Tải bản đầy đủ (.docx) (45 trang)

Khóa luận tốt nghiệp pháp luật về việc làm, giải quyết việc làm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.67 KB, 45 trang )

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................ 1


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Hoạt động kiếm sống là hoạt động quan trọng nhất của thế giới động vật
nói chung và của con người nói riêng. Tuy nhiên, đối với con người kiếm sống
không chỉ là hoạt động đơn thuần giúp con người thích ứng với thiên nhiên, với
điều kiện sống mà qua đó cịn cải tạo con người, biến con người từ sinh vật
hoang dã thành sinh vật xã hội có ý thức, tham gia vào các quan hệ xã hội. Hoạt
động kiếm sống của con người được gọi chung là việc làm hoặc thực hiện việc
làm. Trong nền kinh tế thị trường, việc làm và thất nghiệp là vấn đề mang tính
tính chất tồn cầu, vấn đề này không loại trừ một quốc gia nào dù đó là nước
đang phát triển hay nước có nền kinh tế phát triển. Giải quyết việc làm, chống
thất nghiệp luôn là vấn đề nan giải. Với ý nghĩa của việc làm, Đảng và nhà nước
ta đã đề ra quan điểm đảm bảo việc làm cho người dân là mục tiêu xã hội hàng
đầu. Giải quyết việc làm, đảm bảo cho mọi người có khả năng lao động, có nhu
cầu làm việc đều có cơ hội có việc làm là trách nhiệm của các cấp, các ngành và
của toàn xã hội. Đặc biệt trong bối cảnh suy thoái kinh tế ở Việt Nam hiện nay
thì vấn đề việc làm và giải quyết việc làm lại càng trở nên cấp thiết hơn. Thành
phố Vinh cũng là một trong những vùng kinh tế trọng điểm của nước ta nói
chung và của khu vực miền Bắc Trung Bộ nói riêng. Đây là nơi có nhiều điều
kiện tự nhiên thuận lợi, lực lượng lao động dồi dào. Trong những năm gần đây,
sự quy hoạch đất đai tốt đã tạo nên một thành phố Vinh trẻ, đầy tiềm năng, đã
thu hút đông đảo người dân ở các tỉnh lân cận đến sống và làm việc. Do đó, vấn
đề giải quyết việc làm cho người lao động trên địa bàn thành phố là hết sức quan
trọng, góp phần khơng nhỏ cho sự phát triển bền vững của một Thành phố được
coi là trung tâm của miền Bắc Trung Bộ.


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Lao động và việc làm có vai trị rất quan trọng, cho nên đề tài về lĩnh vực
này luôn tạo sức hút mạnh mẽ cho các nhà nghiên cứu, những chuyên gia kinh tế
pháp lý tiến hành nghiên cứu, tìm hiểu và đưa ra nhiều đề tài khoa học có giá trị.
Cho đến nay, đã có nhiều bài viết, nhiều đề tài, cơng trình nghiên cứu khoa học
2


về vấn đề này. Dưới góc độ kinh tế - xã hội có thể kể tới một số bài viết trên các
tạp chí như: “Giải quyết việc làm trong thời kỳ hội nhập” của tác giả Nguyễn
Thị Kim Ngân (Tạp chí Cộng sản số 23 năm 2007), “Giải quyết việc làm cho lao
động Việt Nam: Nghịch lý thiếu, thừa” của tác giả Lan Ngọc (Báo Lao động số
291 ngày 16/12/2008), “Pháp luật lao động trong q trình tồn cầu hóa” của tác
giả Phạm Trọng Nghĩa (Tạp chí nghiên cứu Lập pháp số 11 năm 2008), “Việc
làm trong hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta” của tác giả Nguyễn Tiệp (Tạp chí
Lao động – Xã hội số 394 năm 2010), “Cho thuê lại lao động và những yêu cầu
đặt ra đối với việc điều chỉnh pháp luật lao động Việt Nam” của tác giả Lê Thị
Hồi Thu (Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 28 năm 2012). Bên cạnh đó là
các đề tài khoa học: “Đánh giá việc thực hiện chiến lược việc làm giai đoạn
2001-2005 và xây dựng chiến lược việc làm trong kỳ đại hội X” của Viện Khoa
học Lao động xã hội năm 2004, “Nghiên cứu, đánh giá tác động về lao động,
việc làm và xã hội sau khi Việt Nam gia nhập WTO và đề xuất những giải pháp”
của Cục Việc làm năm 2008, “Pháp luật lao động về việc làm – Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn” của tác giả Nguyễn Thắng Lợi năm 2010, “Pháp luật về quan
hệ lao động Việt Nam – Thực trạng và phương pháp hoàn thiện” của ĐHQGHN
do PGS.TS Lê Thị Hồi Thu chủ trì. Một số cơng trình nghiên cứu dưới góc độ
pháp lý như: Luận văn Thạc sỹ luật học: “Việc làm và quy định của pháp luật về
việc làm ở Việt Nam – Những 6 vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Nguyễn
Văn Quynh (2003), “Pháp luật lao động về việc làm và giải quyết việc làm ở
Việt Nam trong thời kỳ hội nhập” của tác giả Đinh Thị Nga Phượng (năm 2011),

“Những vấn đề pháp lý cơ bản về việc làm và giải quyết việc làm trong bối cảnh
suy thoái kinh tế ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Lâm Thị Thu Huyền (2011).
Các cơng trình nên trên đã đề cập một cách toàn diện các quy định pháp luật về
việc làm và giải quyết việc làm trên cả bình diện lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên,
để có cái nhìn đa chiều và góp thêm tiếng nói nhằm hoàn thiện pháp luật giải
quyết việc làm trong giai đoạn hiện nay là việc làm hết sức cần thiết, đặc biệt
thực tiễn giải quyết việc làm tại Thành phố Vinh để góp phần làm sáng tỏ thêm

3


kho tàng lý luận về giải quyết việc làm ở nước ta trong điều kiện hội nhập nền
kinh tế thế giới.
3. Mục đích của việc nghiên cứu đề tài
Luận văn nghiên cứu với mục đích:
- Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về việc làm, giải quyết việc làm; phân
tích các quy định của pháp luật hiện hành về giải quyết việc làm.
- Phân tích và đánh giá thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về
giải quyết việc làm tại Thành phố Vinh.
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật lao động về
giải quyết việc làm và một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết việc
làm tại Thành phố Vinh.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng và
Nhà nước ta về phát triển kinh tế - xã hội, về vấn đề việc làm và giải quyết việc
làm. Trong quá trình nghiên cứu các tác giả sẽ vận dụng các nguyên lý của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để phân tích làm sáng tỏ các nội
dung nghiên cứu.
Ngoài ra, luận văn sử dụng các phương pháp chủ yếu như: phương pháp

phân tích, tổng hợp, đối chiếu, so sánh, thống kê, điều tra... làm cơ sở cho quá
trình nghiêm cứu.
5. Ý nghĩa luận văn và thực tiễn của luận văn
Với kết quả nghiên cứu nêu trên, luận văn là nguồn tài liệu tham khảo cho
sinh viên các trường đại học chuyên luật và không chuyên luật cũng như cán bộ
nghiên cứu, các nhà hoạch định chính sách khi nghiên cứu về lĩnh vực này. Bên
cạnh đó, các cá nhân quan tâm, tìm hiểu pháp luật về giải quyết việc làm, về
thực tiễn thực hiện các chính sách giải quyết việc làm tại Thành phố Vinh cũng
có thể tham khảo.

4


Về mặt thực tiễn, luận văn góp phần thiết thực trong việc giải quyết hiệu
quả vấn đề việc làm trong phạm vi cả nước nói chung và tại thành phố Vinh nói
riêng.
6. Kết cấu của luận văn

Kết cấu của luận văn được xây dựng phù hợp với mục đích, nhiệm vụ và
phạm vi nghiên cứu. Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham
khảo, nội dung của luận văn gồm có ba chương:
Chương I: Một số vấn đề chung về việc làm, giải quyết việc làm.
Chương II: Thực trạng pháp luật về giải quyết việc làm và thực tiễn giải
quyết việc làm tại Thành phố Vinh.
Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiểu quả giải
quyết việc làm ở Việt Nam và thực tiễn tại Thành phố Vinh.

5



PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VIỆC LÀM VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
1. Khái niệm, đặc điểm việc làm, giải quyết việc làm
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của việc làm
1.1.1. Khái niệm việc làm
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay, khi mà
nước ta đang xây dựng một đất nước cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước để
hội nhập quốc tế thì vấn đề đầu tiên cần phải quan tâm là giải quyết việc làm cho
người lao động do nước ta có nguồn lao động đang nằm trong độ tuổi lao động
dồi dào. Việc làm là một trong những hoạt động lao động tạo ra thu nhập của bất
cứ cá nhân nào trong xã hội mà không bị pháp luật cấm.
Lao động là một hành động diễn ra giữa con người với giới tự nhiên, trong
lao động con người đã vận dụng trí lực và thể lực cùng với công cụ tác động vào
giới tự nhiên tạo ra sản phẩm phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt , đời sống con
người, lao động là một yếu tố tất yếu khơng thể thiếu được của con người, nó là
hoạt động rất cần thiết và gắn chặt với lợi ích của con người.
Con người khơng thể sống khi khơng có lao động, có lao động thì mới tạo
ra của cải, mới tạo ra thu nhập để trang trải cuộc sống, ổn định xã hội góp phần
xây dựng nhà nước ngày càng vững mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh.
Qua đó mỗi con người trong nền sản xuất xã hội đều chiếm những vị trí nhất
định, và từ đây, con người bắt đầu ý thức được việc làm. Trong phạm vi khóa
luận, tác giả tiếp cận, làm rõ các vấn đề khái niệm việc làm dưới góc độ sau:
- Dưới góc độ kinh tế xã hội
Hoạt động kiếm sống là hoạt động quan trong nhất của thế giới nói chung và
con người nói riêng. Hoạt động kiếm sống của con người được gọi chung là việc
làm.
Việc làm trước hết là vấn đề của mỗi cá nhân, xuất phát từ nhu cầu của bản
thân nên tiến hành các hoạt động nhất định. Họ có thể tham gia cơng việc nào đó
để được trả cơng hoặc tham gia vào các hoạt động mang tính chất tự tạo việc

làm như dùng các tư liệu sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi nhuận hoặc tự làm
những cơng việc cho hộ gia đình mình.
6


Ngồi vấn đề cá nhân, việc làm cịn là vấn đề của cộng đồng của xã hội..
Sở dĩ có sự phát sinh này là do: con người không sống đơn lẻ và hoạt động lao
động của mỗi cá nhân cũng không đơn lẻ mà nằm trong tổng thể các hoạt động
sản xuất của xã hội. Hơn nữa, việc làm và thu nhập không phảo là vấn đề mà lúc
nào mỗi cá nhân NLĐ cũng quyết định được. Sự phát triển quá nhanh của dân
số, mức độ tập trung tư liệu sản xuất ngày càng cao vào tay một số cá nhân dẫn
đến tình trạng xã hội ngày càng có nhiều người khơng có khả năng tự tạo việc
làm. Trong điều kiện đó, mỗi cá nhân phải huy động mọi khả năng của bản thân
để tự tìm việc làm cho mình, phải cạnh tranh để tìm việc làm.
Tóm lại, xét về phương diện kinh tế- xã hội, có thể hiểu việc làm là các
hoạt động tạo ra, đem lại lợi ích, thu nhập cho NLĐ được xã hội thừa nhận.
- Dưới góc độ pháp lí
Đối với Tổ chức lao động quốc tế (ILO), thuật ngữ “việc làm” được đề cập
trong nhiều văn kiện như Tun ngơn Philadenphia năm 1944; “Chương trình việc
làm thế giới” năm 1969; Tuyên bố tại Hội nghị việc làm thế giới năm 1976; Công
ước số 22 năm 1964... nhưng trong các văn kiện này chưa nêu ra khái niệm “việc
làm”. Đến tận Hội nghị quốc tế lần thứ 13 năm 1993 của các nhà thống kê lao
động, ILO mới đưa ra quan niệm về người có việc làm và người thất nghiệp. Theo
đó, người có việc làm được hiểu là những người làm một việc gì đó được trả tiền
cơng, lợi nhuận hoặc được thanh tốn bằng hiện vật hoặc những người tham gia
vào các hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập gia đình
khơng được nhận tiền cơng hoặc hiện vật; cịn người thất nghiệp là những người
khơng có việc làm nhưng đang tích cực tìm việc làm hoặc đang chờ trở lại việc
làm. Gần đây nhất, năm 2005, Tổ chức Lao động quốc tế đã đưa vào Từ điển
chuyên ngành khái niệm “việc làm”. Theo đó, “Việc làm là một công việc được trả

công. Việc làm cũng đề cập đến số người tự tạo việc làm và tham gia làm việc để
được trả công” . Đây là khái niệm ngắn gọn, chỉ chung chung đến những công việc
do cá nhân thực hiện cho chính bản thân hoặc cho chủ thể khác để được trả công.
Đối với Việt Nam, Điều 57, Hiến pháp năm 2013 nêu rõ: Nhà nước khuyến
khích, tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tạo việc làm cho người lao động. Nhà

7


nước bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động, người sử dụng lao
động và tạo điều kiện xây dựng quan hệ lao động tiến bộ, hài hòa và ổn định.
Việc làm là một trong những nhu cầu cơ bản nhất của người lao động để
bảo đảm cuộc sống và phát triển tồn diện. Cơng dân có sức lao động phải được
làm việc để duy trì sự tồn tại của bản thân và góp phần xây dựng xã hội, thực
hiện các nghĩa vụ đối với những người xung quanh trong cộng đồng. Vì vậy, giải
quyết việc làm, đảm bảo cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội làm
việc là trách nhiệm của Nhà nước, của các doanh nghiệp và của toàn xã hội.
Trên tinh thần Hiến pháp, luật Việc làm năm 2013 cũng đã quy định rõ,
việc làm là hoạt động lao động tạo ra thu nhập mà không bị pháp luật cấm. Nhà
nước có chính sách phát triển kinh tế - xã hội nhằm tạo việc làm cho người lao
động, xác định mục tiêu giải quyết việc làm trong chiến lược, kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội; bố trí nguồn lực để thực hiện chính sách về việc làm.
Nhà nước khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia tạo việc làm và tự tạo
việc làm có thu nhập từ mức lương tối thiểu trở lên nhằm góp phần phát triển
kinh tế, xã hội, phát triển thị trường lao động; Có chính sách hỗ trợ tạo việc làm,
phát triển thị trường lao động và bảo hiểm thất nghiệp…
Theo các nhà chuyên môn, về cơ bản, pháp luật lao động nước ta không
mâu thuẫn với các tiêu chuẩn quốc tế về nhân quyền, thậm chí cịn ở mức tiến
bộ so với thơng lệ quốc tế. Với việc khẳng định rõ trách nhiệm của Nhà nước
trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cả người lao động và người sử

dụng lao động, xây dựng mối quan hệ lao động tiến bộ, hài hòa và ổn định, Hiến
pháp đã đề cao quyền tự do lao động của công dân.
Người lao động tham gia vào quan hệ lao động, họ có quyền làm việc cho
bất kỳ người sử dụng lao động nào, làm bất cứ cơng việc gì mà pháp luật khơng
cấm. Người lao động có quyền chủ động nắm bắt cơng việc phù hợp với khả
năng, nguyện vọng, trình độ chun mơn nghiệp vụ và sức khỏe của mình.
Người cần tìm việc làm có quyền trực tiếp liên hệ để tìm việc hoặc đăng ký tại
các tổ chức dịch vụ việc làm để tìm kiếm cơng việc.
Trong trường hợp điều kiện lao động khơng đảm bảo hoặc khi có cơ hội tốt
hơn, người lao động có thể chấm dứt quan hệ lao động này để tham gia vào quan
hệ lao động khác trên cơ sở của pháp luật. Mặt khác, trong trường hợp, cá nhân
8


trở thành người sử dụng lao động và tham gia thị trường lao động sẽ được Nhà
nước tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích sử dụng nhiều lao động. Khi tham
gia vào quan hệ lao động, người lao động không chỉ tự do lựa chọn việc làm mà
còn được người sử dụng lao động cam kết đảm bảo làm việc lâu dài, phù hợp
với sức khỏe và trình độ chuyên mơn.
Trên cơ sở đó, khi người lao động thực hiện một nội dung cơng việc nào
đó, thì bên sử dụng sức lao động phải trả công, hoặc trả lương và đảm bảo
những điều kiện lao động cần thiết khác cho người lao động. Khi mục tiêu và lợi
ích các bên được đảm bảo và ngày càng thỏa mãn thì quan hệ lao động mới thật
sự tiến bộ, lành mạnh, thúc đẩy doanh nghiệp phát triển.
Người sử dụng lao động có sự quan tâm đến chế độ cho người lao động
như: tiền thưởng, phụ cấp, các khoản hỗ trợ... cũng như chú trọng xây dựng
nguồn nhân lực, có chính sách đãi ngộ thu hút nhân tài, tạo môi trường, điều
kiện làm việc tốt hơn và ln ứng xử có văn hóa. Ngược lại, người lao động
cùng cơng đồn cơ sở sẵn sàng chia sẻ những khó khăn với doanh nghiệp, có ý
thức làm việc với tinh thần trách nhiệm, đạt năng suất, chất lượng, hiệu quả.

Việc đảm bảo các điều kiện làm việc công bằng cho người lao động như:
việc làm, thu nhập, thời gian ổn định, khơng có biến động đáng kể về sản xuất,
kinh doanh…là trách nhiệm của mỗi doanh nghiệp. Cịn việc duy trì trạng thái
cân bằng về lợi ích, giảm thiểu mâu thuẫn phát sinh, lựa chọn hợp tác, thương
lượng là trách nhiệm của cả người sử dụng lao động và người lao động. Bất kỳ
mâu thuẫn nào xảy ra nếu được giải quyết trên sự hài hòa giữa các bên sẽ tạo ra
một quan hệ lành mạnh, đưa doanh nghiệp phát triển, không ngừng nâng cao thu
nhập đời sống cho người lao động.
Trên cơ sở quy định của Hiến pháp năm 2013, Khoản 1 Điều 9 Bộ Luật lao
động 2019 đã đưa ra khái niệm việc làm, cụ thể “Việc làm là hoạt động lao động
tạo ra thu nhập mà không bị pháp luật cấm”. Nhà nước, người sử dụng lao động
và xã hội có trách nhiệm tham gia giải quyết việc làm, bảo đảm cho mọi người
có khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm. Người lao động được làm việc
cho bất kỳ người sử dụng lao động nào và ở bất kỳ nơi nào mà pháp luật không
cấm; trực tiếp liên hệ với người sử dụng lao động hoặc thông qua tổ chức dịch
9


vụ việc làm để tìm việc làm theo nguyện vọng, khả năng, trình độ nghề nghiệp
và sức khoẻ của mình. Người sử dụng lao động có quyền trực tiếp hoặc thông
qua tổ chức dịch vụ việc làm, doanh nghiệp cho thuê lại lao động để tuyển dụng
lao động, có quyền tăng, giảm lao động phù hợp với nhu cầu sản xuất, kinh
doanh. Còn theo quy định tại Khoản 2 Điều 3 Luật Việc làm 2013 thì khái niệm
việc làm được quy định cụ thể như sau: Việc làm là hoạt động lao động tạo ra
thu nhập mà không bị pháp luật cấm. Luật Việc làm 2013 còn quy định việc làm
cơng là việc làm tạm thời có trả cơng được tạo ra thông qua việc thực hiện các
dự án hoặc hoạt động sử dụng vốn nhà nước gắn với các chương trình phát triển
kinh tế - xã hội trên địa bàn xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã).
Như vậy, dưới góc độ pháp lý, việc làm được cấu thành bởi 3 yếu tố:
- Là hoạt động lao động: thể hiện sự tác động của sức lao động vào tư liệu

sản xuất để tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ. Yếu tố lao động trong việc làm phải
có tính hệ thống, tính thường xun và tính nghề nghiệp. Vì vậy người có việc
làm thơng thường phải là những người thể hiện các hoạt động lao động trong
phạm vi nghề nhất định và trong thời gian tương đối ổn định.
- Tạo ra thu nhập: Là khoản thu nhập trực tiếp và khản năng tạo ra thu
nhập.
- Hoạt động này phải hợp pháp: hoạt động lao động tạo ra thu nhập nhưng
trái pháp luật, không được pháp luật thừa nhận thì khơng được coi là việc làm .
Tùy theo điều kiện kinh tế-xã hội, tập quán, quan niệm về đạo đức của từng
nước mà pháp luật có sự quy định khác nhau trong việc xác định tính hợp pháp
của các hoạt động lao động được coi là việc làm. Đây là dấu hiệu thể hiện đặc
trưng tính pháp lí của việc làm. Khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia tạo việc
làm và tự tạo việc làm có thu nhập từ mức lương tối thiểu trở lên nhằm góp phần
phát triển kinh tế – xã hội, phát triển thị trường lao động.
Như vậy, mặc dù ở góc độ nào, khái niệm đó đều thể hiện các tiêu chí định
danh việc làm là những dạng hoạt động lao động, trong đó có việc người lao
động chi phí sức lao động của mình với mục đích giành được lợi ích (thu nhập)
nào đó, nhằm thỏa mãn nhu cầu của bản thân, gia đình và xã hội.
Hoạt động lao động được coi là việc làm có thể được thể hiện dưới các hình
thức khác nhau, đó là: làm các cơng việc để nhận tiền công, tiền lương bằng tiền
10


mặt hoặc hiện vật cho cơng việc đó; làm các công việc để thu lợi nhuận cho bản
thân; làm công việc cho hộ gia đình mình nhưng khơng được trả thù lao dưới
hình thức tiền cơng, tiền lương cho cơng việc đó. Như vậy, dù ở hình thức nào,
được trả thù lao trực tiếp hay gián tiếp, thù lao đó được thể hiện bằng tiền mặt
hay lợi ích vật chất khác thì việc làm cũng ln thể hiện là các hoạt động tiềm
tàng khả năng tạo ra lợi ích hay thu nhập cho người bỏ sức lao động tiến hành
hoạt động đó.

Như vậy, xét về phương diện kinh tế - xã hội, có thể hiểu việc làm là các
hoạt động lao động, tạo ra, đem lại lợi ích, thu nhập và việc làm là dạng hoạt
động của mỗi cá nhân nhưng lại luôn gắn liền với xã hội và được xã hội công
nhận.
1.1.2. Đặc điểm của việc làm
Thứ nhất, việc làm trước hết là vấn đề của mỗi cá nhân, xuất phát từ nhu
cầu của bản thân nên tiến hành các hoạt động nhất định. Họ có thể tham gia
cơng việc nào đó để được trả cơng hoặc tham gia vào các hoạt động mang tính
chất tự tạo việc làm như dùng các tư liệu sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi
nhuận hoặc tự làm những công việc cho hộ gia đình mình.
Thứ hai, ngồi vấn đề cá nhân, việc làm còn là vấn đề của cộng đồng của
xã hội… Sở dĩ có sự phát sinh này là do con người không sống đơn lẻ mà nằm
trong tổng thể cá hoạt động sản xuất của xã hội. Hơn nữa, việc làm và thu nhập
không phải là vấn đề mà lúc nào mỗi cá nhân NLĐ cũng quyết định được. Sự
phát triển quá nhanh của dân số, mức độ tập chung tư liệu sản xuất ngày càng
cao vào tay một số cá nhân dẫn đến tình trạng xã hội ngày càng có nhiều người
khơng có khả năng tự tạo việc làm. Trong điều kiện đó, mỗi cá nhân phải huy
động mọi khả năng của bản thân để tự tạo. iệc làm cho mình, phải cạnh tranh để
tìm việc làm.
Thứ ba, việc làm cịn được đánh giá trên các mặt như tính chất cá nhân hay
tập thể, tính chất kĩ thuật, tính chất kinh tế. Dựa trên các tiêu chí này mà người
ta chia việc làm thành các phạm trù nghề nghiệp – xã hội khác nhau. Việc làm
vừa có tính chất cá nhân 9 mức độ thành thạo trong công việc của NLĐ ) vừa có
tính chất xã hội của việc làm ( tính tập thể ). Tính xã hội của việc làm đòi hỏi
việc làm phải đáp ứng được các yêu cầu của xã hội và được xã hội thừa nhận.
11


Điều này lí giải tại sao trong xã hội có nhiều hoạt động lao động tạo ra thu nhập
nhưng không được coi là việc làm về cả phương diện xã hội lẫn pháp luật.

1.1.3. Ý nghĩa của việc làm
Thứ nhất, về mặt kinh tế, việc làm luôn gắn liền với vấn đề sản xuất. Hiệu
quả của việc giải quyết tốt vấn đề việc làm cũng chính là hiệu quả của sản xuất.
Kinh tế phát triển sẽ tạo điều kiện để giải quyết tốt vấn đề việc làm và ngược lại,
nếu không giải quyết tốt vấn đề việc làm và thất nghiệp thì đó sẽ là những yếu tố
kìm hãm sự tăng trưởng của kinh tế.
Thứ hai, về mặt xã hội, bảo đảm việc làm là chính sách xã hội có hiệu quả to
lớn trong vấn đề phòng, chống, hạn chế các tiêu cực xã hội, giữ vững được kỉ
cương, nề nếp xã hội. Thất việc và việc làm không đầy đủ, thu nhập thấp là tiền đề
của sự đói nghèo, thậm chí là điểm xuất phát của tệ nạn xã hội. Các tệ nãn của xã
hội như tội phạm, ma túy, mại dâm, có nguyên nhân cốt lõi là việc làm và thất
nghiệp.
Thứ ba, về mặt chính trị – pháp lí, hậu quả của việc thất nghiệp, thiếu việc
làm khơng những ảnh hưởng tới kinh tế- xã hội mà còn đe dọa lớn đối với an
ninh vã sự ổn định của mỗi quốc gia.. Chính vì vậy ở bất kì quốc gia nào, việc
làm đã, đang và luôn là vấn đề gay cấn nhạy cảm đối với từng cá nhân, từng
gian đình đồng thời cũng là vấn đề xã hội lâu dài, vừa cấp bách nếu không được
giải quyết tốt có thể trở thành vấn đề chính trị. Cịn trên bình diện pháp lý, việc
làm là phạm trù thuộc quyền cơ bản của con người, đóng vai trị là cơ sở hình
thành, duy trì và là nội dung của quan hệ lao động. Khi việc làm khơng cịn tồn
tại, quan hệ lao động cũng theo đó mà triệt tiêu, khơng cịn nội dung, khơng cịn
chủ thể. Theo thực tế cho thấy các quốc gia nào giải quyết tốt các vấn đề về việc
làm thì sẽ thúc đẩy nền kinh tế của đất nước đó phát triển đồng thời kéo theo sự
phát triển về mọi mặt trong xã hội như là xã hội sẽ ổn định hơn, giáo dục văn hóa
cũng phát triển hơn.
Thứ tư, về mặt quốc gia – quốc tế, đối với mỗi quốc gia, chính sách việc
làm và giải quyết việc làm là bộ phận có vị trí quan trọng đặc biệt trong hệ thống
các chính sách xã hội nói riêng và trong tổng thể chính sách phát triển kinh tế xã
hội nói chung. Chính sách xã hội của nhà nước ở hầu hết các quốc gia đều tập
trung vào một số các lĩnh vực như thị trường lao động, bảo đàm việc làm,

12


bhxh… Chính sách việc làm là chính sách cơ bản nhất của quốc gia, góp phần
bảo đảm an tồn, ổn định và phát triển xã hội. Tuy nhiên trong thời đại ngày nay,
vấn đề lao động việc làm không chỉ dừng lại ở phạm vi quốc gia mà nó cịn có
tính tồn cầu hóa, tính quốc tế sâu săc. Vấn đề hợp tác, đưa lao động đi làm việc
ở nước ngoài cũng được đặt ra đồng thời với việc chấp nhận lao động ở nước
khác đến làm việc tại nước mình. Điều này giúp cân bằng lao động. Lao động từ
nước kém phát triển sang làm việc ở nước phát triển, từ nước dư thừa lao động
sang nước thiếu lao động. Trong thị trường đó, cạnh tranh khơng chỉ cịn là vấn
đề giữa những NLĐ mà còn trở thành vấn đề giữa các quốc gia. Từ đó vấn đề
lao động việc làm còn được điều chỉnh hoặc chịu sự ảnh hưởng chi phối của các
công ước quốc tế về lao động. Các nước dù muốn hay không cũng phải áp dụng
hoặc tiếp cận với những “luật chơi chung” và “sân chơi chung” càng ngày càng
khó khăn và quy mơ hơn.
2. Khái niệm, các yếu tố ảnh hưởng đến giải quyết việc làm
2.1. Khái niệm giải quyết việc làm
Giải quyết việc làm là nâng cao chất lượng việc làm và tạo ra việc làm để
thu hút người lao động vào guồng máy sản xuất của nền kinh tế. Giải quyết việc
làm khơng chỉ nhằm tạo thêm việc làm mà cịn phải nâng cao chất lượng việc
làm. Đây là vấn đề còn ít được chú ý khi đề cập đến vấn đề giải quyết việc làm,
người ta chỉ quan tâm đến khía cạnh thứ hai của nó là vấn đề tạo ra việc làm.
Giải quyết việc làm là tổng thể những biện pháp, chính sách kinh tế xã hội
của nhà nước, cộng đồng và bản thân người lao động tác động đến mọi mặt của
đời sống xã hội tạo điều kiện thuận lợi để đảm bảo cho mọi người có khả năng
lao động có việc làm.
2.2. Một số tiêu chí đánh giá giải quyết việc làm
- Hướng nghiệp, đào tạo nghề và giới thiệu việc làm cho người lao động:
Số lao động được tư vấn hướng nghiệp; Số lao động đào tạo nghề, cơ cấu ngành

nghề đào tạo; Số lao động được giới thiệu việc làm; Số lao động có việc làm
thơng qua đào tạo nghề; Số lao động có việc làm thông qua giới thiệu việc làm.
- Giải quyết việc làm thơng qua chính sách tín dụng: Nguồn vốn tín dụng
giải quyết việc làm; Số lao động được vay vốn; Số lao động được giải quyết việc
làm thông qua vay vốn.
13


- Phát triển sản xuất, thu hút lao động: số ngành nghề mới; Số cơ sở sản
xuất tăng thêm; Số lao động được giải quyết việc làm từ các cơ sở mới.
- Xuất khẩu lao động: số cơ sở môi giới xuất khẩu lao động; số lao động
được giải quyết việc làm qua xuất khẩu.
2.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến giải quyết việc làm cho người lao
động
- Điều kiện tự nhiên. Địa phương nào có điều kiện tự nhiên thuận lợi thì sẽ có
nhiều cơ hội thu hút được những dự án và chương trình phát triển kinh tế - xã hội,
chương trình phát triển vùng..., là cơ hội để giải quyết việc làm cho người lao động.
- Điều kiện kinh tế. Cơ sở hạ tầng hiện đại, chính sách thơng thống là điều
kiện để phát triển sản xuất, giải quyết việc làm cho người lao động và ngược lại.
- Các yếu tố xã hội. Dân số là nguồn cung cấp lao động nhưng cũng là gánh
nặng khi giải quyết việc làm. Các yếu tố y tế, giáo dục… là điều kiện hỗ trợ
nâng cao chất lượng lao động, tăng khả năng giải quyết việc làm.
- Bản thân người lao động. Là nguồn lực thúc đẩy thực hiện các công việc
mà xã hội phân công sắp xếp. Cơ hội việc làm cho người lao động nông thôn
cũng phụ thuộc rất nhiều vào chính sự tích cực học tập, rèn luyện, chủ động, tự
giác trong quá trình tìm việc và làm việc của bản thân người lao động.
3. Quan điểm của Đảng, nhà nước về việc làm, giải quyết việc làm
Ở nước ta, quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đang đặt ra hàng loạt vấn đề bức xúc
liên quan đến việc làm và chính sách giải quyết việc làm. Đây là tiền đề quan

trọng để sử dụng có hiệu quả nguồn lực lao động, góp phần tích cực vào sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Xun suốt q trình phát triển đất nước từ năm 1991 đến nay, vấn đề cơ
bản, đổi mới tư duy trong lĩnh vực việc làm là hướng vào phát triển con người,
tạo mở nhiều cơ hội việc làm và tận dụng tối đa nguồn lao động cho phát triển,
coi đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực của phát triển bền vững, góp phần thực
hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội ngay trong q trình phát triển kinh tế. Qua các
giai đoạn, thời kỳ, Đảng ta luôn khẳng định và không ngừng nhấn mạnh nhất
quán quan điểm tạo mọi điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa góp phần giải quyết việc làm cho người lao động, giải phóng sức
lao động, đảm bảo cung cấp nguồn nội lực chất lượng cho phát triển đất nước.
14


Đồng thời, các quan điểm của Đảng cũng từng bước đổi mới và hoàn thiện theo
hướng đi sâu vào mục tiêu việc làm bền vững, việc làm chất lượng, ổn định cho
người dân. Đảng ta cũng chính thức thừa nhận sự tồn tại và tạo điều kiện thuận
lợi hỗ trợ thị trường lao động hình thành và phát triển, có sự liên thông, gắn kết
thị trường trong nước với quốc tế.
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII xác định: “Phương hướng
quan trọng nhất để giải quyết việc làm là thực hiện tốt chiến lược phát triển
kinh tế-xã hội, coi trọng cả phát triển sản xuất và dịch vụ. Kết hợp giữa giải
quyết việc làm tại chỗ với phân bố lại lao động theo vùng lãnh thổ, xây dựng
các khu kinh tế mới, hình thành các cụm kinh tế-kỹ thuật-dịch vụ nhỏ ở nông
thôn, ở các thị trấn, thị tứ, đồng thời mở rộng xuất khẩu lao động. Đa dạng hoá
việc làm và thu nhập để thu hút lao động của mọi thành phần kinh tế. Giải quyết
việc làm là trách nhiệm của mọi ngành, mọi cấp, mọi đơn vị thuộc mọi thành
phần kinh tế, của từng gia đình, từng người, với sự đầu tư của Nhà nước, các
đơn vị kinh tế và nhân dân. Có chương trình đồng bộ giải quyết việc làm. Sớm
ban hành Luật Lao động và các quy chế cụ thể để đảm bảo quyền lợi, trách

nhiệm và nghĩa vụ của người lao động và người sử dụng lao động"
Trong giai đoạn 1996-2000, Đảng tiếp tục khuyến khích mọi thành phần
kinh tế phát triển nhằm tạo thêm việc làm mới, giảm tỉ lệ thất nghiệp. Văn kiện
Đại hội lần thứ VIII của Đảng khẳng định: “Nhà nước tạo mơi trường thuận lợi
khuyến khích các thành phần kinh tế trong và ngoài nước đầu tư phát triển, tạo
ra nhiều chỗ việc làm mới; phát triển các cơ sở dạy nghề và dịch vụ về việc
làm; mở rộng quỹ quốc gia giải quyết việc làm và huy động các nguồn khác để
trợ giúp ban đầu cho người lao động tự tạo việc làm có thu nhập”, "… nhanh
chóng triển khai Chương trình quốc gia giải quyết việc làm, tạo điều kiện cho
mọi người lao động tự tạo, tự tìm việc làm. Mỗi năm thu hút thêm 1,3 -1,4 triệu
lao động làm việc. Giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị xuống dưới 5% và nâng tỷ
lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn lên 75%".
Giai đoạn 2001-2005: Đảng ta xác định rõ các mục tiêu về việc
làm: “Trong 5 năm tới, tập trung tạo việc làm và ổn định việc làm cho khoảng
7,5 triệu người, bình quân trên 1,5 triệu người/năm; phấn đấu đến năm 2005
15


giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị xuống còn khoảng 5,4% và nâng quỹ sử dụng
thời gian lao động ở khu vực nông thôn lên 80%.... Chuyển dịch cơ cấu lao
động theo hướng tăng lao động cho sản xuất công nghiệp, xây dựng từ 16%
năm 2001 lên 20-21% năm 2005, lao động trong các ngành dịch vụ từ 21% lên
22%-23%. Giảm lao động nông, lâm, ngư nghiệp cả về số tuyệt đối và tỷ trọng
từ 63% xuống còn 56-57%”, “Mở rộng thị trường lao động trong nước có sự
kiểm tra, giám sát của Nhà nước, bảo vệ lợi ích của người lao động và người sử
dụng lao động”, “Tạo cơ hội bình đẳng và tiếp cận trực tiếp về đào tạo và việc
làm cho mỗi cơng dân, khuyến khích người lao động học tập, đào tạo và tự kiếm
việc làm…”.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X về phương hướng, nhiệm vụ
phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2006-2010 trong định hướng phát triển về văn

hóa, xã hội tiếp tục khẳng định: “Chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng giảm
tỷ trọng lao động nông, lâm, ngư nghiệp xuống dưới 50% vào năm 2010. Tăng
tỷ trọng lao động công nghiệp, xây dựng và đặc biệt là lao động ở khu vực dịch
vụ trong tổng lao động xã hội. Ưu tiên dành vốn đầu tư của Nhà nước và huy
động vốn của toàn xã hội để giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp. Khuyến
khích người lao động tự tạo việc làm, phát triển nhanh các loại hình doanh
nghiệp để thu hút nhiều lao động. Chú trọng đào tạo nghề, tạo việc làm cho
nông dân, nhất là những nơi đất nông nghiệp bị chuyển đổi do đô thị hóa và
cơng nghiệp hóa”, “tiếp tục hồn chỉnh thể chế thị trường lao động”, “xây
dựng chế độ bảo hiểm thất nghiệp”
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã xác định mục tiêu, nhiệm
vụ phát triển đất nước 5 năm (2011-2015) là: “Giải quyết việc làm cho 8 triệu
lao động. Tỉ trọng lao động nông- lâm- thuỷ sản năm 2015 chiếm 40-41% lao
động xã hội...”; đồng thời chỉ rõ định hướng trong phát triển toàn diện các lĩnh
vực văn hóa, xã hội hài hịa với phát triển kinh tế: “Đẩy mạnh dạy nghề và tạo
việc làm. Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động đưa người lao động Việt
Nam đi làm việc ở nước ngoài. Hỗ trợ học nghề và tạo việc làm cho các đối
tượng chính sách, người nghèo, lao động nơng thơn và vùng đơ thị hóa… Phát
triển mạnh mẽ hệ thống bảo hiểm như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp,
16


…”, “Phát triển thị trường lao động, khuyến khích các hình thức giao dịch việc
làm”.
Văn kiện Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ XII tiếp tục khẳng định lao động,
việc làm và thu nhập cho người dân là trụ cột quan trọng của chính sách xã hội,
từ đó xác định mục tiêu “Đến năm 2020, tỉ lệ lao động nông nghiệp trong tổng
lao động xã hội khoảng 40%. Tỉ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng 65-70%,
trong đó có bằng cấp, chứng chỉ đạt 25%. Tỉ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị
dưới 4%” và định hướng “Phát triển thị trường lao động, bảo đảm đồng

bộ, liên thông, minh bạch và tạo thuận lợi cho việc tự do dịch chuyển lao
động”, “Tăng cường quản lý nhà nước về nguồn nhân lực, gắn kết cung-cầu lao
động. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động, tạo điều kiện hỗ trợ dịch chuyển
lao động và phân bố lao động hợp lý, hiệu quả”, “Thực hiện tốt chính sách việc
làm cơng, chính sách bảo hiểm thất nghiệp, hỗ trợ có thời hạn cho người lao
động mất việc khu vực công. Hỗ trợ phát triển sản xuất, tạo việc làm, học nghề
và đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài.”
Đây là cơ sở chính trị quan trọng để thể chế hóa các quy định về việc làm,
giải quyết việc làm trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
4. Khái quát pháp luật điều chỉnh về giải quyết việc làm cho người lao
động
- Về Nguyên tắc áp dụng pháp luật về giải quyết việc làm cho người lao
động: GQVL cho người lao động là phải dựa trên những nguyên tắc cơ bản sau:
Nguyên tắc bảo đảm quyền tự do việc làm của người lao động; Nguyên tắc cấm
cưỡng bức, ngược đãi người lao động; Nguyên tắc bảo đảm sự bình đẳng trong
lĩnh vực việc làm; Nguyên tắc thực hiện một số ưu đãi đối với một số đối tượng
đặc thù; Nguyên tắc khuyến khích mọi hoạt động tạo ra việc làm và hỗ trợ tạo ra
việc làm; Nguyên tắc bảo vệ người lao động.
- Về Trách nhiệm của các chủ thể trong lĩnh vực việc làm: Trách nhiệm
GQVL cho người lao động, được xác định thuộc về chủ thể: Nhà nước, người sử
dụng lao động, các cơ quan, tổ chức. Tuy nhiên, bản thân người lao động cũng
có trách nhiệm trong việc tìm kiếm và tạo việc làm.
- Về Các biện pháp pháp lý nhằm hỗ trợ và giải quyết việc làm: Các biện
pháp pháp lý nhằm hỗ trợ và GQVL bao gồm: Xây dựng và thực hiện các
17


chương trình về việc làm; Hình thành và sử dụng các loại quỹ về việc làm; Thực
hiện chính sách việc làm công; Phát triển hệ thống các tổ chức DVVL; Dạy nghề
gắn với việc làm; Đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng;

Hợp đồng cá nhân; Các biện pháp khác như: hỗ trợ chuyển dịch việc làm đối với
người lao động ở khu vực nông thôn; hỗ trợ tạo việc làm cho thanh niên; hỗ trợ
phát triển thị trường lao động; hoàn thiện và triển khai chính sách bảo hiềm thất
nghiệp; khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân trong
nước và nước ngoài đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh để tạo việc làm cho
người lao động; ưu đãi đối với ngành, nghề sử dụng lao động có trình độ chuyên
môn kỹ thuật cao hoặc sử dụng nhiều lao động phù hợp với điều kiện phát triển
kinh tế - xã hội; ưu tiên đối với một số đối tượng lao động đặc thù...

18


CHƯƠNG II
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ VIỆC LÀM, GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
VÀ THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH
PHỐ VINH
I. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ VIỆC LÀM, GIẢI QUYẾT VIỆC
LÀM
1. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ VIỆC LÀM
1.1. Chính sách việc làm
Ở Việt Nam hiện nay, trong thời đại công nghệ 4.0, nền kinh tế thị trường
phát triển nhanh và mạnh, hệ quả thất nghiệp là điều không thể tránh khỏi, vấn
đề đặt ra ở đây là phải giải quyết tình trạng thất nghiệp như thế nào. Nhìn từ góc
độ của chính sách việc làm, để hạn chế tình trạng thất nghiệp, một mặt phải tạo
ra chỗ làm mới, mặt khác phải tạo cơ hội, khả năng cho người lao động tự tạo ra
việc làm hoặc gia nhập thị trường lao động, thơng qua chính sách hỗ trợ đào tạo,
đào tạo lại tay nghề, tư vấn, giới thiệu việc làm. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng
phải có chính sách trợ cấp thất nghiệp cho người lao động.
Chính sách việc làm thực chất là một bộ phận trong hệ thống chính sách
chung, có quan hệ và tác động đến việc mở rộng và phát triển việc làm cho lực

lượng lao động của toàn xã hội, như các chính sách: khuyến khích phát triển
những lĩnh vực, những ngành, nghề có khả năng thu hút nhiều lao động, chính
sách tạo việc làm cho những đối tượng đặc biệt (người khuyết tật, đối tượng tệ
nạn xã hội, người hồi hương...); chính sách hợp tác và xuất khẩu lao động đi
nước ngồi.
Chính sách việc làm có vai trị rất quan trọng trong nền kinh tế thể hiện ở
một số mặt dưới đây: i) Chính sách việc làm là một trong những chính sách xã
hội cơ bản của mọi quốc gia nhằm góp phần đảm bảo an sinh, ổn định và phát
triển xã hội; ii) Chính sách việc làm vừa có ý nghĩa về mặt kinh tế, vừa có ý
nghĩa về mặt chính trị xã hội. Hoạch định và thực hiện khơng tốt chính sách việc
làm sẽ dẫn đến những hậu quả, những thiệt hại trực tiếp về kinh tế và cả về
chính trị, xã hội cho Việt Nam; iii) Chính sách việc làm cịn có mối quan hệ biện
chứng với các chính sách khác như chính sách kinh tế và chính sách xã hội, đặc
19


biệt là: chính sách dân số, chính sách giáo dục và đào tạo, chính sách cơ cấu
kinh tế, chính sách cơng nghệ, chính sách bảo hiểm xã hội...
Nếu thực hiện tốt chính sách việc làm thì sẽ có tác động mạnh mẽ đến việc
thúc đẩy nguồn nhân lực được sử dụng hiệu quả, giúp giảm thiểu tình trạng thất
nghiệp, giảm chi phí trợ cấp thất nghiệp. Ngược lại, nếu chưa giải quyết tốt
chính sách việc làm, đặc biệt trong những thời kỳ kinh tế suy thối thì tỉ lệ thất
nghiệp sẽ tăng lên, kéo theo các tệ nạn xã hội có thể tăng lên và nguy cơ đói
nghèo sẽ gia tăng, vấn đề an sinh xã hội. Thực hiện tốt chính sách việc làm có
tác động thúc đẩy sử dụng nguồn nhân lực hiệu quả, tác động tích cực đến giảm
thiểu tình trạng thất nghiệp, giảm chi phí trợ cấp thất nghiệp.
Chính sách việc làm là một bộ phận rất quan trọng của chính sách xã hội
được thể chế hóa bằng luật pháp của Nhà nước nhằm giải quyết, đảm bảo việc
làm cho người lao động, thúc đẩy sự phát triển, công bằng và tiến bộ xã hội.
Dưới đây là một số chính sách việc làm cụ thể: i) Có chính sách phát triển kinh

tế - xã hội nhằm tạo việc làm cho người lao động, xác định mục tiêu giải quyết
việc làm trong chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; bố trí nguồn lực
để thực hiện chính sách về việc làm; ii) Khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia
tạo việc làm và tự tạo việc làm có thu nhập từ mức lương tối thiểu trở lên nhằm
góp phần phát triển kinh tế - xã hội, phát triển thị trường lao động; iii) Có chính
sách hỗ trợ tạo việc làm, phát triển thị trường lao động và bảo hiểm thất nghiệp;
iv) Có chính sách đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia gắn với việc
nâng cao trình độ kỹ năng nghề; v) Có chính sách ưu đãi đối với ngành, nghề sử
dụng lao động có trình độ chun mơn kỹ thuật cao hoặc sử dụng nhiều lao động
phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội; vi) Hỗ trợ người sử dụng lao
động sử dụng nhiều lao động là người khuyết tật, lao động nữ, lao động là người
dân tộc thiểu số.
1.2. Quy định về việc làm, giải quyết việc làm
Việc làm là một trong những vấn đề kinh tế xã hội liên quan mật thiết đến
đời sống của mỗi con người. Đảm bảo cho mọi người lao động đều có cơ hội có
việc làm ổn định, lâu dài, ln là nội dung cơ bản của chiến lược phát triển kinh
tế xã hội đối với mỗi quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Xem xét vấn
20


đề việc làm dưới góc độ pháp luật lao động, có thể thấy việc làm có mối quan hệ
mật thiết với tuyển dụng và quản lý lao động.
Tên của chương II của Bộ luật Lao động năm 2019 “việc làm, tuyển dụng
và quản lý lao động” xuất phát từ mối tương quan giữa việc làm với tuyển dụng
và quản lý lao động, đồng thời có ý nghĩa nhấn mạnh ba vấn đề chính bao gồm:
việc làm, tuyển dụng và quản lý lao động. Với 4 điều từ điều 9 đến điều 12,
chương II quy định những nội dung mang tính nguyên tắc về quyền làm việc của
người lao động, tuyên dụng và trách nhiệm quản lý lao động của người sử dụng
lao động và chính sách của nhà nước về giải quyết việc làm. Cụ thể như sau;
"Điều 9. Việc làm, giải quyết việc làm

1. Việc làm là hoạt động lao động tạo ra thu nhập mà pháp luật không
cấm.
2. Nhà nước, người sử dụng lao động và xã hội có trách nhiệm tham gia
giải quyết việc làm, bảo đảm cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội
có việc làm."
Khái niệm “việc làm” trong bộ luật lao động không chỉ phản ánh nội dung
kinh tế, xã hội của việc làm (hoạt động mang lại thu nhập) mà cịn phản ánh
được tính chất pháp lý của việc làm (hoạt động mà pháp luật khơng cấm). Dưới
góc độ pháp lý, có ba dấu hiệu nhận dạng việc làm gồm: (i) hoạt động lao độn;
(ii) tạo ra thu nhập; (iii) là hợp pháp. Việc làm là một hoạt động lao động, phản
ánh sự tác động của sức lao động và tư liệu sản xuất để tạo ra sản phẩm hoặc
dịch vụ. Tuy nhiên, không thể đồng nhất khái niệm việc làm với lao động bởi
hoạt động lao động chỉ là một trong các dấu hiệu của việc làm. Việc làm là
những cơng việc, hình thức làm việc cấu thành nên hệ thống ngành nghề của nền
kinh tế quốc dân. Như vậy, yêu tố lao động trong khái niệm việc làm khác với
hoạt động lao động thông thường ở chỗ nó phải có tính hệ thống, tính thường
xun, tình nghề nghiệp và được thực hiện trong thời gian tương đối ổn định.
Việc làm phải tạo ra thu nhập là một trong những điểm thể hiện sự khác biệt
giữa việc làm và lao động. Thu nhập có thể hiểu theo nghĩa rộng tức là bao hàm
cả khả năng tạo ra thu nhập mà không chỉ là khoản thu trực tiếp từ hoạt động lao
động đó. Những hoạt động dù tiêu tốn sức lực nhưng khơng nhằm mục đích tạo
ra thu nhập thì khơng phải là việc làm. Việc làm phải là hoạt động hợp pháp,
21


không trái với các chuẩn mực đạo đức xã hội, được xã hội thừa nhận và tơn
trọng với tính chất là phương thức tạo ra thu nhập. Bất cứ hình thức thực hiện
hành vi nào tạo ra thu nhập nhưng khơng hợp pháp (ví dụ như bn bán, vận
chuyển ma túy, trộm cắp, lừa đảo…) đều không thể coi là việc làm. Do đó tùy
theo điều kiện kinh tế xã hội, tập quán, quan niệm về đạo đức của từng quốc gia

mà pháp luật các nước có sự quy định khác nhau trong việc xác định tính hợp
pháp của các hoạt động lao động, từ đó xác định một hoạt động lao động có
được coi là việc làm hay khơng.
1.3. Quyền làm việc của người lao động
Quyền làm việc là một quyền pháp lý căn bản của công dân, được khẳng
định trong hiến pháp năm 2013. Tại khoản 1 điều 35 Hiến pháp năm 2013 quy
định “Cơng dân có quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm
việc.”
Điều 10. Quyền làm việc của người lao động
1. Được tự do lựa chọn việc làm, làm việc cho bất kỳ người sử dụng lao
động nào và ở bất kỳ nơi nào mà pháp luật không cấm.
2. Trực tiếp liên hệ với người sử dụng lao động hoặc thông qua tổ chức
dịch vụ việc làm để tìm kiếm việc làm theo nguyện vọng, khả năng, trình độ
nghề nghiệp và sức khỏe của mình.
Khoản 1 Điều 10 Bộ luật lao động năm 2019 quy định người lao động có
quyền “tự do lựa chọn việc làm” nhằm thể chế hóa quy định trên trong Hiến
pháp, tạo ra sự tương thích giữa bộ luật lao động với tư cách là một góc trong
lĩnh vực lao động với nguyên tắc cơ bản về việc làm được theo trong Luật việc
làm năm 2013. Điều luật ghi nhận về quyền được tự do lựa chọn việc làm, làm
việc cho bất kỳ người sử dụng lao động nào và ở bất kỳ nơi nào mà pháp luật
không cấm. Tuy nhiên, trên thực tế việc đảm bảo quyền này của người lao động
đã và đang gặp phải một số vướng mắc. Cụ thể là, trong nhiều trường hợp chấm
dứt hợp đồng lao động, người lao động được người sử dụng lao động đưa ra yêu
cầu bảo mật thông tin, dữ liệu mà người lao động năm giữ trong q trình làm
việc, kéo theo đó là cam kết trong một khoảng thời gian nhất định không làm
việc cho người sử dụng lao động khác cùng hoạt động và những lĩnh vực tương
tự.
22



1.4. Về tuyển dụng lao động và trách nhiệm quản lý lao động của người
sử dụng lao động
- Về tuyển dụng lao động: Người sử dụng lao động có quyền trực tiếp
hoặc thông qua tổ chức dịch vụ việc làm, doanh nghiệp hoạt động cho thuê lại
lao động để tuyển dụng lao động theo nhu cầu của người sử dụng lao động.
Người lao động khơng phải trả chi phí cho việc tuyển dụng lao động. Song song
với việc quy định về quyền tự do lựa chọn việc làm của người lao động trong bộ
luật lao động năm 2019 là quy định về quyền tự do tuyển dụng lao động của
người sử dụng lao động. Theo đó, người sử dụng lao động có thể tuyển dụng lao
động thơng qua cách thức cơ bản sau: (i) trực tiếp tổ chức tuyển dụng; (ii) thông
qua tổ chức dịch vụ việc làm; (iii) thông qua doanh nghiệp hoạt động cho thuê
lại lao động.
So với bộ luật lao động cũ năm 2012, điều 11 Bộ luật lao động năm 2019
đã bổ sung trách nhiệm của người sử dụng lao động trong việc trả các khoản chi
phí cho việc tuyển dụnglao động (ví dụ như chi phí về thơng báo tuyển dụng, chi
phí tổ chức thi tuyển hoặc xét tuyển, phí dịch vụ việc làm khi tuyển dụng lao
động thông qua tổ chức dịch vụ việc làm…) Những chi phí hợp lý cho việc
tuyển lao động được pháp luật thừa nhận sẽ được hạch toán vào chi phí sản xuất,
kinh doanh của người sử dụng lao động. Mặc dù người sử dụng lao động được
chủ động lựa chọn phương thức tuyển dụng lao động, nhưng để đảm bảo quyền
làm việc của người lao động và tạo thuận lợi cho các cơ quan có thẩm quyền
trong việc kiểm soát tuyển dụng lao động, người sử dụng lao động phải tuân thủ
những thủ tục, trình tự tuyển dụng nhất định như thời gian, cách thức và nội
dung thông báo tuyển dụng lao động, trách nhiệm của người sử dụng lao động
khi nhận hồ sơ đăng ký dự tuyển của người lao động, thời hạn, cách thức thông
báo kết quả tuyển dụng lao động. Việc xác định rõ trách nhiệm của người sử
dụng lao động sẽ góp phần hạn chế tình trạng người sử dụng lao động yêu cầu
người lao động phải đóng phí tuyển dụng, hoặc buộc người lao động thực hiện
hợp đồng lao động để trả nợ cho người sử dụng lao động.


23


- Về trách nhiệm quản lý lao động của người sử dụng lao động: Người sử
có trách nhiệm: Lập, cập nhật, quản lý, sử dụng sổ quản lý lao động bằng bản
giấy hoặc bản điện tử và xuất trình khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền u
cầu. Khai trình việc sử dụng lao động trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày bắt đầu
hoạt động, định kỳ báo cáo tình hình thay đổi về lao động trong quá trình hoạt
động với cơ quan chuyên môn về lao động thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và
thông báo cho cơ quan bảo hiểm xã hội.
Xuất phát từ yêu cầu cần phải nắm thông tin để quản lý lao động (như số
lượng, cơ cấu, chất lượng, độ tuổi, giới tính, trình độ, ngành nghề) Nhà nước đã
ban hành các quy định về quản lý lao động. Điều 12 Bộ luật lao động năm 2019
được xây dựng nhằm mục đích này. Điều luật này đã quy định một số trách
nhiệm của người sử dụng lao động như sau: (i) trách nhiệm lập, cập nhật, quản
lý, sử dụng sổ quản lý lao động; (ii) trách nhiệm thông báo cho cơ quan chuyên
môn về lao động, cơ quan bảo hiểm xã hội về tình hình thay đổi lao động nhằm
tăng cường hơn nữa hiệu quả quản lý nhà nước về lao động cũng như quản lý
việc tham gia bảo hiểm xã hội của người lao động và người sử dụng lao động.
Điểm mới nổi bật trong Bộ luật lao động năm 2019 là việc người sử dụng
lao động có thể lập, cập nhật, quản lý, sử dụng sự quản lý lao động bằng bằng
giấy hoặc bằng điện tử. Trong thời hạn nhất định, kể từ ngày bắt đầu hoạt động
người sử dụng phải lập sổ quản lý lao động tại nơi đặt trụ sở, chi nhánh, văn
phịng đại diện và có quyền lựa chọn hình thức sổ quản lý lao động phù hợp với
nhu cầu quản lý nhưng vẫn phải đảm bảo các thông tin cơ bản về người lao
động. Đồng thời, người sử dụng lao động có trách nhiệm ghi chép, nhập đầy đủ
thông tin về người lao động khi hợp đồng lao động có hiệu lực và cập nhật thơng
tin khi có sự thay đổi vào sổ quản lý lao động.
Có thể thấy, việc tăng cường công tác quản lý lao động theo hướng đơn
giản hóa thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ vào quản lý lao động sẽ giúp

doanh nghiệp lưu trữ thơng tin người lao động một chính xác, lâu dài, tiết kiệm
tài chính, khơng gian hơn so với lưu trữ bằng giấy; đồng thời việc quản lý lao

24


động của các cơ quan có thẩm quyền cũng dễ thực hiện, mang lại hiệu quả cao
hơn.
2. Quy định pháp luật về về giải quyết việc làm
2.1. Trách nhiệm của các bên trong giải quyết việc làm
a. Trách nhiệm của nhà nước trong hỗ trợ phát triển việc làm cho người lao
động
- Nhà nước phải xác định chỉ tiêu tạo việc làm tăng thêm trong kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội 05 năm, hằng năm, tạo điều kiện cần thiết, hỗ trợ tài
chính, cho vay vốn hoặc giảm, miễn thuế và áp dụng các biện pháp khuyến
khích khác để người có khả năng lao động tự giải quyết việc làm, để các tổ chức,
đơn vị và cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế phát triển nhiều nghề mới nhằm
tạo việc làm cho nhiều người lao động. Ngoài ra, nhà nước cịn có nhiều chính
sách ưu đãi về giải quyết việc làm để thu hút và sử dụng lao động là người dân
tộc thiểu số, cho các tổ chức và cá nhân trong và nước ngoài.
- Pháp luật lao động quy định trách nhiệm của nhà nước trong tạo việc làm
và bảo đảm việc làm cho người lao động cụ thể như sau:
+ Chính phủ lập chương trình quỹ quốc gia về việc làm, dự án đầu tư phát
triển kinh tế - xã hội, di dân phát triển vùng kinh tế mới gắn với chương trình
giải quyết việc làm; lập quỹ quốc gia về việc làm từ ngân sách nhà nước và các
nguồn khác, phát triển hệ thống tổ chức dịch vụ việc làm.
+ Chính phủ có chính sách và biện pháp tổ chức dạy nghề, đào tạo lại,
hướng dẫn sản xuất kinh doanh, cho vay vốn với lãi suất thấp từ quỹ quốc gia
giải quyết việc làm; hỗ trợ về tài chính; có chính sách bảo hiểm thất nghiệp, các
chính sách khuyến khích để người lao động tự tạo việc làm; hỗ trợ người sử

dụng lao động sử dụng nhiều lao động nữ, lao động là người khuyết tật, lao động
là người dân tộc ít người để giải quyết việc làm. Khuyến khích, tạo điều kiện
thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài đầu tư phát triển
sản xuất, kinh doanh để tạo việc làm cho người lao động. Hỗ trợ người sử dụng
lao động, người lao động tìm kiếm và mở rộng thị trường lao động ở nước
ngoài.
25


×