Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

2 tiếp cận quản lý chất lượng tổng thể TQM (total quality management) trong quản lý giáo dục nhà trường hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.01 KB, 17 trang )

1

TIẾP CẬN QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG TỔNG THỂ TRONG QUẢN
LÝ GIÁO DỤC NHÀ TRƯỜNG HIỆN NAY
MỞ ĐẦU
Trong xu thế phát triển của thời đại ngày nay, giáo dục và đào tạo có vai
trị đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Giáo dục
nước ta đang phát triển trong bối cảnh tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế đã trở
thành xu thế tất yếu. Cách mạng khoa học công nghệ, thông tin và truyền thông,
kinh tế tri thức ngày càng phát triển mạnh mẽ tạo ra nhiều cơ hội to lớn, đồng
thời cũng đặt ra nhiều thách thức đối với sự nghiệp phát triển GD&ĐT. Ban
chấp hành Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày
04/11/2013 Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo đáp ứng yêu cầu
công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Muốn giáo dục, đào tạo thưcc̣ hiêṇ tốt sứ
mệnh của mình, bên cạnh việc đổi mới toàn diện tất cả các khâu từ quan điểm,
tư tưởng chỉ đạo, đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, ...
thì một trong những vấn đề quan trọng cần phải thực hiện chính là nâng cao chất
lượng quản lý chất lượng tổng thể trong giáo dục, đào tạo. Tiếp cận quản lý chất
lượng tổng thể - TQM (total quality management) trong quản lý giáo dục nhà
trường là một cách đổi mới tư duy quản lý giáo dục, một cách làm khá mới mẻ;
nó khơng có mục đích tự thân mà chỉ là phương tiện, cách thức để đạt mục đích
nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục và là cách quản lý hiệu nghiệm để đạt
chất lượng giáo dục.


2

NỘI DUNG
1. Một số nội dung chính về quản lý chất lượng tổng thể (TQM)
Ngày nay trong sự phát triển đất nước, quản lý nói chung và quản lý giáo


dục nói riêng ln là vấn đề thu hút được sự quan tâm của các nhà lãnh đạo, các
nhà khoa học và các nhà quản lý.
Cũng giống như một hệ thống đảm bảo chất lượng, quản lý chất lượng
tổng thể tập trung vào năm lĩnh vực: sứ mạng và chú trọng đến khách hàng;
cách tiếp cận các hoạt động có hệ thống; việc phát triển mạnh mẽ nguồn nhân
lực; các tư tưởng dài hạn; và sự phục vụ hết mực (Sherr & Lozier, 1991; Lewis
& Smith, 1994). Theo Sherr và Lozier (1991), có năm thành phần chính ảnh
hưởng đến việc cải tiến chất lượng ở đại học: sự trung thực, chia sẻ quan điểm,
kiên nhẫn, hết lòng làm việc, và lý thuyết quản lý chất lượng tổng thể. Trong
năm thành tố trên, chỉ có cái cuối cùng là có thể dạy và học được.
Về mặt lý thuyết, quản lý chất lượng tổng thể địi hỏi có sự tham gia của
tất cả các bộ phận và nhân viên của một tổ chức (Ellis, 1993; 1993a). Tuy nhiên,
dù quản lý chất lượng tổng thể được xem là một hệ thống có hiệu quả trong việc
đảm bảo chất lượng trong lĩnh vực kinh doanh thì chỉ có một số nhỏ các trường
đại học thơng báo là họ suy nghĩ đến khả năng áp dụng quản lý chất lượng tổng
thể trong trường của mình (Aly & Akpovi, 2001). Điều đó cho thấy rằng phần
lớn các trường có vẻ nghi ngờ mức độ hiệu quả của quản lý chất lượng tổng thể
trong lĩnh vực chuyên môn. Đối với những trường nghĩ đến việc áp dụng quản
lý chất lượng tổng thể thì hầu như họ chỉ làm điều này trong các lĩnh vực như
quản lý vì chúng giống như quản lý kinh doanh hay trong công nghiệp hơn (Aly
& Akpovi, 2001).
Việc sử dụng công cụ quản lý chất lượng tổng thể trong nhiều lĩnh vực
khác nhau đã tạo ra sự phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy các hoạt động trong cơ
quan tổ chức đi đúng hướng, ngày càng hoàn thiện và hiệu quả hơn. Quản lý
chất lượng tổng thể là phương pháp quản lý chất lượng tập trung vào mọi công
đoạn, quy đình để nâng cao năng suất và hiệu quả của cơ quan, tổ chức hay


3


doanh nghiệp. Có nhiều quan điểm khác nhau về quản lý chất lượng tổng thể
như: quản lý chất lượng tổng thể là một phương pháp tiếp cận có hệ thống để
thực hành quản lý, địi hỏi phải có những thay đổi trong quá trình tổ chức, có
chiến lược ưu tiên, niềm tin, thái độ và hành vi của cá nhân. Quan điểm khác
cho rằng quản lý chất lượng tổng thể là việc áp dụng một số hoạt động với sức
mạnh tổng hợp. Các yếu tố quan trọng của quản lý chất lượng tổng thể bao gồm:
Chất lượng định hướng vào khách hàng. Cam kết và lãnh đạo việc quản lý phải
đưa lên hàng đầu; Cải tiến liên tục; Phản ứng nhanh; Sự tham gia của nhân viên;
Có văn hóa quản lý chất lượng toàn diện.
Tuy nhiên theo Gilbert Stora và Jean Montaigne, quản lý chất lượng tổng
thể là sự kết hợp giữa 3 từ: - T (Total): Bao gồm tất cả các cơng việc trong tồn
bộ quy trình, quản trị từ việc nhỏ đến việc lớn, mỗi cá nhân trong hệ thống này
đều có vai trị nhất định. Quản lý chất lượng tổng thể chú trọng đến sự cam kết
và tham gia của tất cả các thành viên trong tổ chức để đảm bảo chất lượng công
việc. - Q (Quality): chất lượng quản lý quyết định chất lượng sản phẩm. Chất
lượng được thể hiện qua 3 khía cạnh: hiệu năng, độ tin cậy, an toàn; giá cả hợp
lý (hiệu quả tương xứng với chi phí đầu tư); đáp ứng mong đợi của khách hàng.
3 - M (Management): quản lý với 4 chức năng cơ bản là lập kế hoạch; tổ chức
thực hiện; lãnh đạo, chỉ đạo và kiểm soát, điều khiển quá trình. Quản lý chất
lượng tổng thể chú trọng đến phương pháp quản lý theo quá trình, tất cả các hoạt
động từ đầu vào đến đầu ra đều phải thơng qua tiêu chuẩn hóa chất lượng và quy
trình hóa hoạt động đảm bảo chất lượng. Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau
về quản lý chất lượng tổng thể, nhưng nhìn chung các tác giả đều cho rằng quản
lý chất lượng tổng thể là sự lưu tâm đến chất lượng trong tất cả các hoạt động, là
sự hiểu biết, sự cam kết, hợp tác của mọi thành viên trong tổ chức, nhất là ở cấp
lãnh đạo. Mô hình quản lý chất lượng tổng thể dựa trên phương pháp và công cụ
quản lý chất lượng do E.W. Deming đề xuất và gồm các bước tổng quát sau: Lựa chọn quá trình ưu tiên để phân tích - Phân tích quá trình - Kiểm tra, đánh
giá quá trình - Lập và thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng. Quản lý chất



4

lượng tổng thể dựa trên cách quản lý tập trung vào chất lượng, thông qua việc
thiết lập một hệ thống quản lý chất lượng có thể kiểm sốt mọi khâu của quá
trình thực hiện. Có thể thấy quản lý chất lượng tổng thể có các vai trị cơ bản
như sau: Nâng cao sự hiểu biết: Khi áp dụng quản lý chất lượng tổng thể thì tất
cả các thành viên của tổ chức sẽ có thêm kiến thức về vai trị, vị trí, kỹ năng và
phương pháp sử dụng quản lý chất lượng tổng thể hiệu quả trong các quy trình
hoạt động của tổ chức. Hơn nữa, việc đào tạo và huấn luyện cho mọi thành viên
được tiến hành thường xuyên hơn để nâng cao trình độ, nhận thức cũng như kỹ
năng thực hiện cơng việc. Đảm bảo tính tổ chức: quản lý chất lượng tổng thể sẽ
giúp đặt các nhân viên vào đúng vị trí cơng việc của mình, phân định rõ trách
nhiệm của từng người, từ đó nâng cao tính tổ chức, kỷ luật và ý thức của từng
thành viên. Bên cạnh đó, từ cấp lãnh đạo đến cấp quản lý và toàn bộ nhân viên
sẽ phải cam kết theo đuổi và thực hiện các chương trình, mục tiêu về chất lượng.
Đo lường hiệu quả: Thông qua việc xây dựng kế hoạch thực hiện, thiết lập các
mục tiêu, yêu cầu cụ thể về chất lượng được triển khai thực hiện một cách rõ
ràng, cụ thể và có hệ thống sẽ đảm bảo cho việc đo lường, đánh giá được những
kết quả đạt được, đồng thời có cơ sở để cải tiến, hoàn thiện, nâng cao chất lượng
sản phẩm cũng 4 như tiết kiệm chi phí do các hoạt động khơng chất lượng gây
ra. Bên cạnh đó, quản lý chất lượng tổng thể sẽ tạo cơ hội cho các thành viên
trong nhóm trao đổi ý kiến, chia sẻ, thơng cảm và hình thành lòng tin cậy để đạt
được mục tiêu chung, từ đó tăng cường sự hợp tác, tinh thần đồn kết của mọi
thành viên trong tổ chức.
Mơ hình quản lý chất lượng tổng thể - một mô hình cũng có xuất xứ từ
thương mại và cơng nghiệp nhưng tỏ ra phù hợp hơn với giáo dục đại học. Đặc
trưng của mô hình quản lý chất lượng tổng thể là ở chỗ nó khơng áp đặt một hệ
thống cứng nhắc cho bất kỳ cơ sở đào tạo đại học nào, nó tạo ra một nền “Văn
hố chất lượng” bao trùm lên toàn bộ quá trình đào tạo. Triết lý của Quản lý
chất lượng tổng thể là tất cả mọi người bất kỳ ở cương vị nào, vào bất kỳ thời

điểm nào cũng đều là người quản lý chất lượng của phần việc mình được giao


5

và hồn thành nó một cách tốt nhất, với mục đích tối cao là thoả mãn nhu cầu
của khách hàng.
Yêu cầu cải tiến liên tục
Triết lý quan trọng nhất của Quản lý chất lượng tổng thể là cải tiến không
ngừng, và có thể đạt được do quần chúng và thơng qua quần chúng. Sự cải tiến
liên tục này được thể hiện trong kế hoạch chiến lược của trường đại học bằng
các chu kỳ cải tiến, nâng cao dần theo vòng xốy trơn ốc từ lợi ích trước mắt
đến lợi ích lâu dài, từ trình độ xuất phát ở một thời điểm nhất định vươn không
ngừng tới các trình độ cao hơn.
Quản lý chất lượng tổng thể là một quá trình tự quản lý nhằm giảm lỗi
trong từng chu kỳ/giai đoạn sản xuất. Các thanh tra được thay thế bằng chính
các cơng nhân sản xuất và chính họ là những cán bộ tham gia trong quá trình
Quản lý chất lượng tổng thể làm cho cơng việc sản xuất của họ hồn thiện hơn.
Mặc dầu Quản lý chất lượng tổng thể từ trước tới nay đều được áp dụng trong
quy trình sản xuất công nghiệp nhưng các nguyên tắc tương tự này cũng có thể
đựơc áp dụng trong các ngành dịch vụ như giáo dục. Tuy nhiên để có thể áp
dụng phương pháp này trong các ngành dịch vụ, chúng ta phải có một số điều
chỉnh trong tư duy.
Nhưng làm thế nào để có thể xác định được một sinh viên tốt nghiệp có
bằng cấp đạt chất lượng “khơng mắc lỗi”. Hiện khơng có một bộ chuẩn nào có
thể giúp đo được chính xác tính hiệu quả của quá trình “sản xuất" ra một sinh
viên tốt nghiệp. Thay vào đó, các trường đại học thường nhìn vào các năng lực
mà sinh viên tốt nghiệp đã được đào tạo hơn là vấn đề liệu sinh viên có sử dụng
được các năng lực đó hay có tiềm năng thành cơng trong cơng việc tương lai
hay khơng. Nói cách khác, một sinh viên “hồn hảo” phải được xem xét từ góc

độ những thành tích họ đạt được ngoài những năng lực cơ bản đã được đào tạo.
Đối với một sinh viên tốt nghiệp đại học, vấn đề chất lượng không phải là khái
niệm “sản phẩm không mắc lỗi" mà là mức độ thành đạt của sinh viên trong
cơng việc ngồi các bằng cấp tối thiểu.


6

Tình trạng “khơng mắc lỗi" có thể được gọi là “mức chuẩn trần” (ceiling
standard). Nó chỉ có thể áp dụng cho những vật thể có thể xác định là “hồn
hảo" xét về mặt định lượng, tức là một tình trạng tốt nhất trong một hoàn cảnh
nhất định. Tuy nhiên kinh nghiệm trong giáo dục cho thấy vấn đề dạy và học
không thể áp dụng phương thức này được. Những sinh viên tốt nghiệp đạt chất
lượng cao nhất luôn luôn vượt hơn mức chuẩn trần mà chúng ta có thể đưa ra từ
trước và chúng ta luôn cố gắng để đào tạo những sinh viên tốt nhất. Mặt khác,
chúng ta cũng cần phải đảm bảo rằng tất cả các sinh viên khi ra trường cần phải
có những năng lực tối thiểu và đã qua đào tạo để thực hiện được những nhiệm
vụ nhất định. Do đó chúng ta thường sử dụng một bộ các năng lực tối thiểu, hay
những “chuẩn mực sàn" (floor Standard) để cho chính chúng ta, cho các cơ
quan tuyển dụng và xã hội yên tâm với những sinh viên đó, khi tốt nghiệp họ đã
qua huấn luyện để có thể thực hiện được những nhiệm vụ hay đã được đào tạo
một số năng lực nhất định.
Trong công tác đảm bảo chất lượng trong các ngành dịch vụ như giáo
dục, chúng ta không thể xác định được một sản phẩm “không mắc lỗi’" mà
không làm giảm đi nhiều khả năng có thể đạt được mức độ hồn hảo. Do đó,
quá trình đảm bảo chất lượng nhất thiết phải xuất phát từ một hệ thống đảm bảo
chất lượng mà trong đó có sự chú trọng đến khái niệm Cải tiến chất lượng liên
tục. Khái niệm một sinh viên tốt nghiệp đạt chất lượng “không mắc lỗi’ được
xét theo một cách rất hạn chế - đó là trên phương diện những bằng cấp tối thiểu.
Cải tiến từng bước

Quản lý chất lượng tổng thể được thực hiện bằng một loạt dự án quy mơ
nhỏ có mức độ tăng dần. về tổng thể, quản lý chất lượng tổng thể có quy mơ
rộng, bao quát toàn bộ hoạt động của một trường đại học, song việc thực hiện
nhiệm vụ đó trong thực tế lại có quy mơ hẹp, khả thi, thiết thực và có mức độ
tăng dần. Sự can thiệp mạnh khơng phải là phương sách tốt để tạo sự chuyển
biến lớn trong quản lý chất lượng tổng thể. Các dự án đồ sộ nhiều khi không
phải là con đường tốt nhất vì thiếu kinh phí, và nếu thất bại sẽ dẫn tới sự thờ ơ,


7

bất bình. Các dự án nhỏ sẽ dễ thành công và tạo ra sự tự tin và làm cơ sở cho
các dự án sau lớn hơn.
Cách tiếp cận cải tiến chất lượng theo mức độ tăng dần cho thấy rằng,
việc cải tiến không nhất thiết phải là quy trình tốn kém. Chi phí tự thân nó
khơng tạo ra chất lượng, cịn nếu chi phí có mục tiêu rõ ràng, khả thi thì nó có
tác dụng to lớn.
Hệ thống tổ chức phải hướng tới khách hàng.
Chìa khố của sự thành cơng trong quản lý chất lượng tổng thể là tạo ra
sự gắn bó hữu cơ giữa cung và cầu, giữa các bộ phận trong trường với nhau và
với xã hội.
Trong hệ thống tổ chức của nhà trường vai trò của các cán bộ quản lý cấp
trường là hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ giáo chức, sinh viên, chứ
không phải chỉ là lãnh đạo kiểm tra họ. Trong quản lý chất lượng tổng thể mô
hình cấp bậc trong hệ thống tổ chức quản lý nhà trường phải là mô hình đảo
ngược (xem hình minh hoạ trang sau).
Sự đảo ngược về thứ tự trong hệ thống tổ chức quản lý của trường đại học
theo mô hình quản lý chất lượng tổng thể không làm phương hại tới cơ cấu
quyền lực của trường đại học, cũng không làm giảm sút vai trò lãnh đạo của cán
bộ lãnh đạo trường, khoa. Trong thực tế sự lãnh đạo của các cán bộ quản lý vẫn

giữ vai trò quyết định của quản lý chất lượng tổng thể. Đảo ngược thứ bậc chỉ
nhằm nhấn mạnh mối tương quan trong quá trình đào tạo hướng tới sinh viên
như nhân vật trung tâm.
2. Chất lượng giáo dục nhà trường, quản lý chất lượng giáo dục nhà
trường và quản lý chất lượng tổng thể
Trong quản lý xã hội, nhà trường thường được xem là một dạng cụ thể
của tổ chức. Đó là tổ chức có tính chất tương đối phức tạp, vừa có các quan hệ
hoạt động nghề nghiệp và vừa có quan hệ và hoạt động chính trị - xã hội. Trong
số những tiêu chí quan trọng của nhà trường hiệu quả như: thành tích học tập,
mơi trường hợp tác và tham gia, tính thẩm mỹ của cảnh quan sư phạm và những


8

quan hệ ứng xử, hiệu lực quản lý, kết quả thực hiện chương trình giáo dục, hiệu
suất đào tạo, v.v... thì quản lý chất lượng giáo dục nhà trường là nhân tố bao
trùm và ảnh hưởng sâu xa lên tất cả các vấn đề trong nhà trường.
* Chất lượng giáo dục nhà trường được hiểu là mức độ đạt được mục tiêu
giáo dục và thoả mãn nhu cầu của người học; là kết quả của quá trình giáo dục
được biểu hiện ở mức độ nắm vững kiến thức, hình thành những kỹ năng tương
ứng, những thái độ cần thiết và được đo bằng các chuẩn mực xác định.
Chất lượng giáo dục nhà trường được xác định theo khung tổng quát của
chất lượng giáo dục xét về chức năng gồm:
Chất lượng đầu vào (tương ứng với chức năng khởi đầu): là các điều kiện
đảm bảo chất lượng đối với nhà trường: chương trình, nội dung, giáo viên, cơ sở
vật chất - thiết bị dạy học, tài chính, quản lý và có tính đến chất lượng đầu vào
của học sinh.
Chất lượng của quá trình dạy học - giáo dục: phương pháp dạy học cải
tiến; kỹ thuật dạy học; tương tác sư phạm giữa giáo viên - học sinh; khai thác
tiềm năng học sinh, thiết bị dạy học, hệ thống đánh giá thích hợp, thời lượng….

Chất lượng của kết quả học tập: tiếp thu kiến thức, hình thành kỹ năng,
thái độ và giá trị.
* Quản lý chất lượng giáo dục nhà trường là hoạt động phối hợp nhằm
định hướng và kiểm soát nhà trường về chất lượng.
Định hướng chất lượng giáo dục nhà trường gồm:
Xác định tầm nhìn về chất lượng (vision)
Xác định nhiệm vụ chiến lược (strategy)
Xác định chính sách chất lượng (policy)
Xác định hệ thống mục tiêu chất lượng
Kiểm soát chất lượng giáo dục nhà trường gồm:
Hoạch định chất lượng (quality plan)
Kiểm soát chất lượng (quality control)
Đảm bảo chất lượng (quality assuarance)


9

Cải tiến chất lượng (quality improvement)
Các chức năng quản lý chất lượng giáo dục nhà trường:
Chức năng hoạch định chất lượng (plan)
Chức năng thực hiện chất lượng (do)
Chức năng kiểm soát chất lượng (check)
Chức năng cải tiến chất lượng (action)
* Quản lý chất lượng tổng thể (total quality management -TQM)
A.V. Faygenbaum đưa ra từ những năm 50 của thế kỷ XX khi ông đang
làm việc tại hãng General Electric. Từ đó, quản lý chất lượng tổng thể ln được
các nhà nghiên cứu khoa học quản lý giáo dục bàn đến và từ những năm 90 của
thế kỷ XX trở lại đây, quản lý chất lượng tổng thể đã trở thành tâm điểm chú ý
của các cơ sở giáo dục, vì quản lý chất lượng tổng thể là mô hình quản lý toàn
bộ quá trình giáo dục để đảm bảo chất lượng từ đầu vào, quá trình, đầu ra (kết

quả và khả năng thích ứng về lao động và việc làm).
Quản lý chất lượng tổng thể với phương châm cải tiến liên tục, hướng vào
khách hàng sẽ cho ta chất lượng giáo dục đáp ứng theo yêu cầu của xã hội. Hiện
nay, vấn đề chất lượng dạy học đang được xã hội rất quan tâm, vì vậy việc tiếp
cận quản lý chất lượng tổng thể là hướng lựa chọn phù hợp cho quản lý giáo dục
ở nhà trường trung học phổ thơng. Đã có các đề tài luận án, luận văn nghiên cứu
về quản lý hoạt động dạy học, về phát triển đội ngũ giáo viên, về quản lý chất
lượng trong nhà trường; các tác giả đã đề xuất những giải pháp theo theo các
quan điểm, các tiếp cận khác nhau, trên những địa bàn khác nhau. Tuy nhiên,
vấn đề quản lý chất lượng dạy học ít được chú ý, nhất là mảng đề tài quản lý dạy
học ở trường trung học phổ thông theo tiếp cận quản lý chất lượng tổng thể chưa
được nghiên cứu một cách đầy đủ và hệ thống. Vì vậy, nghiên cứu tiếp cận quản
lý chất lượng tổng thể trong quản lý chất lượng dạy học ở nhà trường trung học
phổ thơng sẽ góp phần hướng đến việc đổi mới cung cách quản lý của nhà
trường. Giải quyết những mâu thuẫn giữa yêu cầu nâng cao chất lượng dạy học
của xã hội và thực tiễn quản lý dạy học còn nhiều bất cập hiện nay, cần phải


10

nghiên cứu các biện pháp quản lý dạy học ở trường trung học phổ thông theo
tiếp cận quản lý chất lượng tổng thể để giúp cho nhà trường thực thi tốt hơn
trong quá trình dạy học, nhằm nâng cao chất lượng dạy học của nhà trường, đây
là một vấn đề mới, mang tính cấp thiết và khả thi.
Quản lý giáo dục có vai trị quan trọng trong việc nâng cao chất lượng
giáo dục. Công tác quản lý giáo dục ở trường trung học phổ thơng trong những
năm qua có những mặt yếu kém, bất cập do nhiều nguyên nhân, trong đó có
nguyên nhân là trình độ quản lý chưa theo kịp với thực tiễn và nhu cầu phát triển
của xã hội; chậm đổi mới tư duy và phương thức quản lý trong nhà trường. Để
đổi mới quản lý dạy học một cách khoa học, cần phải nghiên cứu, tìm kiếm một

phương thức quản lý mới. Phương thức quản lý chất lượng sẽ là giải pháp cơ
bản trong quản lý nhà trường hiện nay. Trong các mô hình quản lý chất lượng đã
được áp dụng thành công trong công nghiệp và thương mại, mô hình quản lý
chất lượng tổng thể (TQM) được cho rằng có thể áp dụng khả thi trong quản lý
chất lượng giáo dục ở trường trung học phổ thông.
3. Vận dụng quản lý chất lượng tổng thể vào quản lý giáo dục ở nhà
trường hiện nay
Chất lượng giáo dục phải đáp ứng yêu cầu của khách hàng, làm thoả mãn
khách hàng và luôn hướng vào khách hàng (khách hàng bên trong là học sinh;
khách hàng bên ngoài là cha mẹ học sinh, cộng đồng, người sử dụng lao động,
xã hội). Chất lượng giáo dục - đào tạo luôn là vấn đề được quan tâm không chỉ
trong phạm vi các cơ sở giáo dục mà còn là sự quan tâm của toàn xã hội. Với
giáo dục, đào tạo - một loại hiện tượng xã hội đặc biệt thì chất lượng chính là
hiệu quả cuối cùng của mọi mục tiêu giáo dục, đào tạo. Quản lý chất lượng giáo
dục, đào tạo là quản lý tổng hợp đối với quá trình giáo dục, đào tạo. Cụ thể hơn
là tìm ra các biện pháp khắc phục kịp thời các nguyên nhân dẫn đến giảm sút
chất lượng giáo dục, đào tạo, hạn chế thấp nhất tỉ lệ người học không đạt tiêu
chuẩn chất lượng đào tạo theo mục tiêu, yêu cầu giáo dục, đào tạo.


11

Vì vậy, có thể hiểu quản lý chất lượng giáo dục là xây dựng và vận hành
một hệ thống quản lý (trên cơ sở các tiêu chuẩn, tiêu chí) nhằm tác động vào các
điều kiện đảm bảo chất lượng trong tất cả các giai đoạn của quá trình giáo dục,
cho tất cả các sản phẩm của cả hệ thống chứ không nhằm vào chất lượng của
từng giai đoạn hay từng sản phẩm đơn lẻ.
Quản lý chất lượng trong giáo dục là một phương thức có cơng cụ chủ yếu
là bộ chuẩn bao gồm các tiêu chuẩn, tiêu chí, chỉ báo và các quy trình thực hiện
các tiêu chuẩn đó. Vì vậy, thực chất quản lý chất lượng bao gồm các hoạt động

sau: Thiết lập (xây dựng chuẩn); Đối chiếu thực trạng so với chuẩn; Xây dựng
các biện pháp nâng thực trạng ngang chuẩn.
Ba hoạt động này được tiến hành đồng thời, liên tục thông qua một hệ
thống quản lý chất lượng. Hệ thống quản lý chất lượng bao gồm ba bộ phận cấu
thành: Danh mục các lĩnh vực cần quản lý (tiêu chuẩn, tiêu chí, chỉ báo); Những
qui trình thực hiện các công việc để đạt các chỉ báo, tiêu chí, tiêu chuẩn (danh
mục các cơng việc và bản hướng dẫn thực hiện các cơng việc); Các tiêu chí đánh
giá mức độ hoàn thành các bước trong qui trình thực hiện các công việc.
Các cấp độ trong quản lý chất lượng bao gồm: Kiểm soát chất lượng
(Quality Control); Đảm bảo chất lượng giáo dục (Quality Assurance); Quản lý
chất lượng tổng thể (Total Quality Management - TQM). Trong đó, mối quan hệ
giữa kiểm soát chất lượng, đảm bảo chất lượng và quản lý chất lượng tổng thể là
rất mềm dẻo. Trong thực tế, các cấp độ chất lượng đan xen, hỗ trợ lẫn nhau
trong một tổ chức, quản lý chất lượng tổng thể là sự tiếp tục của đảm bảo chất
lượng theo chiều sâu, với sự hiện diện của văn hóa chất lượng, đảm bảo chất
lượng là sự mở rộng phạm vi quản lý chất lượng tới mọi thành viên của tổ chức.
Cịn ở nhiều khâu, kiểm sốt chất lượng vẫn cần thiết trong hệ thống đảm bảo
chất lượng.
Quản lý chất lượng tổng thể hướng tới xây dựng một quy trình quản lý
chất lượng giáo dục hợp lý. Cần thiết phải quản lý có hiệu quả tất cả các giai
đoạn của quá trình quản lý, cải tiến liên tục, cải tiến từng bước, phòng ngừa hơn


12

khắc phục, tránh sai sót, làm đúng ngay từ đầu.
Quản lý chất lượng tổng thể đòi hỏi phải xây dựng kế hoạch hành động rõ
ràng: làm gì, làm thế nào, ai làm, khi nào làm, các điều kiện thực hiện, chuẩn
cần đạt được. Do đó cần phải dựa vào: hồn cảnh (yêu cầu, điều kiện, chính
sách); đầu vào (các điều kiện đảm bảo chất lượng nhà trường) để xây dựng kế

hoạch hành động phù hợp.
Quản lý chất lượng tổng thể trong nhà trường là trách nhiệm chung của
mọi thành viên, ai cũng là người tự quản lý nhiệm vụ của bản thân mình nên
việc phân công giao nhiệm vụ, quyền hạn, điều kiện cụ thể cho từng tổ chuyên
môn, từng cá nhân để mỗi người tự xây dựng kế hoạch hành động của mình, tự
giám sát, kiểm tra việc thực hiện của cá nhân, của tổ để phát hiện, điều chỉnh và
giúp đỡ mọi người hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Quản lý chất lượng tổng thể cũng khẳng định: thông tin là huyết mạch của
quản lý nên đảm bảo thông tin quản lý hai chiều thơng suốt, chính xác, kịp thời
xử lý để ra những quyết định bổ sung khi cần thiết ngay trong quá trình thực
hiện là vô cùng quan trọng.
Quản lý chất lượng tổng thể đòi hỏi sự thay đổi văn hoá của tổ chức, được
hiểu là thay đổi tác phong, quan hệ, phương pháp làm việc, quản lý, kể cả việc
xây dựng và phát triển truyền thống, uy tín của tổ chức.
Như vậy, quản lý chất lượng tổng thể khơng chỉ có ý nghĩa là đưa vào
quản lý nhà trường một tư duy quản lý mới, một cung cách mới, một nguyên tắc
mới mà còn là vấn đề thay đổi một nền văn hoá nhà trường (thể hiện trong các
chuẩn mực, hệ thống giá trị, niềm tin, quan hệ, truyền thống….)
Trong nhà trường, quản lý chất lượng tổng thể cho phép phối hợp, hỗ trợ
tích cực các hoạt động quản lý và tự quản lý của các chủ thể quản lý: hiệu
trưởng, giáo viên, học sinh trong việc lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, chỉ đạo,
kiểm tra – đánh giá và điều chỉnh (quy trình PDCA)
Quy trình vận dụng quản lý chất lượng tổng thể vào quản lý nhà trường
Vận dụng quản lý chất lượng tổng thể vào quản lý nhà trường gồm các


13

bước:
Bước 1: Xây dựng kế hoạch (plan)

Bước 2: Thực hiện kế hoạch (do)
Bước 3: Kiểm tra - đánh giá (check)
Bước 4: Sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm, tác động cải tiến (action)
Để thực hiện tốt quy trình trên đòi hỏi nhà trường phải xây dựng văn hoá
chất lượng nhà trường. Văn hoá chất lượng nhà trường là tổ hợp các niềm tin,
giá trị được mọi người trong trường thừa nhận,cùng chia sẻ, hợp tác, cùng thực
hiện mục đích chất lượng; là quá trình đổi mới về phong cách, phương pháp làm
việc của CBQL, giáo viên, học sinh và cách quản lý của họ. Muốn vậy phải: xây
dựng môi trường sư phạm, nền nếp dạy học, sinh hoạt trong trường; mọi người
biết cách ứng xử, gần gũi, chia sẻ, thông cảm, giúp đỡ lẫn nhau, tự giác, hoàn
thành nhiệm vụ; phát huy cơ chế dân chủ trong nhà trường, mọi người đều biết,
được bàn, cùng làm, cùng kiểm tra và tự kiểm tra hướng tới chất lượng giáo dục
nhà trường.
Các giải pháp điều kiện để đổi mới quản lý nhà trường theo quản lý chất
lượng tổng thể
Quản lý chất lượng giáo dục nhà trường theo theo quản lý chất lượng tổng
thể đòi hỏi mọi thành viên trong trường đồng thuận, quyết tâm thực hiện kế
hoạch của cá nhân, của tổ chuyên môn, của trường hướng vào chất lượng học
sinh, phục vụ đắc lực nhu cầu lao động cho xã hội. Chất lượng giáo dục phụ
thuộc vào 4 yếu tố, đó là: Đội ngũ, cơ sở vật chất, đầu vào và cơng tác quản lý;
trong đó cơng tác quản lý giữ vai trò quan trọng vì trong điều kiện đội ngũ, cơ
sở vật chất, đầu vào như nhau, nơi đâu quản lý tốt thì nơi đó có chất lượng tốt
hơn. Vì vậy, đổi mới quản lý giáo dục phải bắt đầu từ các cơ sở giáo dục.
Thực hiện cải tiến từng bước vững chắc, cải tiến liên tục, kế thừa các mặt
mạnh, khắc phục từng bước các yếu kém. Cải tiến phải đảm bảo vừa sức và đảm
bảo thành công quản lý chất lượng giáo dục nhà trường.
Quản lý chất lượng giáo dục theo theo quản lý chất lượng tổng thể đòi hỏi


14


phải có kế hoạch rõ ràng: làm gì, làm như thế nào, ai làm, khi nào làm, các điều
kiện thực hiện, chuẩn cần đạt được. Phân công trách nhiệm rõ ràng: đặt con
người vào đúng vai trò và khả năng của họ, đồng thời xác định rõ ràng chức
trách, bổn phận, quyền hạn của họ trong nhà trường sao cho đem lại chất lượng
và hiệu quả giáo dục tốt vì lợi ích, nhu cầu của học sinh, của cha mẹ học sinh.
Phải tạo lập mạng lưới thông tin hai chiều thông suốt từ hiệu trưởng đến
giáo viên, lớp học sinh, cha mẹ học sinh và ngược lại một cách thường xuyên và
kịp thời giúp người quản lý ra các quyết định điều chỉnh kịp thời trong qúa trình
thực hiện kế hoạch, tạo ra sự gắn kết, thống nhất trong nhà trường.
Vận dụng theo quản lý chất lượng tổng thể vào quản lý nhà trường cần có
sự bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng quản lý, tổ chức lao động một cách khoa học,
tạo ra những thay đổi nhận thức về chất lượng, văn hoá chất lượng của nhà
trường, mọi hoạt động đều hướng tới nâng cao chất lượng giáo dục nhà trường.
Tạo ra một môi trường và cung cách làm việc cộng tác, học hỏi và chia sẻ
kinh nghiệm giữa các đồng nghiệp hướng vào nâng cao chất lượng các hoạt
động sư phạm nhằm đem đến thường xuyên những giá trị gia tăng giúp cho
người học phát triển.
Để quản lý nhà trường theo theo quản lý chất lượng tổng thể, người cán
bộ quản lý cần phải là người có văn hố quản lý hội đủ ba nhân tố: tầm nhìn
quản lý, kỹ năng quản lý, và phong cách quản lý.
Thực hiện tốt công tác xây dựng kế hoạch chỉ đạo của nhà trường, của các
tổ chun mơn, của đồn thể, các bộ phận theo năm học, tháng, tuần. Kế hoạch
của nhà trường có vị trí hết sức quan trọng, nó được coi như là một bộ xương
sống, nếu một bản kế hoạch khoa học, có tính khả thi thì sẽ thúc đẩy mọi phong
trào nói chung và nâng cao được chất lượng giáo dục và ngược lại. Do dó người
hiệu trưởng phải xây dựng kế hoạch một cách bài bản, khoa học, sát với tình
hình thực tế của đơn vị, các chỉ tiêu phải phù hợp và có tính khả thi cao. Kế
hoạch xây dựng phải được sự tham gia đóng góp ý kiến, sự thống nhất cao của
các đồng chí trong ban giám hiệu và các cán bộ chủ chốt của nhà trường cũng



15

như các thành viên để phát huy trí tuệ tập thể, coi đây là nghị quyết để mọi
người ai cũng có trách nhiệm tham gia, sau đó mới triển khai và thực hiện thì
mới có hiệu quả cao. Xây dựng kế hoạch của tổ khối chuyên môn và các bộ
phận công tác phải bám sát theo định hướng chỉ đạo của kế hoạch nhà trường.
Nội dung kế hoạch tập trung vào những nhiệm vụ cụ thể trọng tâm của tổ khối.
Các chỉ tiêu, biện pháp sát thực tế của trường, hướng vào đối tượng học sinh để
tổ chức các hoạt động tập thể và phân loại đối tượng học sinh nhằm nâng cao
hiệu quả giáo dục học sinh. Tất cả các loại hồ sơ, kế hoạch của nhà trường được
chỉ đạo thống nhất, đảm bảo đồng bộ về hình thức, đầy đủ về nội dung, cụ thể
giải pháp thực hiện và các chỉ tiêu phấn đấu trong năm học.
Kinh tế phát triển, xã hội ngày một đi lên đặc biệt là trong bối cảnh nền
kinh tế ngày càng mở cửa, sự giao thoa nhội nhập là thiết yếu thì xã hội ngày
càng quan tâm hơn tới giáo dục đào tạo. Bởi vì suy cho cùng thì để một người
trở nên có ích thì chí ít con người đó phải được đào tạo. Ngày nay chúng ta đang
sống trong một nền kinh tế tri thức với sự phát triển mạnh mẽ của các phương
tiện truyền thông, và giá trị mà chất xám mang lại là rất lớn. Do vậy, giáo dục
đào tạo đóng vai trị vơ cùng quan trọng đối với sự phát triển của một quốc gia.
Tuy nhiên, làm thế nào để giáo dục nước nhà có chất lượng cao, có khả năng
cạnh tranh cao so với khu vực cũng như trên thế giới thì lại khơng hề dễ dàng.
Có rất nhiều công cụ để nâng cao chất lượng đào tạo, có nhiều trường đại học ở
nước ta hiện nay đã áp dụng hệ thống ISO 9000. Tuy nhiên việc áp dụng hệ
thống này không phải lúc nào cũng đạt hiệu quả. Bởi vậy, có thể tiếp cận quản lý
chất lượng tổng thể (TQM) để cải thiện hệ thống và nâng cao chất lượng quản lý
giáo dục hiện nay.
KẾT LUẬN
Nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường là một việc làm cần thiết,

mang tính chiến lược lâu dài, tác động trực tiếp đến chất lượng giáo dục toàn
diện của ngành giáo dục. Đổi mới công tác quản lý giáo dục nhà trường phổ
thông là từng bước thực hiện mục tiêu giáo dục của Đảng về chuẩn hóa, hiện đại


16

hóa trong giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu về sự nghiệp CNH- HĐH và hội
nhập quốc tế.
Nói đến giáo dục, vấn đề mấu chốt, thường xuyên nhất đó là chú trọng
việc nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục. Chất lượng giáo dục, chất lượng
dạy học là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình giáo dục cũng như quá trình dạy học
của nhà trường. Việc nâng cao chất lượng giáo dục và chất lượng dạy học luôn
là vấn đề cốt lõi của ngành giáo dục và của các nhà trường.
Quản lý nhà trường trong bối cảnh hiện nay chúng ta cần tổng kết được
các mô hình này. Mặt khác, cần chú ý rằng: Quản trị hiệu quả nhà trường và
kiến tạo nhà trường hiệu quả chỉ thực hiện được khi có sự điều hành giáo dục vĩ
mơ một mặt đảm bảo được tính kỷ cương, ngun tắc của các yêu cầu đối với
quản lý nhà nước về phát triển và tăng cường sự tự chủ cho các nhà trường; sự
thúc đẩy để cho nhà giáo phát huy năng lực sáng tạo, sự khai thơng để có một
nền giáo dục mở tiến tới được xã hội học tập và xây dựng văn hóa chất lượng
trong các cấp điều hành giáo dục.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lã Văn Bạt, 2004. Bài giảng môn Quản lý chất lượng. Trường Đại khoa
Bách khoa Hà Nội.
2. Nguyễn Hữu Châu, 2005. Cơ sở lý luận và thực tiễn về chất lượng giáo
dục. Đề tài nghiên cứu cấp Bộ, B2004-CTGD-01, Hà Nội.
3. Đinh Sỹ Chương, 1998. ISO 9000. Hà Nội: Nxb Xây dựng.
4. Trần Khánh Đức, 2004. Quản lý và kiểm định chất lượng đào tạo nhân
lực theo ISO&TQM. Hà Nội: Nxb Đại học Quốc Gia Hà Nội.

5. Lê Hiếu Học, 2007. Bài giảng quản lý chất lượng. Trường Đại khoa
Bách khoa Hà Nội.
6. Phan Văn Kha , 2004. Nghiên cứu mô hình quản lý chất lượng đào tạo
đại học ở Việt Nam. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Hà Nội.
7. Phạm Thanh Nghị, 2000. Quản lý chất lượng giáo dục đại học. Hà Nội:
Nxb Đại học Quốc Gia Hà Nội.


17

8. Nguyễn Đình Phan, 2005. Quản lý chất lượng trong các tổ chức. Hà
Nội: Nxb Giáo dục.
9. Nguyễn Văn Thanh, 2004. Bài giảng chuyên về Marketing dịch vụ.
Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội.
10. Lưu Thanh Tâm, 2003. Quản trị chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế.
Hồ Chí Minh: Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
11. Lê Đức Ngọc, Lê Thị Linh Giang (2014), Mô hình quản lý chất lượng
trường học trong bối cảnh đối mới giáo dục.
12. Bộ Giáo dục và Đào tạo và Ngân hàng phát triển châu Á (2013), Một
số vấn đề lí luận và thực tiễn về lãnh đạo và quản lí giáo dục trong thời kỳ đổi
mới.



×