Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Quyền và nghĩa vụ của luật sư (Việt Nam) khi tham gia tố tụng Thực trạng và hướng hoàn thiện các qui định của pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (462.36 KB, 13 trang )

HỌC VIỆN TƯ PHÁP
KHOA ĐÀO TẠO LUẬT SƯ

BÀI TIỂU LUẬN KẾT THÚC MƠN HỌC
Mơn: Luật sư và đạo đức nghề Luật sư
Đề tài:
Quyền và nghĩa vụ của Luật sư (Việt Nam) khi tham gia tố tụng - thực trạng và
hướng hoàn thiện các qui định của pháp luật.

Họ và tên: ……………………
Sinh ngày: …………………...
MSHV: ………………………
Lớp : …………………………

……………………., ngày………… tháng …… năm ……


MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT................................................................................................ 2
A. MỞ ĐẦU ............................................................................................................................ 3
B. NỘI DUNG......................................................................................................................... 3
1.

Quyền và nghĩa vụ của Luật sư khi tham gia tố tụng hình sự ............................................. 3
1.1

Về quyền của Luật sư là Người bào chữa .................................................................... 3

-

Quyền của người bào chữa: ......................................................................................... 3



-

Nghĩa vụ của người bào chữa ...................................................................................... 4

Những điểm mới về quyền của người bào chữa theo quy định của Bộ luật TTHS
2015. .................................................................................................................................... 5
1.2 Quyền, nghĩa vụ của Luật sư là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại,
đương sự. ................................................................................................................................ 6
1.3 Thực trạng thực hiện các quyền, nghĩa vụ của Luật sư khi tham gia tố tụng hình sự
và đề xuất hoàn thiện quy định của pháp luật ......................................................................... 7
2.

Quyền và nghĩa vụ của Luật sư khi tham gia hoạt động tố tụng hành chính, tố tụng dân sự
9

C. KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 11
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................................... 12

1


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Bộ luật TTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

Luật TTHC

Luật tố tụng hành chính


Bộ luật TTDS

Bộ luật tố tụng dân sự

2


A.

MỞ ĐẦU
Hoạt động tham gia tố tụng là một trong những hoạt động chính yếu, đóng vai trị
quan trọng trong các hoạt động hành nghề của Luật sư. Hoạt động tham gia tố tụng
của Luật sư giúp cho việc giải quyết các vụ án hình sự, hành chính, dân sự trở nên
khách quan hơn, tạo nên cái nhìn đa chiều trong nhận thức của Hội đồng xét xử.
Để bảo đảm cho vai trò của Luật sư, bên cạnh quy định chung tại Luật Luật sư thì
tại các luật, bộ luật về hình thức như Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân
sự, Luật tố tụng hành chính đã quy định rõ ràng quyền, nghĩa vụ cuả Luật sư khi
tham gia giải quyết từng loại vụ án hình sự, hành chính, dân sự.
Bài tiểu luận này nghiên cứu các quy định của các luật, bộ luật hình thức nêu trên,
thực trạng áp dụng và nghiên cứu đề xuất, kiến nghị sửa đổi, bổ sung các văn bản
hướng dẫn liên ngành và các văn bản hướng dẫn liên quan khác về hoạt động của
luật sư khi tham gia tố tụng. Từ thực tiễn xét xử đề xuất cách thức nhằm thúc đẩy
việc thực hiện các quyền của luật sư trong hoạt động tố tụng diễn ra bình đẳng,
khách quan, toàn diện và phù hợp thực tiễn áp dụng các bộ luật, luật tố tụng.

B.

NỘI DUNG
1. Quyền và nghĩa vụ của Luật sư khi tham gia tố tụng hình sự

Luật sư tham gia tố tụng hình sự với tư cách Người bào chữa cho người bị
buộc tội hoặc Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự.
1.1 Về quyền của Luật sư là Người bào chữa
Căn cứ vào quy định tại Điều 73 Bộ luật TTHS 2015, Luật sư là người bào
chữa có các quyền, nghĩa vụ như sau:
-

Quyền của người bào chữa:

a) Gặp, hỏi người bị buộc tội;
b) Có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can
và nếu người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý thì được
hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can. Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung
của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt,
người bị tạm giữ, bị can;
c) Có mặt trong hoạt động đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói và hoạt
động điều tra khác theo quy định của Bộ luật TTHS 2015;
d) Được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước về thời gian, địa
điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều
tra khác theo quy định của Bộ luật TTHS 2015;
đ) Xem biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình, quyết định
tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa;
3


e) Đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định,
người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; đề nghị thay đổi,
hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế;
g) Đề nghị tiến hành hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật này; đề
nghị triệu tập người làm chứng, người tham gia tố tụng khác, người có thẩm

quyền tiến hành tố tụng;
h) Thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
i) Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên
quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;
k) Đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám
định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản;
l) Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến
việc bào chữa từ khi kết thúc điều tra;
m) Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa;
n) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng;
o) Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án nếu bị cáo là người dưới 18 tuổi,
người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất theo quy định của Bộ luật
TTHS 2015.
-

Nghĩa vụ của người bào chữa

a) Sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình
tiết xác định người bị buộc tội vơ tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự của bị can, bị cáo;
b) Giúp người bị buộc tội về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của họ;
c) Khơng được từ chối bào chữa cho người bị buộc tội mà mình đã đảm nhận
bào chữa nếu khơng vì lý do bất khả kháng hoặc không phải do trở ngại khách
quan;
d) Tôn trọng sự thật; không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người
khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật;
đ) Có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án; trường hợp chỉ định người bào chữa
theo quy định tại khoản 1 Điều 76 của Bộ luật TTHS 2015 thì phải có mặt

theo u cầu của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát;

4


e) Khơng được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết khi thực hiện bào chữa;
khơng được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào mục
đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích cơng cộng, quyền và lợi ích hợp
pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân;
g) Không được tiết lộ thông tin về vụ án, về người bị buộc tội mà mình biết
khi bào chữa, trừ trường hợp người này đồng ý bằng văn bản và không được
sử dụng thơng tin đó vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích
cơng cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
-

Những điểm mới về quyền của người bào chữa theo quy định của Bộ
luật TTHS 2015.

So với Bộ luật tố tụng hình sự 2003 thì quyền của người bào chữa có nhiều
điểm mới:
Thứ nhất, người bào chữa được thông báo trước thời gian, địa điểm hỏi cung,
lấy lời khai. Theo Bộ luật TTHS năm 2003, người bào chữa muốn tham gia
hỏi cung phải đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm
hỏi cung . Nhiều khi Cơ quan điều tra chậm thông báo nên người bào chữa
thường bị động trong việc tham gia hỏi cung, lấy lời khai. Bộ luật TTHS năm
2015 quy định việc thông báo là trách nhiệm của Cơ quan điều tra nên cơ
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng sẽ báo trước về thời gian, địa điểm hỏi
cung, lấy lời khai và thời gian, địa điểm tiến hành các hoạt động điều tra khác
cho người bào chữa.
Thứ hai, người bào chữa được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can khi

tham gia hỏi cung, lấy lời khai. Bộ luật TTHS năm 2015 chỉ hạn chế quyền
hỏi của người bào chữa trong khi Điều tra viên đang tiến hành hỏi cung, lấy
lời khai. Trong trường hợp này, người bào chữa muốn hỏi người bị bắt, bị
tạm giữ, bị can thì phải được sự đồng ý của Điều tra viên. Nhưng sau khi
Điều tra viên đã kết thúc việc hỏi, Bộ luật quy định người bào chữa được đặt
câu hỏi với những người này.
Thứ ba, người bào chữa được quyền đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn
chặn, biện pháp cưỡng chế. Đây là quyền mới được quy định cho Luật sư
được chủ động, linh hoạt và nhanh chóng nghiên cứu các quy định và lập văn
bản kiến nghị đến các cơ quan tiến hành tố tụng.
Thứ tư, người bào chữa được đề nghị tiến hành hoạt động tố tụng, đề nghị
triệu tập người làm chứng, người tham gia tố tụng khác, người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng. Quy định mới này giúp người bào chữa có điều kiện đề
nghị tiến hành các hoạt động tố tụng cần thiết và đề nghị triệu tập người tham
gia tố tụng, kể cả người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đến phiên tòa giúp
cho việc làm sáng tỏ sự thật của vụ án.
5


Thứ năm, người bào chữa được thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật,
yêu cầu. Khác với quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003, người bào chữa
chỉ được thu thập đủ tài liệu, đồ vật, tình tiết có liên quan đến việc bào chữa
từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này
hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo mà khơng có quyền thu thập chứng cứ, Bộ luật TTHS năm 2015 mở
rộng quyền cho người bào chữa được thu thập chứng cứ. Đây là quyền rất
quan trọng giúp người bào chữa có điều kiện phát hiện, tìm kiếm, thu giữ và
đánh giá chứng cứ của vụ án để bảo vệ cho thân chủ.
Thứ sáu, người bào chữa được đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá tài sản.

Thứ bảy, người bào chữa được kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về
chứng cứ, tài liệu, đồ vật có liên quan đến vụ án. Theo Điều 66 của Bộ luật
TTHS năm 2003, việc đánh giá chứng cứ trong vụ án chỉ thuộc về Điều tra
viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và Hội thẩm. Bộ luật TTHS 2015 chẳng
những mở rộng cho người bào chữa có quyền thu thập chứng cứ mà cịn mở
rộng cho người bào chữa có quyền kiểm tra, đánh giá chứng cứ. 1
1.2 Quyền, nghĩa vụ của Luật sư là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của bị hại, đương sự.
Căn cứ vào Điều 84 Bộ luật TTHS 2015, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của bị hại, đương sự có các quyền, nghĩa vụ sau đây:
a) Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
b) Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên
quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;
c) Yêu cầu giám định, định giá tài sản;
d) Có mặt khi cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng lấy lời khai, đối chất,
nhận dạng, nhận biết giọng nói của người mà mình bảo vệ; đọc, ghi chép, sao
chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi của
bị hại và đương sự sau khi kết thúc điều tra;
đ) Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa; xem biên bản phiên tòa;
e) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng;
g) Đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định,
người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật;
PGS.TS Nguyễn Văn Huyên, Những điểm mới về quyền của người bào chữa theo quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự 2015 và việc thực hiện của Luật sư bào chữa , Tạp chí Nghề luật, Học viện Tư pháp, số 3 (2016), tr7-10.
1

6



h) Kháng cáo phần bản án, quyết định của Tòa án có liên quan đến quyền lợi,
nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ là người dưới 18 tuổi, người có nhược
điểm về tâm thần hoặc thể chất.
-

Nghĩa vụ của người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự

a) Sử dụng các biện pháp do pháp luật quy định để góp phần làm rõ sự thật
khách quan của vụ án;
b) Giúp bị hại, đương sự về pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của họ.
Nhìn chung, các quyền, nghĩa vụ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho bị hại, đương sự đều có ở người bào chữa.
1.3 Thực trạng thực hiện các quyền, nghĩa vụ của Luật sư khi tham gia
tố tụng hình sự và đề xuất hồn thiện quy định của pháp luật
Thứ nhất, tại Khoản 1 Điều 79 Bộ luật TTHS 2015 quy định “Cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng phải báo trước một thời gian hợp lý cho người
bào chữa về thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động tố tụng mà họ có quyền
tham gia theo quy định của Bộ luật này”.
Vậy thời gian hợp lý được hiểu là như thế nào? Chính vì quy định mang tính
hình thức như vậy, nên thực tiễn người bào chữa rất ít khi được tham gia các
cuộc hỏi cung, lấy lời khai hoặc các hoạt động điều tra cần thiết khác. Do đó,
cần quy định thời gian cụ thể và nên sửa cụm từ “một thời gian hợp lý” này
bằng thời gian cụ thể: trước 6 giờ hoặc 12 giờ. Theo đó, mọi trường hợp vi
phạm thời gian thông báo mà vẫn tiến hành các hoạt động trên là vi phạm tố
tụng hình sự, trừ các trường hợp đặc biệt như: cần lấy sinh cung; các trường
hợp đặc biệt khác phải lấy lời khai, hỏi cung ngay, nhưng cần có quy định cụ
thể, rõ ràng đó là những trường hợp cụ thể nào vào trong luật.
Thứ hai, Khoản 1 Điều 81 Bộ luật TTHS có quy định: người bào chữa có
quyền thu thập tài liệu, chứng cứ, đồ vật theo quy định tại khoản 2 Điều 88 Bộ

luật TTHS 2015. Trong điều luật có đề cập đến vấn đề “…đề nghị cơ quan, tổ
chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào
chữa”, đây là một quy định rất có ý nghĩa đối với người bào chữa trong việc
thu thập chứng cứ và yêu cầu trả lời các vấn đề quan trọng liên quan đến việc
bào chữa, bảo vệ.
Tuy nhiên, trên thực tiễn việc yêu cầu và đề nghị các cơ quan hữu quan cung
cấp tài liệu, chứng cứ gặp vơ vàn khó khăn, khác hồn tồn với cơ quan và
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng yêu cầu. Chính vì thế, để quy định này
trong luật thực sự có tính khả thi, để việc chứng minh tội phạm hồn tồn
khách quan, tồn diện, nên có sự sửa đổi, bổ sung việc cơ quan, tổ chức, cá
7


nhân trong phạm vi của mình có trách nhiệm trả lời bằng văn bản những yêu
cầu, đề nghị của người bào chữa theo đúng quy định của pháp luật.
Mặt khác, nhiều nội dung quy định trong Bộ luật TTHS năm 2015 về thu thập,
sử dụng chứng cứ của luật sư bào chữa chưa thống nhất, có khi quy định cho
phép luật sư bào chữa thu thập, sừ dụng chứng cứ (bao gồm tất cả các nguồn
chứng cứ nói chung) được ghi nhận trong quyền bào chữa của luật sư, có khi
lại chỉ cho phép luật sư thu thập, sử dụng chứng cứ thơng qua việc: “gặp người
mà mình bào chữa, bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ
án để hỏi, nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án đề nghị cơ
quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện từ liên quan đến
việc bào chữa”. Rõ ràng, vẫn chưa có sự thống nhất về quvền thu thập, sừ dụng
chứng cứ của luật sư bào chữa.
Thứ ba, Điều 201 Bộ luật TTHS 2015 quy định về Khám nghiệm hiện trường,
hiện trường vụ án hình sự là nơi lưu giữ rất nhiều dấu vết, vật chứng liên quan
đến vụ án hình sự. Việc khám nghiệm hiện trường được tiến hành một cách
khách quan, đầy đủ, tồn diện có ý nghĩa rất lớn trong việc giải quyết vụ án
hình sự, tránh được oan, sai, bỏ lọt tội phạm. Theo đó, sự tham gia của người

bào chữa trong các cuộc khám nghiệm hiện trường là hết sức cần thiết, nó sẽ
khách quan hơn và quan trọng nhất chính là việc khi các cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng đánh giá chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến cơng
tác khám nghiệm hiện trường thu giữ được có giá trị pháp lý cao hơn.
Tuy nhiên, Khoản 2 Điều 201 Bộ luật TTHS quy định chỉ dừng lại ở mức “có
thể” là chưa hợp lý, điều đó sẽ dẫn đến thực trạng là khơng có cuộc khám
nghiệm hiện trường nào người bào chữa được tham gia vì sự lựa chọn mang
tính tùy nghi này. Vì vậy nên quy định việc tiến hành khám nghiệm hiện trường
trong trường hợp đã có người bào chữa thì cần thơng báo cho họ để họ tham
gia cuộc khám nghiệm.
Thứ tư, mặc dù Điều 73, 81, 88 Bộ luật TTHS 2015 có quy định về việc người
bào chữa “được tham gia một số hoạt động điều tra khác”, tuy nhiên lại khơng
nói rõ, cụ thể là những hoạt động điều tra nào. Một số hoạt động điều tra như
hỏi cung, lấy lời khai, khám nghiệm hiện trường, đối chất đối với người bị tố
giác, người kiến nghị khởi tố; nhận dạng đối với người bị tố giác, người kiến
nghị khởi tố… có quy định về việc tham gia của người bào chữa trong điều
luật (Điều 80; 82; 183…), song việc quy định đó chỉ dừng ở cụm từ “có thể”
và một số hoạt động điều tra thì hồn tồn khơng đề cập đến việc phải có sự
tham gia của người bào chữa, kể cả chỉ dừng lại ở cụm từ “có thể” cũng khơng
quy định. Một trong những hoạt động điều tra hết sức quan trọng khơng có sự
tham gia của người bào chữa (mặc dù gia đình người bị buộc tội và bị hại có
mời người bào chữa tham gia), đó là: hoạt động khám xét (Điều 193 Bộ luật
8


TTHS; khám nghiệm tử thi tại hiện trường; thực nghiệm điều tra dựng lại hiện
trường giả định…). Vì vậy nên bổ sung người bào chữa tham gia các hoạt động
nêu trên và ràng buộc người bào chữa phải tuân thủ theo sự điều hành của
người chỉ huy thuộc cơ quan có thẩm quyền chủ trì cuộc khám xét, thực
nghiệm điều tra.

Thứ năm, Bộ luật TTHS quy định người bào chữa có quyền thu thập tài liệu,
đồ vật, nhưng lại chưa quy định cụ thể về trình tự, thủ tục, cách thức tiến hành
thu thập chứng cứ của người bào chữa. Do đó, giá trị pháp lý của chứng cứ, tài
liệu, đồ vật do người bào chữa thu thập không được nhìn nhận và đánh giá cao,
thậm chí khơng được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chấp nhận; bởi
vì, luật quy định chứng cứ là những gì có thật và phải được thu thập, bảo quản
theo trình tự luật định.
Thứ sáu, về quyền sao chụp hồ sơ, tài liệu của vụ án ở các giai đoạn tố tụng
của người bào chữa, mặc dù Bộ luật TTHS quy định về vấn đề này nhưng thực
tiễn các cơ quan tiến hành tố tụng đưa ra nhiều lý do để hạn chế người bào
chữa thực hiện quyền này như không cho phép người bào chữa dùng máy ảnh
để sao chụp hồ sơ, tài liệu, hay có u cầu vơ lý như yêu cầu NBC kê khai
những tài liệu cần sao chụp để xem xét, quyết định. Do đó, đề nghị sửa đổi,
quy định cụ thể trình tự, thủ tục và việc bảo đảm thực hiện quyền củaa người
bào chữa về đọc, sao chụp hồ sơ vụ án theo hướng người bào chữa có thể đọc,
ghi chép và sao chụp bút lục lời khai của bị can và toàn bộ tài liệu, kết quà
giám định trong hồ sơ vụ án, các văn bản tố tụng áp dụng biện pháp ngăn chặn
đối với bị can và các văn bản khác mà Cơ quan điểu tra phải đưa ra cho bị can.
Những hành vi cản trở, không đảm bảo thực hiện các quyền nêu trên được coi
là vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng.
2. Quyền và nghĩa vụ của Luật sư khi tham gia hoạt động tố tụng hành
chính, tố tụng dân sự
2.1 Quyền và nghĩa vụ của Luật sư với tư cách người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho đương sự khi tham gia tố tụng hành chính và tố tụng dân
sự có nhiều điểm tương đồng.
Theo quy định tại Điều 61 LTTHC 2015 và Điều 76 BLTTDS 2015 thì
người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự khi tham gia tố tụng hành
chính, tố tụng dân sự đều có các quyền, nghĩa vụ như sau:
-


Tham gia tố tụng từ khi khởi kiện hoặc bất cứ giai đoạn nào trong quá trình
tố tụng;

-

Thu thập tài liệu, chứng cứ và cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án,
nghiên cứu hồ sơ vụ án và được ghi chép, sao chụp những tài liệu cần thiết

9


có trong hồ sơ vụ án để thực hiện việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự, trừ tài liệu, chứng cứ không được công khai theo quy định;
-

Tham gia phiên tòa, phiên họp hoặc trong trường hợp khơng tham gia thì
được gửi văn bản bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự cho Tòa
án xem xét;

-

Thay mặt đương sự yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham
gia tố tụng khác theo quy định;

-

Giúp đương sự về mặt pháp lý liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của họ; thay mặt đương sự nhận giấy tờ, văn bản tố tụng mà Tịa
án tống đạt hoặc thơng báo trong trường hợp được đương sự ủy quyền và
có trách nhiệm chuyển cho đương sự;


-

Tơn trọng Tịa án, chấp hành nghiêm chỉnh nội quy phiên tòa;

-

Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ
cung cấp tài liệu, chứng cứ đó cho mình để giao nộp cho Tịa án;

-

Phải có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án và chấp hành quyết định của
Tịa án trong q trình Tịa án giải quyết vụ án;

-

Đưa ra câu hỏi với người khác về vấn đề liên quan đến vụ án hoặc đề xuất
với Tòa án những vấn đề cần hỏi với người khác;

-

Tranh luận tại phiên tòa, đưa ra lập luận về đánh giá chứng cứ và pháp luật
áp dụng;

-

Quyền, nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.

2.2 Thực trạng và hướng hoàn thiện quy định của pháp luật

Giống như thực trạng thi hành Bộ luật tố tụng hình sự, mặc dù Điều 7 Bộ luật
TTDS 2015 và Điều 93 Luật TTHC 2015 có quy định cơ quan, tổ chức, cá nhân
trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm cung cấp đầy đủ và
đúng thời hạn các tài liệu, chứng cứ mà họ đang lưu giữ, quản lý khi có yêu cầu của
đương sự nhưng lại không quy định nghĩa vụ cung cấp cho người bảo vệ quyền và
hợp pháp của đương sự. Điều này gây khó khăn cho Luật sư khi thực hiện quyền
thu thập tài liệu, chứng cứ của mình.
Trong rất nhiều vụ án, mặc dù đương sự và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự đã mất rất nhiều công sức, thời gian để yêu cầu cơ quan, tổ chức,
cá nhân đang quản lý, lưu giữ tài liệu chứng cứ cung cấp nhưng thường không nhận
được bất cứ phản hồi nào hoặc bị từ chối mà khơng có chính đáng, hoặc khả quan
hơn là cung cấp khơng đầy đủ, khơng chính xác, khơng đúng thời hạn luật định.

10


Như vậy, cần bổ sung quy định cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi nhiệm
vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm cung cấp đầy đủ và đúng thời hạn các tài
liệu, chứng cứ mà họ đang lưu giữ, quản lý khi có yêu cầu của đương sự, người bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Bên cạnh đó cần quy định chế tài đối
với trường hợp chủ thể có thẩm quyền đang lưu giữ tài liệu, chứng cứ nhưng không
cung cấp, cung cấp không đầy đủ hoặc cung cấp không đúng hạn theo yêu cầu của
đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự mà khơng có lý do
chính đáng.
C.

KẾT LUẬN

Về thủ tục tố tụng trong hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, pháp luật đã có
những quy định về quy trình hoạt động điều tra, truy tố, xét xử trong đó có các quy định

cho việc tham gia của Luật sư trong vai trò người bào chữa, bảo vệ cho thân chủ, bảo vệ
cho người có quyền lợi ích bị xâm phạm. Tuy nhiên, quy định vai trò của Luật sư còn
mờ nhạt, chưa cụ thể trong khi các hoạt động trong quá trình tố tụng lại diễn ra hết sức
phức tạp, tinh vi. Để vai trị của Luật sư có thể mang lại hiệu quả trong q trình tố tụng
địi hỏi pháp luật cần có những văn bản giải thích pháp luật rõ ràng và cụ thể hơn, trước
hết là sửa đổi bổ sung những vấn đề đã được nêu trong tiểu luận này.

11


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Luật Luật sư 2006; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư 2012 và
các văn bản hướng dẫn thi hành.

2.

Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

3.

Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

4.

Luật tố tụng hành chính 2015.

5.


Học viện Tư pháp, Giáo trình Luật sư và nghề Luật sư, Nxb. Tư pháp, 2020

6.

Trương Hòa Bình, Sửa đổi Bộ luật Tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu của Hiến pháp
xây dựng nền tư pháp công bằng, nhân đạo, dân chủ, nghiêm minh, trách nhiệm
trước nhân dân. Truyền hình Kiểm sát 30/3/2015.

12



×