Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

40 lịch sử báo chí việt nam giai đoạn 1954 1975

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.97 KB, 25 trang )

TIỂU LUẬN
MƠN: LỊCH SỬ LÝ LUẬN BÁO CHÍ VIỆT NAM

ĐỀ TÀI:

LỊCH SỬ BÁO CHÍ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1954-1975


1. Lý do chọn đề tài
Bộ môn lịch sử báo chí Việt Nam cũng giống như những nhánh khác
của lịch sử nói chung như lịch sử văn học, lịch sử các sự kiện kinh tế, lịch sử
các phong trào xã hội. Nó khơng thể tạo dựng và lý giải nếu khơng tham
chiếu thường xun đến sự tiến hóa tổng qt của các xã hội, mà trong tất cả
các đề tài nghiên cứu lịch sử, tờ báo có lẽ là thứ liên quan mật thiết nhất đến
tình hình chính trị, kinh tế, đến tổ chức xã hội và trình độ văn hóa của đất
nước và thời đại mà nó phản ánh.
Lịch sử báo chí Việt Nam cịn là một khoa học bổ trợ cho lịch sử hiện
đại và đương đại, là tư liệu lưu trữ hàng ngày. Các báo là nguồn đầy đủ nhất
và khách quan nhất của lịch sử nói chung. Báo chí là nhân chứng và là người
trong cuộc của đời sống quốc gia. Đồng thời báo chí trang bị những kiến thức
cơ bản đối với sinh viên chuyên ngành báo chí, để sinh viên có cái nhìn tổng
quan về quá trình hình thành và phát triển của báo chí Việt Nam qua các thời
kỳ lịch sử.
84 năm qua, kể từ số báo Thanh niên đầu tiên (21/6/1925), báo chí Việt
Nam khơng ngừng phát triển phong phú và đa dạng. Trong những năm tháng
kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta, báo chí có vai trị đặc biệt
trong đời sống chính trị-xã hội. Báo chí cách mạng là công cụ cực kỳ quan
trọng để vận động, tổ chức, tập hợp lực lượng cách mạng và là vũ khí đấu
tranh sắc bén chống chế độ áp bức, thực dân, thúc đẩy quá trình vận động
cách mạng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, báo chí
nước ta đã tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ, xây dựng


chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Từ
trong mau lửa của các cuộc kháng chiến, hàng trăm nhà báo-chiến sĩ đã anh
dũng hy sinh trên chiến trường, góp phần tơ thắm trang sử vẻ vang của báo
chí cách mạng Việt Nam và dân tộc Việt Nam. Bởi vậy, bài viết này xin được
đề cập tới lịch sử báo chí giai đoạn 1954 đến 1975.

2


NỘI DUNG
CHƯƠNG I: BỐI CẢNH LỊCH SỬ (1954-1975)
1. Tình hình thế giới
Trên vũ đài chính trị quốc tế những năm sau chiến tranh thế giới lần thứ
II, một hệ thống xã hội mới xuất hiện với hàng loạt nước dân chủ nhân dân
chọn con đường phát triển theo chủ nghĩa xã hội mà Liên Xơ là một hình mẫu
lớn. Năm 1949 được coi là năm quyết định của quá trình thay đổi căn bản tình
hình thế giới san đại chiến với việc Liên Xô phá vỡ độc quyền hạt nhân của
Mỹ, nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa ra đời. Cán cân so sánh lực lượng
trên thế giới nghiêng hẳn về phía các nước chống chủ nghĩa đế quốc.
Thế giới tiến bộ và cách mạng từ cuối thập kỷ 50 đầu thập kỷ 60 bước
vào thời kỳ phát triển với thế và lực mới của mình. Trong đó Liên Xơ là người
có cơng đầu trong việc kiến thiết và gìn giữ hịa bình. Nhưng lúc ấy châu âu
đã bị chia làm đôi, cuộc chiến tranh lạnh bắt đầu, hệ thống xã hội mới ra đời
cũng bước vào thời kỳ đối đầu với chủ nghĩa đế quốc. Cũng sau chiến tranh
thế giới lần II, phong trào giải phóng dân tộc ở Á - Phi - Mỹ La-tinh phát triển
thành cơn bão táp cách mạng, phá vỡ từng mảng thuộc địa của chủ nghĩa đế
quốc. Những cuộc đấu tranh vũ trang, những lực lượng tiên tiến và cách mạng
chiếm ưu thế trong dân tộc. Xu hướng độc lập - dân chủ - hịa bình - trung
lập...xuất hiện. Đó là những nét mới trong tiến trình phát triển của phong tràn
các nước trên thế giới.

Chiến tranh thế giới qua đi, chủ nghĩa phát xít bị tiêu diệt, nhiều nước
đế quốc, cả thắng trận và bại trận bị tàn phá nghiêm trọng, nhưng đế quốc Mỹ
lại trở nên giàu có hơn bao giờ hết. Là một trong những nước lớn góp phần
quyết định vào thắng lợi của phe Đồng minh trong chiến tranh, lại là nước
giàu mạnh nhất sau chiến tranh, Hoa Kỳ đã giương lên ngọn cờ sen đầm quốc
tế và muốn áp đặt tự do kiểu Mỹ ở khắp nơi trên thế giới. Chiến lược toàn cầu
của Mỹ phản ánh một tham vọng muốn xác lập sức mạnh của đế quốc Hoa Kỳ
3


trên tất cả mọi khu vực của thế giới. Mục tiêu trong các kế hoạch chiến lược
của Mỹ lúc này là:
- Tiêu diệt chủ nghĩa xã hội trọng tâm là Liên Xô và các nước Đông Âu
- Dập tắt phong trào giải phóng dân tộc ở Á - Phi - Mỹ La-tính trọng
tâm là Việt Nam trong khu vực Đơng Nam Á và Cu Ba trong khu vực Mỹ Latinh. Lôi kéo, khống chế các nước đồng minh, trọng tâm là Tây âu - Nhật Bản.
Chiến lược toàn cầu của Mỹ sử dụng 3 phương thức chủ yếu: chiến
tranh lạnh, chạy đua vũ trang và thực hiện chủ nghĩa thực mới... Các chiến
lược này tạo ra sự đối đầu giữa hai hệ thống thế giới. Lúc đó Mỹ sẽ lơi kéo
các nước phe Mỹ vào cuộc chiến chống Liên Xô và phe xã hội chủ nghĩa; chủ
nghĩa thực dân mới sẽ thay thế lối thống trị thuộc địa mà phương Tây nay đã
lỗi thời.
Ba chỗ dựa trọng yếu của chiến lược toàn cầu của Mỹ lúc này là: Viện
trợ kinh tế - quân sự - xây dựng hệ thống liên minh phòng thủ - củng cố lực
lượng quân sự mạnh. Sau kế hoạch Marshall chi 50 tỷ Dollar vào việc phục
hồi các nước tư bản, Mỹ tiếp tục đẩy mạnh viện trợ cho các nước. Tính bình
qn mỗi năm trong thời kỳ 8 năm (1953 - 1960) là 5 tỷ Dollar. Trong đó số
viện trợ quân sự gần 3 tỷ Dollar với tỷ lệ theo ưu tiên cho các khu vực là: Tây
âu 54% Đông Nam Á và Viễn Đông 24,2% Trung Cận Đông 14,9% các nơi
khác 6%.
Những khối liên minh song phương và đa phương do Mỹ đứng đầu

hoặc bảo trợ lần lượt ra đời như: khối Bắc Đại Tây Dương (NATO) thành lập
năm 1949, khối Đông Nam Á (SEATO) ra đời năm 1954, khối Trung Cận
Đơng (CENTO) hình thành năm 1955, khối Nam Thái Bình Dương (ANZUC)
lập ra năm 1951 ... Ngồi ra cịn các Hiệp ước tay đôi giữa Mỹ và một số
nước ở Đông á, Nam á, Đông Nam á. Về lực lượng quân sự, những năm 1953
- 1960, Mỹ cũng đề ra nhiều ý nghĩa chính trị và kinh tế cho Mỹ lúc này.
Quân số giảm đi nhưng căn cứ quân sự ở nước ngoài lại được tăng cường.
Sau chiến tranh Mỹ có hơn 2.200 căn cứ quân sự có mặt ở khắp các châu lục,
4


7 hạm đội trải ra khắp các đại dương, phái đoàn quan sự và cố vấn Mỹ hoạt
động ở 45 nước trên thế giới, nhiều loại vũ khí trang bị mới được ra đời như
máy bay ném bom chiến lược B52, B47, tên lửa vượt đại châu có đầu đạn hạt
nhân, tên lửa tầm trung, tàu ngầm nguyên tử trang bị tên lửa hạt nhân chiến
thuật...
2. Tình hình trong nước
Ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, Mỹ đã triển khai chiến lược
tồn cầu từ rất sớm, trong đó Việt Nam là một trong những trọng điểm. Việt
Nam nằm trong khu vực có tiềm năng lớn về kinh tế vì rất giàu khống sản,
ngun nhiên liệu, lại có nguồn nhân lực lao động dồi dào.
Việt Nam cịn có vị trí chiến lược quan trọng về quân sự cho cả vùng
Đông Nam á. Đất liền nối với nhiều quốc gia và đi sâu vào tận miền Trung á.
Biển có những đảo và hải cảng không những thuận tiện giao thông, dễ sự
dụng tàu thuyền, mà cịn có khả năng khống chế cả vùng rộng lớn. Việt Nam
lại là tiêu điểm của phong trào giải phóng dân tộc đang sơi sục ở châu Á Sau
Cách Mạng Tháng Tám khi Việt Nam Dân Cộng Hịa một nhà nước cơng
nơng đầu tiên ở Đơng Nam Á ra đời, cục diện chính trị trên bán đảo Đông
Dương thay đổi lớn, bất lợi cho chủ nghĩa đế quốc: Đã có sự tập hợp các lực
lượng phản cách mạng chống lại lượng cách mạng, những chứng đã không

thành công. Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam đã kết thúc thắng lợi
với việc giải phóng miền Bắc, đi lên chủ nghĩa xã hội. Có thể nói Việt Nam
chính là miếng mồi béo bở đối với Mỹ.
Sau Hiệp định Giơnevơ 1954, vấn đề lập lại hịa bình ở Đơng Dương,
hình thái chính trị ở Việt Nam có sự thay đổi: Đất nước Việt Nam bị chia làm
hai miền .Từ vĩ tuyến 17 trở ra, nhân dân miền Bắc hào hứng bắt tay hàn gắn
vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, đồng thời chi viện cho
cuộc đấu tranh của đồng bào mình ở miền Nam để đấu tranh chống Mỹ can
thiệp và chế độ bù nhìn tay sai.

5


Nhân dàn hai miền đều nhận thức được rằng hiệp định Giơnevơ không
đem lại kết quả đầy đủ nhưng đã thật sự chấm dứt ách thống trị của thực dân
Pháp, nên nghiêm chỉnh thi hành Hiệp định đê tiến tới lựa chọn một chính
phủ và thể chế chính trị phù hợp với quyền lợi cơ bản và nguyện vọng thiêng
liêng của dân tộc ta bằng cuộc tổng tuyển cử tự do và dân chủ vào tháng 7
năm 1956.
Âm mưu chiến lược của Mỹ là biến miền Nam Việt Nam thành thuộc
địa kiểu mới, thành căn cứ quân sự, một bàn đạp để tấn công miền Bắc và
phe xã hội chủ nghĩa từ phía Nam, ngăn chặn sự bành trướng của chủ nghĩa
cộng sản đang lan tràn xuống vùng Đông Nam á.
Mỹ đã thi thố ở Việt Nam 4 chiến lược chiến tranh, ứng dụng từ 3 lần
thay đổi chiến lược toàn cầu, do 5 đời tổng thống kế tiếp nhau thực hiện từ
năm 1953 đến năm 1975. Đó là sự lựa chọn đúng nơi, đúng lúc, đúng đối
tượng tiến hành chiến tranh của Mỹ. Chưa bao giờ Mỹ huy động được sức
mạnh của cả nước Mỹ cùng các nước phe Mỹ, trên các lĩnh vực kinh tế, chính
trị, văn hóa, khoahọc kỹ thuật và quân sự như là trong thời kỳ họ tiến hành
chiến tranh Việt Nam. Ý chí và quyết tâm của Mỹ khi đánh Việt Nam không

phải chỉ nhằm khuất phục một dân tộc, dập tắt một ngọn lửa đấu tranh vì độc
lập tự do, mà cịn nhằm đe dọa nhiều nước khác, đồng thời thể nghiệm sức
mạnh của Hoa Kỳ trong nửa cuối thế kỷ XX. Cách mạng Việt Nam vừa giành
thắng lợi to lớn trong cuộc kháng chiến 9 năm chống chủ nghĩa thực dân
Pháp, nay lại đứng trước kẻ thù mới vừa lớn mạnh vừa đầy tham vọng.
Miền Bắc được giải phóng và có lực lượng cách mạng của cả nước tập
trung về. Do đó niềm Bắc có nhiệm vụ phải nhanh chóng hồn thành nốt
những nhiệm vụ còn lại của Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân để bước
tiếp sang cuộc cách mạng mới, đưa miền Bắc lên chủ nghĩa xã hội. Miền Nam
chưa được giải phóng, cách mạng lại bị mất thế lực, quần chúng nhân dân
đang tiếp tục bị khủng bố đàn áp. Vì thế miền Nam có nhiệm vụ phải gây

6


dựng lại lực lượng và phong trào cách mạng, tiếp tục cuộc Cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân để giải phóng miền Nam, giành tụ do độc lập.
Cả hai miền Nam Bắc có nhiệm vụ chung là giải phóng miền Nam, bảo
vệ miền Bắc, tiến tới hịa bình thống nhất Tổ quốc để xây dựng một Việt Nam
hịa bình - thống nhất - độc lập - dân chủ và giàu mạnh. Cuộc chiến tranh xâm
lược của Mỹ kéo dài hơn 20 năm buộc nhân dân Việt Nam phải chọn con
đường cách mạng bạo lực để gạt bỏ mọi trở ngại trên con đường hịa bình thống nhất Tổ quốc.
Chấp nhận cuộc đụng đầu với Mỹ, người Việt Nam cũng sớm nhận
thức được tinh chất quyết liệt của cuộc chiến tranh không cân sức này. Thực
tế cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam những năm 1954 1975 đã cho thấy: không vũ lực nào đè bẹp được một dân tộc thiết tha với độc
lập tụ do. Như Đảng Cộng Sản Việt Nam đã tổng kết ngay sau khi cuộc kháng
chiến chống Mỹ vừa kết thúc thắng lợi : "Năm tháng sẽ trôi qua nhưng thắng
lơi của nhân dân ta trong sụ nghiệp kháng chiến chống Mỹ cả nước mãi mãi
được ghi vào lịch sử dân tộc như một đang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng
ngời về sự toàn thắng của Chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người

và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ một sự kiện có
tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc ".

7


CHƯƠNG II: BÁO CHÍ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1954 -1975
1. Tổng quan về tình hình báo chí giai đoạn 1954 -1975
Năm 1954-1975 là một giai đoạn đặc biệt của lịch sử Việt Nam, gắn
liền với sự kiện đất nước bị chia cắt, hình thành các thể chế chính trị và các
lực lượng xã hội khác nhau. Theo đó, một cách đương nhiên, dịng chảy của
đời sống báo chí Việt Nam đã có một bước ngoặt quan trọng và rõ rệt hơn các
giai đoạn trước đó: Nó có sự phân nhánh thích ứng với một bối cảnh chính trị
xã hội như vậy.
Tháng 7 năm 1954 cuộc kháng chiến của ta thắng lợi, bọn Việt gian tay sai của thực dân Pháp cùng báo chí của chúng phải cuốn gói vào Miền
Nam. Miền Bắc nước ta được hồn tồn giải phóng, bước vào thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, nhân dân ta được hưởng quyền tụ do báo chí.
Ngày 14 tháng 12 năm 1956 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số
282/SL về chế độ báo chí. Sắc lệnh này đã được Quốc hội nước Việt Nam dân
chủ cộng hịa biểu quyết thơng qua kỳ họp thứ 6 ngày 2%5/1957. Sắc lệnh
gồm 9 điều quy định về tính chất, nghĩa vụ quyền lợi của báo chí.
Báo chí cách mạng trong những năm kháng chiến chống Mỹ đã có
những cơ hội thuận lợi để phát triển thế nhưng cũng gặp khơng ít những khó
khăn thách thức, rào cản vơ cùng khắc nghiệt. Trong nước có hai bộ phận báo
chí cùng hướng tới mục tiêu giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, đó là:
bộ phân báo chí cách mạng miền Bắc phát triển trong điều kiện của chế độ
dân chủ nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng; Còn bộ phận báo chí cách
mạng miền Nam phát triển trong hồn cảnh vơ cùng khó khăn của cuộc chiến
tranh và sự khủng bố, đàn áp của đội quân xâm lược Mỹ và chế độ ngụy
quyền Sài Gịn. Do hồn cảnh lịch sử trong những năm chống Mỹ các nhà báo

hai miền Nam, Bắc có tổ chức riêng của mình song đều chung một cội nguồn
do Đảng lãnh đạo.

8


Nhìn đại thể, sẽ có hai khu vực báo chí của thời kỳ này: Báo chí miền
Bắc và Báo chí miền Nam. Tuy nhiên, sự phân chia mang tính lịch sử độc đáo
và phức tạp lại thể hiện rõ nhất ở báo chí miền Nam. Báo chí khu vực này tiếp
tục phân nhánh thành hai khu vực nhỏ hơn: Báo chí cách mạng miền Nam và
báo chí Sài Gịn.
Báo chí miền Nam và báo chí miền Bắc, hai mảng báo chí này khác
nhau về tên gọi, về những nhiệm vụ cụ thể trước mắt nhưng thống nhất về bản
chất và mục đích. Báo chí yêu nước tiến bộ, về cơ bản vẫn có sự chỉ đạo của
cách mạng thơng qua bộ phận trí vận trong các đơ thị miền Nam, đặc biệt là Ở
Sài Gịn. Như vậy, nhìn một cách chung nhất chỉ cịn sự phân chiến tuyến
giữa báo chí Cách mạng và XHCN với báo chí chính quyền ngụy Sài Gịn.
Đây là cuộc đối đầu vơ cùng quyết liệt mang đậm dấu ấn lịch sử suốt 21 năm
đất nước bị chia cắt, nó tác động dữ dội đến tồn bộ đời sống báo chí Việt
Nam giai đoạn này, chi phối từ thái độ lựa chọn của các nhà báo đến những
phương cách hoạt động nghề nghiệp của họ. Hơn thế nữa, những hoạt động
báo chí ở Việt Nam lúc này cịn có những tác động rất đáng kể tới giới truyền
thông quốc tế, thu hút được sự chú ý của họ về mọi mặt của dời sống trong
hoàn cảnh đặc biệt là có chiến tranh. Mức độ quyết liệt của cuộc đối đầu lần
này diễn ra chưa từng có. Nếu chúng ta đã làm tất cả những gì có thể làm
được trên mặt trận báo chí tư tưởng để góp phần vào sức mạnh tổng lực của
tồn dân tộc trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, thì phía bên kia, chính
quyền Sài Gịn với sự trợ giúp đắc lực của Mỹ cũng khơng một ngày bng
lơi thứ vũ khí này. Chẳng hạn, Nha báo chí của họ ln trực thuộc Phủ Tổng
thống và vào thời điểm ác liệt nhất của cuộc chiến tranh. Họ đã đổi tên Bộ

thông tin thành Bộ chiến tranh tâm lý, công khai đưa bộ máy truyền thơng vào
tham chiến. Chính CIA cũng đã từng thú nhận, họ đã tạo ra các chiến dịch
thông tin "đen" ra sao để chống phá cách mạng Việt Nam.
Tất cả những ai quan tâm đến đời sống báo chí Việt Nam thời kỳ 19541975 đều nhận thấy sự phức tạp của nó; Với các nhà nghiên cứu thì trước mắt
9


họ còn là một sự ngổn ngang, bề bộn về tư liệu, nhân chứng và cả những cách
nhìn nhận, đánh giá báo chí miền Bắc XHCN và báo chí cách mạng miền
Nam về cơ bản đã có sự đánh giá thống nhất, bởi trước hết bản thân nó khơng
q phức tạp. Cách đánh giá về báo chí chính quyền ngụy Sài Gòn cũng dễ đi
đến thống nhất, bởi bản chất của nó là đối lập với báo chí Cách mạng và
XHCN. Tuy nhiên, để hiểu sâu sắc và toàn diện về nhóm báo chí này thì lại
khơng dễ, nó cịn phụ thuộc vào tư liệu và cách phân loại tư liệu, phụ thuộc
vào sự hiểu biết về tất cả những gì diễn ra sau những tờ báo đó, được vận
hành bởi một guồng máy có bàn tay của các chuyên gia truyền thông và
chuyên gia tâm lý chiến đến từ nước Mỹ và một số quốc gia khác. Cách đánh
giá về nhóm báo chí u nước tiến bộ lại có những khó khăn khác. Bên cạnh
một số nhà báo cách mạng được "đánh" vào làm nòng cốt ở Sài Gòn, lực
lượng nhà báo của nhóm báo chí này cịn được hình thành từ nhiều nguồn do
được vận động hoặc chỉ là tự phát. Họ đa dạng về thành phần, quan điểm, chủ
yếu gặp nhau ở tinh thần dân tộc và ghét ngoại bang, căm thù quân xâm lược.
Những tờ báo do họ chủ trương hoặc góp mặt, vì thế, hơn hết cần được nhìn
nhận một cách điềm tĩnh, khoa học, khách quan và cả sự thân thiện. Cịn một
khó khăn nữa ở đây là vấn đề tư liệu Những tờ báo như thế phần lớn đã thất
lạc. Rất nhiều tờ báo của phong trào học sinh - sinh viên, phật tử...đã biến
mất, chỉ còn sống trong ký ức của những người trong cuộc.
Xuyên suốt một quãng thời gian hai thập niên với hàng trăm sự kiện
báo chí đáng lưu ý, hàng ngàn tờ báo và cơ quan truyền thông đài phát thanh,
truyền hình, trung tâm tin tức, phim tư liệu chiến tranh... cùng với sự tham gia

của đông đảo nhà báo hoạt động trong các dịng báo chí kể trên - đời sống báo
chí Việt Nam thời kỳ 1954-1975 quả thật đã chứa đựng trong lịng nó bóng
dáng của một giai đoạn lịch sử dân tộc đặc biệt, chứa đựng những bài học
kinh nghiệm nhiều khi được đổi bằng xương máu cho cơng việc làm báo và
quản lý báo chí, những bài học vẫn chưa hết ý nghĩa trong tiến trình phát triển
của nền báo chí nước ta.
10


Về báo chí miền Bắc. Đội ngũ nhà báo được hình thành từ hai nguồn:
Những nhà báo đã trải qua kháng chiến chống Pháp và những nhà báo thế hệ
mới. Giai đoạn này ở miền Bắc đã có các cơ sở đào tạo báo chí chuyên
nghiệp. Từ những năm 1960, đội ngũ này và các phương tiện làm báo còn
được chi viện cho báo chí cách mạng miền Nam. Hội nhà báo được tổ chức
lại, chính quy hơn và tiếp tục giữ vai trị một nhà báo. Báo chí phát triển
mạnh: các tờ báo từ chiến khu đưa về xuất bản tại Hà Nội và vẫn giữ vai trò
chủ đạo, một số tờ báo tư nhân được cải tạo vào năm 1960, xuất hiện nhiều tờ
báo mới đáp ứng nhu cầu của đời sống và dân trí khoảng 50 tờ báo và bản tin
địa phương; 50 tờ báo, tập san của các ngành; 24tờ báo của các tổ chức xã
hội...Những con số này ngày càng tăng về sau. Các cơ quan truyền thơng khác
đã có sẵn được phát triển theo quy mơ lớn và hiện đại hơn đài Tiếng nói Việt
Nam và hệ thống đài địa phương, khu vực. Việt Nam thông tân xã và các phân
xã ở khắp nước và nước ngoài. Năm 1970, đài THVN ra đời Quan hệ quốc tế
được mở rộng: có báo chí đối ngoại, các nhà báo và các hãng thông tấn lớn
trên thế giới có mặt tại Hà Nội. Báo chí chuyển từ thời bình sang thời chiến từ
1964 và những bài học kinh nghiệm của một nền báo chí chiến đấu và xây
dựng.
Về báo chí cách mạng miền Nam đội ngũ nhà báo được hình thành từ
nhiều nguồn: các nhà báo đã trải quan kháng chiến chống Pháp, các nhà báo
được đào tạo tại chỗ, lực lượng nhà báo được chi viện từ miền Bắc và một số

nhà báo từ các đô thị đi theo cách mạng. Hoàn cảnh tác nghiệp của họ gian
khổ như mọi nhà báo chiến tranh. Báo chí nhanh chóng có mặt: từ những năm
đầu 1960 đã có khoảng 40 tờ báo và tạp chí cấp miền của Mặt trận dân tộc
giải phóng, khoảng 40 bản tin của các địa phương in bằng bốn thứ tiếng Pháp,
Anh, Trung Quốc và Khơ me. Xuất hiện các cơ quan thông tin mới: Thơng tấn
xã giải phóng ra đời 1961; Đài phát thanh Giải phóng 1962, ngồi ra cịn có
vai trị của Hãng phim Giải phóng. Báo chí cách mạng miền Nam lúc này
được xây dựng theo mơ hình báo chí miền Bắc (Nhân dân - Cờ Giải phóng,
11


Quân đội nhân dân - Quân giải phóng, Phụ nữ Việt Nam - Phụ nữ giải
phóng...). Thiết lập được mối quan hệ với báo chí quốc tế: tháng 1-1962 Hội
nhà báo yêu nước và dân chủ miền Nam ra đời.
Các nhà báo nước ngồi đã có mặt tại căn cứ cách mạng; sự giúp đỡ
phương tiện của bạn bè XHCN... Một nền báo chí hình thành và phát triển
trong khói lửa chiến tranh; tư cách chiến sĩ của những người làm báo; sự gắn
bó khăng khít và độc đáo của nó với báo chí miền Bắc- đó là những điểm nổi
bật của báo chí cách mạng miền Nam giai đoạn này.
Về báo chí u nước, tiến bộ trong lịng các đô thị. Đội ngũ nhà báo đa
dạng: một số "nằm vùng" từ thời chống Pháp, một số được đưa vào Sài Gịn
theo dạng hồi cư một số hình thành từ các phong trào học sinh - sinh viên yêu
nước, một số vốn có cảm tình với cách mạng và kháng chiến... Cũng có
trường hợp đi thẳng từ Hà Nội (Nguyễn Văn Bổng và tờ Tin Văn, 1967).
Nhiều tờ báo mới được xuất bản nhưng chủ yếu là tranh thủ sử dụng những tờ
đã có sẵn. Phương thức hoạt động của nhà báo cực kỳ linh hoạt, thích hợp với
từng thời kỳ biết kết hợp văn và báo, mượn các danh nghĩa để hoạt động: các
phong trào, các tổ chức. Nội dung báo chí ln bám sát tình hình chính trị và
thời cuộc diễn ra sơi động trong lịng các đơ thị. Khơn khéo tranh thủ uy tín
của các hãng thơng tấn và các nhà báo nước ngồi có mặt ở Sài Gịn trong

việc đưa tin ra thế giới. Thành cơng đáng ghi nhận là suốt 20 năm trong vùng
chiếm đóng, ln ln có một phong trào báo chí chống đối chế độ Mỹ ngụy
với một lối làm báo sắc sảo và hồn tồn thích hợp với hồn cảnh sống của
những người làm báo.
Về báo chí của chính quyền Sài Gịn. Lực lượng nhà báo nòng cốt lúc
đầu là các nhà báo đã từng làm việc cho chính quyền nguy thời Pháp và một
số cây bút di cư từ miền Bắc. Về sau lực lượng này được bổ sung các thế hệ
nhà báo trẻ được đào tạo bài bản về nghề nghiệp và quan điểm chống cộng,
trong nước và từ nước ngoài. Phương tiện và điều kiện làm báo đạt tới mức
tối ưu: hầu hết những phương tiện làm báo hiện đại nhất lúc bấy giờ đều có
12


mặt khá sớm ở Sài Gòn chẳng hạn, từ 1967 họ đã được trang bị máy in ốp sét
nhiều màu, trong khi báo chí miền bắc 7 năm sau mới có điều kiện thử
nghiệm phương tiện này. Người Mỹ, thơng qua chính quyền Sài Gịn, đã
khơng tiếc tiền để tung ra hàng loạt tờ báo chống cộng và lôi kéo các nhà báo,
cải tổ hoặc cho ra đời những cơ quan truyền thông mới: Việt tấn xã, Đài phát
thanh Sài Gịn và các đài tâm lý chiến. Có cả một chính sách với những hoạch
định cụ thể nhằm đưa báo chí vào guồng máy chiến tranh để chống phá cách
mạng và đàn áp, kiểm soát các khuynh hướng tiến bộ, yêu nước.

13


CHƯƠNG III: BÁO CHÍ MIỀN BẮC GIAI ĐOẠN 1954 -1975
Trong chương này, người viết xin được đề cập sâu hơn vào báo chí
miền Bắc giai đoạn 1954 -1975. Bởi báo chí miền Bắc giai đoạn này được
hưởng hịa bình và có một nền tự do báo chí. Báo chí khơng ngừng phát triển
từ các tờ báo, số lượng đến chất lượng. Chính báo chí miền Bắc ta góp một

phần khơng nhỏ vào chiến thắng cuối cùng của cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc.
1. Các tờ báo giai đoạn 1954 -1975
Trong những năm tháng kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc
Việt Nam, báo chí ln là người bạn đồng hành trên suốt hành trình ấy. Để có
được những thước phim, những tư liệu, hình ảnh, bài báo về một thời đã qua
của lịch sử, có những nhà báo đã anh dũng hi sinh trên chiến trường khi đang
tác nghiệp. Báo văn hóa, là tiếng nói, là cơ quan ngơn luận và đây cũng chính
là món ăn tinh thần khơng thể thiếu của mỗi chúng ta.
Chặng đường kháng chiến chống Pháp qua đi ta lại tiếp nối 21 kháng
chiến chống Mỹ là nhân chứng sống còn của lịch sử, của nền báo chí cách
mạng Việt Nam. Ngay từ khi cách mạng tháng 8 thành cơng năm 1945 mặc
dù cịn phải đối mặt với những khó khăn thử thách, thù trong giặc ngồi, tồn
Đảng tồn dân ta một lịng chung tay chung tay chung sức đánh thắng từng kẻ
thù. Đứng giữa hồn cảnh báo chí khó khăn về mọi mặt song chưa bao giờ
báo chí được sống trong mơi trường dân chủ như thời kỳ này. Với thắng lợi
của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, cách mạng nước ta chuyển sang
giai đoạn mới. Miền Bắc được hồn tồn giải phóng, từ căn bản hoàn thành
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chuyển sang cách mạng xã hội chủ
nghĩa. Miền Nam còn Ở dưới ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai, phải
tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Nhiệm vụ chung của cách
mạng Việt Nam trong giai đoạn này là thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ

14


sở độc lập và dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hịa bình, thống nhất,
độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
Từ giữa những năm 1946 báo chí tiếp tục tăng về số lượng và chất
lượng và quan tâm đến vấn đề chính trị trọng đại của đất nước với hàng loạt

tờ bán ra đời như: Báo sự thật, báo độc lập, báo lao động, thông tấn xã Việt
Nam, báo nhân dân, báo quân đội nhân dân, báo văn nghệ.Tiếp bước sự phát
triển mạnh mẽ về số lượng cũng như chất lượng của báo chí. Khi ta bước vào
tiếp quản thủ đô (l0/10/1954) báo Nhân dân và nhiều tờ báo khác đã lần lượt
chuyển về Hà Nội. Theo sự phân công mới, báo Nhân dân chuyển thành nhật
báo. Để đáp ứng yêu cầu của công tác tu tương giai đoạn mới, ngoài việc tiếp
tục xuất bản báo Nhân dân, Trung ương Đảng quyết định xuất bản tạp chí lý
luận của Đảng.
Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II họp
tháng 3-1955 đã nhận định: Qua 8-9 năm kháng chiến, Đảng ta đã được rèn
luyện và lớn lên nhiều. Sự lãnh đạo của Đảng về các mặt chính trị, tư tưởng
và tổ chức đều có tiến bộ rõ rệt. Tuy vậy, trước tình hình đang thay đổi mạnh
mẽ, từ chiến tranh chuyển sang hịa bình, từ nơng thôn chuyển vào thành thị
từ phân tán chuyển đến tập trung, trong Đảng bộc lộ những biểu hiện hữu
khuynh và tả khuynh. Công tác tư tưởng và lý luận chưa đáp ứng đúng mức
yêu cầu của nhiệm vụ chính trị. Để "giúp vào việc nghiên cứu chính sách và
giáo dục tư tưởng, bước đầu xây dựng công tác ly luận của Đảng", Hội nghị
Trung ương 7 đã ra nghị quyết xuất bản tạp chí Học tập Đề án xuất bản được
Bộ Chính trị thơng qua, đã nêu rõ tính chất nhiệm vụ, đối tượng và phương
châm biên tập của tạp chí. Tạp chí Học tập là "cơ quan lý luận và chính trị của
Đảng", do Trung ương Đảng trực tiếp lãnh đạo Nhiệm vụ của tạp chí là "tấy
học thuyết Mác - Lê-nin làm cơ sơ kết hợp chặt chẽ lý luận Mác - Lê-nm với
thực tiễn cách mạng nước ta để tuyên truyền, giáo dục đường lối, phương
châm, chính sách của Đảng một cách sâu sắc"; Tạp chí cịn có nhiệm vụ
"hướng dẫn cán bộ học tập theo chương trình do Đảng quy đinh". Đối tượng
15


phục vụ của tạp chí là: "Cán bộ Đảng từ trung cấp trở /en, những cán bộ ngoài
Đảng và những người tri thức tích nghiên cứu chính trị và có trình độ đọc

hiểu được". Phương châm biên tập của tạp chí là "căn cứ vào nhiệm Vụ trung
tâm và những cơng tác lơn của Đảng trong từng thịi kỳ mà định trọng tâm
biên tập làm cho nội dung Tạp chí gắn chặt với chính sách và sinh hoạt chính
trị, sinh hoạt tư tưởng của Đảng.
Bộ Chính trị đã cử ra một Ban Biên tập tạp chí do đồng chí Trường
Chinh làm Tổng Biên tập, đồng chí Trần Quang Huy làm Thư ký tòa soạn.
Sau một thời gian ngắn khẩn trương chuẩn bị, tạp chí Học tập ra số 1 vào
tháng 12-1955. Trong những năm đầu, tạp chí tập trung phục vụ các nhiệm vụ
công tác lớn của Đảng: đấu tranh đòi thi hành Hiệp nghị Giơ- ne-vơ nhằm
thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà; hồn thành cải cách ruộng đất và
chỉnh đốn tổ chức, khôi phục kinh tế, tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa và
bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Về nhiệm vụ đấu tranh thực hiện thống
nhất nước nhà, trong nhiều xã luận, chuyên luận và trong mục Miền nam dưới
ách thống trị của Mỹ - Diễm, tạp chí đã vạch trần âm mưu của Mỹ - Diễm phá
hoại Hiệp nghị Giơ-ne-vơ, hòng chia cắt lâu dài đất nước ta và nêu rõ những
nhiệm vụ và phương hướng đấu tranh chống lại những âm mưu đó.
Tạp chí đã có xã luận "Cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân miền
Nam nhất định thắng lợi" (số 7-1960) và nhiều bài chuyên luận giới thiệu nội
dung và phương hướng của cuộc đấu tranh cách mạng ở miền Nam theo tinh
thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 15. Cuộc họp Bộ Chính trị ngày 3-31962 Hội nghị nhận định: thời gian qua, mặc dù còn rất nhiều thiếu thốn và
gặp rất nhiều khó khăn, những Bộ Biên tập đã phấn đấu để xuất bản được tạp
chí như thế là có sự cố gắng rất lớn. Tuy nhiên, chất lượng tạp chí chưa cao,
trình độ lý luận cịn thấp, tính chiến đấu cịn yếu.
Việc Bộ Biên tập tạp chí chưa được kiện tồn, việc thiếu tổng biên tập
chun trách có đủ thẩm quyền là ngun nhân chính làm cho tạp chí chưa
đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng hiện nay. Cho nên phải tăng
16


cường ban biên tập, tăng cường cán bộ có năng lực cho Bộ Biên tập tạp chí.

Các đồng chí lãnh đạo của Đảng phải viết bài cho tạp chí. Hội nghị xác định:
Tạp chí Học tập có một vị trí rất quan trọng trong tồn bộ cơng tác tư tưởng
của Đảng, có thể nói nó là cơng cụ quan trọng bậc nhất, khơng thể thiếu được;
nó là "vũ khí hạng nặng", là "công nghiệp nặng", là "ngành xây dựng cơ bản"
trong cơng tác tư tưởng. Nó tác chiến trên mặt trận lý luận tư tưởng, nó đề cập
đến tất cả các vấn đề, nhưng không đi vào học thuật theo kiểu bác học. Hội
nghị cũng bàn đến việc đổi tên tạp chí vì tên Học tập có thể làm cho người ta
hiểu lầm chức năng của tạp chí, nhưng cuối cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng
các đồng chí khác đều thấy nên giữ tên tạp chí là Học tập.
Nói chung trong 21 năm qua (1955-1976), Tạp chí Học tập đã cố gắng
đóng góp vào cơng tác lý luận và tư tưởng của Đảng, và góp phần tích cực
vào việc thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt
Nam: Trong những năm đế quốc Mỹ tăng cường và mở rộng chiến tranh phá
hoại ở miền Bắc, nhiều năm tháng phải làm việc trong điều kiện sơ tán, phân
tán, khó khăn chồng chất, Tạp chí Học tập vẫn xuất bản đều đặn và không
ngừng cố gắng nâng cao chất lượng bài vở. Tuy nhiên, nhìn chung trình độ lý
luận của tạp chí vẫn cịn hạn chế. Có thời gian trên tạp chí có nhiều bài viết về
cơng tác của ngành, nặng về phản ánh tình hình, nêu nhiệm vụ cơng tác, thiếu
tính khái qt. Mặt khác, do nhận thức chưa theo kịp sự phát triển của cuộc
sống, trên một số vấn đề chưa vượt ra khỏi tư duy cũ, cịn lệ thuộc vào một
vài mơ hình sẵn có. Có những lúc khơng đem lý luận phân tích thực tiễn một
cách đầy đủ và từ phân tích thực tiễn mà rút ra kết luận thích đáng, cho nên
chậm nhận ra những nhân tố mới, sáng tạo trong phong trào của quần chúng,
cũng như thiếu nhạy cảm trước những điều khơng phù hợp trong một số chủ
trương, chính sách; từ đó khơng kịp thời phát hiện, đề xuất ý kiến với lãnh
đạo, góp tiếng nói tích cực vào việc bổ sung, sửa đổi một số chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước.

17



Chính phủ cho phép một số tờ báo đã có từ trước trong nội thành: Hà
Nội hàng ngày, Thời mới được tiếp tục. Một số tờ báo mới của tư nhân cũng
được phép xuất bản. Đặc biệt năm 1957 miền Bắc có 10 tờ báo tư nhân Sau
ba năm khơi phục kinh tế, miền Bắc bước vào thời kỳ cải tạo xã hội chủ
nghĩa.Việc cải tạo các tờ báo và các nhà in tư nhân bắt đầu được tiến hành Tờ
thời mới và tờ thủ đô Hà Nội sáp nhật dưới một cái tên chung là Hà Nội mới.
Việc cải tạo xã hội chủ nghĩa về cơ bản hoàn thành thì báo chí miền
Bắc là báo chí xã hội chủ nghĩa thuần nhấn uyên truyền cho đường lối chính
sách của Đảng. Khác với báo chí tư sản là chạy theo những chuyện giật gân,
ly kỳ, báo chí xã hội chủ nghĩa phải có tính đảng, tính dân tộc, tính khoa học,
tính đại chúng, đứng vững trên lập trường của giai cấp cơng nhân, phục vụ lợi
ích của tồn thể nhân dân lao động, kiên quyết đâu tranh chống lại các thế lực
thù địch. Trong sự nghiệp cách mạng, báo chí luôn được coi là một bộ phận
của sự nghiệp cách mạng, là vũ khí sắc bén trong cơng cuộc đấu tranh giành
độc lập dân tộc và xây dựng cuộc sống mới cho nhân dân.Vì vậy báo chí phải
đảm những đặc điểm trên.
Khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh ra miền Bắc. Báo chí Việt Nam
hướng mọi hoạt động vào nhiệm vụ góp phần cổ vũ tồn dân đánh thắng giặc
Mỹ đồng thời đẩy mạnh hoạt động sản xuất nông nghiệp và xây dựng những
cơ sở đầu tiên của công nghiệp. Đây là hai nhiệm vụ song song mang tính
chiến lược.
Trong bầu khơng khí tự do, báo chí miền Bắc từng bước phát triển cân
đối, ngồi những cơ quan thơng tin ngơn luận chung, có báo chí của các đảng
phái chính trị như báo độc lập của Đảng dân chủ, tạp chí Tổ Quốc của Đảng
Xã hội.
Báo chí của tổ chức chính trị xã hội, báo chí văn học, báo chí khoa học,
nghệ thuật, báo chí giành riêng cho phụ nữ, thiếu nhi... hệ thống phát thanh
quốc gia không ngừng mở rộng ,truyền hình bắt đầu được xây dựng Từ ngày
30/7 đến ngày 2/8/1964 để có một lý do trực tiếp thuyết phục, Quốc hộ Mỹ

18


cho phép quân đội của họ mở rộng chiến tranh chống nước Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hòa, tổng thống Mỹ Yolhson đã cho lực lượng hạm đội 7 ở Thái
Bình Dương gây ra sự kiện "Vịnh Bắc Bộ". Ngay sau đó "Nghị quyết vịnh
Bắc Bộ" được thơng qua, trở thành lời tuyên chiến của chính phủ Mỹ. Giới
hiếu chiến Mỹ đã đánh lừa dư luận Mỹ, sau đó ngày 5/8/1964 đã mưu toan
đánh trận phủ đầu vào miền Bắc bằng không quân, gây sức ép buộc các lực
lượng cách mạng ở miền Nam phải ngưng lại cuộc tiến công. Những trận tiến
công "Mũi tên xuyên" của không quân Mỹ cuối cùng không thực hiện được
mục tiêu đánh phủ đầu. Sau ngày 5/8 lịch sử ấy, Mỹ tiếp tục cho không quân,
hải quân đánh phá miền Bắc, trọng điểm là đường vận tải chiến lược Trường
Sơn. Song miền bắc cũng kịp thời ứng phó bằng hai cơng việc khẩn cấp nhất:
chi viện tích cực hơn nữa cho miền Nam và chiến đấu chống không quân, hải
quân Mỹ theo khẩu hiệu hành động của Nguyễn Viết Xuân: "Nhằm thằng
quân thù mà bắn".
Mỹ leo thang chiến tranh Việt Nam - cả nước kháng chiến chống Mỹ
cứu nước, Đảng Lao Động Việt Nam tại Hội nghị lần thứ 11 (đặc biệt) của
BCHTW (khóa 3) ngày 23/2/1965 đã xác định: Cả nước đang có chiến tranh
với đế quốc Mỹ... "Cả nước đều phải tham gia đánh giặc, miền Nam là tiền
tuyến lớn, miền Bắc là hậu phương lớn", "Sự nghiệp vĩ đại của dân tộc ta là
giải phóng cả nước và thống nhất tổ quốc đồng thời làm nghĩa quốc tế rất lớn:
đánh bại cuộc thí nghiệm có tính chất quốc tế của bọn đế quốc do Mỹ cầm
đầu'. Ngày 31/3/1965, phong trào thi đua đặc biệt được phát động mang tên
"Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược". Ngày 17/7/1966, Chủ tịch Hồ Chí
Minh kêu gọi tồn dân từ Bắc chí Nam chống Mỹ cứu nước với quyết tâm sắt
đá: "Chiến anh có thê kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 nơm hoặc lâu hơn nữa. Hà
Nội, Hai Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá song nhân
dân Việt Nam quyết khơng sợ! Khơng có gì q hơn độc lập tự do. Đến ngày

thắng lơi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp
hơn!" Cả dân tộc bước vào trận chiến đấu vì độc lập tự do, đó là hình ảnh rõ
19


nét nhất về Việt Nam từ năm 1965. Tiếng nói của báo chí xã hội chủ nghĩa
vẫn được xuất bản đều đặn để phục vụ sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Báo chí trở thành cơng cụ nhạy bén nhất phát triển không ngừng cả về số
lượng và chất lượng như năm 1957, Miền Bắc có 134 tờ báo (5 tờ báo hàng
ngày, 5 tờ báo tuần/2 kỳ, 10 tờ báo tuần /1 kỳ, 6 tờ tháng/2 kỳ, 13 tờ tháng /1
kỳ, 50 tờ báo ngành, 45 tờ báo địa phương)
Trước thềm đại hội lần thứ III hội nhà báo Việt Nam (1962) riêng miền
Bắc đã có 1500 nhà báo làm việc trong khoảng 120 cơ quan báo chí các loại
Đặc biệt năm 1969, số lượng phát hành của một số tờ báo đạt những con số ấn
tượng như Báo Quân Đội Nhân Dân, ra hàng ngày, 8 vạn bản; Báo nhân dân
ra hàng ngày,15 vạn bản ; Tạp chí Học tập ra hàng tháng, 5 vạn bản ; Báo Hà
Nội mới cơ quan tuyên truyền của Đảng bộ Hà Nội ra hàng ngày, 1 5 nghìn
bản; Báo Tiền phong,cơ quan tuyên truyền của đoàn thanh niên lao động Việt
Nam, tuần /2 kỳ, mỗi kỳ 1 vạn bản; Báo lao động, mỗi tuần 2 kỳ, mỗi kỳ 3
vạn bản; Báo phụ nữ Việt Nam, tuần 12 kỳ, mỗi kỳ 4 vạn bản; Báo Cứu quốc,
cơ quan tuyên truyền của Mặt trận tổ quốc Việt Nam ra hàng tháng, 11 vạn
bản, Báo Độc lập, cơ quan của Dòng dân chủ Việt Nam ra hàng tháng, 3
nghìn bản; Báo Tổ quốc cơ quan của đảng Xã hội Việt Nam, ra hàng tháng, 3
nghìn bản; Báo Thiếu niên tiền phong ,mỗi tháng 2 kỳ, mỗi tháng 2 kỳ, mỗi
kỳ 5 vạn bản; Báo Văn Nghệ, cơ quan của hội Liên hiệp văn học nghệ thuật
Việt Nam, mỗi tháng ra 3 kỳ, mỗi kỳ 17 nghìn bản; Báo Việt Nam (Báo ảnh),
mỗi tháng ra 1 kỳ, 4 vạn bản; Tạp chí Tuyên huấn ra hàng tháng 3 vạn bản.
Tuần Báo thống nhất, mỗi tuần ra 2 kỳ; Tập san phổ thông, ra hàng tháng, 1
vạn bản ; Tạp chí Văn nghệ quân đội, ra hàng tháng 15 nghìn bản...
Ngồi ra cịn có báo Tân Việt Hoa bằng chữ Hán, nhằm phục vụ đồng

bào người Việt gốc Hoa; Báo Chính nghĩa; Báo Vì Chúa, cơ quan của những
người Thiên chúa giáo yêu nước; Báo ngoại văn có tờ Courrier duViệt nam tờ
Eludes Vietnamieunes; 28 tờ báo tỉnh 72 tập san; tạp chí của các ngành. Đặc
biệt hơn nữa là báo chí đã đi vào tận ngõ ngách của bản làng với những bài
20


báo bằng tiếng dân tộc để phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số như tỉnh Hà
Giang, Lào Cai, Nghĩa Lộ.
Cũng chính trong nhũng năm tháng chiến tranh phá hoại bằng không
quân và hải quân ra miền Bắc, vô tuyến truyền hình cũng xuất hiện mặc dù
thời gian đầu rất thiếu thốn về phương tiện và trang thiết bị. Song đài truyền
hình Việt Nam vẫn ra đời và phát triển, đánh dấu một bước tiến quan trọng
trong bước đường trưởng thành của báo chí Việt Nam.
Đài Tiếng nói Việt Nam chính thức cất tiếng chào đời ngày 7/9/1945.
Nội dung buổi phát thanh đầu tiên bằng tiếng Việt bắt đầu bằng câu: "Đây là
Tiếng nói cua Việt Nam, phát thanh từ Hà Nội, thủ đơ nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hồ". Từ đó đài tiếng nói Việt Nam khơng ngừng phát triển qua các
thời kỳ lịch sử và cũng gắn liền với lịch sử dân tộc ta.
Đây là những đặc điểm nổi bật nhất của báo chí Miền Bắc trong những
năm tháng kháng chiến chống Mỹ cứu nước đầy gian khổ. Nhưng với tinh
thần đoàn kết trên khắp các mặt trận cũng như Việt Nam là một dân tộc ưa
chuộng hòa bình trên thế giới. Cuộc cách mạng của dân tộc ta là cuộc chiến
tranh vệ quốc bản vệ hịa bình, đưa sự nghiệp cách mạng nước ta từ thắng lợi
này đến thắng lợi khác. Tuy nhiên báo chí cả nước nói chung và báo chí cách
mạng Miền Bắc cũng khơng gặp mn vàn khó khăn và trở ngại như thiếu
phương tiện kỹ thuật, trang thiết bị máy móc cịn lạc hậu, chủ yếu là sự giúp
đỡ của Liên Xơ, ngồi ra đội ngũ nhà báo cịn q ít về số lượng và điều hạn
chế căn bản lớn nhất ở đây là các bài báo chỉ đưa thông tin theo một chiều
hướng mà khơng có sự phản ảnh của phía người tiếp nhận, khơng có sợi dây

kết nối giữa quần chúng nhân dân với đội ngũ những người làm báo.
2. Một số nhà báo và những tở báo tiêu biểu cho báo chí cách mạng
giai đoạn ( 1954 -1975)
2.1. Vũ Bằng
Vũ Bằng (1913 -1984), tên thật là Vũ Đăng Bằng, là một nhà văn, nhà
báo nổi tiếng của Việt Nam. ông là người có sở trường về viết truyện ngắn,
21


tùy bút, bút kí... ơng đã vào Sài Gịn sau 1954 để làm báo và hoạt động Cách
mạng. Ngoài bút hiệu Vũ Bằng, ơng cịn ký với các bút hiệu khác: Tiêu Liêu,
Vịt Con, Thiên Thư, Vạn Lý Trình, Lê Tâm, Hồng Thị Trâm...
"Tập san phê bình" - một ấn phẩm tư nhân ở miền Bắc hồi 1957-58 Lại
Nguyên ân.Hội Nhà văn Việt Nam.Có vẻ như cả giới văn học lẫn giới nghiên
cứu lịch sử báo chí hiện nay đều khơng cịn biết gì đến ấn phẩm này; chứng
cứ là khơng tìm thấy bất cứ dấu vết nào của ấn phẩm này trong một vài cuốn
sách thống kê hoặc chỉ dẫn.
2.2. Hồ Chí Minh
Suốt hơn nửa thế kỷ gắn bó với báo chí, Bác để lại một sự nghiệp đồ sộ
Trên 2.000 bài viết với 53 bút danh khác nhau của Bác đã được đăng ở nhiều
báo trong, ngoài nước bằng tiếng Việt, Pháp, Hán, Nga, Anh... với chủ đề đa
dạng, sinh động; văn phong vừa độc đáo vừa gần gũi, dễ hiểu, luôn chiếm
được sự mến mộ của bạn đọc. Có thể nói Bác là người khai sinh, thực hiện,
định hướng, phát triển nền báo chí cách mạng Việt Nam. Bác còn đưa ra các
tư tưởng, phương pháp báo chí mới mẻ, tiến bộ mà phù hợp với phong trào
báo chí cách mạng, báo chí hiện đại trên thế giới. Bác khơng những là một
lãnh tụ chính trị kiệt xuất, một danh nhân văn hóa đáng khâm phục, mà cịn
thực sự là một nhà báo vĩ đại.
Ngồi ra cịn một số nhà báo như Nguyễn Phụng Kỳ,Vũ Ngọc Tiến,
Nguyễn Thượng Long... Họ đều là những cây bút khá tên tuổi trong hoạt động

báo chí.Vừa tham gia tích cực vào cuộc kháng chiến chống Mỹ ,vừa viết bài.
Trong những năm kháng chiến, một số tờ báo không ngừng phát triển
cả về số lượng và chất lượng xứng đáng là ngọn cờ tiên phong luôn là con
thuyền lái đầu tàu như: Tạp chí học tập và báo quân đội nhân dân xứng đáng
là niềm tin của nhân dân, đem hết sức mình để cống hiến cho Tổ Quốc.

22


KẾT LUẬN
Nhìn lại chặng đường đã đi qua của báo chí cách mạng Việt Nam, có
thể thấy mỗi bước trưởng thành của báo chí ln gắn liền với lịch sử dân tộc
Báo chí Việt nam cũng có thể làm được những điều kỳ diệu như chính dân tộc
Việt Nam đã viết lên những trang sử hào hùng trong công cuộc dựng nước và
giữ nước. Cho đến nay gần 1,5 thế kỷ hình thành và phát triển báo chí Việt
Nam đã khơng ngừng phát huy vai trị của mình đối với đời sống xã hội. Mỗi
thời kỳ đều mang trong mình những giấu ấn riêng, chính vì vậy mà báo chí
Việt Nam đã làm nên sắc diện đáng nhớ.
Ở đây đòi hỏi người làm báo phải có đủ bản lĩnh, trình độ và đạo đức
nghề nghiệp, thực hiện đầy đủ trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân của
nhà báo. Làm việc gì cũng phải có lương tâm, đạo đức nghề nghiệp. Báo chí
là nghề rất cao quý, thiêng liêng, được cả xã hội nể trọng, cho nên lại càng
cần phải giữ đạo đức nghề nghiệp. Mỗi nhà báo cần tự rèn luyện, không
ngừng học tập để nâng cao phẩm chất và trình độ hiểu biết mọi mặt, nhát là
trình độ chính trị và trình độ nghiệp vụ; thường xun bám sát nhiệm vụ
chính trị, bám sát u cầu cơng tác tư tưởng, lăn lộn trong thực tiễn, hiểu rõ
tâm tu, nguyện vọng của nhân dân.
Trong thời gian tới, phát huy những kết quả đạt được, báo chí nước ta
sẽ tiếp tục đổi mới mạnh mẽ để làm tốt sứ mệnh cao cả là tiếng nói của Đảng,
Nhà nước, đồng thời là diễn đàn của nhân dân, đóng góp ngày càng xứng

đáng vào sự nghiệp vẻ vang của Đảng và dân tộc.

23


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lịch sử báo chí Việt Nam - TS.Trần Thị Bích Liên
2. Báo chí truyền thơng hiện đại - PGS.TS Nguyễn Văn Dững
3. Chương II - Tạp chí học tập (1955-1976)
4. Tạp chí cộng sản : Những chặng đường phát triển
5. e bao.com

24


MỤC LỤC

25


×