng tin và loại
hình phương tiện thơng tin đại chúng chuyển tải bài Phóng sự đó.
2. Đặc tính cơ bản của ngơn ngữ Phóng sự: chính xác và hàm súc
biểu đạt nội dung
Phóng sự là phản ánh hiện thực một cách chân thật, khách quan, cho nên,
các phương tiện ngôn ngữ được sử dụng trong Phóng sự thường chính xác và
khách quan. Tính chính xác thể hiện ở chỗ: ngơn ngữ Phóng sự phải biểu đạt
đúng bản chất sự vật, hiện tượng trong từng thời khắc nhất định, trong từng
8


bối cảnh cụ thể, nhằm tạo ra một văn bản đơn nghĩa, dễ hiểu. Mặt khác,
Phóng sự phải miêu tả, kể lại câu chuyện một cách cô đọng, logic và hàm súc.
Tính hàm súc của ngơn ngữ Phóng sự nảy sinh từ yêu cầu: phải cung cấp một
lượng thông tin cao, khơng có dư thừa về con người và sự kiện trong một diện
tích ngơn ngữ hạn hẹp trên trang báo, trên sóng… cho nên cần phải dùng từ
sao cho đắt nhất, có giá trị biểu đạt cao nhất. Cung cấp thơng tin một cách
chính xác và hàm súc, có nghĩa là ngôn ngữ đã thực hiện được chức năng giao
tiếp lý trí có hiệu quả cao nhất.
• Biểu cảm: Trong phóng sự ngơn ngữ cịn có giá thể biểu đạt chân thực
những trạng thái tình cảm, cảm xúc tâm lý, thái độ, ý kiếm của đối tượng
được miêu tả và của chính tác giả, có thể tác động đến nhận thức, tình cảm
của đối tượng tiếp nhận thơng tin, khiến cho đối tượng tiếp nhận thông tin
cũng nảy sinh cảm xúc, tình cảm, thái độ như “đối tượng được miêu tả” và tác
giả. Như vậy, người tiếp nhận thông tin khơng chỉ được nhận thơng tin mà
cịn như được chứng kiến, tham gia vào sự kiện (vui, buồn, lo âu…) với tư

cách của “người trong cuộc”, có nghĩa là, ngôn ngữ đã thực hiện tốt chức
năng tác động vào tâm lý tiếp nhận thông tin của người đọc, thông qua tình
cảm mà hướng dẫn nhận thức, thơi thúc hành động của con người. Điều này
khẳng đinh thế mạnh hơn hẳn của thể loại phóng sự so với các thể loại khác.
Ngơn ngữ của phóng sự phải là ngơn ngữ của nhân dân: đúng, rõ, sinh
động, hình ảnh sạch, gon và dễ hiểu.Buêtsgơ đã viết: “ Việc sử dụng từ ngữ
cũng hồn tồn phục vụ cho mục đích là khơng lên lớp cho người xem, không
mớm lời cho nhận thức”.
Ngôn ngữ trong tác phẩm được thể hiện ở các mặt:
- Cấp độ từ: Chủ yếu dùng danh từ, động từ và trạng từ, ít sử dụng tính
từ, hình dung từ.
- Cấp độ câu: Kết hợp giữa câu đơn và câu phức hợp tạo ra câu văn
mạnh hoặc trùng điệp, chuyển tải ý tưởng lượn sóng.
- Cấp độ văn bản: Thường là một văn bản trọn vẹn, thống nhất giữa nội
dung và hình thuéc, đủ các thành phần: đầu đề, giới thiệu vấn đề, giải quyết
vấn đề, kết thúc vấn đề, tên tác giả.
Các thành phần ngơn ngữ trong phóng sự:
9


Căn cứ để phân loại
Xem xét tác phảm phóng sự dưới góc độ là một văn bản hồn chỉnh thì
đã có nhiều cách phân chia thành phần ngơn ngữ khác nhau. Có người căn cứ
vào sắc thái ngơn ngữ để chia ngơn ngữ phóng sự thành: ngơn ngữ thơng tin
và ngơn ngữ biểu cảm; có người lại căn cứ vào tính chất thơng tin được
chuyển tải trong phóng sự thì chia thành: ngơn ngữ thơng tấn, ngơn ngữ hình
ảnh, ngơn ngữ lý lẽ. Mỗi cách phân chia đều có lý riêng nhưng cùng có điểm
chung khi nhìn nhận vai trị của các thành phần ngôn ngữ trong việc tạo ra
một văn bản phóng sự có nghĩa, có hiệu quả cao trong cuộc sống. Ở đây
chúng tôi muốn tiếp cận ở một góc nhìn khác để chia thành phần ngơn ngữ

phóng sự. Đó là căn cứ vào các chủ thể phát ngơn, có nghĩa là các đơn vị lời
nói của các chủ thể “kể” về sự kiện chính từ nhiều góc độ.
Theo Vũ Trọng Phụng “ Phóng sự là một thiên truyện kể mà nhà báo đã
từng mắt thấy tai nghe” thì đơn vị lời nói – lời kể về sự kiện của nhà báo là
chính, trong q trình “kể” nhà báo có ửu dụng “đơn vị lời nói” lời kể của các
nhân chứng trong và ngoài sự kiện; các chi tiết nguyên dạng về diễn biến
chính của sự kiện bản thể - có thể xem đó như lời “kể” của tự thân sự kiện bản
thể với cách tiếp cận này thì ngơn ngữ phóng sự gồm 3 thành phần chính:
ngơn ngữ tác giả, ngôn ngữ nhân vật, ngôn ngữ sự kiện. Tất nhiên sự phân
chia này chỉ là tương đối bởi các thành phần ngôn ngữ này cũng chỉ là cái
“vỏ” là “công cụ để tư duy”, là “phương tiện để giao tiếp” của con người. Tuy
nhiên, sự đan xen hịa quyện chặt chẽ giữa các thành phần ngơn ngữ này tạo
cho phóng sự có một năng lực phản ánh hiện thực đặc biệt mà khơng thể loại
báo chí nào có được.
- Các thành phần ngơn ngữ phóng sự :
Ngơn ngữ sự kiện:
Trước hết, phản ánh được xem là thuộc tình phổ biến của vật chất. Mỗi
sự kiện hiện tượng sảy ra trong cuộc sống là khách quan, chúng tự phản ánh
như phản chiếu của chiếc gương khi sự kiện bản thể đó được nhà báo nhận
thức, phản ánh trong tác phẩm phóng sự thì bản chất khách quan của sự kiện
đó vẫn khơng bị mất đi mà nó chuyển tải ngun dạng chân thật qua “vỏ ngơn
ngữ” chính xác cơ đọng và hàm súc. Như vậy, có thể hiểu ngôn ngữ sự kiện
10


chính là phát ngơn vơ chủ thể, nói cách khác: là tồn bộ thơng tin sự kiện
được “vỏ ngơn ngữ” chuyển tải nguyên dạng ( gồm: con số, bảng biểu, hồ
sơ…) ngôn ngữ sự kiện chủ yếu được sử dụng dưới dạng biểu đạt thơng tin,
thường “ trung tính” về sắc thái biểu cảm.
Mặc dù ngôn ngữ sự kiện mang đặc tính thơng tin là chủ yếu, vừa chính

xác vừa khách quan nhưng khi được chọn, sắp xếp đúng chỗ trong chỉnh thể
bài phóng sự thì nó lại mang một nghĩa cụ thể, chuyển tải “cái hồn” của bài
phóng sự. Như vậy, ngơn ngữ sự kiện có phát huy được hiệu quả hay không là
tùy thuộc vào tài năng tư duy của người viết phóng sự đã chọn và sắp xếp nó
vào đúng chỗ cần có.
Ngơn ngữ tác giả:
Trong bài phóng sự, ngơn ngữ tác giả có thể hiểu là ngơn ngữ người kể
chuyện đóng một vai trị hết sức quan trọng: vai trò tổ chức và chỉ đạo đối với
ngơn ngữ tồn tác phẩm.
Ngơn ngữ tác giả được sử dụng trong tác phẩm phóng sự dưới 2 dạng:
trực tiếp và gián tiếp
- Trực tiếp: với đại từ nhân sưng ngơi thứ nhât “tơi” vừa mang tính chủ
quan vừa mang tính khách quan. Khách quan ở chỗ: cái tơi chỉ đóng vai trị là
nhân chứng lịch sử để trình bày lại những gì “ mắt thấy, tai nghe”. Ở vai trị
phát ngơn này, ngơn ngữ tác giả tạo ra sự tin cậy về độ chính xác, khách quan
của thơng tin. Tác giả có thể kể , có thể dẫn dắt, có thể trực tiếp đối thoại cùng
nhân chứng trong sự kiện, có khi độc thoại, giễu cợt với chính mình trước một
thực tế khách quan nào đó. Cái tơi mang tính chủ quan thể hiện ở cách chọn
chi tiết, chọn ngơn từ để biể đạt chính kiến, cách nhìn về sự vật hiện tượng
theo cá tính độc đáo của riêng mình. Đó là phong cách sáng tạo riêng, nó tạo
cho mỗi bài phóng sự là một thế giới khác biệt.
- Gián tiếp: có nghĩa à tác giả ẩn đi, lùi xa như thể đứng ngoài sự kiện
để tỉnh táo lý trí dẫn dắt câu chuyện theo mục đích dẫn dắt của mình. Những
bài phóng sự khơng thấy chủ thể phát ngôn – cái tôi tác giả trực tiếp xuất hiên
– khơng có nghĩa là khơng có ngơn ngữ tác giả.
Thực chất đó chỉ là thủ pháp nghệ thuật để phản ánh hiện thực một cách
khách quan. Thông qua việc lựa chọn chi tiết, sắp đặt các tình tiết theo một hệ
11



thống, khâu nối các dữ kiện để bộc lộ thái độ, cách nhìn nhận, đánh giá đúng
bản chất của sự vật hiện tượng, mục đích chính của “ cái tơi ẩn” muốn xóa đi
mối mặc cảm bị áp đặt nhận thức cho độc giả.
Dù xuất hiện trực tiếp hay gián tiếp, cái tôi – tác giả cũng là chủ thể bộc
lộ cá tính sáng tạo trong việc sử dụng “vỏ ngơn ngữ” để chuyển tải mục đích
của minhg. Ngơn ngữ tác giả là phương tiện tối ưu đêt “mềm” hóa thơng tin,
tạo ra sự góc cạnh trong cách tiếp cận hiện thực, tạo ra sự đồng cảm của công
chúng tiếp nhận thơng tin, tạo ra thơng tin có tính chất định hướng mà lại
khơng khiên cưỡng. Chính vì vậy ngơn ngữ tác giả là một ưu thế đặc biệt của
thể loại phóng sự.
Ngơn ngữ nhân vật:
Đối tượng phản ánh của phóng sự là sự kiện, hiện tượng hoặc một con
người, tập thể người tiêu biểu, điển hình có ý nghĩa xã hội nhất định. Cho nên,
ngôn ngữ của nhân vật được sử dụng trong bài phóng sự là hết sức cần thiết,
được coi như những bằng chững xác thực, cụ thể, có thể thay lời tác giả khi
tác giả “ẩn” đằng sau sự kiện. thành phần ngôn ngữ nhân vật được sư dụng
trong bài phóng sự với tỷ lệ lớn so với các thành phần ngơn ngữ khác. Có
những bai phóng sự chủ yếu là lời nhân vât – người trong cuộc kể, đánh giá,
lý giải về toàn bộ sự việc như: Tôi đi bán tôi, Lời khai của bị can…tuy nhiên,
lựa chọn và sử dụng lời nói của nhân vật sao cho đúng chỗ, đủ dung lượng và
có sức thuyết phục là do cái “tài” của nhà báo.
Tóm lại, các thành phần ngôn ngữ được sử dụng xen kẽ trong bài phóng
sự sao cho “đắc địa” dung lương các thành phần ngôn ngữ này tùy theo ý
tưởng sáng tạo của nhà báo và tính chất của đối tượng phản ánh. Tuy nhiên,
việc cá thể hóa các thành phần ngơn ngữ trong bài phòng sự là yêu cầu hàng
đầu đối với người làm phóng sự.
• Về Bút Pháp
- Mơ tả: dùng từ ngữ hình ảnh để mơ tả khơng gian, thời gian, hình
dáng con người, diễn biến câu chuyện, các xung đột trong hành động.
- Thuật: kể câu chuyện có thật theo ý đị, góc độ đã chọn hoặc diễn biến

trình tự của sự kiện bằng các chi tiết, tình tiết, nhân chứng.

12


- Kết hợp bút pháp nghị luận: khi cần phải có chính kiến, tỏ thái độ
trước hiện thực khách quan thì sử dụng lý lẽ để lý giải hoặc khẳng định vấn
đề.
• Về các biện pháp tu từ
- Phóng dự có thể triệt để sử dụng các biện pháp tu từ như so sánh,
tưởng phản, ẩn dụ, liên tưởng châm biếm hài hước mà các thể loại báo chí
khác rất hạn chế hoặc hồn tồn khơng cho phép sử dụng.
- Tóm lại kết cấu chặt chẽ, quan hệ logic giữa các bộ bận của tác phẩm;
ngôn ngữ gọn sạch mà không quá đơn sơ, giản dị mà không dung tục, tơ điểm
mà khơng rườm rà – đó là thế mạnh của phóng sự.
• Cái tơi – tác giả trong phóng sự
Với 3 tư cách:
- Nhân chứng khách quan: là người khám phá ra sự kiện, theo dõi, điều
tra, nghiên cứu, hỏi han các nhân chứng trong sự kiện.
- Thẩm định khách quan: kiểm tra tư liệu qua nhiều ngồn để đảm bảo sự
chính xác, chân thật, pháp lý hóa chứng cứ thông tin trước khi đưa vào bài để
đảm bảo tư cách pháp lý của chứng cứ, tư liệu.
- Khâu nối dữ liệu, tình tiết, chi tiêt rời rạc thành một tác phẩm phóng
sự hồn chỉnh và sử dụng ngơn ngữ phù hợp: để tạo giọng điệu phù hợp với
tính chất sự kiện và tâm lý của đối tượng tiếp nhận thơi tin.
Với 2 vai trị:
- Người dẫn chuyện: có thể xuất hiện trực tiếp với đại từ nhân xưng
ngôi thứ nhất “tơi” cũng có thể ẩn mình trong sự kiện mà dẫn dắt câu chuyện
mà mình đã “mắt thấy, tai nghe”. Cũng có thể tác giả lấy mình ra để đối trọng
với hiện thực như người trong cuộc, cũng có thể “lùi xa” sự kiện để “nhìn” sự

kiện một cách lý trí hơn.
- Người định hướng nhận thức cho bạn đọc: lựa chọn, sắp xếp chi tiết,
chọn lời noi, nhân chứng phù hợp ý đồ sáng tạo của mình, tạo ra sự khách
quan trong nhận thức, tiếp thu sự thật của bạn đọc.
“Hãy làm cho người đọc thú vị nếu đồng thời bạn cũng làm cho mình
thích thú”…

13


Như vậy, người viết phóng sự khơng chỉ là nhân chứng khách quan để
“kể” chuyện người mà đôi khi cũng cịn là “người trong cuộc” để xem lại
mình trong mối quan hệ chung với xã hội, phải chịu trách nhiệm về chính
mình và bài viết của mình trước dư luận xã hội. Điều đó buộc người viết
phóng sự phải thật thận trọng khi “nhập cuộc”. Tuy nhiên, phóng sự hiện đại
ở Tây – Âu và các nước khác thường không sử dụng cái tôi – tác giả ở ngôi
thứ nhất, trực tiếp, thậm chí, tác giả phóng sự cũng rất ít khi bình, bàn, kiến
nghị giải pháp, để giải quyết vấn đề thực tiễn như phóng sự nước ta thường
làm. Họ thường tỏ ra khách quan bằng cách “ẩn” mình.
IV. Khảo sát ngơn ngữ phóng sự
Khảo sát trên báo tuoitre.vn
1. Sử dụng ngơn ngữ phản ánh
Phóng sự “ Sống trên đá chết vùi trong đá” ( Lê Đức Dục – Đức Bình, số
ra ngày 20/3/2015)
Link:

/>
su/20150320/song-tren-da-chet-vui-trong-da/723059.html
Nội dung: Kể về những khó khăn vất vả và cực kì nguy hiểm của đội
thanh niên tình nguyện trong quá trình mở đường Hạnh Phúc qua đèo Mã Pì

Lèng, tỉnh Hà Giang.
Ngơn ngữ được đưa ra nhiều nhất là ngôn ngữ phản ánh: “ Sống trên đá
chết vùi trong đá”, Tiêu chuẩn “ 7 lạng 1 ngày”…Tác giả khai thác vấn đề qua
góc độ và cái nhìn thực tế thơng qua lời tâm sự của những người trực tiếp có
mặt trong hành trình mở đường ngày đó.
-

Bác Thùy bảo: Khi thành lập đội Cơ Dũng này, ban chỉ huy cơng

trường cũng đã đóng 11 cái... quan tài giấu ở cách quãng đường đang mở
chừng hai cây số phòng khi hữu sự sẽ kịp lo cho anh em. Mỗi ngày trước khi
leo lên vách núi, anh em đều đứng tun thệ.
- “ Hơm đó là ngày 4-3-1965, chừng một tuần nữa sẽ thơng xe tồn
tuyến, chuẩn bị khánh thành. Nhóm anh Đào Ngọc Phẩm (ở đại đội Thái
Nguyên) đi kiểm tra lại đoạn vách 56-57 ở ngay Mã Pí Lèng. Gọi “vách 5657” là tính theo chiều cao thẳng đứng của vách đá đoạn này lên đến 56m mà
14


anh em đã đục. Đoạn vách này nguy hiểm nhất trên tuyến nhưng cả năm trời
anh em trong đội cảm tử thi cơng an tồn. Vậy mà...”
- Tác giả có trích dẫn những số liệu thực tế để minh họa cho vấn đề:
“Thành phần mở đường gồm 16 dân tộc các tỉnh Cao Bắc Lạng - Hà
Tuyên Thái - Nam Định - Hải Dương. Riêng dốc Mã Pí Lèng cơng nhân đã
treo mình 11 tháng để mở đường”.
Như vậy trong tác phẩm này tác giả nhờ những thủ pháp biểu đạt ngôn
ngữ dưới dạng chữ viết đã làm nổi bật lên sự khó khan gian khổ của những
thanh niên xung phong mở đường ngày ấy.
Tác giả khơng cần cầu kì trau chuốt trong sử dụng ngơn từ mà ngơn ngữ
chính mang tính đại chúng rất cao.
1. Ngơn ngữ biểu cảm

Phóng sự “Tai nạn trực thăng UH1 7912: Tết này, các anh không về...”
(Viễn Sự - Quốc Thanh, số ra ngày 30/1/2015)
Link: />Nội dung phóng sự nói về nỗi đau của gia đình các chiến sĩ đã hi sinh
trong tai nạn rơi máy bay trực thăng UH1 7912. Những giọt nước mắt của
người cha người mẹ làm thấm ướt lòng độc giả nỗi cảm thơng sâu sắc với gia
đình của các chiến sĩ.
- Ngơn ngữ miêu tả:
Từ đơi mắt người lính già, hai giọt nước mắt nhỏ xuống, cùng câu hỏi:
“Đồng đội tôi đâu rồi?”.
Chị ngồi lặng thinh, đôi mắt đỏ nhìn vơ định. Cơ con gái út Lê Hồng Ân
mới 17 tháng tuổi đâu hay biết gì nỗi đau của mẹ, cứ chạy chơi rồi địi mẹ ẵm.
“Hơm bữa nó cịn nói tết sẽ về. Cường ơi, giờ con vĩnh viễn khơng về
nữa rồi” - ơng Dũng vừa nói vừa khóc.
Qua những từ ngữ, ngơn từ được tác giả sử dụng có tính biểu cảm sâu
sắc, chạm đến đáy lịng người đọc.
2. Ngơn ngữ hình ảnh
Trong ngơn ngữ của thể loại phóng sự thì ngơn ngữ hình ảnh đóng vai
trị rát quan trọng, nó khơng chỉ mang giá trị minh họa cho tác phẩm mà hình
ảnh chính là một phương tiện truyền đạt nội dung hữu ích của bài phóng sự.
Nhờ hình ảnh mà độc giả có thể mường tượng rõ hơn sự vật, sự việc, còn tác
giả cũng dễ dàng truyền đạt ý từ của câu chuyện hơn.
15


Phóng sự “ Tàu hỏa bóp cịi vẫn “hiên ngang” băng qua”. (Ngọc Hiển, số
ra ngày 22/3/2015)
Link:

/>
su/20150322/tranh-duong-voi-tau-lua/723653.html

Hình ảnh được sử dụng trong phóng sự

Đây là cảnh thường ngày sảy ra tại các đường ngang khơng rào chắn tại
phường An Hịa ( TP Huế)

Khoảnh khắc tàu lửa suýt đâm xe tải sảy ra tại thôn Thượng Lâm ( Tỉnh Quảng Trị)

16


Hai học sinh thành phố Huế vô tư vượt qua đường ray khi tàu đang lao đến
Những hình ảnh trên có góc máy khá hợp lí, bố cục, hình ảnh rõ rang,
thể hiện được sự nguy hiểm cũng như thái độ bất chấp cả tỉnh mạng của
những người tham gia giao thông khi di chuyển qua đường sắt. Dù không sử
dụng nhiều ngôn ngữ chữ viết nhưng thông qua các hình ảnh được sử dụng
trong phóng sự, tác giả đã truyền đạt trọn ven đến độc giả ý tư của phóng sự.

CHƯƠNG III: TỔNG KẾT
I. Nhận xét ngơn ngữ trong phóng sự trên báo mạng điện tử
1. Cách sử dụng ngơn ngữ viết
• Đi thẳng vấn đề: Từ khảo sát trên chúng ta nhận thấy thể loại phóng
sự trên báo mạng điện tử có cách tiếp cận vấn đề hồn tồn mới. Khơng giống
như loại hình báo giấy hay phát thanh phải có sự dẫn dắt vấn đề, lý giải, sơ
lược.. rồi mới đề cập đến vấn đề. Cách vào đề của phóng sự báo mạng điện tử
rất ngắn có khi chỉ vọn vẹn trong một câu văn hay một câu lược rồi vào thẳng

17


vấn đề. Vì vậy, cũng khơng thể tránh khỏi tình trạng khô cứng ở giọng văn dễ

gây phản cảm với độc giả.
• Khơ cứng vẫn đảm bảo tính nghệ thuật: đặc điểm của loại hình báo
mạng điện tử đã ảnh hưởng đến thể loại phóng sự nói chung. Tính ngắn gọn,
nhanh nhạy của nó làm cho bài phóng sự phải tỉnh lược rất nhiều; có ý kiến
độc giả cho rằng: “phóng sự của báo mạng ko phải là phóng sự đích thực”. Ý
kiến này có cái hợp lý riêng, nhưng nhìn một cách tổng quan thể loại phóng
sự báo mạng điện tử vẫn đảm bảo được tính nguyên gốc. Trong tác phẩm
phóng sự báo mạng ta vẫn thấy sử dụng rất nhiều thủ pháp nghệ thuật, các
thành ngữ, các điển tích điển cố… chứng tỏ nó vẫn là một tác phẩm nghệ
thuật, một món ăn tinh thần của cơng chúng.
• Thiên về thông tin: Thông tin là yếu tố không thể thiếu của báo mạng,
nó được coi là một món ăn nhanh khi cơng chúng lướt web; cho nên phóng sự
cũng được chú ý nhiều hơn ở những chi tiết và liều lượng thơng tin. Như trên
đã nói, ta có thể thấy được rất nhiều mặt của một vấn đề, mỗi sự kiện là một
mắt xích xâu chuỗi suốt bài phóng sự; gói gọn trong chỉ một tác phẩm mà rất
nhiều vấn đề được giải quyết, lượng thông tin công chúng tiếp nhận cũng
nhiều hơn mức bình thường.

18


2. Cách sử dụng ngơn ngữ đa phương tiện
Ngồi ngơn ngữ chữ viết, thể loại phóng sự trên báo mạng điện tử cịn sử
dụng ngơn ngữ đa phương tiện đó là: ngôn ngữ ảnh, ngôn ngữ âm thanh, ngôn
ngữ truyền hình.
• Ngơn ngữ ảnh: loại ngơn ngữ được sử dụng phổ biến hơn cả. Ta dễ
dàng nhận thấy đây là ngôn ngữ chủ yếu chỉ đứng sau ngôn ngữ viết. Có thể
thấy ưu thế vượt của phóng sự báo mạng điện tử khi sử dụng một lượng lớn
những bức ảnh trong bài phóng sự của mình, đây là điều mà báo giấy không
thể làm được do giới hạn của khổ giấy. Sử dụng ngơn ngữ ảnh có hiệu quả,

khơng q lạm dụng làm cho bài phóng sự trở nên sinh động và đầy tình
thuyết phục
• Ngơn ngữ âm thanh: một số ít các tác phẩm phóng sự báo mạng có sử
dụng ngơn ngữ này. Nó được sử dụng chủ yếu trong các câu trả lời phỏng
vấn, âm thanh hiện trường. nó tạo ra sự cảm thụ mới lạ trong độc giả về cùng
sự vật sự việc.
• Ngơn ngữ truyền hình: nhiều báo đã thực hiện chuyên trang về loại
phóng sự truyền hình trên báo mạng điện tử như: VNExpress.net,
Vietnamnet.vn. Tuy chưa thực sự phổ biến nhưng nó đã chứng tỏ sự năng
động của mình. Nhờ ngơn ngữ truyền hình mà khoảng cách thời gian và
không gian được thực sự thu hẹp. Bài phóng sự có gì đó trở nên gần giống với
một bài ký hay một bài tường thuật.

II. Kết luận
Thơng qua đề tài “Ngơn ngữ báo chí trong thể loại phóng sư trên báo
mạng điện tử” giúp cho chúng ta có cái nhìn tổng quan hơn về thể loại phóng
sự trên báo mạng điện tử đặc biệt về phương diện ngơng ngữ.
Kích ứng sự quan tâm của độc giả và công chúng về vấn đề sử dụng
ngôn ngữ trong tác phẩm phóng sự. Đồng thời, nhà báo có trách nhiệm hơn
trong việc sử dụng ngơn ngữ của mình sao cho thật phù hợp và ln giữ gìn
và phát huy sự trong sáng của tiếng Việt.
Phân biệt rõ cách sử dụng ngơn ngữ của từng loại hình, để từ đó thấy
được xu hướng giao thoa giữa các loại hình báo chí nhằm hướng tới một mục
tiêu chung là phuc vụ quần chúng nhân dân.
19


III. Tài liệu tham khảo
1. Tác Phẩm Báo Chí Tập 1 & 2
2. Ngơn Ngữ Báo Chí

3. Phóng Sự Báo Chí
4. Trích một số khái niệm từ Wikipedia.com
5. Tuoitre.vn

20



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×