Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Sáng kiến kinh nghiêm tập làm văn Rèn kĩ năng nói trong phân môn tập làm văn lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.79 KB, 24 trang )

Một số biện pháp rèn kỹ năng nói trong mơn tập làm văn cho học sinh lớp 3.
PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
1. Nhiệm vụ của môn tiếng Việt trong trường học.
Từ khi loài người xuất hiện trên trái đất đã không ngừng nhận thức thế
giới xung quanh . Nhờ đó lồi người dần dần phát triển và nắm vững nhiều quy
luật của các sự vật, hiện tượng khách quan, tích luỹ được tri thức, kinh nghiệm,
thành tựu văn hố. Sự tích lũy đó đều được ghi lại bằng chữ viết. “Ngôn ngữ là
phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của lồi người” (Lê Nin), "Ngơn ngữ là
hiện thực trực tiếp của tư tưởng” (Mác) thiếu ngôn ngữ con người không thể
tham gia vào cuộc sống xã hội hiện đại, vào sản xuất và sự phát triển của văn
hóa nghệ thuật... Chức năng quan trọng của ngơn ngữ đã quy định sự cần thiết
của việc nghiên cứu sâu sắc tiếng mẹ đẻ trong nhà trường.
Tiếng mẹ đẻ đóng vai trị to lớn trong việc hình thành những phẩm chất
quan trọng nhất của con người và trong việc thực hiện những nhiệm vụ trong hệ
thống giáo dục quốc dân. Nắm ngơn ngữ và lời nói là điều kiện thiết yếu của
việc hình thành tính tích cực xã hội của nhân cách. Khơng có một khoa học nào
mà con người nghiên cứu trong tương lai, không một phạm vi hoạt động xã hội
nào lại khơng địi hỏi một sự hiểu biết sâu sắc về tiếng mẹ đẻ. Chính vì vậy,
trong hệ thống giáo dục Việt Nam, bậc tiểu học - một bậc học cơ bản, nền tảngtiếng mẹ đẻ là môn học trung tâm.
Đặc trưng cơ bản của tiếng mẹ đẻ với tư cách là một môn học ởtrường
tiểu học là ở chỗ nó vừa là đối tượng nghiên cứu vừa là công cụ để học tập tất cả
các môn học khác.
Tiếng Việt thể hiện rõ là một môn học chính của trường tiểu học nước ta. .
Mục đích của dạy học môn tiếng Việt ở trường tiểu học là:
- Hình thành và phát triển cho học sinh các kỹ năng sử dụng tiếng Việt:
nghe, nói, đọc, viết để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của
lứa tuổi. Thông qua việc dạy và học tiếng Việt, góp phần rèn luyện các thao tác
tư duy cho học sinh.Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giảng về xã hội,
tự nhiên và con người, về văn hoá, văn học Việt Nam và nước ngoài.
- Bồi dưỡng cho Học sinh tình u tiếng Việt và hình thành thói quen giữ


gìn sự trong sáng, giàu đẹp của tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con
người Việt Nam XHCN.
Mơn tiếng Việt rèn luyện cho học sinh tiếu học những kĩ năng cần thiết là
điều kiện và là phương tiện học tập của học sinh. Nói một cách khác, trẻ em
muốn nắm kĩ năng học tập trước hết cần nghiên cứu tiếng mẹ đẻ là chìa khố
của nhận thức, của học vấn của sự phát triển trí tuệ đúng đắn.


Một số biện pháp rèn kỹ năng nói trong mơn tập làm văn cho học sinh lớp 3.
Sở dĩ tiếng mẹ đẻ giữ vai trị đặc biệt giữa các mơn học khác trong nhà
trường tiểu học là vì một mặt do ý nghĩa của những kiến thức phổ thông mà môn
học này đưa lại cho học sinh: mặt khác những kĩ năng, kĩ xảo mà nó hình thành
trong giờ học tiếng mẹ đẻ là những kỹ năng cằn thiết trong cuộc sống của học
sinh, không phụ thuộc vào nghe nghiệp tương lai của các em. Với vai trò và
chức năng như vậy, môn tiếng Việt trong trường tiểu học được coi trọng và
giành được vị trí ưu tiên xứng đáng.
2. Vai trị, nhiệm vụ của phân mơn Tập làm văn trong dạy học tiếng
Việt
Mơn tiếng Việt có rất nhiều phân mơn như: luyện từ và câu, tập đọc tập
viết, chính tả, tập làm văn, kể chuyện. Trong đó tập làm văn là mơn học có tính
chất tồng hợp, kiến thức cơ sở liên quan đến nhiều ngành khoa học. Môn tập làm
văn giúp học sinh ý thức được một câu văn khi chuyển đến người đọc hay người
nghe đều chứa đựng nội dung ý nghĩa hoặc thông tin cần thiết. Tập làm văn có
nhiệm vụ chủ yếu là giúp học sinh rèn luyện kĩ năng sản sinh ngơn bản nói và
viết. Khơng học tốt tập làm văn, khả năng nói và viết ngôn bản của học sinh sẽ
bị hạn chế. Phần tập làm văn trong chương trình tiếng Việt mới được xây dựng
gồm 2 mạch: Mạch dạy tập làm văn nói và mạch dạy tập làm văn viết.
Đối với lớp 3, chương trình tiếng Việt đặt ra nhiệm vụ cho phân môn tập
làm văn rèn cả 4 kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết. Trong giờ tập làm văn, học sinh
được cung cấp kiến thức về cách làm bài và làm các bài luyện tập (nói, viết),

xây dựng các loại văn bản và các bộ phận cấu thành văn bản. Bên cạnh đó, học
sinh cịn tập kể lại những mẩu chuyện được nghe thầy, cơ kể trên lớp.
Nói:
- Biết dùng lời nói phù hợp với hồn cảnh giao tiếp trong sinh hoạt hàng
ngày ở gia đình, trong các cuộc họp Đội, họp lớp và các hình thức sinh hoạt
khác ở nhà trường.
- Biết giới thiệu các thành viên, các hoạt động của tổ, của lớp ; biết kể lại
một câu chuyện đã nghe, đã đọc. Nghe hiểu nội dung lời nói ý kiến thảo luận
trong các buổi sinh hoạt. Nghe - hiểu và kể lại được nội dung các mẩu chuyện
ngắn, biết nhận xét về nhân vật trong các câu chuyện.
Viết:
- Biết viết đơn, viết tờ khai theo mẫu, viết một bức thư ngắn để báo tin
tức, để hỏi thăm người thân, tập trình bày phong bì thư hoặc kể lại một việc đã
làm. biết kể lại nội dung một bức tranh đã xem, một văn bản đã đọc.
- Trau dồi thái độ ứng xử có văn hố, tinh thần trách nhiệm trong cơng
việc. Bồi dưỡng những tình cảm lành mạnh, tốt đẹp qua nội dung bài dạy.


Một số biện pháp rèn kỹ năng nói trong mơn tập làm văn cho học sinh lớp 3.
3. Nội dung dạy học và các hình thức luyện tập của phân môn Tập làm
văn.
a. Nội dung dạy học:
- Trang bị cho học sinh một số hiểu biết và kỹ năng phục vụ học tập, đời
sống hàng ngày như: điền vào các tờ giấy in sẵn, viết thư, làm đơn, tổ chức họp
phát biểu trong cuộc họp, giới thiệu hoạt động của tổ, lớp, trường, ghi chép sổ
tay…
- Tiếp tục rèn luyện kỹ năng kể chuyện, miêu tả: kể về một sự việc đơn
giản, tả sơ lược về người, vật xung quanh theo gợi ý bằng tranh, bằng câu hỏi.
- Rèn luyện kĩ năng nghe thông qua các bài tập nghe - kể và các hoạt động
trên lớp.

b. Các kiểu bài tập:
- Bài tập nghe: Nghe và kể lại một mẩu chuyện ngắn, nghe và nói lại một
mẩu tin.
- Bài tập nói:
+ Tổ chức, điều khiển cuộc họp, phát biểu trong cuộc họp.
+ Kể hoặc tả miệng về người thân, gia đình, trường, lớp, quê hương, lễ
hội, hoạt động thể thao văn nghệ.
- Bài tập viết:
+ Điền vào giấy tờ in sẵn
+ Viết một số giấy tờ theo mẫu.
+ Viết thư.
+ Ghi chép sổ tay.
+ Kể hoặc tả ngắn về người thân, gia đình, trường lớp, quê hương, lễ hội,
hoạt động thể thao – văn nghệ ,về môi trường..
4. Thực trạng dạy học phân môn Tập làm văn ở Tiểu học
Nhằm thực hiện mục tiêu “hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng
sử dụng tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết), để học tập và giao tiếp trong các môi
trường hoạt động của lứa tuổi", sách giáo khoa Tiếng Việt 3 nói chung và phân
mơn lập làm văn nói riêng tiếp tục lấy nguyên tắc dạy giao tiếp làm định hướng
cơ bản. Quan điểm dạy giao tiếp được thể 'hiện trên cả 2 phương diện: nội dung
và phương pháp dạy học.
a. Những thuận lợi:
- Nhìn chung học sinh lớp 3 về cơ bản đã được rèn luyện kĩ năng tập làm
văn nói, giao tiếp thơng qua các tình huống cụ thể nhưng đòi hỏi ở học sinh kĩ
năng cao hơn.
- Cấu trúc nội dung và chương trình của phân mơn tiếng Việt hay có nhiều


Một số biện pháp rèn kỹ năng nói trong mơn tập làm văn cho học sinh lớp 3.
thuận lợi cho dạy tập làm văn theo định hướng phát triển kĩ năng giao tiếp. Học

sinh được tăng cường rèn luyện kĩ năng nói thơng qua hình thức nghe - kể, tăng
cường các hình thức sinh hoạt tập thể tự nhiên nhiên họp nhóm họp tổ… rất gần
gũi với các em, giúp các em rèn luyện được tính tự tin trước đám đơng.
- Việc hình thành kĩ năng dạy tập làm văn nói cho giáo viên đã được chú
trọng thơng qua các hội thi giáo viên dạy giỏi các cấp, giúp giáo viên được cọ
sát, có cơ hội trau dồi kinh nghiệm với đồng nghiệp.
b. Những khó khăn.
- Việc áp dụng chương trình thay sách giáo khoa cho học sinh lớp 3 mới
được áp dụng một vài năm nên nhận thức của người dạy, người học và của cha
mẹ học sinh chưa thấy hết được vị trí, vai trị tầm quan trọng và sự tác động qua
lại của các môn học.
- Trong một thời gian khá dài việc chú trọng rèn luyện kĩ năng giao tiếp
cho học sinh thông qua môn tập làm văn đã bị xem nhẹ, những giáo viên chưa
chú trọng phát triển vốn từ và cách diễn đạt cho học sinh thông qua giờ tập làm
văn miệng mà mới chỉ dừng lại ở việc giúp học sinh có được một bài viết hồn
chỉnh.
- Mặt khác, mơn tập làm văn địi hỏi người giáo viên phải có một vốn từ
và cách diễn đạt phong phú, biết cách gợi mở để từng học sinh có thể bộc lộ
khiếu thẩm mỹ, khả năng rung động trước cái hay, cái đẹp của xung quanh thơng
qua mơn tập làm văn. Vì vậy một số giáo viên có xu hướng tâm lý là ngại dạy
tập làm văn đặc biệt là tập làm văn miệng, chỉ cốt đưa ra bài mẫu, câu mẫu để từ
đó học sinh có thể hồn thành bài làm của mình. Xuất phát từ những lý do trên,
cộng thêm với điều kiện chủ quan là tơi đã có một số năm tìm tòi tham khảo
một số phương pháp dạy tập làm văn cho học sinh nên trong luận văn này tôi
chọn nghiên cứu đề tài: “Một số biện pháp rèn kỹ năng nói trong phân mơn
tập làm văn cho học sinh lớp 3.
II. Mục đích nghiên cứu
Việc dạy cho học sinh nắm được cách nghe, kể lại được nội dung câu
chuyện và kể hay nói, viết về một chủ đề có hiệu quả trong phân môn Tập làm
văn ở lớp 3 là rất quan trọng. Để dạy tốt vấn đề này cần giúp học sinh rèn luyện

các kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết một cách linh hoạt .
Giúp học sinh mạnh dạn, tự tin và ham thích học văn. Vậy mục đích
nghiên cứu trong đề tài này tập trung vào các nội dung chủ yếu sau:
- Tìm hiểu các bài tập về nghe, kể lại chuyện; Kể hay nói, viết về một chủ
đề có trong chương trình tập làm văn lớp 3.
- Thực trạng việc dạy của giáo viên và việc học của hoc sinh về phân môn


Một số biện pháp rèn kỹ năng nói trong mơn tập làm văn cho học sinh lớp 3.
Tập làm văn lớp 3 ở trường tiểu học hiện nay.
- Nghiên cứu tìm ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giờ học tập
làm văn ở lớp 3 với dạng bai: Nghe- kể lại chuyện; Kể hay nói, viết về một chủ
đề.
III. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu sách giáo khoa, sách giáo viên, vở bài tập của môn Tiếng
việt lớp 3 để tìm hiểu nội dung, các dạng bài tập về phân môn Tập làm văn lớp 3
ở trường tiểu học hiện nay.
- Tìm hiểu thực trạng dạy và học phân môn tập làm văn lớp 3 trong
trường tiểu học, những khó khăn vướng mắc của giáo viên và học sinh.
- Nghiên cứu và tham khảo các sách nâng cao, các tài liệu có liên quan
như: Tạp chí Thế giới trong ta, các chuyên đề về môn Tiếng việt ở tiểu học
- Tham khảo ý kiến đồng nghiệp và những người có tâm huyết với sự
nghiệp trồng người.
IV. Đối tượng và thời gian nghiên cứu.
1. Đối tượng: Học sinh lớp 3
2. Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 09 - 2021 .
- Thời gian hoàn thành: Cuối tháng 4 - 2022
V. Phương pháp nghiên cứu.
Trong qua trình nghiên cứu, tơi đã áp dụng một số phương pháp sau:
1 - Phương pháp nghiên cứu tài liệu.

2 - Phương pháp phân tích, tổng hợp.
3 - Phương pháp đàm thoại.
4 - Phương pháp trực quan.
5 - Phương pháp luyện tập, thực hành
6 - Phương pháp trao đổi, tranh luận.


Một số biện pháp rèn kỹ năng nói trong mơn tập làm văn cho học sinh lớp 3.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÍ LUẬN
1. Cơ sở lý luận:
a. Cơ sở triết học Mác- Lê nin
Triết học Mác- Lê nin là cơ sở quyết định phương hướng của phương
pháp dạy học tiếng Việt. Nó giúp chúng ta hiểu được đối tượng của khoa học
ngôn ngữ một cách sâu sắc trang bị cho chúng ta phương pháp nghiên cứu đúng
đắn. Sau đây chúng ta xem xét một vài luận điểm của chủ nghĩa Mác- Lê nin về
ngơn ngữ, q trình nhận thức có ảnh hưởng quan trọng, trực tiếp đối với
phương pháp dạy tiếng Việt, là cơ sở lý thuyết quan trọng để giải quyết các
nhiệm vụ thực tiễn của dạy học tiếng Việt nói chung và dạy tập làm văn nói
riêng.
"Ngơn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của lồi người” (Lê
nin). Luận điểm này khơng chỉ đơn thuần khẳng định ngơn ngữ là phươngtiện
giao tiếp mà cịn là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất và là phương tiện giao
tiếp đặc trưng của lồi người. Khơng có ngơn ngữ xã hội khơng thể phát triển.
Mục đích nghiên cứu ngôn ngữ trong nhà trường là phải làm cho họ có thể sử
dụng ngơn ngữ làm phương tiện sắc bén để giao tiếp. Vì vậy, phát triển lời nói là
nhiệm vụ quan trọng nhất của dạy học nói trong nhà trường. Tất cả các giờ dạy
môn tiếng Việt (cả dạy đọc, viết...) phải đi theo khuynh hướng này. Học sinh cần
hiểu rõ người ta nói và viết khơng chỉ để cho mình mà cho người khác nên ngơn
ngữ phải chính xác, rõ ràng, đúng đắn, dễ hiểu. Mặt khác vì ngơn ngữ là phương

tiện giao tiếp nên phải lấy hành động giao tiếp làm phương tiện để dạy học tiếng
Việt nói chung và mơn tập làm văn nói riêng.
Nhận thức luận của chủ nghĩa Mác- Lê nin dạy rằng: con đường biện
chứng của nhận thức chân lý đi qua 2 giai đoạn (nhận thức cảm tính và nhận
thức lý tính), đồng thời chỉ ra thực tiễn là cội nguồn, động lực của nhận thức, là
tiêu chuẩn của chân lý.
Đứa trẻ nhận thức thế giới xung quanh một cách cảm tính (bằng mắt, bằng
tai...) gắn với màu sắc, âm thanh cụ thể. Do đó, nhiệm vụ đầu tiên của nhà
trường trong dạy tiếng là phải dựa trên kinh nghiệm sống và kinh nghiệm lời nói
của học sinh. Học sinh sẽ đi từ việc quan sát tiếng nói trong đời sống của nó,
thơng qua việc phân tích, tổng hợp đến khái qt hố và từ đó quay về thực tiễn
giao tiếp thể hiện sống động dưới dạng nói và dạng viết. Cách làm việc của học
sinh với tiếng mẹ đẻ trong nhà trường không chỉ tuân thủ những quy luật chung
của q trình nhận thức chân lý của lồi người mà còn đáp ứng được những đòi
hỏi của lý luận dạy học hiện đại. Đó là con đường nghiên cứu, phát minh -


Một số biện pháp rèn kỹ năng nói trong mơn tập làm văn cho học sinh lớp 3.
khuynh hướng của phương pháp dạy học hiện đại nói chung, của phương pháp
dạy tiếng Việt nói riêng.
Phương pháp dạy học tiếng Việt cịn dựa vào một loạt khoa học có liên
quan khác. Nó nghiên cứu vấn đề dạy học tiếng, đứng trước một hiện tượng gồm
3 yếu tố: Tiếng Việt, người học và dạy học theo phương pháp nhất định. Phương
pháp dạy học tiếng Việt phải xuất phát từ chung quy luật vận động của những
yếu tố đó mới có cơ sở khoa học.
Việc dạy tiếng Việt trong nhà trường phải đặt ra mục đích cuối cùng
khơng phải là trang bị cho học sinh những kiến thức về tiếng Việt mà là hình
thành và rèn luyện cho học sinh các kỹ năng sử dụng tiếng Việt làm phương tiện
giao tiếp quan trọng nhất của các em. Kết quả của việc dạy học tiếng Việt trong
nhà trường chính là việc sử dụng tiếng Việt của các em như thế nào trong giao

tiếp ở nhà trường, gia đình và xã hội.
b. Cơ sở tâm lý học:
Quan hệ của phương pháp dạy học tiếng Việt và tâm lý học, đặc biệt là
tâm lý học lứa tuổi rất chặt chẽ. Khơng có kiến thức về q trình tâm lý ở con
ngưịi nói chung và ở trẻ em lứa tuổi tiểu học nói riêng thì khơng thể giảng dạy
tốt được. Phương pháp dạy học tiếng Việt vận dụng rất nhiều kết quả tâm lý học.
Đó là các quy luật tiếp thu tri thức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo. Những nghiên
cứu tâm lý cho phép xác định mức đọ vừa sức của tài liệu học tập.
Mối quan hệ của phương pháp dạy học tiếng Việt với tâm lý ngữ học, một
khoa học trẻ nằm giữa tâm lý và ngôn ngữ, càng nỗi rõ hơn. Tâm lý ngữ học
đem lại cho phương pháp ngôn ngữ số liệu về lời nói như một hoạt động. (VD
như việc nhận định tình huống nói năng, các giai đoạn sản sinh lời nói...)
c. Cơ sở ngơn ngữ học:
Ngơn ngữ nói chung, tiếng Việt nói riêng có quan hệ mật thiết với phương
pháp dạy học tiếng Việt. Từ mối quan hệ này có ý kiến cho rằng phương pháp
dạy học tiếng Việt là ngôn ngữ học ứng dụng. Ngôn ngữ tiếng Việt tạo nên nền
tảng của môn học tiếng Việt và lôgic khoa học của ngôn ngữ quyết định logic
môn học tiếng Việt. Phương pháp dạy học tiếng Việt phải phát hiện được những
quy luật riêng, đặc thù của dạy học tiếng Việt. Chính khoa học ngơn ngữ quy
định đặc thù này. . .
Những hiểu biết về bản chất của ngôn ngữ, của tiếng Việt có vai trị quan
trọng trong việc định ra các nguyên tắc, nội dung và phương pháp dạy học tiếng
Việt. Ví dụ: Từ bản chất tín hiệu của ngơn ngữ, dạy học tiếng phải làm cho học
sinh nắm được giá trị của từng u tố ngơn ngữ, tính hệ thống của ngôn ngữ là


Một số biện pháp rèn kỹ năng nói trong mơn tập làm văn cho học sinh lớp 3.
cơ sở để xây dựng các bài tập yêu cầu học sinh tìm các yếu tố khi biết một yếu
tố khác, nó cũng là cơ sở cung cấp từ theo chủ đề ở tiểu học.
Các bộ phận ngôn ngữ học (từ vựng, ngữ âm...) có vai trị quan trọng

trong việc xác định nội dung và phương pháp dạy học. Ngữ âm trong quan hệ
qua lại với chữ viết là cơ sở của việc soạn thảo phương pháp dạy đọc, viết, cơ sở
của việc hình thành kỹ năng đọc sơ bộ. Ngữ pháp quan trọng cả trong việc phát
triển lời nói vì nó đảm bảo quan hệ giữa các từ, cụm từ và việc viết câu đúng.
Gần đây, trong phương pháp dạy tiếng người ta dựa nhiều hơn vào phong cách
học (VD: ở tiểu học người ta dựa vào phân định ranh giới của ngơn ngữ hội
thoại và ngơn ngữ viết để dạy nói cho học sinh lớp 1).
Tóm lại, ngơn ngữ học nói chung, Việt ngữ học nói riêng, quy định cả nội
dung dạy học, trình tự sắp xếp nội dung mơn học và cả phương pháp làm việc
của thầy và trò trong giờ Tiếng Việt.
d. Cơ sở giáo dục học:
Phương pháp dạy học tiếng Việt là một bộ phận của khoa học giáo dục
nên nó phụ thuộc vào chung quy luật chung của khoa học này. Giáo dục học nói
chung, lý luận dạy học đại cương nói riêng cung cấp cho phương pháp dạy học
tiếng Việt những hiểu biết về các quy luật chung của việc dạy học các mơn học.
Có thể nói, phương pháp dạy học tiếng Việt là một khoa học sinh ra từ sự tích
hợp biện chứng của Việt ngữ học và lý luận dạy học đại cương. Mục đích của
phương pháp dạy học tiếng Việt cũng như các khoa học giáo dục nói chung là tổ
chức sự phát triển tâm hồn và thể chất của học sinh, chuẩn bị cho các em đi vào
cuộc sống trong xã hội mới.
Quan hệ của phương pháp dạy học tiếng Việt với khoa học giáo dục được
thể hiện ở chỗ phương pháp được một hệ thống giáo dục tạo ra và làm cơ sở.
Phương pháp dạy học tiếng Việt hoàn toàn sử dụng các khái niệm, thuật ngữ của
giáo dục học. Nó hiện thực hóa mục tiêu, nhiệm vụ do giáo dục học đề ra (phát
triển trí tuệ, hình thành thể giới quan khoa học, phát triển duy sáng tạo cho học
sinh, giáo dục tư tưởng đạo đức, phát triển óc thẩm mỹ, giáo dục tổng hợp và
giáo dục lao động). Trong phương pháp dạy học tiếng Việt có thể tìm thấy các
nguyên tắc cơ bản của lý luận dạy học (nguyên tắc giáo dục và phát triển của
dạy học, nguyên tắc vừa sức, nguyên tắc khoa học, nguyên tắc hệ thống, nguyên
tắc gắn liền lý thuyết với thực hành, nguyên tắc trực quan, ngun tắc tích cực

hố q trình nhận thức của học sinh, nguyên tắc tiếp cận cụ thể và phân hố
trong q trình dạy học...). Phương pháp dạy học tiếng Việt vận dụng nguyên tắc
này theo đặc trưng riêng của mình.


Một số biện pháp rèn kỹ năng nói trong mơn tập làm văn cho học sinh lớp 3.
CHƯƠNG II. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1. Tính chất của phân mơn Tập làm văn
- Tập làm văn nối tiếp một cách tự nhiên các bài học khác nhau trong môn
tiếng Việt như tập đọc, chính tả, từ và câu...nhằm giúp học sinh có một năng lực
mới: năng lực sản sinh ngôn bản (bằng hình thức nói hoặc viết). Nhờ năng lực
này. học sinh biết cách sử dụng tiếng Việt văn hố làm cơng cụ tư duy, giao tiếp
học tập.
- Tập làm văn có tính chất thực hành tồn diện, tổng hợp và sáng tạo. Tập
làm văn mang tính chất thực hành vi nhiệm vụ chủ yếu của nó là hình thành cho
học sinh kỹ năng nói và viết văn bản. Mang tính tồn diện, tổng hợp vì tập làm
văn được xây dựng trên thành tựu của nhiều mơn khoa học, trong đó nổi bật là
lý thuyết hoạt động lời nói, các hiểu biết về ngôn ngữ pháp văn bản, logic hoặc !
ý luận văn học..., vì tập làm văn địi hỏi học sinh huy động vốn kiến thức nhiều
mặt từ các hiểu biết về cuộc sống đến tri thức về văn học, khoa học thường
thức..., vì tập làm văn địi hỏi học sinh khơng chỉ vận dụng các hiểu biết lý luận
mà cịn cả cảm xúc. tình cảm... khi làm bài; Vì tập làm văn sử dụng nhiều loại
kỹ năng từ kỹ năng dùng từ đặt câu đến kỹ năng dựng đoạn. Các kỹ năng này là
do nhiều phân môn của môn tiếng Việt rèn luyện.
- Bài tập làm văn còn là sản phẩm không lặp lại của mỗi học sinh trước
những đề tài cụ thể. Điều đó giải thích cho tính sáng tạo của tập làm văn.
- Tập làm văn giúp cho học sinh sau quá trình luyện tập lâu dài và có ý
thức, học sinh dần dần nắm được cách viết và cách nói các bài văn theo nhiều
phong cách khác nhau.
- Tập làm văn góp phần bổ sung kiến thức, rèn luyện tư duy và hình thành

nhân cách cho học sinh.
Ví dụ: Để làm được đề bài của tuần 12: "Nói, viết về cảnh đẹp đất nước,
(dựa vào tranh, ảnh), kiến thức của các em được mở rộng. Do diễn đạt các ý
thành đoạn, trình độ tư duy và ngơn ngữ của các em được nâng lên. Bên cạnh đó
qua việc quan sát tranh ảnh, qua việc quan sát để miêu tả... tình cảm gắn bó u
mến thiên nhiên được nảy nở. Nói cách khác, con người, nhân cách các em phát
triển qua việc học tập làm văn.
2. Những yêu cầu cơ bản của việc dạy tập làm văn lớp 3:
Rèn kỹ năng nghe, nói, đọc, viết. Trang bị cho học sinh một số hiểu biết
và kỹ năng phục vụ học tập và đời sống hàng ngày. Điền vào giấy tờ in sẵn, viết
thư, làm đơn, tổ chức họp và phát biểu trong cuộc họp, giới thiệu hoạt động của
tổ, lớp) trường, ghi chép sổ tay...


Một số biện pháp rèn kỹ năng nói trong mơn tập làm văn cho học sinh lớp 3.
- Tiếp tục rèn kỹ năng kể chuyện và miêu tả: kể sự việc đơn giản, tả sơ
lược về người, vật xung quanh theo gợi ý bằng tranh, bằng câu hỏi.
- Rèn luyện kỹ năng nghe thông qua các bài tập nghe- kể và các hoạt động
học tập trên lớp.
3. Về chương trình tập làm văn lớp 3:
Mỗi tuần có 1 tiết, mỗi tiết 40 phút. Chương trình được phân phối trong
35 tuần. Ngồi ra học sinh cịn được rèn luyện kỹ năng nói qua các tiết kể
chuyện, tập đọc.
- Về tập làm văn nói: học sinh được học, được luyện tập cả độc thoại và
hội thoại (kể một câu chuyện ngắn đã nghe, tổ chức các cuộc họp...). Để phù
hợp với đặc điểm tâm lý và trình độ nhận thức của học sinh chương trình hướng
chủ yếu vào các cuộc thoại đơn giản và có tính chất nghi thức. Đề tài các cuộc
hội thoại được lựa chọn trong cuộc sống nhà trường, cuộc sống gia đình, cuộc
sống xã hội trong phạm vi hẹp (cộng đồng dân ở làng xã, phường xóm...).
- Về tập làm văn viết: học sinh bước đầu được làm quen với dạng sản sinh

văn bản ngắn (viết đoạn văn), bước đầu nắm được cấu trúc một đoạn văn, cách
diễn đạt mối quan hệ giữa các ý trong đoạn. Ngoài ra các em còn được làm quen
với một số văn bản hành chính đơn giản (tập điền vào các văn bàn cho sẵn).
4. Tìm hiểu nội dung phân mơn Tập làm văn trong sách giáo khoa
tiếng Việt lớp 3
Qua quá trình tìm hiểu sách giáo khoa tiếng Việt lớp 3, tôi nhận thấy rằng
các đề tập làm văn không chia thành dạng, kiểu bài như chương trình cũ mà nó
được phân phối theo chủ đề. 35 tuần học trừ 4 tuần ôn tập giữa học kỳ và cuối
học kỳ, các tuần còn lại được phân phối 2 tuần một chủ đề, riêng chủ đề “ngôi
nhà chung" ở học kỳ 2 được học trong 3 tuần. Các chủ đề này đều rất gần gũi
với học sinh như: gia đình, mơi trường, cộng đồng, trường học... Trong mỗi chủ
đề, các nội dung của tiết tập làm văn được xây dựng gắn chặt với tên chủ đề và
có sự hỗ trợ đắc lực của các phân môn khác như tập đọc, từ và câu kể chuyện...
có thể liệt kê một số dạng bài tập làm văn ở lớp 3 như sau:
- Nói theo chủ đề.
- Nghe kể câu chuyện.
- Điền vào các văn bản in sẵn.
- Viết đoạn văn theo chủ đề.
- Kể lại một sự kiện đã được chứng kiến.
- Ghi chép sổ tay.
Trong đó thề loại nói theo chủ đề chiếm tỉ lệ cao (10/35 tuần). Như vậy có
thể thấy chương trình tập làm văn lớp 3 giúp học sinh rèn luyện kỹ năng nói,


Một số biện pháp rèn kỹ năng nói trong mơn tập làm văn cho học sinh lớp 3.
giao tiếp là chủ yếu. Sau đó các em sẽ tập diễn đạt những điều đã được trao đổi
với bạn dưới dạng văn bản viết (đoạn văn). Đây là một cấu trúc chương trình
hợp lý, chặt chẽ, phù hợp với lứa tuổi, vì ở lứa tuổi này các em đang tích luỹ vốn
từ bằng hình thức nghe - nói là chủ yếu.
5. Mối quan hệ giũa tập làm văn, tập đọc, kể chuyện

a. Về phương diện ngôn ngữ:
Khi sử dụng tiếng Việt, học sinh cần được luyện tập thành thạo trên 2
phương diện: hiểu, tiếp nhận đúng, đủ thông tin và diễn đạt chính xác và đầy đủ
những gì cần nói ra viết ra.
- Muốn giao tiếp có hiệu quả, người nghe hoặc đọc phải hiểu đúng và đủ
nội dung, ý nghĩa thông tin của các ngôn bản nghe và đọc. ở tiểu học, khi học
các phân môn tập đọc, kể chuyện, lúc nghe cô giảng bài khi nghe kể chuyện, đọc
truyện... học sinh được rèn luyện đễ lĩnh hội ngôn bản thông qua nghe hiểu và
đọc hiểu nội dung.
- Khi tham gia giao tiếp, mỗi người có nhu cầu diễn đạt ý nghĩ, nội dung
cần trao đổi. Nói hoặc viết khơng đầy đủ, chính xác các nội dung cần thiết,
nguời nghe hoặc đọc sẽ không hiểu đúng và đủ các thông tin cần trao đổi.
Trong môn tiếng Việt khi trả lời câu hỏi trong bài học, tập đọc, khi tập kể
chuyện, đặc biệt là khi học tập làm văn, học sinh được luyện tập đễ có thể sản
sinh ngơn bản có hiệu quả trong giao tiếp. Giữa lĩnh hội ngôn bản và sản sinh
ngơn bản có mối quan hệ khăng khít.
Các kết luận rút ra:
- Quan hệ giữa tập làm văn, tập đọc, kể chuyện là mối quan hệ giữa các
kỹ năng sử dụng tiếng Việt.
- Tập đọc, kể chuyện có nhiệm vụ chủ yếu là rèn luyện kỹ năng, kỹ năng
đọc và đọc hiểu, nghe và nghe hiểu các ngôn bản như bài tập đọc, câu chuyện
kể. Bên cạnh đó, các phân mơn này cũng góp phần rèn luyện kỹ năng sản sinh
ngôn bản qua việc trả lời câu hỏi hoặc tập kể lại câu chuyện.
- Tập làm văn có nhiệm vụ chủ yếu là rèn luyện kỹ năng sản sinh ngơn
bản nói và viết. Khơng học tốt tập làm văn, kỹ năng nói và viết ngơn bản của
học sinh sẽ bị hạn chế.
Ngoài mối quan hệ trên, tập đọc, kể chuyện còn là kho tàng quý, cung cắp
cho học sinh vốn từ phong phú, đa dạng các ví dụ điển hình về nghệ thuật dùng
từ đặt câu, viết đoạn để các em vận dụng vào bài tập làm văn. Khi đọc các bài
văn. các bài thơ miêu tả hay như: “ Nhớ lại buổi đầu đi học", "Những chiếc

chuông reo", “Anh đom đóm", "Âm thanh thành phơ", "Hội đua voi ở Tây
Nguyên”.... các bài kể chuyện sinh động gợi cảm như “Chiếc áo len, “Người


Một số biện pháp rèn kỹ năng nói trong mơn tập làm văn cho học sinh lớp 3.
mẹ”, "Người lính dũng cảm"..., các em sẽ học được cách dùng tính từ, động từ;
học được cách dùng phép so sánh nhận hố... để chắp thêm cánh cho trí tưởng
tượng, liên tưởng... khi làm văn. Do đó tập làm văn được thừa hưởng và cầnphải
tận dụng vốn từ vựng nghệ thuật dùng từ, đặt câu... mà học sinh thu nhận được
từ các bài tập đọc, kể chuyện.
b. Về phương diện nhận thức, tình cảm:
Các bài tập đọc, kể chuyện do đặc điểm đa dạng về thể loại, về đề tài nên
có khả năng cung cấp thêm cho học sinh những vốn sống, bồi dưỡng cảm xúc
lành mạnh, trong sáng. Chẳng hạn các bài tập đọc "Nắng phương Nam", "Người
con của Tây Nguyên", "Ơng tổ nghề thêu', "Sự tích lễ hội Chử Đồng Tử"... đã
mở ra trước mặt học sinh cuộc sống muôn màu muôn vẻ về phong tục tập quán,
phong cảnh... trên đất nước ta và nhiều nước trên thế giới. Những tình cảm nhân
hậu, u thương con người, chan hồ cùng cỏ cây, mn lồi... những tình cảm
giàu chất nhân văn từ các bài tập đọc, các câu chuyện về danh nhân văn hố,
khoa học... như dịng suối mát lành làm tâm hồn các em thêm phong phú, cao
đẹp. Chính những tình cảm cao đẹp đó kết hợp với vốn sống trực tiếp giúp các
em có thêm hiểu biết và cảm xúc để làm bài tập làm văn miêu tả, kể chuyện...
Cấu trúc chương trình sách giáo khoa tiếng Việt lớp 3 chương trình mới
cịn có đặc điểm ưu việt hơn chương trình cũ ở chỗ 1 tuần có 3 tiết tập đọc trong
đó có 1 bài tập đọc gắn với nội dung của tiết kể chuyện. Như vậy có thuận lợi là
các em vừa được tìm hiểu ngữ liệu để đọc hay, để cảm thụ, đồng thời qua nội
dung cảm thụ được sẽ tập diễn đạt lại câu chuyện bằng ngơn ngữ của mình. Mối
quan hệ này có thể nhận thấy rất rõ trong cấu trúc chương trình sách giáo khoa.
6. Quan hệ giữa Tập làm văn với Luyện từ và câu:
Chương trình luyện từ câu và câu ở lớp 3 có những nội dung chủ yếu là hệ

thống hố, tích cực hố và mở rộng vốn từ cho học sinh qua các bài tập theo chủ
điểm. Vốn từ và chủ đề “Thiếu nhi”, “Gia đình”, “Trường học”, “Cộng đồng”,
“Quê hương”… được nhắc lại, giải nghĩa, được đưa vào các tình huống cụ thể
để các em tập sử dụng. Nhờ thế vốn từ của các em tăng lên và cùng với nó, cách
nghĩ theo hệ thống, theo sự phân hố lại…hình thành giúp các em có thêm cơng
vụ về tư duy để khám phá những giá trị mới mẻ của vốn từ tiếng Việt, tự nhân
vốn từ của mình lên thông qua hoạt động giao tiếp và vận dụng vào bài tập làm
văn.
Chương trình luyện từ và câu là những kiến thức sơ giản về cách sử dụng
dấu câu danh từ chỉ hoạt động, chỉ đặc điềm, các biện pháp nghệ thuật so sánh,
nhân hoá... Những kiến thức này giúp cho học sinh không chỉ dùng tiếng Việt
dựa trên cảm quan của người bản ngữ mà dần có ý thức, có cơ sở lý thuyết. Điều


Một số biện pháp rèn kỹ năng nói trong mơn tập làm văn cho học sinh lớp 3.
ấy có ích nhiều cho việc học và làm bài tập làm văn. Mặt khác, sự làm quen
bước đầu với các biện pháp nghệ thuật so sánh nhân hoá giúp các em viết được
những câu văn sinh động hơn.
Phân tích trên ta thấy tập làm văn đã nhận và sử dụng kết quả học tập của
phân môn luyện từ và câu. Đối với phân môn này. tập làm văn là nơi để học sinh
luyện tập các kỹ năng và vận dụng các kiến thức đã học vào thực tiễn.
Tóm lại, tập làm văn có tính chất tổng hợp , có quan hệ chặt chẽ với việc
học tập đọc, kể chuyện. từ và câu. Đây là nơi tiếp nhận và cũng là nơi luyện tập
càng ngày càng nhuần nhuyễn các kỹ năng và kiến thức của các phân mơn trên.
Bài tập làm văn (nói. viết) trở thành sản phẩm tổng hợp, là nơi trình bày kết quả
đích thực nhất của việc học Tiếng Việt.
7. Đặc điểm của nội dung chương trình Tập làm văn lớp 3:
- Mơn Tiếng Việt ở lớp 3 có 9 tiết/tuần riêng phân môn Tập làm văn
chiếm 1tiết/tuần.
- Nội dung chương trình phân mơn Tập làm văn 3 là kiến thức được xây

dựng một cách hệ thống, khoa học và có cấu trúc rất chặt chẽ nhưng cịn nặng
kiến thức. Nội dung mỗi tiết tập làm văn có quan hệ mật thiết với nội dung các
bài tập đọc các em được học trong tuần. Và theo thời khoá biểu, tiết tập làm văn
được xếp vào ngày thứ 6, sau khi các em đã được học xong các bài tập đọc, kể
chuyện, luyện từ và câu là những phân môn hỗ trợ chặt chẽ cho tập làm văn.
Ví dụ: Tuần 3 với chủ đề "Mái ấm", các em được học các bài tập đọc kể
chuyện về tình cảm gia đình, nội dung của tiết tập làm văn là kể về gia đình em
với một bạn em mới quen.
- Cấu trúc nội dung môn tập làm văn không chia theo dạng bài mà chia
theo chủ đề. ở mỗi chủ đề học sinh được luyện những kỹ năng nói, viết, hội
thoại giao tiếp nhưng chủ yếu là hình thành và phát triển kỹ năng giao tiếp. Với
cấu trúc nội dung như vậy đã tạo điều kiện thuận lợi cho cả người dạy lẫn người
học vì với mỗi chủ đề giáo viên có điều kiện giúp học sinh đào sâu kiến thức,
phát triển kỹ năng, cịn học sinh thì có cơ hội luyện tập tất cả các tinh huống
giao tiếp (kể cả nói và viết) với từng chủ đề mà các em thường gặp trong cuộc
sống sinh hoạt hàng ngày.
- Chương trình tập làm văn lớp 3 ngoài đường hướng chung là tiếp tục
phát triển kỹ năng giao tiếp, còn tăng cường rèn luyện kỹ năng nói thơng
quahình thức nghe- kể (trung bình 3 tuần/1ần nghe và kể lại 1 mẫu chuyện- chủ
yếu là chuyện vui) và tăng cờng các hoạt động sinh hoạt tập thể như họp nhóm,
tổ .
8. Các kiếu bài Tập làm văn ở lớp 3


Một số biện pháp rèn kỹ năng nói trong mơn tập làm văn cho học sinh lớp 3.
a. Bài tập nghe:
Nghe và kể lại một mẩu chuyện ngắn, nghe và nói lại một mẩu tin.
b. Bài tập nói:
- Tổ chức, điều khiển cuộc họp, phát biểu trong cuộc họp.
- Kể hoặc tả miệng về người thân, gia đình, trường lớp, quê hương, lễ hội,

hoạt động thể thao, văn nghệ.
c. Bài tập viết :
Điền vào giấy tờ in sẵn
- Viết một số giấy tờ theo mẫu
- Viết thư.
- Ghi chép sổ tay
- Kể hoặc tả ngắn về người thân, gia đình. trường lớp, quê hương, lễ hội,
hoạt động thể thao, văn nghệ.
9. Các biện pháp dạy học chủ yếu
a. Hướng dẫn học sinh làm bài tập
- Giúp HSnắm vững yêu cầu của bài tập (bằng câu hỏi, bằng lời giải
thích).
- Giúp học sinh chữa một phần của bài tập làm mẫu (một học sinh chữa
mẫu trên bảng mẫu hoặc cả lớp làm bài vào vở).
- Tổ chức cho học sinh trao đồi, nhận xét về kết quả rút ra những điềm
cần ghi nhớ về tri thức.
b. Đánh giá.kết quả thực hành, luyện tập ở lớp, hướng dẫn hoạt động tiếp
nối (ở ngoài lớp, sau tiết học).
- Hướng dẫn học sinh nhận xét kết quả học tập của bạn, tự đánh giá kết
quả của bản thân trong quá trình luyện tập.
- Nêu yêu cầu, hướng dẫn học sinh thực hiện các hoạt động tiếp nối nhằm
củng cố kết quả thực hành luyện tập ở lớp (thực hành giao tiếp ngoài lớp học, sử
dụng kỹ năng đã học vào thực tế cuộc sống...)
10.Một số thuận lợi và khó khăn khi dạy chương trình Tập làm văn lớp
3.
a. Thuận lợi:
- Cấu trúc nội dung chương trình Tiếng Việt lớp 3 nói chung và phân mơn
tập làm văn nói riêng rất rõ ràng, chặt chẽ. Đặc biệt là phân mơn tập làm văn có
được sự hỗ trợ đắc lực của các phân môn khác. Mặt khác. nội dung chương trình
đều gồm các chủ đề gần gũi với hoạt động hàng ngày của học sinh, tạo điều kiện

thuận lợi cho cả người dạy và người học, chương trình cịn lồng ghép cả những


Một số biện pháp rèn kỹ năng nói trong mơn tập làm văn cho học sinh lớp 3.
chủ đề mang tính thời sự, tính giáo dục rất cao như chủ đề: Cộng đồng, ngôi nhà
chung... là điều kiện thuận lợi cho giáo viên tích luỹ, tìm tịi tài liệu giảng dạy.
- Đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi học sinh lớp 3 là lứa tuổi đang trong
giai đoạn tích luỹ, phát triển vốn từ, các em còn đang như “tờ giấy trắng", dễ
rung động trước những cái hay cái đẹp có khả năng tiếp nhận và nhớ rất lâu
những từ ngữ mới. Do đó đây chính là giai đoạn cơ sở quan trọng tạo tiền đề cho
các em học tốt môn tập làm văn ở các lớp trên.
- Chương trình tập trung vào rèn kỹ năng giao tiếp là kỹ năng mà trẻ tiểu
học nói chung và trẻ lớp 3 nói riêng đều rất thích vì nó giúp các em tự khẳng
định mình, khẳng cạnh cái 'tơi" thơng qua hoạt động giao tiếp, qua đó các em
thấy mình tự tin, trưởng thành hơn và trở thành người lớn". Chính vì vậy nội
dung giao tiếp này được các em đón nhận, tìm hiểu với sự hồ hởi, say mê, tạo
điều kiện đế giáo viên dạy tốt.
b. Khó khăn:
Chương trình Tiếng Việt yêu cầu dạy theo hướng giao tiếp rèn kỹ năng
sản sinh ngơn bản nói cho học sinh là chủ yếu. Yêu cầu này đặt ra cho giáo viên
một số khó khăn cần giải quyết vì:
- Dạy tập làm văn nói là khâu yếu nhất hiện nay, rất nhiều giáo viên có xu
hướng ngại dạy vì nó địi hỏi sự đầu tư về thời gian, công sức rất nhiều.
- Dạy tập làm văn nói, dạy tập làm văn giao. tiếp là dạng thể hiện rõ nhất
phương hướng giao tiếp. Nhưng đây lại là dạng làm văn chúng ta ít có kinh
nghiệm, chưa định hình được phương pháp và trình tự tiến hành loại tiết học
này. Do đó cịn có giáo viên lúng túng dẫn đến hiệu quả giờ dạy chưa cao, chưa
đạt được yêu cầu mà chương trình đề ra.
CHƯƠNG III. BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG NĨI TRONG PHÂN
MƠN TẬP LÀM VĂN CHO HỌC SINH LỚP 3

1. Một số nguyên tắc dạy Tập làm văn cho học sinh lớp 3
Qua thực tế và yêu cầu của phân môn, theo tôi môn tập làm văn đặt ra cho
giáo viên một số nguyên tắc:
Dạy tập làm văn nói và dạy tập làm văn viết, trong giao tiếp và để giao
tiếp là phương hướng hiện đại mà nhiều nước đang phấn đấu thực hiện. Việc
giảng dạy của giáo viên phải dựa trên việc thực hành ngôn ngữ trong lớp, học
sinh phải luôn luôn được đặt vào tình huống giao tiếp. Theo hướng này việc dạy
tập làm văn cũng phải lấy giao tiếp làm môi trường và phương pháp, lấy việc
phục vụ giao tiếp làm nhiệm vụ và mục đích.


Một số biện pháp rèn kỹ năng nói trong mơn tập làm văn cho học sinh lớp 3.
- Trong giao tiếp diễn ra hiện tượng trao đổi ngôn bản. Sự trao đổi này
gồm 2 loại hành động ln gắn bó với nhau: Hành động sản sinh ngơn bản (nói
hoặc viết ra các nội dung cần giao tiếp) và hành động lĩnh hội ngôn bản (hiểu
ngôn bản đọc được nghe được). Do đó giáo viên cần song song dạy học sinh
ngơn bản và lĩnh hội ngôn bản, tức là phải rèn cả 4 kỹ năng nghe, nói, đọc, viết
với mức độ như nhau.
- Cần coi học sinh là chủ thề luyện tập, các em phải được suy nghĩ, được
nói lên những suy nghĩ đó, được luyện tập ở những tình huống khác nhau.
- Cần chủ ý dạy sát đối tượng, sát trình độ, nên gợi mở để học sinh nắm
được phương pháp, con đường để tự mình đi đến kết quả.
2. Một số kinh nghiệm dạy Tập làm văn theo hướng giao tiếp
Qua một số tiết dạy thử nghiệm của cá nhân, của đồng nghiệp, tôi rút ra
một số kinh nghiệm đầu tiên khi dạy tập làm văn cho học sinh lớp 3.
- Cần làm cho học sinh hiểu rõ nội dung, ý nghĩa của đề bài, của tình
huống giao tiếp thơng qua khâu phân tích u cầu. Khâu này làm càng chặt chẽ
thì hiệu quả làm bài của học sinh càng cao.
- Đối với học sinh tiểu học, đặc biệt là học sinh lớp 3 nên thực hiện việc
này qua thao tác phân tích mối quan hệ giữa các nhân tố giao tiếp nêu trong đề

bài.
- Kịch bản cho các lần chơi hoặc các lần diễn nên hoàn thiện dần qua thực
tiễn: Nóicách khác, dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh sẽ hoàn thiện dần
kịch bản và thực hiện. Từ lần chơi (hoặc lần diễn) thứ nhất, giáo viên không cần
thiết đưa ra chỉ dẫn về nghi thức lời nói, nội dung giao tiếp cần thực hiện. Hãy
để cho học sinh tự tìm trong vốn hiểu biết của mình cách ứng xử bằng lời nói
trong các tình huống các em sẽ gặp. Lần diễn này cho ta đánh giá đúng trình độ
giao tiếp của học sinh khi mới bước vào chủ đề giao tiếp. Từ đây qua các lần
chơi sau, học sinh sẽ được rèn luyện và nâng cao các kỹ năng giao tiếp bằng lời
nói (kỹ năng sử dụng các nghi thức lời nói, kỹ năng ứng xử bằng lời nói...)
Ví dụ: Khi dạy bài tập làm văn tuần 14 Đề bài: Hãy giới thiệu về tổ em và
hoạt động của tổ em trong tháng qua với một đồn khách đến thăm lớp
a. Hướng dẫn tìm hiểu tình huống giao tiếp:
- Mục đích của cuộc giao tiếp? Ai gặp ai? Quan hệ giữa các nhân vật?
- Cuộc gặp diễn ra ở đâu ?
- Cuộc gặp gỡ nói tới vấn đề gì?
- Nội dung em định giới thiệu về tổ? (gồm những ai, mỗi bạn có những
điểm gì hay? Tháng vừa qua bạn đã làm được những việc gì tốt?)
- Thái độ và tình cảm khi nhân vật nói chuyện với nhau?


Một số biện pháp rèn kỹ năng nói trong mơn tập làm văn cho học sinh lớp 3.
b. Phương pháp tiến hành tiết học: Chơi đóng vai.
c. Tiến hành chơi đóng vai.
- Giáo viên chỉ định từng nhóm học sinh đóng vai diễn theo đúng yêu cầu
để bài.
- Mỗi nhóm bàn bạc cách sắm vai và cách diễn đạt trong 5 phút.
- Sau mỗi lần chơi lại rút kinh nghiệm đề hồn chỉnh "kịch bản"giúp
nhóm sau luyện tập có hiệu quả hơn.
+ Từng bạn đã đóng đúng vai chưa? Các câu hỏi chuyện trò... đã đúng

nghi thức chưa?
+ Cuộc gặp gỡ có đạt mục đích khơng?
+ Cách dùng từ ngữ, đặt câu, cách dùng ngữ điệu các hành động phi ngơn
ngữ (ánh mắt, nụ cười...) có gì cần sửa để đạt mục đích cao hơn? có chỗ nào có
thể học tập được?
Chú ý: Kết thúc mỗi lần chơi, giáo viên cho học sinh rút kinh nghiệm theo
các gợi ý trên. Trước khi vào lằn chơi mới giáo viên cần nhắc lại những ưu điểm
cần phát huy, các nhược điểm cần khắc phục... của lần chơi trước.
d. Biến đổi tình huống trị chơi.
Đồn khách đến thăm lớp, trong đồn có thầy (cô) hiệu trưởng đi cùng.
Cô hiệu trưởng giới thiệu với khách đây là một tập thể lớp có nhiều thành tích và
yêu cầu lớp trưởng báo cáo rõ hơn hoạt động của lớp em trong thời gian qua.
Hãy giới thiệu với đoàn khách về hoạt động của lớp em.
Đề bài có điều chỉnh để tạo tình huống mới. Cách tiến hành trị chơi như
đã trình bày ở trên. Chỉ nên thực hiện trò chơi này một lần để rút kinh nghiệm và
chuẩn bị cho tiết học sau.
e. Giáo viên kết luận tiết học.
Nhấn mạnh các nghi thức chào hỏi khi khách đến thăm lớp, các lời nói
cần thực hiện khi báo cáo hoạt động của tổ.
Vai trò tổ chức và hướng dẫn của giáo viên trong các tiết tập làm văn rất
rõ. Trình độ giao tiếp của học sinh sau mỗi tiết học tiến bộ như thế nào phụ
thuộc vào trình độ giao tiếp của giáo viên. Điều đó địi hỏi công phu tự tu
dưỡng, rèn luyện bản thân của từng giáo viên đối với việc sử dụng tiếng Việt
văn hố và chuẩn mực. Chỉ có như vậy người giáo viên mới hồn thành nhiệm
vụ của mình.Đối với đề bài yêu cầu học sinh sản sinh ngôn bản viết, nên gợi mở
để các em đa ra những ý phục vụ yêu cầu của đề bài. Nên phối hợp với cách
diễn đạt bằng so sánh. nhân hố (do phân mơn từ và câu cung cấp) để câu văn được sinh động, giàu hình ảnh. Sau đó mới hướng đễ cho học sinh sắp xếp các ý
tìm được thành đoạn văn hồn chỉnh. Người giáo viên cần lu ý cũng là một sự



Một số biện pháp rèn kỹ năng nói trong mơn tập làm văn cho học sinh lớp 3.
vật, hiện tượng có rất nhiều cách nhìn nhận, tưởng tượng, so sánh khác nhau nên
giáo viên cần gợi mở để các em phát huy tối đa tính sáng tạo, óc tưởng tượng
phong phú của mình, tránh gị ép theo một mẫu cho trước. Chỉ sửa cho học sinh
khi thấy thật cần thiết. khi các em nói sai ngữ pháp, dùng từ chưa chính xác, cịn
ý tưởng thì để các em phát hiện, nói ra, chỉ nên gợi ý làm sao để ý tưởng đó được diễn đạt một cách sinh động nhất.
Thường xuyên bồi dỡng vun đắp tình yêu đối với thơ văn, bồi dưỡng khả
năng cảm thụ cái hay, cái đẹp thơng qua các tác phẩm nghệ thuật được trích học
trong sách giáo khoa Tiếng Việt. Có thể phối hợp với phụ huynh cùng học sinh
xây dựng tại các lớp bán trú."Tủ sách đọc chung”, sưu tầm các tác phẩm văn học
dành cho thiếu nhi có giá trị nghệ thuật để các em cùng đọc, cùng cảm nhận được cái hay, cái đẹp của các tác phẩm nghệ thuật đó.
3. Một số phương pháp dạy Tập làm văn lớp 3 sách Tiếng việt mới
a. Phương pháp đàm thoại.
Phương pháp này phù hợp với tâm lý trẻ nhỏ, các em thích hoạt động
(hoạt động lời nói). Giáo viên đa ra một hệ thống câu hỏi tìm hiểu đề bài, tình
huống giao tiếp. Muốn làm văn hay, xử lý tốt các tình huống giao tiếp trớc hết
các em phái hiểu đúng yêu cầu của đề bài. Vì vậy giáo viên cần hướng dẫn các
em bằng những câu hỏi đàm thoại dễ hiểu
Phương pháp đàm thoại không chỉ sử dụng giữa giáo viên với học sinh mà
còn được sử dụng giữa học sinh với học sinh.
Các em có thể trao đổi, thảo luận theo nhóm để rút ra phương án tốt nhất
để giải quyết yêu cầu của đề bài.
b. Phương pháp trực quan
Phương pháp này phù hợp với tâm lý lứa tuổi. Các tình huống giao tiếp
thông qua các vai mà bạn minh thể hiện, từ đó nhận xét, rút ra kết luận.
- Học sinh cũng có thể trực quan bằng cách nghe những câu văn, những
đoạn văn hay của các bạn trong nhóm, trong lớp khi tiến hành tiết tập làm văn
nói.
c. Phương pháp luyện tập :
Là phương pháp dùng chủ yếu trong giờ dạy tập làm văn. Dưới sựchỉ đạo,

điều hành của giáo viên, học sinh sắm vai sẽ tiến hành rèn luyện kỹ năng kỹ xảo.
Các hình thức luyện tập :
- Tập nói trong nhóm học tập, nói trước lớp: có tác dụng giúp học sinh rèn
luyện những kỹ năng giao tiếp vừa thu nhận được trong giờ học tập trong vở bài
tập tiếng Việt. Đây là hình thức luyện tập rất hiệu quả và phổ biến vì hệ thống


Một số biện pháp rèn kỹ năng nói trong mơn tập làm văn cho học sinh lớp 3.
bài tập được xây dựng trong vở bài tập có nội dung rất sát với chương trình sách
giáo khoa.
Là phương pháp mà học sinh tiểu học rất thích, gây được hứng thú cho
học sinh, làm cho giờ học sôi nổi, sinh động. Phương pháp này được sử dụng
trong các tiết tập làm văn nói. các tiết học nội dung hội họp (tổ chức họp tổ...).
Khi sử dụng phương pháp này giáo viên cần lưu ý ngồi việc xây dựng tình
huống giáo viên cần phải linh hoạt xây dựng kịch bản dựa trên chính những tình
huống nảy sinh trong giờ học. Ngồi ra khi lựa chọn học sinh sắm vai còn căn
căn cứ vào cá tính của một số học sinh để có sự phân vai phù hợp
Luyện tập ngoài giờ trên lớp: Đây là hình thức luyện tập sử dụng khi giáo
viên nêu các tình huống giao tiếp biến đổi để học sinh luyện tập thêm. Học sinh
có thể luyện tập ở nhà hoặc tự ứng dụng trực tiếp vào những tình huống tương tự
mà các em gặp trong đời sống hàng ngày.
4. Một số biện pháp góp phần gây hứng thú luyện nói cho học sinh
trong giờ Tập làm văn ở lớp 3
Như ta đã biết, để giao tiếp được trọn vẹn, về mặt nguyên tắc, con ngời
cần năm được một loạt những kỹ năng người giáo viên muốn tạo được nhu cầu
giao tiếp, tình huống nói năng cần tạo cho học sinh biết định hướng nhanh chóng
và đúng đắn trong điều kiện giao tiếp; biết lập chương trình lời nói của mình, lựa
chọn nội dung giao tiếp đúng đắn, tìm được những phương tiện hợp lý để truyền
đạt nội dung đó.
a. Bước 1 : Dạy học sinh định hướng bài nói

Có thể sử dụng phương pháp đàm thoại gợi mở để học sinh định hướng
được yêu cầu của đề bài.
Ví dụ đề bài: Giới thiệu hoạt động của tổ trong tháng vừa qua
Học sinh phải nắm được yêu cầu của đề bài là thể hiện báo cáo với khách
tới thăm lớp hoạt dộng của tổ trong tháng vừa qua.
Sau khi xác định được nội dung, cần để học sinh tự thảo luận và rút ra nội
dung cần nói.
b. Bước 2: Lập chương trình nội dung biểu đạt
Qua bước này, học sinh cần biết các kỹ năng tìm ý, tìm từ, chọn từ cho lời
nói. Qua việc giảng dạy thực tế, tơi thấy để làm tốt bước này, một biện pháp rất
có kết quả đó là sử dụng hệ thống câu hỏi gợi ý hoặc phiếu học tập để tạo tình
huống giúp cho học sinh thảo luận tìm ra nội dung.
VD: đề bài: Giới thiệu hoạt động của tổ.
Nội dung phiếu học tập


Một số biện pháp rèn kỹ năng nói trong mơn tập làm văn cho học sinh lớp 3.
Câu 1: Đánh dấu X vào ô trống xác định thứ tự nội dung báo cáo mà em
cho là đúng
Tên từng bạn trong tổ có đặc điểm nổi bật
Thành tích đạt được của từng bạn
Số lượng các bạn có trong tổ em
Câu 2: Ghi lại nội dung tương phần của báo cáo
c. Hiện thực hố bằng việc nói miệng
Tiết tập làm văn miệng cần rèn cho học sinh kỹ năng diễn đạt lời nói
thơng qua khẩu ngữ và những yếu tố phi ngơn ngữ (cử chỉ điệu bộ, ánh mắt, nụ
cười...) sao cho hợp với yêu cầu diễn đạt.
Muốn làm tốt bước này giáo viên cần sáng tạo tổ chức giờ học sao cho tự
nhiên, gây hứng thú, tạo cho học sinh thấy có nhu cầu nói, nhu cầu giao tiếp chứ
khơng phải chỉ đơn thuần là trả lời câu hỏi trong sách, kiểu học tập một cách

gượng ép, thiếu tự nhiên. Để giờ học được tổ chức một cách linh hoạt, kích
thích nhu cầu nói của học sinh, tơi đã chú ý mấy điểm sau:
- Giáo viên cần chuẩn bị cho mình lời mở đầu sao cho có sự thu hút người
nghe hoặc gây tác động kích thích khơng khí lớp học sơi nổi. Tơi thường gọi
những em có khả năng nói tốt để mở đầu, tránh gọi những em nhút nhát, khả
năng nói cịn yếu
- Giáo viên cần tạo khơng khí sơi nổi nhưng hết sức tơn trọng học sinh để
kích thích các em nói vì nếu người nói mà khơng có người nghe thì học sinh sẽ
khơng cịn hứng thú trình bày nội dung của mình một cách say mê mà chỉ cịn lại
sự làm khốn", “làm bắt buộc"
- Giáo viên cần hướng dẫn học sinh trình bày nội dung của mình có sự
phụ trợ của các yếu tố phi ngôn ngữ như điệu bộ, cử chỉ... làm hấp dẫn người
nghe và có tác dụng nêu bật nội dung định nói hướng dẫn học sinh sử dụng lời
nói của mình thành câu ngắn gọn, thể hiện ngữ điệu tự nhiên đời thường khi gặp
các câu hỏi, câu cảm; biết cách sử dụng các lời nói "chêm xen", các từ thơng
dụng, thành ngữ, tục ngữ. Cần quan tâm hướng dẫn học sinh nói sao cho đúng
phong cách và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, tránh sử dụng những từ lai
căng, xuyên tạc. Muốn cho bài nói có sức hấp dẫn, cần nắm được nghệ thuật
nói: Nói đúng yêu cầu của người nghe, có sự tập trung ý chí và tư tưởng cao độ,
có sự hiểu biết đề tài một cách hệ thống, biết cách điều khiển giọng nói (ngữ
điệu, âm sắc cao độ, cường độ, trường độ ..)
Theo sự tìm tịi của bản thân, khi tổ chức giờ văn nói trên lớp tơi ln chú
ý tạo nhu cầu giao tiếp, tạo hứng thú nói cho học sinh. Các em sẽ thấy giờ học
thật vui, nhẹ nhàng, mỗi em đều được bộc lộ vốn sống, vốn từ ngữ của mình,


Một số biện pháp rèn kỹ năng nói trong mơn tập làm văn cho học sinh lớp 3.
đặc biệt thể hiện nội dung rất tự nhiên. Đây cũng là điều tơi thấy rất thành cơng
bởi vì khả năng diễn đạt văn bản nói của học sinh đã đỡ gượng gạo, máy móc,
trở nên hồn nhiên hơn. Nhiều đề văn tơi đã sử dụng phương pháp sắm vai thay

cho những câu hỏi khơ khan (ví dụ như đề bài: "Báo cáo hoạt động của tổ"...)
giúp các em diễn đạt lời nói ln kết hợp với cử chỉ điệu bộ. Qua đó, hiệu quả
giờ dạy được tăng lên, giáo viên cũng cảm thấy tiết học thực sự nhẹ nhàng và
hứng thú khi dạy phân môn tập làm văn lớp 3.
CHƯƠNG IV. KẾT QUẢ THỰC HIỆN
Trong năm học 2018 - 2019. Qua khảo sát kĩ năng nói của học sinh lớp
3D, cụ thể là:
Tổng số bài được khảo sát là: 31 bài.Trong đó:
Giai đoạn
Hồn thành tốt
Hồn thành
Chưa hồn thành
Giữa kì I
5/31
22/31
4/31
Cuối kì I
6/31
22/31
3/31
Giữa kì II
7/31
22/31
2/31
Cuối kì II
7/31
23/31
1/31
Căn cứ vào kết quả thực nghiệm tơi nhận thấy kỹ năng nói của học sinh
đã có tiến bộ rõ rệt. Tuy nhiên do chương trình Sách giáo khoa cịn nặng, thời

gian thử nghiệm cịn có hạn, giáo viên và học sinh mới chỉ làm quen trong thời
gian ngắn nên phần nào ảnh hưởng đến kết quả. Nhưng qua tiết dạy minh họa,
tôi nhận thấy điều đáng mừng đó là:
- Khơng những học sinh nắm được kiến thức bài học mà tiết học trở nên
sôi nổi, các em đã tự tin khi thể hiện bài nói của mình. Học sinh được rèn luyện
kỹ năng giao tiếp, nắm được cách giao tiếp với người lớn tuổi, đặc biệt là các em
đã khơng cịn nhút nhát và rát ưa thích được nói trước đám đơng.

C. KẾT LUẬN


Một số biện pháp rèn kỹ năng nói trong mơn tập làm văn cho học sinh lớp 3.
Dựa trên cơ sở khoa học lý luận và thực tiễn dạy tập làm văn cho học sinh
lớp 3 mà nội dung là “Một số biện pháp rèn kỹ năng nói trong phân môn tập
làm văn cho học sinh lớp 3.”, qua quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài, tơi
nhận thấy muốn dạy tập làm văn có kết quả tốt, mỗi giáo viên cần:
- Luôn tự trau dồi khả năng ngôn ngữ, giao tiếp, học hỏi đồng nghiệp để
nâng cao nghiệp vụ.
- Tham khảo các tài liệu về tiếng Việt (từ điển, thành ngữ tục ngữ, sách
bồi dưỡng chuyên môn…) để không ngừng mở rộng vốn từ, cập nhật thông tin.
- Để học sinh có được hứng thú khi học tập làm văn đòi hỏi ở người giáo
viên khả năng tư duy sáng tạo, tìm tịi những hình thức, những phương pháp dạy
học phong phú để kích thích người học, ln tơn trọng ý kiến của học sinh,
khơng gị ép.
- Q trình bồi dưỡng tình yêu với tiếng Việt, bồi dưỡng tâm hồn cảm
nhận tốt thơ văn, tạo điều kiện cho học sinh học tốt môn Tiếng Việt ở những lớp
trên là một q trình lâu dài, địi hỏi ở người giáo viên lòng yêu nghề, sự kiên
nhẫn bền bỉ.
NHỮNG KIẾN NGHỊ
Qua q trình giảng dạy trên lớp tơi nhận thấy: Khi giảng dạy giáo viên

cần phải có sự tìm tịi, sáng tạo, có những biện pháp, tình huống phải phù hợp
với đối tượng học sinh, đồng thời phải là người gần gũi, thân thiện với các em
để các em có niềm tin trong giờ học, có như vậy kết quả mới được nâng cao.
Muốn rèn luyện cho học sinh đọc diễn cảm tốt thì vai trị của người giáo viên rất
quan trọng bởi người giáo viên luôn là tấm gương sáng, mẫu mực trong cách
đọc diễn cảm để học sinh bắt chước.
Vì vậy mỗi giáo viên phải thực sự yêu nghề mến trẻ, nhiệt tình gương
mẫu trong phương pháp soạn giảng, luôn luôn trau dồi nghiệp vụ, học hỏi kinh
nghiêm của các bạn đồng nghiệp để nâng cao chất lượng dạy và học ở các môn
đặc biệt là môn Tập đọc ở Tiểu học.
Thực tế giảng dạy mỗi người đều có suy nghĩ, kinh nghiệm, bí quyết nghề
nghiệp riêng của mình nhằm mục đích cuối cùng là nâng cao chất lượng dạy và
học. Có lẽ đề tài của tơi cịn nhiều thiếu sót và hạn chế, tơi mong được các cấp
trên cùng các bạn đồng nghiệp góp ý kiến bổ sung để kinh nghiệm dạy học của
tôi thêm phong phú, hồn thiện góp phần nhỏ bé đưa sự nghiệp giáo dục phát
triển.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

MỤC LỤC


Một số biện pháp rèn kỹ năng nói trong mơn tập làm văn cho học sinh lớp 3.
NỘI DUNG
PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài
1. Nhiệm vụ của mơn tiếng Việt trong trường học
2. Vai trò, nhiệm vụ của phân môn Tập làm văn trong dạy học
tiếng Việt
3. Nội dung dạy học và các hình thức luyện tập của phân môn
Tập làm văn

4. Thực trạng dạy học phân môn Tập làm văn ở Tiểu học
II. Mục đích nghiên cứu
III. Nhiệm vụ nghiên cứu
IV. Đối tượng và thời gian nghiên cứu
V. Phương pháp nghiên cứu
VI. Tài liệu tham khảo
PHẦN NỘI DUNG
Chương I: Cơ sở lí luận
Chương II: Cơ sở thực tiễn
Chương III: Biện pháp rèn kĩ năng nói trong phân môn Tập làm
văn cho học sinh lớp 3
Chương IV: Kết quả thực hiện
PHẦN KẾT LUẬN
NHỮNG KIẾN NGHỊ

TRANG
2
2
2
3
4
4
5
6
6
6
6
7
7
10

17
23
24
24

D. TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1. SGK Tiếng Việt 3 (tập 1, 2)- Nhiều tác giả - Nhà xuất bản GD
2. Vở bài tập Tiếng Việt 3 (tập 1,2) – Nhiều tác giả- Nhà xuất bản GD


Một số biện pháp rèn kỹ năng nói trong mơn tập làm văn cho học sinh lớp 3.
3. Chương trình tiểu học (ban hành kèm theo quyết định số 43/2001/QĐ)
Bộ giáo dục và đào tạo ngày 9/11/2001 của Bộ GD và đào tạo – Nhà xuất bản
Giáo dục.
4. Hỏi đáp về đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học (Đỗ Đình HoanNhà xuất bản Giáo dục 1996).
5. Giáo trình phương pháp dạy học Tiếng Việt I – Trường ĐHSPHN – Lê
Phương Nga - Đỗ Xuân Thảo – Lê Hữu Tỉnh – Nhà xuất bản Giáo dục 2000.
6. Dạy tập làm văn ở trường Tiểu học (Nguyễn Trí – NXBGD 1998)
7. Tài liệu tập huấn cán bộ giáo viên Đổi mới chương trình giáo dục phổ
thơng – Năm học 2003-2004.



×