HỌC VIỆN NƠNG NGHIỆP VIỆT NAM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ VÀ XÃ HỘI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
NGÀNH XÃ HỘI HỌC
THỰC TRẠNG GIÁO DỤC GIỚI TÍNH CHO CON CÁI TRONG GIA ĐÌNH
NƠNG THÔN
(Nghiên cứu trường hợp tại xã Yết Kiêu, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương)
Sinh viên: Phạm Quang Long
Giảng viên hướng dẫn: Th.s Trần Thanh Hương
Hà Nội, 2018
1
Mục Lục
2
1. Đặt vấn đề
Trong xã hội từ xưa đến nay, giáo dục giới tính là một vấn đề mang tính
nhạy, tế nhị, thầm kín. Vì vậy, việc giáo dục giới tính cho trẻ vị thành niên vẫn
chưa được coi trọng đúng mức ở trong gia đình và nhà trường.
Sự phát triển mạnh mẽ của của nền kinh tế thị trường và sự bùng nổ của
công nghệ thông tin đã làm biến đổi đời sống kinh tế - văn hóa – xã hội không chỉ
ở thành thị mà ở cả nông thơn. Kéo theo đó là sự biến đổi về cơ cấu, vai trị trong
gia đình nơng thơn. Theo thống kê của Hội Kế hoạch hóa gia đình Việt Nam, mỗi
năm cả nước có 1,2 đến 1,6 triệu ca nạo phá thai, trong đó 20% ở lứa tuổi vị thành
niên. Có những phụ sản mới chỉ 12 tuổi. Còn Điều tra Quốc gia về vị thành niên và
thanh niên Việt Nam cho thấy 7,6% trong độ tuổi này có quan hệ tình dục trước
hơn nhân, khơng hiểu biết về sức khỏe sinh sản và tình dục, số trẻ em hư, phạm
pháp ngày càng nhiều (Thu Hoài, 2017).
Độ tuổi các em tuổi vị thành niên chủ yếu vẫn đang ngồi trên ghế nhà trường
song, tỷ lệ giáo dục giới tính trong trường học tại Việt Nam rất thấp (chỉ có khoảng
0.3% trường Trung học phổ thơng có đưa giáo dục giới tính vào giảng dạy cho học
sinh). Thiếu hụt kiến thức về giới tính và kỹ năng sống là nguyên nhân chủ yếu dẫn
đến số lượng mang thai ở tuổi vị thành niên ngày càng tăng cao (Nguyễn Trang,
2016).
Chính vì các lý do trên, cha mẹ lúc này đóng vai trị rất quan trọng giúp cho
con cái nhận thức đúng, lựa chọn đúng thơng tin về giới tính bởi trong những mơi
trường học đường trẻ chỉ được học kiến thức về giới tính qua sách vở mà cịn ở
mức rất hạn chế, chỉ có cha mẹ là người thật sự gần gũi mới có thể tâm sự cho con
em mình hiểu rõ được. Sự im lặng hoặc giải thích qua hay quát mắng của cha mẹ
trước những thắc mắc, cần được giả đáp của trẻ gây ra những ý nghĩ hoang mang
3
hoặc tị mị đi tìm hiểu. Từ đó dẫn đến những cách hiểu chưa đúng và dẫn đến
những hành vi sai lầm của trẻ. Giáo dục giới tính có nội dung và phương pháp phù
hợp với từng lứa tuổi của trẻ sẽ giúp trẻ nhận thức được vấn đề giới tính và có hành
vi đúng. Từ đó trẻ tự bảo vệ được chính mình, có được đời sống tâm lý lành mạnh,
điều này sẽ giúp các em có cuộc sống gia đình hạnh phúc, góp phần phát triển xã
hội. Đây là mối quan tâm trung của toàn xã hội, mỗi gia đình và mỗi cá nhân.
Giáo dục giới tính, hiểu một cách đầy đủ là sự giáo dục về sinh lý cơ thể, vệ
sinh thân thể, sức khỏe sinh sản và tình dục. Thế nhưng ở nhiều gia đình, các bà
mẹ khơng giải thích được cho con những điều căn bản nhất về việc giáo dục giới
tính cho con cái. Cha mẹ cũng chưa hiểu được rằng nhu cầu tìm hiểu về giới tính
của con cái là điều tự nhiên, cần thiết và tất yếu nên họ không giáo dục cho con về
vấn đề này, nhiều người hiểu vấn đề nhưng vì ngại nên khơng muốn nói ra. Ở nước
ta, giáo dục giới tính khơng được hiểu theo đúng nghĩa của nó. Gia đình Việt Nam
ngày nay cịn chịu ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng phong kiến và bởi vậy, việc
giáo dục giới tính hạn chế trong những lời răn dạy về đạo đức. Hoạt động giáo dục
giới tính phổ biến trong các gia đình chỉ dừng lại ở góc độ dạy vệ sinh thân thể ở
tuổi dậy thì. Với nhiều bậc phụ huynh, giáo dục tình dục hầu như chưa bao giờ
được đặt ra (Nguyễn Xuân Huệ, 2012).
Trên thực tế đã có nhiều trường hợp các em nam phạm tội hiếp dâm, các em
nữ có thai ở tuổi vị thành niên. Nhiều trẻ ở lứa tuổi 14-15, còn cắp sách đến
trường, chưa có kinh nghiệm về cuộc sống gia đình nhưng đã phải làm cha mẹ do
thiếu hiểu biết về tình dục. Đây là vấn đề làm đau đầu người lớn và người ta cho
rằng nguyên nhân là do tác động từ kinh tế thị trường, sự du nhập của văn hóa
ngoại lai, chạy theo lối sống ăn chơi, suy đồi về mặt đạo đức. Vì vậy “Giáo dục
giới tính” là một thuật ngữ rộng miêu tả việc giáo dục về giải phẫu sinh dục, quan
hệ tình dục, sức khoẻ sinh sản, các quan hệ tình cảm, quyền sinh sản và các trách
4
nhiệm, biện pháp tránh thai, và các khía cạnh khác của thái độ tình dục lồi người.
Những cách giáo dục giới tính thơng thường là thơng qua cha mẹ, người chăm sóc,
các chương trình trường học và các chiến dịch sức khoẻ cộng đồng.
Theo Thu ca, 2017 trong một cuộc khảo sát gần 4700 thanh niên chỉ có
2,6% cho biết kiến thức về giới tính được bố mẹ giáo dục. Trung tâm nghiên cứu
tâm lý và sự phát triển nhanh của thanh thiếu niên giải thích: “Các bậc phụ huynh
ln cho rằng những vấn đề liên quan tới giới tính rất tế nhị. Mặt khác, con mình
cịn q nhỏ để tìm hiểu về những vấn đề ấy. Có khi chính phụ huynh cũng khơng
nắm rõ kiến thức về giới tính để diễn đạt cho con mình hiểu”. Chính vì thế mà
nhiều trường hợp đáng tiếc đã xảy ra như: Con mắc bệnh thủ dâm, quan hệ tình
dục trước tuổi trưởng thành, biến đổi giới tính…
Trước thực trạng đáng báo động như trên, bên cạnh những kiến thức các em
được học ở nhà trường thì gia đình cũng cần thực hiện các biện pháp giáo dục giới
tính cho con em mình để con có những suy nghĩ đúng đắn, có những hành vi đúng
mực về tình yêu và tình dục để các em có thể tự bảo vệ sức khỏe bản thân mình.
Trong gia đình nơng thơn tầm quan trọng của giáo dục giới tính cho con cái như
thế nào? Những khó khăn mà cha mẹ gặp phải khi giáo dục giới tính cho con là gì?
Vì vậy, nhằm tìm hiểu thực trạng giáo dục giới tính cho con owrcasc gia đình ở
nơng thơn.tơi chọn đề tài: “Thực trạng giáo dục giới tính cho con cái trong gia
đình nơng thơn hiện nay (nghiên cứu tại địa bàn xã Yết Kiêu, huyện Gia Lộc,
tỉnh Hải Dương)”
2. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
2.1. Các lý thuyết nền cho đề tài nghiên cứu
2.1.1. Lý thuyết xã hội hóa
Theo Ely Chinoy (1961) xã hội hóa gồm 2 chức năng chủ yếu:
5
- Chuẩn bị cho cá nhân những vai trò mà người ấy sẽ thực hiện, cung cấp nội
dung cần thiết về thói quen tín ngưỡng, các giá trị, mẫu thức về cách ứng dụng tình
cảm, cách nhận thức, các kỹ năng và các nhận thức cơ bản.
- Truyền thông những nội dung văn hóa từ thế hệ này sang thế hệ khác để
duy trì sự bền vững và tương ứng về văn hóa.
Xã hội hóa sẽ mang đến cho cá nhân những ký năng cần thiết mà xã hội đòi
hỏi, nhờ các ký năng đó có đủ khả năng hịa nhập mà chính họ đang sống và làm
việc. Q trình xã hội hóa có thể đi từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ ít
đến nhiều. Quá trình xã hội hóa diễn ra ở ba q trình: gia đình, nhà trường, giai
đoạn mà người ta thực sự bước vào đời. Đây là ba tác nhân giúp cá nhân hịa nhập
vào xã hội. Trong q trình xã hội hóa của một cá nhân chúng ta cần chú ý đến q
trình đứt đoạn xã hội hóa thì phải tái hòa nhập dù vậy ở đây xảy ra trường hợp nếu
cá nhân đã bị đứt đoạn xã hội hóa quá lâu thì việc tái hịa nhập là rất khó khăn
(Nguyễn Văn Đồng, 2007).
Vận dụng lý thuyết này để tìm hiểu về đề tài thực trạng giáo dục giới tính
của mẹ cho con gái trong gia đình nơng thơn, dưới góc độ tìm hiểu những yếu tố
tác động và ảnh hưởng của văn hóa lên nhận thức của mẹ trong việc giáo dục giới
tính cho con gái của họ chẳng hạn như trình độ học vấn, thu nhập, lối sống, văn
hóa,… Từ đó hình thành nên những đặc điểm trong suy nghĩ của bậc cha mẹ về
vấn đề giới tính. Có thể nói đa số cha mẹ ở Việt Nam đều đánh giá sai về tầm quan
trọng của việc giáo dục giới tính, họ coi giáo dục giới tính là một vấn đề tế nhị nên
thường lảng tránh khi con cái đề cập đến nó.
2.1.2. Lý thuyết cấu trúc chức năng
Theo lý thuyết cấu trúc chức năng của Robert Merton (1910) thì xã hội là
một hệ thống tương đối ổn định và chặt chẽ được cấu thành từ các tiểu hệ thống.
6
Đến lượt mình, mỗi tiểu hệ thống lại được coi là một hệ thống và được cấu thành
từ các tiểu hệ thống nhỏ hơn. Mỗi bộ phận của hệ thống hoặc tiểu hệ thống đều giữ
vai trò nhất định, phù hợp nhằm duy trì sự ổn định và đảm bảo sự phát triển của
toàn hệ thống.
Như vậy, bất kỳ một sự vật, hiện tượng nào trong xã hội cũng đều có những
chức năng riêng của mình, mà nếu thiếu đi sự vật hiện tường đấy cũng như chức
năng tương ứng của nó thì xã hội khơng thể tồn tại được.
Vận dụng lý thuyết này có thể xem xét nhà trường – gia đình – xã hội là
những tiểu hệ thống và hoạt động giáo dục tri thức khoa học cũng như giáo dục
giới tính là những tiểu hệ thống nhỏ hơn. Và trong đời sống xã hội nếu thiếu đi bất
kỳ một tri thức nào thì con người đó khó có thể phát triển bình thường. Việc giáo
dục giới tính cho con cái trong gia đình phải được xem là việc cần làm ngay và
trách nhiệm, chức năng của gia đình – nhà trường – xã hội nhằm giúp con em mình
có thể phát triển hài hịa về thể chất và tinh thần.
2.2. Các nghiên cứu liên quan
2.2.1. Thực trạng giáo dục giới tính trong gia đình
Ở nước ta, vấn đề giáo dục giới tính trong gia đình đã được nghiên cứu từ rất
lâu và rất được coi trọng. Nói về giáo dục gia đình, hầu hết các nghiên cứu thường
đề cập đến việc giáo dục đạo đức, giáo dục tri thức cho con cái trong gia đình.
Ngay từ khi cịn rất nhỏ trẻ đã có những thắc mắc, tị mị về vấn đề giới tính
thơng qua các câu được đặt ra cho bố mẹ. Đó chính là những tìm hiểu đầu tiên về
giới tính chính đáng cần được bố mẹ giải đáp rõ ràng, khéo léo, dễ hiểu chứ không
phải lảng tránh hoặc lờ đi. Bắt đầu từ những hỏi - đáp như thế, bố mẹ có thể giáo
dục giới tính cho con rất nhẹ nhàng và tự nhiên. Nếu bố mẹ có thói quen bỏ qua
khơng đối mặt với những câu hỏi hóc búa của con hoặc những câu hỏi liên quan
7
đến các vấn đề tế nhị, khơng sớm thì muộn đứa trẻ sẽ tiếp cận nguồn thông tin khác
để thỏa mãn tị mị của mình. Vơ hình chung, đây chính là bước đầu tiên cho việc
chính các phụ huynh bị sốc sau này khi bé con nói những kiến thức thu nhặt được
bên ngoài, từ các nguồn đáng tin hoặc chưa được kiểm chứng (Thụy Anh, 2012).
Trung tâm Sáng kiến sức khỏe và dân số tác giả đã chứng minh việc thiếu
hụt kiến thức về giới tính ở độ tuổi vị thành niên là rất lớn, đồng thời cũng chỉ ra
những sai lầm trong quan niệm của cha mẹ và thầy cơ trong việc giáo dục giới tính.
Theo tác giả việc giáo dục giới tính trong nhà trường cịn mang tính hàn lâm, khơ
cứng, khơng thiết thực, khiến cho nó trở nên nhàm chán không thu hút được sự
quan tâm và hứng thú của học sinh. Vì thế, các em có xu hướng tự tìm hiểu, khám
phá, đây chính là nguyên nhân dẫn đến những suy nghĩ và hành vi lệch lạc về giới
tính. Bài viết cũng thể hiện những mong muốn của trẻ trong việc tiếp cận với
những thông tin về giới, họ mong muốn người lớn coi chuyện tình yêu tình dục
tuổi vị thành niên một cách nghiêm túc. Thông qua bài viết tác giả muốn nhấn
mạnh tầm quan trọng của việc giáo dục về giới tính, mà vai trò của người lớn đối
với vấn đề này.
Sự thiếu hụt kiến thức về giới tính và chăm sóc SKSS vị thành niên là
nguyên nhân chủ yếu dẫn đến số lượng mang thai ở tuổi vị thành niên ngày càng
tăng cao. Trong số học sinh THPT thừa nhận từng có quan hệ tình dục thì có đến
29.5% các em nam cho biết không sử dụng bao cao su trong lần quan hệ gần nhất;
và chỉ có 8% các em học sinh nữ nói rằng mình có sử dụng ít nhất một hình thức
phịng tránh thai nào đó (bao gồm nhiều hình thức khơng khoa học như uống nước
chanh; quan hệ đứng và vệ sinh vùng kín ngay sau khi quan hệ bằng chanh). Đáng
nói, khoảng 10% học sinh THPT báo cáo đã từng quan hệ với từ 3 người trở lên,
khoảng 15% các em có sử dụng các chất kích thích (gồm cả rượu, các dạng ma
túy) trong lần quan hệ gần nhất (cụ thể là trong các hoạt động sự kiện chung của
8
lớp, của trường). Những số liệu điều tra khác cho biết có khoảng 20% học sinh
THPT đã từng trải nghiệm bị quấy rối tình dục học đường nhưng 80% trong số đó
xác định rằng đó chỉ là hành vi tán tỉnh hoặc chọc ghẹo. Cũng có khoảng 25% học
sinh báo cáo mình đã từng bị bắt nạt, quấy rối qua email, điện thoại, gửi ảnh chế
sexy, liên tục nhắn tin hẹn hò, dọa dẫm sẽ phá hủy mối quan hệ với người yêu…
( Hồng Minh, 2018).
Theo thống kê, hiện Việt Nam là một trong 3 nước dẫn đầu thế giới về tỷ lệ
phá thai với khoảng từ 1,2 - 1,6 triệu ca phá thai mỗi năm, trong đó độ tuổi vị
thành niên chiếm 20%. Tình hình nạo phá thai có xu hướng tăng trong những năm
gần đây. Việc mang thai ở tuổi vị thành niên để lại những hậu quả nặng nề do các
bà mẹ nhỏ tuổi còn quá trẻ, thể chất và tinh thần chưa phát triển để sẵn sàng làm
mẹ (Mai Hoa, 2013).
Nhiều nguyên nhân dẫn đến việc trẻ em khơng được giáo dục giới tính từ
cha mẹ, nhà trường do tâm lý ngại ngùng nên họ sẽ im lặng trước các câu hỏi liên
quan tới giới tính mà các em thắc mắc thì các em sẽ tị mị mà tìm đếm các mạng
xã hội, sách báo... để thỏa chí tị mị. các bậc phụ huynh chỉ thỉnh thoảng hay lúc
con cái thắc mắc về vấn đề giới tính mới bày tỏ, nói cho con hiểu nhưng mà vẫn
khơng giải thích tỉ mỉ cho con cái, nhưng giải thích cũng chỉ dựa vào kinh nghiệm
và hiểu biết của bản thân. Hầu hết các bậc phụ huynh ủng hộ vấn đề GDGT trong
trường học nhưng cũng có một bộ phận các phụ huynh khơng đồng ý vì sợ ảnh
hưởng tới tâm lý trẻ nếu GDGT quá sớm. Mục đích cuối cùng mà giáo dục giới
tính mang lại cho các em đó chính là trang bị những kiến thức tâm lý đặc điểm của
mỗi giới. Tác giả cũng đã có những số liệu cụ thể về tính cần thiết cũng như mức
độ hiểu biết về giới tính của các bậc cha mẹ trong đó thì phần lớn cha mẹ vẫn ý
thức được tầm quan trọng của những cuộc nói chuyện trao đổi trực tiếp với con
cái. Nhưng cũng có một số bộ phận cha mẹ còn chưa ý thức được tầm quan trọng
9
của GDGT cho thấy họ vẫn cịn có những tầm nhìn hạn hẹp, theo xu hướng truyền
thống hơn là hiện đại. Thơng điệp mà tác giả giửi đến đó là cha mẹ cần nghiêm túc,
tế nhị trong giảng dạy về giới tính cho con trẻ và khơng được đánh trống lảng hay
bỏ mặc trẻ trong những vấn đề nhạy cảm như giáo dục giới tính.
Bài nghiên cứu '' Sức khỏe sinh sản thanh thiếu niên Việt Nam '' nằm trong
chương trình điều tra ban đầu của RHIYA (Sáng kiến sức khỏe thanh thiếu niên
châu Á ) do Nguyễn Thị Thiềng và Lưu Bích Ngọc thực hiện năm 2006, đã chỉ ra
những sai lầm trong kiến thức về giới tính nói chung và sức khỏe sinh sản nói
riêng. Các kiến thức hợp về sức khỏe sinh sản-tình dục, tránh thai và các bệnh liên
quan đến đường tình dục chỉ được xác định ở mức biết ban đầu, chỉ có 21% thanh
thiếu niên được đánh giá là có kiến thức này. Trong đó, kiến thức về sinh sản và
phịng tránh thai được đánh giá là kém nhất trong các kiến thức về sức khỏe sinh
sản, chỉ có 46.7% thanh thiếu niên có kiến thức đúng về sinh sản. Kiến thức về
bệnh liên quan đến đường tình dục là kém thứ hai chỉ có 1/3 thanh thiếu niên được
hỏi nêu được tên ba loại bệnh trở lên, rất ít trong số đó biết được cách chữa trị và
nơi chữa trị. Kiến thức về về sử dụng biện pháp tránh thai được đánh giá là kém
thứ ba. Từ những kết quả nghiên cứu cứu này, đề tài đã cho chúng ta một bức tranh
tổng quát về kiến thức, thái độ, hành vi về sức khỏe sinh sản.
Sự phát triển kinh tế - xã hội ngày càng đa dạng và phức tạp tác động trực
tiếp đến đời sống tâm lý lứa tuổi học sinh với nhiều biểu hiện đáng lo ngại. Theo
khảo sát gần đây của Bộ Giáo dục và Ðào tạo tại một số trường THCS, THPT, đại
học ở Hà Nội, Hải Dương, hầu hết học sinh, sinh viên gặp khó khăn vướng mắc
tâm, sinh lý (trong đó khối phổ thơng là 95,33%, đại học là 85,92%). Ðặc biệt, ở
lứa tuổi học sinh phổ thơng, mức độ thường xun có những vướng mắc và cần
chia sẻ là cao nhất với 80,17%. 82,31% học sinh được hỏi đều mong muốn nhà
trường, cơ sở giáo dục có phịng tư vấn tâm lý riêng, kín đáo để thuận tiện cho các
10
em. Phần lớn học sinh sinh viên mong muốn trong nhà trường có cán bộ chuyên
trách tư vấn tâm lý được đào tạo bài bản, có chun mơn về tâm lý học đường để
giúp các em chia sẻ những khó khăn, vướng mắc (Quang Huy, 2018).
Trước thực trạng trên, trong giai đoạn hiện nay khi mà giáo dục giới tính
cho trẻ em trong nhà trường và xã hội vẫn còn là vấn đề gây nhiều tranh cãi thì gia
đình hay nhà trường đều là những cá nhân tổ chức đóng vai trị đặc biệt quan trọng
trong giáo dục giới tính cho con cái vì những nhận biết ban đầu của trẻ là thông
qua tiếp xúc ban đầu với cha mẹ và cha mẹ chính là người phát hiện sự trưởng
thành về mặt sinh lý của con. Tuy nhiên, do các bậc cha mẹ vẫn thiếu kiến thức về
giáo dục giới tính và sự bận rộn của cơng việc nên rất ít trẻ nhận được thông tin
giáo dục một cách đầy đủ. Tác giả cũng nhấn mạnh vai trò đặc biệt của cha mẹ
trong việc chăm sóc và giáo dục giới tính cho con cái trong giai đoạn tuổi dậy thì.
Để giáo dục giới tính cho con một cách hiệu quả, cha mẹ phải tự tin vào việc giáo
dục giới tính của mình, tùy vào lứa tuổi mà có nội dung giáo dục và phương pháp
phù hợp nhất cho con mình. Nên thẳng thắn trả lời các thắc mắc của trẻ. Sự im lặng
hay giấu diếm chỉ làm con cái mất lòng tin vào cha mẹ (Đào Thị Vân Anh, 2012).
Giáo dục giới tính là một q trình lâu dài, địi hỏi sự kiên trì, bền bỉ. Do đó
gia đình, xã hội, nhà trường cần có sự phối hợp đồng bộ, thống nhất chặt chẽ trong
việc giáo dục nhận thức về giới tính cho học sinh. Nội dung giáo dục giới tính cần
phù hợp với lứa tuổi, mục tiêu, phương pháp, hình thức tổ chức, từ đó, giúp học
sinh nhận thức đúng đắn về giới tính, về giáo dục giới tính, hình thành cho các em
thái độ, niềm tin và những giá trị đạo đức phù hợp về giới, về các mối quan hệ tình
cảm, cư xử, giao tiếp trong cuộc sống (Nguyễn Xn Huệ, 2012).
Các cơng trình nghiên cứu, bài viết trên đều đề cập đến những vấn đề của
giới tính cũng như giáo dục giới tính cho trẻ em, vị thành niên và thanh niên. Điều
11
này đã đặt ra những nền tảng cho tác giả tìm hiểu về vấn đề giáo dục giới tính cho
trẻ trong gia đình. Tuy nhiên, do mỗi cơng trình đều có cách tiếp cận riêng về giáo
dục giới tính cho con cái chưa được đề cập một cách đầy đủ. Hẩu hết các cơng
trình nghiên cứu ở nước ta sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng nên bản
chất của vấn đề giáo dục giới tính chưa được hiểu sâu sắc ở mọi khía cạnh. Do đó,
giáo dục giới tính còn rất nhiều điều còn đáng bàn cho các nhà nghiên cứu về xã
hội học. Tập trung đi sâu phân tích vai trị vai trị cha mẹ trong giáo dục giới tính
cho con cái trong gia đình nơng thơn hiện nay, đi sâu vào các yếu tố tác động đến
việc giáo dục giới tính cho con cái của cha mẹ trong gia đình nơng thơn hiện nay.
2.2.2. Các nghiên cứu liên quan đến những khó khăn cha mẹ gặp phải khi giáo
dục giới tính
Giáo dục giới tính là cơng việc quan trọng. Cha mẹ giáo dục cho con cái về
vấn đề giới tính phải hết sức tế nhị, khéo léo, nghiêm túc giảng giải cho con những
điều cần biết. Trong gia đình, cha tâm sự với người con trai, mẹ sự với người con
gái. Giáo dục giới tính cần tùy thuộc vào lứa tuổi, hoàn cảnh cụ thể mới mang lại
hiệu quả. Nghiên cứu cũng cho rằng giáo dục cảu cha mẹ hiện nay cũng chưa cao,
cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao hiểu biết của cha mẹ về vấn đề này
để việc giáo dục thực sựu diễn ra hiệu quả. Nghiên cứu đi sâu vào khía cạnh do
nguyên nhân giáo dục giới tính là vấn đề nhạy cảm, phụ huynh chưa có kiến thức
chuyên sâu, dẫn đến việc truyền đạt giữa cha mẹ và con cái còn nhiều khó khan,
tuy nhiên chưa đi vào nghiên cứu các khó khan gặp phải từ các góc độ của trẻ, các
nguyên nhân từ phía xã hội, cộng đồng (Nguyễn Thị Tố Quyên, 2005).
Các khó khăn cha mẹ gặp phải khi giáo dục giới tính cho con: nhiều cha mẹ
cho rằng đây là đề tài khá nhạy cảm và thiết yếu trong tình hình hiện nay cho lứa
tuổi đang lớn, khi các bậc phụ huynh gặp khơng ít khó khăn trong việc truyền đạt
cho con em những vấn đế liên quan đến giới tính, tình dục. Cha mẹ chưa hiểu
12
được rằng nhu cầu tìm hiểu về giới tính của con cái là điều tự nhiên, cần thiết và tất
yếu nên họ không giáo dục cho con về vấn đề này, nhiều người hiểu vấn đề nhưng
vì ngại nên khơng muốn nói ra. Ở nước ta, giáo dục giới tính khơng được hiểu theo
đúng nghĩa của nó. Gia đình Việt Nam ngày nay còn chịu ảnh hưởng nặng nề của
tư tưởng phong kiến và bởi vậy, việc giáo dục giới tính hạn chế trong những lời răn
dạy về đạo đức. Hoạt động giáo dục giới tính phổ biến trong các gia đình chỉ dừng
lại ở góc độ dạy vệ sinh thân thể ở tuổi dậy thì.Với nhiều bậc phụ huynh, giáo dục
tình dục hầu như chưa bao giờ được đặt ra. Bố mẹ thường tránh tham gia vào các
cuộc thảo luận liên quan đến giáo dục giới tính. Khi nói chuyện với con cái về tính
dục, các ơng bố thường hạn chế đề cập tới quan hệ tình dục. Chính vì các quan
niệm sai lầm đó của các bậc phụ huynh mà khơng ít lần người lớn “đỏ mặt” trước
các thắc mắc của con (Ngọc Vân, 2015).
Qua một số nghiên cứu trên ta có thể thấy vấn đề giáo dục giới tính cho trẻ
đang được nhiều nhà khoa học quan tâm, đây là vấn đề cấp bách cần được giải
quyết. Để tìm hiểu thêm về vấn đề này, tìm hiểu thêm nhận thức, nội dung cũng
như phương pháp hay những khó khăn gặp phải của cha mẹ khi giáo dục giới tính
cho con cái ở nơng thơn.
2.3. Các khái niệm liên quan đến đề tài
2.3.1. Khái niệm giáo dục
13
“Giáo dục là hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự phát
triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó, làm cho đối tượng đó có những
phẩm chất và năng lực do yêu cầu đề ra” (Hà Minh Khương, 2008).
Chức năng cơ bản của giáo dục là xã hội hóa thế hệ trẻ, duy trì tính liên tục
văn hóa xã hội, là sự truyền đạt những kinh nghiệm lịch sử xã hội được tích lũy
trong q trình phát triển của lồi người nhăm đảm bảo quá trình sản xuất xã hội,
đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội.
Giáo dục được hiểu là quá trình hình thành và phát triển nhân cách dưới
ảnh hưởng của tất cả các hoạt động từ bên ngoài, được thực hiện một cách có ý
thức của con người trong nhà trường, gia đình và ngồi xã hội. Trong bài nghiên
cứu, giáo dục được hiểu như một quá trình dạy và truyền đạt các kiến thức về giới
tính của gia đình đốivới trẻ vị thành niên trong độ tuổi từ 11-15 tuổi.
2.3.2. Khái niệm gia đình, gia đình nơng thơn
Khái niệm gia đình
Gia đình là một thiết chế xã hội đặc biệt liên kết con người lại với nhau
nhằm thực hiện việc duy trì nịi giống và chăm sóc con cái. Các mối quan hệ gia
đình cịn được gọi là mối quan hệ họ hàng. Đó là những sự liên kết ít nhất cũng là
của hai người dựa trên cơ sở huyết thống, hôn nhân và việc nhận con nuôi. Những
người này có thể sống cùng hoặc sống khác mái nhà (Lê Thị Quý, Đặng Cảnh
Khanh, 2007).
Từ góc độ xã hội học đưa ra định nghĩa: “gia đình là một thiết chế xã hội đặc
thù, một nhóm xã hội nhỏ mà các thành viên của nó gắn bó với nhau bởi quan hệ
hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ con ni, bởi tính cộng đồng về sinh
hoạt, trách nhiệm đạo đức với nhau nhằm đáp ứng những nhu cầu của các thành
14
viên cũng như để thực hiện tính tất yếu của xã hội về tái sản xuất con người” (Đỗ
Thị Bình, Lê Ngọc Văn, Nguyễn Linh Khiếu, 2002).
Tóm lại khái niệm gia đình trong đề tài được hiểu là “Gia đình là một tập
hợp hay một nhóm người có chung huyết thống hoặc có quan hệ hơn nhân với
nhau thường chung sống với nhau và hợp tác về kinh tế với nhau nhằm đảm bảo
thỏa mãn nhu cầu cơ bản trong cuộc sống của họ về duy trì giống nịi, ni dạy con
cái, chăm sóc các thành viên trong gia đình.
Khái niệm gia đình nơng thơn
Trong những thiết chế tồn tại trong xã hội nơng thơn thì gia đình là một thiết
chế quan trọng nhất. Nó trở thành nền tảng hết sức cơ bản. Nó đóng vai trị to lơn
trong đời sống vật chất và đời sống văn hóa của tồn bộ nông thôn. Trên thực tế,
theo một số nhà tư tưởng, gia đình và chủ nghĩa gia đình đã in dấu lên tồn bộ cấu
trúc của nơng thơn. Chủ nghĩa gia đình thấm sâu vào vấu trúc xã hội nơng thôn từ
trên xuống dưới.
Hầu hết trong những xã hội nông nghiệp, gia đình phụ quyền là hình thức
gia đình nổi bật trong các vùng nông thôn. Theo (Tô Duy Hợp, 2007) gia đình
nơng thơn gồm những đặc điểm sau:
Thứ nhất, gia đình nơng thơn có tính thuần nhất lớn hơn: về mặt chủng tộc
và tâm lý, bền vững hơn, hợp lý hơn và thực hiện chức năng hữu cơ hơn so với gia
đình đơ thị.
Thứ hai, hầu hết các thành viên trong gia đình nơng thơn gắn với nghề nơng.
Thứ ba, gia đình nơng thơn có kỷ luật chặt chẽ hơn và sự phụ thuộc lẫn nhau
nhiều hơn. Các thành viên trong gia đình nơng thơn phụ thuộc vào nhau nhiều hơn
và phụ thuộc vào gia đình nhiều hơn so với gia đình đơ thị.
15
Thứ tư, sự độc đoán của người cha trong gia đình nơng thơn thể hiện rõ hơn
trong gia đình đơ thị. Trong gia đình nơng thơn, người cha thường là người lãnh
đạo gia đình. Người cha phân cơng cơng việc cho các thành viên khác, mọi thành
viên đều dưới quyền cha.
Và cuối cùng, gia đình nơng thơn tích tích cực hơn vào những hoạt động
chugn. Phần lớn thời gian trong ngày, các thành viên trong gia đình làm việc với
nhau và gắn với công việc của hộ nông dân.
2.3.3. Khái niệm giới, giới tính:
Khái niệm giới:
Theo (Lê Thị Quý, 2011) thì giới là quan hệ xã hội giữa nam và nữ, cách
thức mối quan hệ đó được xây dựng nên trong xã hội. Theo (Hoàng Bá Thịnh,
2008), giới đề cập đến mối quan hệ giữa nam và nữ. Trong mối quan hệ ấy có sự
phân biệt về vai trị, trách nhiệm, hành vi hoặc sự mong đợi mà xã hội đã quy định
cho mỗi giới. Những quy định, mong đợi xã hội này phù hợp với các đặc điểm văn
hóa, chính trị, kinh tế, xã hội và tơn giáo, vì thế nó ln biến đổi theo các giai đoạn
lịch sử và có các khác biệt giữa các cộng đồng, xã hội.
Giới là một thuật ngữ chỉ vai trò xã hội, hành vi ứng xử xã hội và những kỳ
vọng liên quan đến nam và nữ. Là một phạm trù xã hội, giới cũng giống như chủng
tộc, tộc người và đăng cấp, trong một, mức độ lớn, sẽ quyết định cơ hội cuộc sống
của con người, xác định vai trò của mỗi chúng ta trong xã hội và trong nền kinh tế.
Khái niệm giới tính và giáo dục giới tính:
Theo (Lê Thị Quý, 2009) “giới tính là một thuật ngữ khoa học bắt nguồn từ
môn sinh vật học dùng để chỉ sự khác biệt về mặt sinh học giữa nam và nữ. Đo là
sự khác biệt phổ thông và không thay đổi được”.
16
Giáo dục giới tính là q trình giáo dục con người nhằm làm cho họ có
những nhận thức đúng đắn và đầy đủ về giới tính để họ có nếp sống văn minh lành
mạnh đồng thời cũng giúp họ hoàn thiện và phát triển nhân cách một cách tốt hơn
(Bùi Ngọc Oánh, 2006).
Tuy có nhiều quan điểm khác nhau về giáo dục giới tính nhưng chúng ta có
thể hiểu giáo dục giới tính là q trình giáo dục con người mà cụ thể là thanh thiếu
niên nhằm làm cho họ nhận thức được đầy đủ và đúng đắn về những kiến thức về
giới tính liên quan đến sức khỏe, tình dục, tình u giúp trẻ có nếp sống văn hóa
hướng đến hoàn thiện nhân cách một cách toàn diện đây cũng là khái niệm mà đề
tài đã sử dụng.
3. Mục tiêu nghiên cứu:
3.1. Mục tiêu chung:
- Thực trạng giáo dục giới tính cho con cái trong gia đình nơng thơn hiện nay
3.2. Mục tiêu cụ thể:
- Nhận thức của mẹ đối với việc giáo dục giới tính cho con cái trong gia đình tại xã
Yết Kiêu, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương
- Nội dung, phương pháp giáo dục giới tính cho con tại các gia đình tại xã Yết
Kiêu, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương
- Khó khăn trong giáo dục giới tính ở các gia đình tại xã Yết Kiêu, huyện Gia Lộc,
tỉnh Hải Dương
4. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu:
4.1. Đối tượng nghiên cứu
17
- Đề tài trung nghiên cứu thực trạng giáo dục giới tính cho con gái trong gia đình
nơng thơn hiện nay.
4.2. Khách thể nghiên cứu
- Người mẹ trong các hộ gia đình nơng thơn có con gái đang trong độ tuổi từ 11-15
tuổi ở xã Yết Kiêu, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương.
4.3. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu nhận thức của mẹ về tầm quan
trọng của giáo dục giới tính, nội dung, phương pháp giáo dục và những khó khăn
gặp phải khi giáo dục giới tính cho con trong gia đình.
- Phạm vi không gian: Nghiên cứu mẹ trong hộ gia đình có con gái thuộc phạm vi
xã Yết Kiêu, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương.
- Phạm vi thời gian: Nghiên cứu từ tháng 1/2018 đến tháng 5/2018.
5. Nội dung nghiên cứu
5.1. Nhận thức của mẹ về tầm quan trọng của việc giáo dục giới tính trong gia
đình
5.1.1. Nhận thức của mẹ về giáo dục giới tính cho con gái trong gia đình
5.1.2. Thời gian mẹ bắt đầu giáo dục giới tính cho con gái trong gia đình
5.2. Nội dung, phương pháp giáo dục giới tính cho con tại các gia đình
5.2.1. Nội dung giáo dục giới tính cho con gái trong gia đình
5.2.2. Phương pháp giáo dục giới cho con gái trong gia đình
5.3. Khó khăn trong giáo dục giới tính cho con trong gia đình
18
5.3.1. Một số trở ngại từ phía mẹ khi giáo dục giơi tinh cho con gái trong gia
đình (thiếu kiến thức, tuổi, thời gian).
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Chọn địa điểm nghiên cứu
Yết Kiêu là một xã thuộc huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương. Xã có diện tích tự
nhiên 441,6 ha; dân số 8972 người, mật độ dân số đạt 1870 người/km2 (2016), xã
đang trong quá trình đẩy mạnh phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển nông thôn mới.
Năm 2016 thu nhập bình quan đầu người xã đạt 20,7 triệu đồng/năm, còn 32 hộ
nghèo trong xã, số hộ nghèo trong xã đã giảm đáng kể đời sống người dân ngày
càng được nâng cao (Báo cáo Tổng hợp kinh tế-xã hội-văn hóa xã Yết Kiêu, 2016).
Xã đã thực hiện tốt cơng tác tun truyền chính sách, vận động người dân về
các chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước. Các hoạt động có hiệu quả phải
kể đến cơng tác kế hoạch hóa gia đình ln được xã triển khai và mở rộng thông
qua một số các hoạt động văn hóa, văn nghệ kết hợp với hoạt động tuyên truyền
của hội phụ nữ, chính sách kế hoạch hóa gia đình. Có 92% các hộ gia đình trong xã
đạt danh hiệu gia đình văn hóa. Tỷ lệ sinh của tồn xã năm 2016 là 1,7% giảm
0,2% so với năm 2015, tỷ lệ sinh con thứ 3 của toàn xã vẫn đang ở mức cao năm
2016 là 10% giảm 1,1% so với năm 2015 (Tổng kết Kế hoạch hóa gia đình xã Yết
Kiêu, 2016).
Tồn xã có 4 trường mầm non, 2 trường tiểu học, 1 trường trung học cơ sở
đã đáp ứng được nhu cầu tới trường của trẻ. Trong những năm gần đây, cùng với
sự phát triển kinh tế - xã hội các tệ nạn ngày càng xuất hiện nhiều hơn, tình trạng
các em bỏ học, trốn học vướng vào các tụ điểm giải trí, muốn từ bỏ học quên đi
việc đi học. Năm 2016, trường THCS của xã đã có 11 em bỏ học đi làm ở các
thành phố lớn và các khu cơng nghiệp, 2 em do gia đình không đủ điều kiện kinh tế
19
nên đã bỏ học, 5 em đã bị kỷ luật do vi phạm nội quy nhà trường tụ tập đánh nhau
(Báo cáo Tổng hợp kinh tế-xã hội-văn hóa xã Yết Kiêu, 2016). Theo kết quả khám
sức khỏe định kỳ của trẻ em tại trạm y tế xã, tình trạng trẻ vị thành niên có dấu
hiệu phát triển sớm, quan hệ tình dục sớm đang gia tăng, yêu cầu đặt ra cần phải có
giải pháp cụ thể hướng dẫn cho trẻ hiểu rõ về giới tính, giúp trẻ định hướng được
giá trị bản thân. Tình trạng kết hơn sớm ở dưới độ tuổi 20 là 17% năm 2016, những
vấn đề trên cho thấy cơng tác giáo dục giới tính cho trẻ trong gia đình vẫn chưa
được đẩy mạnh và tâm đúng mức, các em vẫn chưa nhận thức được hậu quả khi
chưa nắm được các vấn đề giới tính (Tổng kết Kế hoạch hóa gia đình xã Yết Kiêu,
2016).
6.2.1. Thu thập thông tin thứ cấp
Đề tài sử dụng phương pháp thu thập thơng tin thứ cấp phân tích từ các
nguồn sách chuyên ngành, sách giáo khoa, báo, tạp chí, những bài nghiên cứu,
những luận văn, luận án, mạng Internet liên quan đến vấn đề giáo dục giới tính
trong gia đình nơng thôn. Đồng thời cũng thu thập những thông tin liên quan đến
tình hình địa phương từ UBND xã Yết Kiêu, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương.
6.2.2. Thu thập thông tin sơ cấp
6.2.2.1. Phương pháp điều tra bảng hỏi
- Phương pháp chọn mẫu: tồn địa bàn xã Yết Kiêu có 215 hộ gia đình có con
trong độ tuổi từ 11-15 tuổi, chọn 60 hộ gia đình có mẹ và con gái đang trong độ
tuổi từ 11-15 để nghiên cứu.
- Phương pháp điều tra bảng hỏi: đề tài sử dụng 60 bảng hỏi với đối tượng là mẹ có
con gái đang trong độ tuổi từ 11-15 tuổi, độ tuổi các em có nhiều thay đổi về tâm
sinh lý rất cần được cung cấp kiến thức cơ bản về vấn đề giới tính, mà mẹ là người
gần gũi, dễ định hướng, chia sẻ. Sau đó tiến hành điều tra bằng bảng hỏi với hệ
20
thống câu hỏi có liên quan tới vấn đề nghiên cứu nhận thức, thái độ của mẹ về giới
tính, nội dung, phương pháp giáo dục giới tính của mẹ như thế nào, những khó
khăn gặp phải trong q trình giáo dục giới tính cho trẻ.
6.2.2.2. Phương pháp phỏng vấn sâu
- Phương pháp phỏng vấn sâu: tiến hành 9 phỏng vấn sâu trong đó:
Phỏng vấn 4 người mẹ để tìm hiểu nhận thức của mẹ về giáo dục giới tính,
các phương pháp giáo dục giới tính khác nhau mà cá bà mẹ quan tâm, những khó
khăn mà mẹ gặp phải khi giáo dục giới tính cho con gái.
Phỏng vấn 4 người con gái để tìm hiểu những khó khăn mẹ gặp phải khi
giáo dục giới tính cho con, nhận thức của con gái về giáo dục giới tính và thái độ
của con gái khi mẹ giáo dục giới tính.
Phỏng vấn 1 chủ tịch Hội phụ nữ và 1 hội phó Hội phụ nữ để tìm hiểu những
khó khăn của mẹ khi giáo dục giới tính cho con gái trong các gia đình khi giáo dục
giới tính.
6.3 Phương pháp phân tích và xử lý số liệu
- Thông tin định lượng: Các biến số từ các câu hỏi đóng được thiết kế và nhập liệu
bằng phần mềm SPSS, sau đó được xử lý và sử dụng để phục vụ cho viết báo cáo.
- Thơng tin định tính: Thơng tin định tính được thiết kế dưới dạng hộp thông tin,
dựa trên thông tin thu dược từ các câu hỏi mở rộng khi phỏng vấn sâu.
6.4. Khung phân tích
21
Giáo dục giới tính trong gia
đình
Nhận thức của mẹ về giáo
dục giới tính cho con gái
Nội dung, phương
pháp giáo dục giới tính
trong gia đình
Thực trạng giáo
dục giới tính
trong gia đình
7. Kết quả nghiên cứu dự kiến
22
Những khó khăn mà mẹ
gặp phải khi giáo dục giới
tính cho con gái
Thực trạng giáo dục giới tính của cha mẹ cho con cái ở gia đình nơng thơn
hiện nay là một vấn đề cần được chú ý và quan tâm. Cha mẹ đã quan tâm nhiều
hơn đến giáo dục về vấn đề giới tính cho con cái và nội dung giáo dục giới tính của
cha mẹ cho trẻ cũng phong phú hơn. Tuy nhiên, dù đã cởi mở hơn về vấn đề giới
tính khi giáo dục cho con cái nhưng nội dung mà cha mẹ giáo dục cho con cái mới
chỉ dừng lại ở nội dung giáo dục con cách vệ sinh thân thể hay sự khác biệt cơ bản
về mặt sinh học giữa con trai và con gái cho con cái là chủ yếu mà ít nói sâu hơn
với con về các vấn đề nhạy cảm trên cơ thể của con. Cha mẹ cần cởi mở hơn khi
nói chuyện với con về giới tính, đồng thời cần tìm hiểu nhiều phương pháp khác
nhau để giáo dục cho con hiệu quả hơn. GDGT cho con cái là vấn đề được nhiều
người quan tâm. Tuy nhiên vì nó là vấn đề nhạy cảm nên việc cha mẹ giáo dục vấn
đề này cho con cái cịn gặp nhiều khó khăn do thiếu kiến thức, nguồn thơn tin về
giới tính cịn hạn hẹp.
Phần IV: Kết quả nghiên cứu
23
4.1. Tìm hiểu nhận thức tầm quan trọng của việc giáo dục giới tính cho con
cái trong gia đình.
4.1.1 Đặc điểm nhân khẩu xã hội của người mẹ trong mẫu điều tra.
Để giáo dục giới tính một cách khoa học và có hiệu quả, một trong những
yếu tố rất quan trọng có tính quyết định chính là mơi trường sống và phát triển của
cá nhân. Một môi trường sống cởi mở, thẳng thắn giải đáp những thơng tin về giới
tính cho con từ phía nhà trường, gia đình và xã hội sẽ là một mơi trường hồn hảo
để các em có những kiến thức cần thiết bảo vệ mình trước những vấn nạn hết sức
phổ biến hiện nay như nạn lạm dụng tình dục, có thai ngồi ý muốn, tệ nạn... trong
mơi trường gia đình, người có ảnh hưởng, tác động trực tiếp mạnh mẽ đối với con
cái về giáo dục giới tính đó là cha mẹ, những hiểu biết của cha mẹ trong vấn đề
giáo dục giới tính cho con sẽ là mấu chốt quyết định đến việc đứa bé có những
hiểu biết như thế nào về vấn đề giới tính, tình u và tình dục sau này.
Đối với đề tài này, trình độ học vấn, nghề nghiệp của các bà mẹ là những chỉ
báo quan trọng trong việc giáo dục giới tính cho các bé gái trong độ tuổi dậy thì.
Vấn đề trình độ học vấn và nghề nghiệp của các mẹ quyết định đến cách suy nghĩ,
lối sống cũng như cách tư duy, ứng xử đối với vấn đề giáo dục giới tính cho con
gái mình, nhất là đối với con trong độ tuổi con có những thay đổi lớn về mặt cơ thể
sinh học cũng như về mặt tâm lý.
Xem xét đặc điểm người mẹ trong mẫu điều tra có thể thấy trình độ học vấn
của họ là tương đối cao, tỷ lệ người mẹ có trình độ học vấn cấp III và cao đẳng
chiếm tỷ lệ khá lớn. Từ trình độ học vấn, nghề nghiệp của cá bà mẹ cũng có sự khá
nhau, đa số cá công việc chủ yếu ở đây vẫn là làm nông nghiệp, công nhân và viên
chức nhà nước,…
Bảng 4.1: Nghề nghiệp và trình độ học vấn của mẹ
24
Mẫu N= 60
Tiêu chí
1. Trình độ học vấn
Cấp II
Cấp III
CĐ, ĐH
2. Nghề nghiệp
Nông dân
Cán bộ NN
Công nhân
Tổng
Số lượng
60
15
37
8
60
17
15
28
60
Tỷ lệ (%)
100
25.0
61.7
13.3
100
28.3
25.0
46.7
100
Số liệu điều tra, 2018.
Kết quả điều tra cho thấy:
Về trình độ học vấn của các mẹ có con trong độ tuổi từ 11 tuổi đến 15 tuổi
trên địa bàn là tương đối cao, chủ yếu đều là những người mẹ trẻ. Trong 60 mẫu
điều tra, các bà mẹ chủ yếu đều đã tốt nghiệp hết cấp III chiếm tỷ lệ 61.7%, tiếp
theo là trình độ học vấn cấp II chiếm tỷ lệ 25%, tỷ lệ trình độ học vấn cao đẳng đại
học chiếm tỷ lệ 13.3%. Nhìn chung trình độ học vấn của các bà mẹ đều ở mức phổ
thông, điều này có ảnh hưởng rất lớn đến cách giáo dục con cái trong vấn đề gới
tính vốn vẫn được coi là vấn đề hết sức nhạy cảm và khó nói.
Tương ứng với trình độ học vấn, về nghề nghiệp: ngồi nghề làm nơng
truyền thống vẫn tồn tại thì nhiều gia đình đã có điều kiện vào các nhà máy làm
công nhân hoặc nhiều người làm nhân viên, công chức,… Trong tổng số 60 mẫu
điều tra, tỷ lệ làm công nhân chiếm 46.7%, ngồi ra số người là cơng viên chức
nhà nước như làm việc tại xã, cơ quan nhà nước, giáo viên chiếm tỷ lệ 25%, tỷ lệ
các mẹ làm nơng vẫn cịn chiếm tỷ lệ 28.3% (bảng 4.1).
Hộp 4.1 Nghề nghiệp của các mẹ trong mẫu điều tra
25