Tải bản đầy đủ (.pdf) (46 trang)

Tiểu luận Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (987.27 KB, 46 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC
KHOA








Tiểu luận

Các tranh chấp bất đồng trong
hoạt động xuất nhập khẩu và
cách giải quyết







Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

1
Phần 1: NHỮNG TRANH CHẤP, BẤT ĐỒNG TRONG QUÁ TRÌNH
THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG XUẤT NHẬP KHẤU HÀNG HÓA
Trong quá trình thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu có thể xảy ra những tranh chấp,
bất đồng sau:
1.1 Các tranh chấp phát sinh liên quan đến việc thực hiện hợp đồng của người


bán:
Người bán không cung cấp hàng hóa hoặc cung cấp hàng hóa không phù hợp với quy
định của hợp đồng mua bán mà đôi bên đã ký kết hoặc cung cấp hàng hóa không
đúng với sự mong đợi của người mua.
1.1.1 Tranh chấp về nghĩa vụ giao hàng:
Người bán giao hàng không đúng thời hạn, địa điểm, thiếu số lượng,không đúng chất
lượng không đúng tên gọi, quy cách, chủng loại ,hoặc không giao hàng…)
 Về số lượng:
 Người bán phải giao hàng phù hợp với hợp đồng về mặt số lượng. Như vậy,
người bán bị coi là vi phạm hợp đồng khi chỉ giao một số lượng hàng hóa
thực tế ít hơn số lượng quy định.
 Người mua có quyền từ chối phần dư ra khi người bán giao vượt quá số
lượng.
- Trường hợp đối tượng của hợp đồng là những hàng hóa cá biệt, hàng đặc
định hoặc các mặt hàng số lượng nhỏ với đơn vị đo là cái, chiếc…như máy
móc thiết bị, ô tô, xe gắn máy,…-> người bán buộc phải tuân thủ đúng số
lượng trong hợp đồng.
- Đối tượng của hợp đồng là các mặt hàng đồng loại mà số lượng được xác
định bằng các đơn vị đo trọng lượng, khối lượng, dung tích như tấn, tạ,
mét khối như ngũ cốc, nguyên vật liệu,…và hợp đồng thường quy định
một số lượng phỏng chừng -> người bán có quyền giao với số lượng chênh
lệch trong tỷ lệ dung sai quy định.
Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

2
Ví dụ 1:
TRANH CHẤP VỀ GIAO HÀNG THIẾU
TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN QUẦN ÁO TRẺ EM
Các bên:
Nguyên đơn: Người mua – Cuba

Bị đơn: Người bán – Trung Quốc
Tóm tắt vụ việc:
25/12/2006: Ký hợp đồng mua bán với các điều kiện sau:
- Hàng hóa: 19.500 bộ quần áo trẻ em sợi hỗn hợp với số lượng và giá cả
khác nhau
- Điều kiện giao hàng: FOB (cảng Trung Quốc)
- Tổng trị giá hợp đồng: 404.415 USD
- Phương thức đóng gói: hộp giấy
- Giao hàng vào tháng 6/2007
- Số lượng giao: 900 hộp giấy bốc lên tàu của Cuba
Điều 13: Các điều kiện chung về giao hàng trong hợp đồng: quy định rõ quyền
của các bên được khiếu nại về việc thiếu hàng hóa.
Các tình tiết:
 Tại cảng đến Havana, người mua xác nhận có 1 số thùng có trọng lượng
không đủ. Tuy nhiên, người mua vẫn vận chuyển số hàng trên vào kho và nhờ
Cơ quan giám định tại Cuba .
 Sau khi kiểm định, cơ quan này đã xác nhận như sau:
 Thiếu 606 quần/áo trong 19 thùng hàng được giám định ( trong tổng số
300 thùng) theo vận đơn B/L 52, hóa đơn SUL 30047.
Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

3
 Thiếu 1.845 quần/áo trong 61 thùng hàng theo B/L 53, hóa đơn SUL
30048
 Người bán đã không chấp nhận thỏa thuận đàm phán khi người mua yêu cầu.
Cho nên, người mua đã khởi kiện người bán phải chịu trách nhiệm cho số
hàng thiếu & yêu cầu được bồi thường.
Lập luận của bị đơn:
Điều 14: Các điều kiện chung về giao hàng trong hợp đồng: Số lượng và
khối lượng của hàng hóa được xác định theo vận đơn đường biển.

Điều 15: Các điều kiện chung về giao hàng trong hợp đồng: Đơn vị khối
lượng và đơn vị đo của bản giám định và xác nhận hàng hóa cung cấp phụ thuộc vào
các tài liệu của bên bán.
 Bị đơn dựa theo các quy định tại điều 14 ở trên nói rằng: sau khi hàng
được bốc lên tàu, đã nhận được vận đơn sạch do thuyền trưởng phát hành
xác nhận là hàng hóa hợp lệ và phù hợp với số lượng ghi trong hóa đơn và
bản chứng nhận số thùng hàng với các chi tiết ghi trên vận đơn.
 Bị đơn cho rằng: nếu xảy ra tình trạng thiếu hàng trầm trọng như Nguyên
đơn biện luận thì lúc đó chắc chắn có nhiều thùng hàng rỗng đã bị mở, và
như thế thì thuyền trưởng đã không ký vận đơn sạch.
 Bị đơn cũng biện luận rằng : Nguyên đơn cũng đã xác nhận các thùng hàng
vẫn hợp lệ khi được chuyển đến.
 Bên cạnh đó, Nguyên đơn đã không trình được chứng nhận giám định
hàng hóa để chứng minh hàng bị thiếu về khối lượng và trong thùng có
nhiều thứ khác không phải là hàng hóa.
 Thêm nữa, bị đơn cho rằng: hàng hóa được ký theo điều kiện FOB thì theo
quy định của Incoterms 2000, một khi hàng được chuyển qua lan can tàu
tại cảng bốc hàng, mọi rủi ro về mất mát hoặc tổn thất đối với hàng hóa thì
người mua phải chịu.
Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

4
 Bị đơn cũng dựa vào điều 15 ở trên lập luận: bên bán đã cung cấp tài liệu
để chứng minh số hàng được giao phù hợp với các quy định của hợp đồng
và cần phải dựa vào bản xác nhận này để xác định số hàng đã giao.
Phán quyết của trọng tài:
 Cũng chiếu theo điều 14: các điều kiện chung về giao hàng ở trên, nhưng
trọng tài lập luận rằng: mặc dù trên vận đơn đường biển có ghi tổng trọng
lượng của hàng hóa nhưng không ghi rõ số hàng trong từng thùng hoặc khối
lượng của mỗi thùng hàng.

 Bị đơn đã trình chứng nhận về hàng hoá được đóng vào thùng khi số hàng này
còn ở trong nhà máy, nhưng hàng đã không được bốc trực tiếp lên tàu sau khi
rời nhà máy mà được vận chuyển bằng nhiều phương tiện, rồi cuối cùng mới
được bốc lên tàu. Do đó, không loại trừ khả năng việc thiếu hàng xảy ra trước
khi số hàng này được bốc lên tàu.
 Ủy ban trọng tài cũng chiếu theo điều 13: Các điều kiện chung về giao hàng
trong hợp đồng đã ký kết có qui định rõ quyền của các bên được khiếu nại về
việc thiếu hàng hoá và do đó Bị đơn phải chịu trách nhiệm về việc thiếu hàng
này.
Về tiền phạt:
- Bị đơn phải bồi thường cho Nguyên đơn 4.425,01 USD - khoản tiền đã
trả cho số hàng thiếu
- 180 USD phí giám định.
- Bị đơn chịu phí trọng tài.
 Về chất lượng :
 Tranh chấp giữa người mua với người nhập khẩu, người bán hàng hoặc giữa
các thương nhân với nhau do sản phẩm, hàng hoá không phù hợp với tiêu
chuẩn công bố áp dụng, quy chuẩn kỹ thuật tương ứng hoặc thỏa thuận về chất
lượng trong hợp đồng.
Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

5
 Tranh chấp giữa tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh với người tiêu dùng và
các bên có liên quan do sản phẩm, hàng hoá không bảo đảm chất lượng gây
thiệt hại cho người, động vật, thực vật, tài sản, môi trường.
Người bán phải có nghĩa vụ giao hàng phù hợp với phẩm chất quy định trong hợp
đồng.
 Nếu là hàng đặc định thì phải giao hàng có phẩm chất hoàn toàn phù hợp với
quy định của hợp đồng -> sự khác biệt về phẩm chất đều bị coi là vi phạm
hợp đồng.

 Trường hợp người bán giao hàng có khuyết tật -> người mua có quyền đòi bồi
thường bằng hiện vật bằng cách thay thế hàng hóa mới hoặc sữa chữa khuyết
tật.
 Nếu là hàng đồng loại thì tùy thuộc các chỉ tiêu chất lượng trong hợp đồng để
xét xem người bán có giao hàng đúng chất lượng hay không.
 Tranh chấp có thể phát sinh trong các trường hợp sau:
 Khi người bán cung cấp hàng có sự sai biệt về mặt phẩm chất so với quy định
trong hợp đồng mà sự sai biệt đó làm cho người mua không thể sử dụng hàng
hóa theo mục đích đã định.
 Ngược lại, sự sai biệt đó vẫn cho phép người mua sử dụng được hàng hóa theo
mục đích đã định nhưng hiệu quả không cao hoặc không làm thay đổi tính chất
cơ bản của hàng hóa vẫn có thể coi như phù hợp với hợp đồng nhưng đồng thời
người mua sẽ đòi hỏi người bán phải giảm giá cả lại lô hàng đã giao cho phù
hợp với phẩm chất thực tế của hàng hóa -> từ đó nảy sinh tranh chấp giữa
người mua và người bán.
 Trong nghĩa vụ giao hàng của người bán, còn phải kể đến việc kiểm tra về sự
phù hợp về phẩm chất và số lượng của hàng hóa thực tế đã giao với các quy định
của hợp đồng.
 Kết quả kiểm tra thường được thể hiện qua “ Giấy chứng nhận phẩm chất và
số lượng” được coi là có giá trị pháp lý khi nó phản ánh rõ ràng, trung thực
Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

6
hàng giao thực tế, được xác định bởi tổ chức kiểm tra giám định có thẩm
quyền và việc kiểm tra được tiến hành đúng thời gian, địa điểm, nội dung và
phương pháp do hợp đồng quy định.
 Giấy chứng nhận sự phù hợp thường có 2 loại:
- Giấy chứng nhận sự phù hợp không có tính chất quyết định (không có giá
trị pháp lý cuối cùng). Trong hợp đồng giữa người bán và người mua đã
ký kết chỉ quy định việc kiểm tra phẩm chất ở nơi đi do cơ quan X tiến

hành -> trường hợp này người bán chưa hết trách nhiệm về sự phù hợp
của hàng hóa ở nơi đến -> người mua có quyền bác bỏ giấy chứng nhận
đó.
- Giấy chứng nhận về sự phù hợp có tính chất quyết định ( có giá trị pháp
lý cuối cùng). Điều này phải được thể hiện trong hợp đồng và khi đó giấy
chứng nhận này ràng buộc trách nhiệm của cả hai bên. Người xuất khẩu
thì muốn việc kiểm tra ở nơi đi có tính quyết định. Khi đó, người xuất
khẩu có thể hết trách nhiệm về sự phù hợp của hàng hoá ở nơi đến. Cách
quy định này đương nhiên có lợi cho người bán, vì hàng hoá trong mua
bán quốc tế thường phải vận chuyển dài ngày, qua nhiều vùng khí hậu
khác nhau nên rất dễ bị tổn thất.
 Tuy vậy, sự miễn trách của người bán về sự phù hợp này cũng có tính chất
tương đối. Người nhập khẩu vẫn có quyền chứng minh ngược lại khi thấy có sự
man trá hay thông đồng với cơ quan giám định của người bán, quá trình kiểm
tra có khuyết điểm, nội dung giấy chứng nhận không rõ ràng.
 Người nhập khẩu, ngược lại, muốn việc kiểm tra sự phù hợp ở nơi đến có tính
quyết định. Bởi vì khi đó, ở mức độ nhất định người bán phải có trách nhiệm về
sự phù hợp của hàng hoá ở nơi đến. Người nhập khẩu yên tâm hơn về quá trình
vận chuyển và độ chính xác của việc kiểm tra ở nước mình. Ý chí của hai bên về
vấn đề này không giống nhau nên cũng có thể sẽ có tranh chấp, bất đồng xảy
ra, nhất là khi trong hợp đồng không quy định rõ ràng về giá trị của giấy chứng
nhận phẩm chất.
Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

7
Ví dụ 2:
TRANH CHẤP VỀ CHẤT LƯỢNG TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN CHÈ
Các bên:
Nguyên đơn : Người mua - Ba Lan
Bị đơn : Người bán - Việt Nam

Tóm tắt vụ việc:
Hợp đồng mua bán với các điều kiện sau :
 Hàng hóa : 11 MT chè đen loại D và 10.5 MT chè đen loại PS
 Tiêu chuẩn hàng : Thủy phần: tối đa 9,0%, Tro: tối đa 6,5%, Tạp
chất: tối đa: 0,3%
 Điều kiện giao hàng : C.I.F (F.O.B cảng Hải Phòng)
 Tổng trị giá hợp đồng : 21,695 USD
Điều 175 Luật Thương mại Việt Nam quy định: “ Hàng được giám định theo
thoả thuận giữa các bên trong hợp đồng mua bán hàng hoá, trong trường hợp
Hợp đồng không có quy định thì các bên có quyền lựa chọn tổ chức giám
định.”
Tình tiết vụ án:
 Căn cứ theo điều 13 của hợp đồng, bị đơn đã mời Vinacontrol giám định từ
ngày 24/3 -> 01/4/2008 và cấp chứng thư vào ngày 01/4/2008
 01/04/2008 : Hàng được gửi từ Hải Phòng đi Gdynia. Tại cảng đến Gdynia,
Nguyên đơn đã nhờ SGS tại Ba Lan giám định. Tuy nhiên, việc giám định
được thực hiện sau khi hàng đã được dỡ khỏi tàu 6 tháng.Theo chứng thư
giám định của SGS tại Ba Lan cấp ngày 12/10/2008, thì kết quả giám định là:
- 10,5 MT chè đen loại PS đạt yêu cầu quy định của hợp đồng
- 11 MT chè đen loại D thì: Thủy phần: 8%, Ferromagnetic ( tạp chất
chứa sắt từ tính) : 6,05%/kg, Tro không tan trong nước: 11,14%.
Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

8
- Do hàm lượng Ferromagnetic và tro không tan trong nước quá cao nên
đã không được phép nhập vào Ba Lan do không thể dùng vào mục đích
thực phẩm
 27/07/2008: Nguyên đơn gửi đơn khiếu nại bị đơn yêu cầu hoàn trả lại
toàn bộ số tiền của 11 MT chè đen loại D cùng các chi phí liên quan nhưng Bị
đơn từ chối mọi trách nhiệm liên quan.

Lập luận của bị đơn
- Theo điều 17 hợp đồng đã ký kết, bị đơn đã không chấp nhận kết quả đã
giám định của trạm vệ sinh dịch tễ tỉnh Gdynia – một tổ chức không phải
cơ quan giám định độc lập.
- Chè đen là hàng nông sản có tính hấp thụ cao và dễ bị hư hỏng nếu để lâu,
trong khi đó kết quả giám định của SGS lại dựa trên mẫu lấy ở lô hàng để
quá lâu (hơn 6 tháng)
- Hàng đã được kiểm tra và cấp chứng nhận phù hợp với hợp đồng bởi
Vinacontrol – một tổ chức giám định độc lập, được chỉ định theo điều 13
của Hợp đồng.
- Chè có hàm lượng Ferromagnetic và tro không tan trong nước quá cao: là
hai tiêu chí không được các bên thoả thuận, cam kết trong hợp đồng.
Trên cơ sở đó bị đơn đã bác bỏ yêu cầu của nguyên đơn
Phán quyết của trọng tài:
1. Về hiệu lực của các văn bản xác định chất lượng giao hàng
- Căn cứ Theo điều 175 Luật thương mại VN, Nguyên đơn đã làm đúng
nghĩa vụ của người mua theo thông lệ quốc tế và phù hợp với Hợp đồng đã
được ký kết vì hợp đồng không quy định cụ thể về việc giám định hàng tại
cảng bốc hàng là cảng cuối cùng -> Bị đơn không thể không thừa nhận giá
trị pháp lý cũng như hiệu lực của biên bản của SGS cấp.
- Bị đơn cũng không thể viện vào lý do chè đen là mặt hàng nông sản có tính
hấp thụ cao và dễ bị hư hỏng nếu để lâu, bởi vì cho dù có để lâu hơn nữa (
thậm chí là hơn 6 tháng) thì nguyên nhân mà lô hàng chè đen loại D mà
Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

9
Hải quan Ba Lan không cho phép nhập là do trong chè có hàm lượng tạp
chất sắt từ tính và tro không tan trong nước quá cao, không thể đưa vào sử
dụng làm thực phẩm (đồ uống ) cho con người được.
- Giấy chứng nhận Vinacontrol đưa ra chỉ nêu chung chung là hàng phù hợp

với hợp đồng, không phân tích về chỉ tiêu phẩm chất hàng như hợp đồng
hay theo tiêu chuẩn Việt Nam đã quy định theo Quyết định 1343/TM-PC
của Bộ trưởng bộ Thương mại Việt Nam.
- Vinacontrol đã gửi cho Hội đồng Trọng tài văn bản giải trình về phẩm chất
lô chè liên quan đến chứng thư giám định do cơ quan này cấp, trong đó,
khẳng định rõ rằng chính Vinacontrol cũng đã lưu ý với bị đơn về hàm
lượng sắt của lô chè loại D cao hơn mức bình thưòng và Bị đơn đã trả lời
sẽ hoàn toàn chịu trách nhiệm về việc này nếu bị khiếu kiện.
2. Về yêu cầu bồi thường của nguyên đơn
- Nguyên đơn thiếu sự kiểm tra chặt chẽ việc thực hiện hợp đồng: chưa kiểm
tra được chất lượng, và tính chuẩn mực của giấy chứng nhận chất lượng, số
lượng của Vinacontrol mà đã mở L/C -> nguyên đơn cũng phải chia sẻ
phần thiệt hại.
- Trong các khoản mục yêu cầu bồi thường, có 1 số khoản nguyên đơn
không tính được chi phí bằng con số cụ thể -> hội đồng trọng tài không
chấp nhận.
Trọng tài quyết định:
- Bị đơn phải chịu trách nhiệm về việc giao hàng không phù hợp với
tiêu chuẩn xuất khẩu của Việt Nam đối với chè đen loại D.
- Bị đơn phải hoàn trả cho Nguyên đơn số tiền là 8.778 USD tiền
hàng
- 1.850 USD tiền cước phí từ Hải Phòng đến Gdynia.
- Phí trọng tài bị đơn phải chịu.
Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

10
1.1.2 Tranh chấp về nghĩa vụ cung cấp chứng từ hàng hóa
 Chứng từ hàng hoá có tác dụng nói rõ đặc điểm về giá trị chất lượng và số
lượng của hàng hoá. Những chứng từ này do người bán xuất trình và người
mua sẽ trả tiền khi nhận được chúng. Những chứng từ chủ yếu mà người

bán phải có nghĩa vụ giao cho người mua thường là hoá đơn thương mại,
phiếu đóng gói, giấy chứng nhận số lượng, giấy chứng nhận chất lượng, vận
đơn, các chứng từ khác như hợp đồng bảo hiểm, giấy chứng nhận kiểm
dịch, ….
 Trong số các chứng từ nói trên, thì vận đơn là một chứng từ rất quan trọng,
chứng từ này do người chuyên chở cấp cho người gửi hàng (thường là
người bán) và người này phải gửi nó cho người mua để nhận hàng. Thông
thường sau khi gửi hàng, người bán bắt buộc phải gửi vận đơn gốc cho
người mua để người mua có thể kịp thời đi nhận hàng.
 Việc gửi, giao chứng từ hàng hoá chậm, đặc biệt là vận đơn, hay gửi thiếu
chứng từ sẽ gây trở ngại cho người mua trong việc nhận hàng và phân phối
hàng hoá, gây thiệt hại cho người mua -> trong trường hợp này sẽ dẫn đến
tranh chấp giữa hai bên người bán và người mua.
1.1.3 Tranh chấp về điều khoản giá:
Điều khoản giá là một trong những điều khoản quan trọng trong hợp đồng.
 Trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế mà đối tượng hợp đồng là những
mặt hàng có giá cả biến động mạnh với xu hướng khó nắm bắt, hoặc những
hợp đồng có thời hạn thực hiện dài, giao hàng nhiều lần hoặc những hợp đồng
mà thời điểm giao hàng chưa được xác định cụ thể. Cho nên, việc “thả nổi”
giá hàng hóa theo sự tăng, giảm của giá thị trường là rất phổ biến.
Ví dụ như: xăng, dầu, sắt, thép, vật liệu xây dựng, xi măng, cà phê, cao
su, hồ tiêu, gas, gạo, thủy sản, ngũ cốc, lúa mì, các mặt hàng nông sản
khác,… là những mặt hàng có giá cả luôn biến động với giá thị trường
thế giới.
Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

11
 Những hợp đồng XNK cho các mặt hàng này thường được ký kết với điều
khoản giá mở, đáp ứng yêu cầu về giá linh hoạt theo diễn biến thị trường. Về
mặt pháp lý, sự linh hoạt này giúp đảm bảo sự cân bằng cho hợp đồng, hạn

chế thiệt thòi quá mức cho một bên khi thị trường biến động, hạn chế tranh
chấp phát sinh.
 Các doanh nghiệp thường có thói quen xác định một mức giá cố định ngay
khi ký kết hợp đồng. Đây là quan điểm về mặt pháp lý, chưa phù hợp với
pháp luật hợp đồng hiện đại và về mặt thực tiễn, chưa phù hợp với diễn biến
“nóng” của giá hàng hóa trên thị trường hiện nay. Công ước Vienna và pháp
luật hợp đồng của các nước đều chấp nhận hiệu lực của các hợp đồng có giá
mở, trong đó, điều khoản giá được dẫn chiếu đến giá thị trường.
 Vì vậy, trong mua bán quốc tế các hàng hóa mà giá cả biến động mạnh, các
bên nên đưa vào hợp đồng điều khoản về điều chỉnh giá cả để tránh thiệt hại
cho người bán và người mua cũng như các tranh tranh chấp có thể xảy ra.
 Cần chú ý, trong một số tình huống cụ thể phải quy định điều khoản giá hợp
lý và linh hoạt. Nên đưa ra mức giá chính xác ban đầu để có thể tính toán lợi
nhuận, nhưng không quên có sự điều chỉnh giá theo sự biến động của thị
trường.
 Dù trong hợp đồng không có điều khoản về điều chỉnh giá thì khi giá của hàng
hóa biến động quá lớn, các bên nên có thiện chí đàm phán lại giá nhằm xác
định lại một mức giá hợp lý, cho phép đảm bảo lợi ích của cả hai bên, giữ
được mối quan hệ làm ăn lâu dài.
 nếu không, khi giá thay đổi sẽ rất dễ dẫn đến tranh chấp.
Ví dụ 3:
TRANH CHẤP VỀ VIỆC XÁC ĐỊNH GIÁ CỦA HÀNG HOÁ
Các bên:
Nguyên đơn: Người mua Pháp (NM)
Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

12
Bị đơn: Người bán Đức (NB)
Tóm tắt vụ việc:
- Người mua gửi một đơn chào mua các linh kiện điện tử đến người bán với

quy định giá mua do người mua đưa ra có thể được xem xét theo sự suy
giảm của giá thị trường vào thời điểm giao hàng.
- Nhận được đơn chào mua, người bán trả lời là giá cần được xem xét theo
cả sự tăng lên và sự suy giảm của giá thị trường vào thời điểm giao hàng.
Người mua đã đồng ý về việc này.
- Hàng hóa được người bán gửi cho người mua theo đúng đơn chào mua,
nhưng người mua lại đơn phương hủy đơn chào mua của mình và không
nhận hàng.
- Người mua cho rằng điều khoản giá quy định như vậy là chưa đủ rõ ràng
để hình thành hợp đồng giữa hai bên.
Phán quyết của toà án:
- Vì Pháp và Đức là hai quốc gia thành viên của CISG nên tòa án áp dụng
CISG để giải quyết tranh chấp.
- Tòa Phúc thẩm Paris trích dẫn điều 14 khoản 1 CISG, theo đó “Một đề
nghị ký kết hợp đồng gửi cho một hay nhiều người xác định được coi là
một chào hàng nếu nó đủ chính xác và chỉ rõ ý chí của người chào hàng
muốn tự ràng buộc mình trong trường hợp có sự chấp nhận chào hàng đó.
Một đề nghị là đủ chính xác khi nó nêu rõ hàng hóa và ấn định số lượng
và giá cả một cách rõ ràng hoặc ngầm định hoặc quy định các yếu tố để
xác định số lượng và giá cả”.
- Đơn chào hàng của người mua đã ghi rõ: giá của hàng hóa được xác định
theo sự suy giảm của giá thị trường. Người mua đã đưa ra căn cứ để xác
định giá, đó là tham chiếu đến giá thị trường vào một thời điểm cụ thể là
thời điểm giao hàng. Như vậy, theo điều 14 khoản 1 CISG, điều khoản giá
Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

13
với giá được xác định theo sự tăng giảm của giá thị trường là đã đủ chính
xác, rõ ràng.
 Với những lập luận đó, tòa án cho rằng hợp đồng đã thành lập giữa

hai bên, người mua không thể hủy chào hàng. Người mua phải nhận
hàng và thanh toán tiền hàng.
Ví dụ 4:
TRANH CHẤP VỀ VIỆC TĂNG GIÁ HÀNG
TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN THÉP
Các bên:
Nguyên đơn: Người mua Ai Cập (NM)
Bị đơn: Người bán Nam Tư (NB)
Tóm tắt vụ việc:
Ngày 20/8/1987, ký kết hợp đồng mua bán
- Hàng hoá: thép thanh
- Số lượng: 80.000 tấn
- Giá trung bình: 190 USD/tấn
-Thời hạn giao hàng: trong vòng ngày 15/12/1987 đến ngày 15/12/1988
“Quyền mua đặc biệt” cho phép NM tăng số lượng hàng mua lên đến 160.000
tấn với cùng giá cả và điều kiện như trên và phải tuyên bố thực hiện quyền đó chậm
nhất là vào ngày 15/12 năm 1987
- Mở L/C cho chuyến hàng đầu tiên chậm nhất vào ngày 31/12/1987
- Ngày 26/11/1987, NM đã thông báo cho NB rằng họ sẽ thực hiện “Quyền
mua đặc biệt” này và sẽ mở L/C trong khoản từ 15 đến 31/12/1987.
Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

14
Do giá thép thế giới tăng, theo đề nghị của NB, cuộc họp thảo luận về mức giá
bổ sung, nhưng NM không chấp nhận và cương quyết giữ mức giá đã thoả thuận.
Trong văn thư đề ngày 31/12/1987, NM nhấn mạnh rằng NB đã vi phạm hợp
đồng và nếu cho đến ngày 6/1/1988 NB vẫn không chấp thuận, thì NM sẽ buộc NB
phải chịu trách nhiệm cho toàn bộ các thiệt hại bất kỳ do việc vi phạm hợp đồng gây
ra. Thời hạn này sau đó đã được NM kéo dài tới ngày 25/1/1988
Ngày 26/1/1988, NM đã mua 80.000 tấn thép thanh cùng loại của một công ty

Rumani với giá 216 USD/tấn.
NM đã khởi kiện theo điều khoản trọng tài trong hợp đồng, đưa ra trọng tài
Phòng Thương mại Quốc tế (tại Paris - Pháp) đòi NB bồi thường thiệt hại do chênh
lệch giá.
Phán quyết của trọng tài:
1. Luật áp dụng:
Công ước Viên của Liên Hợp Quốc về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế
(ký ngày 11 tháng 4 năm 1980) không thể được áp dụng. Công ước này có hiệu lực ở
Ai Cập, Nam Tư, cũng như tại Pháp, nhưng theo điều 100(2) của Công ước này chỉ
áp dụng cho những hợp đồng mua bán được ký kết sau ngày Công ước có hiệu lực
(ngày1 tháng 1 năm 1988) trong khi đó hợp đồng mua bán đang xét lại được ký vào
ngày 20 tháng 8 năm 1987
Theo luật tư pháp quốc tế của Ai Cập, nếu các bên trong hợp đồng mua bán có
trụ sở ở nhiều nước khác nhau thì luật được áp dụng là luật của nước nơi ký kết hợp
đồng, trừ khi các bên có thoả thuận khác (Điều 19 của Luật dân sự 1949).
Theo Luật tư pháp quốc tế của Nam Tư, luật áp dụng là luật của nước nơi mà
bên bán có trụ sở chính tại thời điểm mà họ (hoặc bên khác) nhận được đề nghị chào
hàng, nếu các bên không có thoả thuận về luật áp dụng.
Pháp là một trong các thành viên của Công ước Hague về luật áp dụng trong
Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

15
mua bán hàng hoá quốc tế (ngày 15 tháng 6 năm 1955). Điều 3(2) của Công ước này
qui định nếu các bên không thoả thuận khác, hợp đồng sẽ được điều chỉnh bởi luật
của quốc gia nơi bên bán có địa chỉ thường trú tại thời điểm mà họ nhận được đơn
đặt hàng.
Vì trụ sở chính và địa chỉ thường trú của Người bán tại thời điểm tranh chấp là
Nam Tư và vì hợp đồng mua bán được ký ở Nam Tư
 theo toàn bộ qui tắc áp dụng về tư pháp quốc tế, thì luật Nam Tư sẽ là
luật áp dụng

2. Trở ngại của Hợp đồng:
Giá thép trên thị trường thế giới tăng từ 190 USD lên 215 USD (tức là khoảng
13,6%). Theo đánh giá của uỷ ban trọng tài, việc bán thép theo giá thoả thuận (giá
bán theo “quyền mua đặc biệt”) thay vì giá hiện tại trên thị trường với mức "thiệt"
13,6% hoàn toàn nằm trong phạm vi rủi ro về giá cả theo tập quán.
Hơn nữa, việc tăng giá cũng có thể dự đoán được. Một người bán hàng bình
thường cần phải dự liệu được rằng giá thép có thể tăng hơn so với tình hình thực tế,
thậm chí mức tăng còn có thể cao hơn nhiều so với mức tăng trong vụ việc đang xét.
Và NB đã không viện dẫn điều 133 Luật nghĩa vụ nếu giá cả tiếp tục tăng
mạnh.
 Theo 2 của Điều 133 luật Nam Tư năm 1978, NB không thể từ chối
"quyền mua đặc biệt" với lý do tăng giá thép
3. Mua hàng thay thế
- NB ý kiến rằng việc mua 80.000 tấn thép từ một công ty Rumania của NM
không thể coi là việc mua hàng thay thế vì NB không được thông báo trước về ý định
mua hàng cụ thể của NM
Điều 262 cho phép các bên của hợp đồng quyền đòi bồi thường những thiệt
hại xảy đến với họ phát sinh từ việc không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc
Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

16
chậm trễ các nghĩa vụ của bên kia. Điều 525, đề cập đến việc mua hàng thay thế, coi
việc mua hàng thay thế là giải pháp giảm thiệt hại cho một bên tham gia hợp đồng
nếu bên đó đưa ra được các chứng cứ về thiệt hại mà họ phải gánh chịu.
- NB cho rằng giá thép trên thị trường thị trường thế giới (cùng loại) đã tăng ít
nhất tới 215 USD/tấn, NM lẽ ra phải mua thép của NB, việc NM trên thực tế đã mua
thép từ Rumani với giá cao hơn giá NB chào bán là hết sức vô lý
NM khẳng định rằng họ đã thực sự mua được giá rẻ hơn, họ đã trả 216,50
USD/ tấn nhưng tiết kiệm được 2 - 2,5 USD/ tấn cước phí vận chuyển. Thiệt hại của
họ vì vậy thấp hơn so với sự chênh lệch giá trên thị trường thế giới. Số lượng thiệt

hại chỉ là sự chênh lệch giữa 190 USD và 214 USD/ tấn là 24 USD/tấn
- NB cho rằng NM phải trả khoản thuế nhập khẩu hàng của Rumani cao hơn
hàng của Nam Tư
NM không hề đòi bồi thường bất kỳ khoản thiệt hại bổ sung nào phát sinh từ
việc mua hàng thay thế.
- NB cho rằng thép mua của công ty Rumani có chất lượng thấp hơn so với
loại thép mà NB cung cấp
Đối với NM thì chất lượng thép là tương đương.
Từ các lập luận nêu trên, trong tài đi đến kết luận rằng trong trường hợp này
NM hoàn toàn có quyền yêu cầu NB bồi thường khoản chênh lệch giá do phải mua
thép của một bên thứ ba thay thế cho số thép đáng lẽ đã mua của NB theo “Quyền
mua đặc biệt”. Tuy nhiên, NM chỉ có thể đòi bồi thường khoản thiệt hại thực tế mà
họ phải chịu, được tính là mức chênh lệch giữa giá mua đặc biệt (190 USD/tấn) và
giá mua thực tế mà NM đã phải trả cho công ty Nam Tư (216,5 USD/tấn) sau khi đã
trừ đi khoản tiền mà NM tiết kiệm được từ việc vận chuyển (khoảng 2,5 USD/tấn).
Như vậy NB sẽ phải bồi thường cho NM một khoản tiền là 80.000 x 24 USD
= 1.920.000 USD
Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

17
1.1.4 Tranh chấp phát sinh do người bán không thực hiện nghĩa vụ sau bán
hàng:
 Sau khi giao hàng cho người mua, người bán vẫn có thể phải thực hiện một số
nghĩa vụ như bảo hành, hướng dẫn sử dụng hàng hoá, vận hành máy móc thiết
bị,…. Điều khoản bảo hành có vai trò rất quan trọng trong các hợp đồng mua
bán máy móc thiết bị toàn bộ, hàng điện tử, ô tô Trong các điều khoản này
thường quy định người bán có nghĩa vụ đảm bảo khả năng làm việc bình
thường của hàng hoá trong một khoảng thời gian nhất định phù hợp với tiêu
chuẩn kỹ thuật đã thoả thuận trong hợp đồng.
 Như vậy, đối với những hợp đồng mua bán có quy định vấn đề bảo hành,

hướng dẫn sử dụng sau bán hàng,… mà người bán lại không thực hiện tốt các
nghĩa vụ này thì người mua có quyền phản đối, yêu cầu người bán phải làm
tròn nghĩa vụ để bảo đảm quyền lợi cho mình, khi đó sẽ tránh khỏi tranh chấp
giữa các bên.
 Ngoài các tranh chấp nói trên trong quá trình thực hiện nghĩa vụ của người
bán còn có thể phát sinh các tranh chấp liên quan đến việc chuyển giao quyền
sở hữu hàng hoá, việc cung cấp bao bì và ký mã hiệu hàng hoá,…
1.2 Các tranh chấp phát sinh liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ của người
mua:
- Việc thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu không chỉ là nghĩa vụ của người bán mà
còn là nghĩa vụ của người mua. Nghĩa là người mua cũng phải thực hiện đúng và
đầy đủ các nghĩa vụ đã cam kết trong hợp đồng:
- Nghĩa vụ của người mua trong một hợp đồng xuất nhập khẩu bao gồm nghĩa vụ
thanh toán tiền hàng và nghĩa vụ nhận hàng.
- Những tranh chấp, bất đồng có thể nảy sinh khi người mua không thực hiện các
nghĩa vụ như đã cam kết với người bán trong hợp đồng sau đây:
 Người mua từ chối nhận hàng, từ chối thanh toán mặc dù hàng hóa được
người bán cung cấp hoàn toàn phù hợp với những quy định trong hợp đồng
mua bán.
Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

18
 Người mua không thanh toán hoặc thanh toán không đúng với những thỏa
thuận của đôi bên trong hợp đồng mua bán:
 Người mua nhận hàng nhưng không thanh toán tiền hàng (trong các phương
thức thanh toán clean collection, D/A, chuyển tiền trả chậm,…
 Người mua nhận hàng nhưng chậm trễ, dây dưa trong khâu thanh toán, mở
L/C chậm, chuyển tiền chậm so với quy định của hợp đồng.
 Thanh toán không đúng loại tiền, số tiền theo quy định,….
1.2.1 Nghĩa vụ thanh toán tiền hàng:

a. Trường hợp quy định thanh toán bằng L/C
 Việc người mua mở L/C là điều kiện tiên quyết để người bán thi hành nghĩa
vụ giao hàng.
 Khi người bán thông báo cho người mua biết là hàng đã sẵn sàng để giao thì
người mua phải mở L/C trong thời hạn đã quy định trong hợp đồng.
 Việc người mua không mở L/C, mở không kịp thời hoặc số tiền ghi trên L/C
không đúng số tiền quy định trong hợp đồng, hoặc không mở L/C quy định tại
ngân hàng đã thoả thuận đều là những hành vi vi phạm nghĩa vụ mà hợp đồng
đã quy định và dẫn đến khiếu nại của người bán.
 Việc không mở L/C sẽ gây hậu quả nghiêm trọng cho người bán trong trường
hợp đối tượng của hợp đồng là những hàng hoá tươi sống, hàng chóng bị hư
hỏng như rau quả tươi, thịt gia súc Người bán sẽ phải bỏ thêm các chi phí
khác như thuê kho lạnh để bảo quản, tái chế hàng hoá,…. -> những trường
hợp như vậy chắc chắn sẽ gây ra tranh chấp.
Ví dụ 5:
TRANH CHẤP DO KHÔNG MỞ THƯ TÍN DỤNG THANH TOÁN
TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN THÉP
Các bên:
Nguyên đơn : Người bán – Quốc tịch Áo
Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

19
Bị đơn : Người mua – Quốc tịch Việt Nam
Tóm tắt vụ việc:
26/06/1999 ký Hợp đồng mua bán với các điều kiện sau :
 Hàng hóa : 1500 MT thép tấm cán nóng
 Điều kiện giao hàng : C.I.F (F.O.B cảng Hải Phòng)
 Tổng trị giá hợp đồng : 370.880 USD
 Giao hàng vào tháng 7 năm 1999
 Thanh toán bằng L/C không hủy ngang có xác nhận (ngày mở chậm nhất là

ngày 30/06/1999)
 Điều 7 Hợp đồng quy định rằng trong trường hợp chậm trễ giao hàng hoặc
nhận được L/C chậm hơn 15 ngày so với ngày hợp đồng quy định thì bên
bán/bên mua có quyền hủy hợp đồng, bên vi phạm phải trả một khoản tiền
phạt là 5% tổng trị giá hợp đồng cho bên kia.
30/06/1999 (ngày cuối cùng để mở L/C) :
 Bên mua đã gửi văn thư cho bên bán trình bày khó khăn khách quan và đề
nghị xin hủy Hợp đồng (Khó khăn khách quan là bên mua chưa trả hết tiền nợ
cho ngân hàng nên ngân hàng không mở L/C theo đề nghị của bên mua).
03/07/1999 (3 ngày sau khi hết thời hạn mở L/C) :
 Bên bán đã telex cho bên mua đồng ý gia hạn ngày mở L/C đến ngày 7 tháng
6 năm 1999 (until June 7th 1999).
 Bên mua đã nhận được bản Telex này.
 20 phút sau khi Telex bên bán phát hiện có sự sai sót về ngày tháng, nên đã
sửa tháng 6 (June) thành tháng 7 (July) và telex lại ngay cho bên mua. Nhưng
sau này bên mua nói là không nhận được bản Telex sửa đổi này của bên bán.
09/08/1999 bên bán vẫn không nhận được L/C cũng như không nhận được tiền phạt
từ phía bên mua. Do vậy, bên bán đã kiện bên mua ra trọng tài yêu cầu bên mua nộp
phạt.
Phán quyết của trọng tài:
Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

20
1.Về việc không mở L/C của bên bán:
Đến ngày 09/08/1999 bên mua vẫn chưa mở L/C và theo quy định của Điều 7
Hợp đồng bên mua bị coi là không mở L/C, tức là bên mua đã vi phạm nghĩa vụ hợp
đồng.
Lý do khách quan mà bên mua nêu không được Uỷ ban trọng tài công nhận là
chính đáng, không phải là căn cứ miễn trách cho việc không mở L/C, bởi vì Điều 8
của Hợp đồng cũng như Luật Thương mại Việt Nam, luật hợp đồng của các nước đều

không qui định việc gặp khó khăn về tài chính là một căn cứ miễn trách cho việc
không thực hiện hợp đồng.
Ngày 30/06/1999 bên mua gửi văn thư đề nghị xin hủy hợp đồng vì khó khăn
về tài chính, nhưng bên bán không có trả lời gì về vấn đề này. Sự im lặng của bên
bán không phải là đồng ý huỷ hợp đồng, do vậy các bên phải tiếp tục thực hiện hợp
đồng.
Vi phạm hợp đồng nhưng không có căn cứ miễn trách nhiệm thì bên mua phải
chịu trách nhiệm trước bên bán.
2.Về sai sót ngày tháng trong Telex gia hạn mở L/C của bên bán:
Khi nhận được Telex thông báo gia hạn ngày mở L/C đến trước ngày
07/06/1999, tức gia hạn lùi về quá khứ, nhưng bên mua không hề có phản ứng gì,
không điện hỏi bên bán tại sao lại như vậy, cũng không đề xuất thời gian cụ thể cho
việc gia hạn mở L/C. Như vậy chứng tỏ bên mua không quan tâm đến việc gia hạn
mở L/C của bên bán.
Mặt khác sự sai sót về ngày tháng trong Telex gia hạn mở L/C hoặc việc gia
hạn lùi về quá khứ của bên bán không phải là nguyên nhân của việc không mở L/C,
mà nguyên nhân đích thực của việc không mở L/C là do bên mua gặp khó khăn về tài
chính, như đã đề cập ở mục 1 nêu trên. Vì vậy bên mua không được miễn trách
nhiệm do không mở L/C.
3. Về tiền phạt:
Theo Điều 7 Hợp đồng bên mua có trách nhiệm nộp phạt 5% trị giá hợp đồng
cho bên bán, cụ thể là:
Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

21
5% x 370.880 USD = 18.544 USD
Bên mua lập luận rằng việc bên mua xin hủy hợp đồng, không mở L/C không
hề gây thiệt hại nào cho bên bán. Lập luận này không được Uỷ ban trọng tài công
nhận, bởi vì bên bán chỉ đòi tiền phạt theo quy định của hợp đồng chứ không đòi bồi
thường thiệt hại. Đây là tiền phạt do không thực hiện hợp đồng cho dù không gây

thiệt hại cho bên kia. Từ đó Uỷ ban trọng tài quyết định bên mua phải nộp cho bên
bán 18.544 USD tiền phạt.
b. Trường hợp quy định thanh toán bằng phương thức nhờ thu kèm chứng từ
 Nghĩa vụ của người mua là phải trả tiền hoặc phải chấp nhận trả tiền hối phiếu
do người bán ký phát -> nếu người mua chậm trả tiền hối phiếu hoặc không
chấp nhận trả tiền hối phiếu sẽ dẫn đến tranh chấp giữa các bên.
 Việc chậm thanh toán tiền hàng của người mua sẽ gây thiệt hại cho người bán.
Thực tiễn mua bán hàng hoá quốc tế cho thấy trong nhiều hợp đồng xuất nhập
khẩu thường áp dụng cách thanh toán: người mua trả trước cho người bán
bằng tiền mặt, hay chuyển khoản 30% giá trị hợp đồng trong vòng 30 ngày
trước ngày giao hàng, 70% còn lại sẽ được thanh toán bằng phương thức D/P
ngay sau khi giao hàng. Khi người mua xuất trình đủ các chứng từ cần thiết
theo quy định của hợp đồng tại ngân hàng nhờ thu, nhưng người mua thường
dây dưa 30 - 40 ngày sau mới chịu trả tiền -> việc người mua dây dưa chậm
thanh toán như vậy sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của người bán và do vậy sẽ
không tránh khỏi tranh chấp xung quanh vấn đề này.
1.2.2 Nghĩa vụ nhận hàng
Nếu người mua tiếp nhận hàng hóa không kịp thời và đầy đủ có thể gây tổn
thất cho người bán:
- Trong trường hợp bán hàng theo điều kiện FOB, sau khi nhận được thông
báo của người bán là hàng đã sẵn sàng để giao lên tàu thì người mua
không dược chậm trễ thuê và chỉ định tàu đến cảng nhận hàng quy định.
Mọi sự chậm trễ hay không thực hiện việc thuê và chỉ định tàu sẽ gây ra
Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

22
cho người bán các thiệt hại như chi phí lưu kho, lưu bãi, bảo quản hàng
hoá và các chi phí liên quan khác.
- Trong các hợp đồng ký giữa Việt Nam và các nước Đông Âu và Liên Xô
cũ, tại các điều khoản về giao hàng và vận tải thường quy định là sau khi

nhận được thông báo của người bán là hàng đã được chuẩn bị sẵn sàng để
giao thì trong vòng 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo này thì người
mua phải gửi cho người bán một lệnh giao hàng bằng văn bản, trong đó có
ghi rõ địa chỉ cụ thể của người nhận hàng, cảng đến Người bán chỉ được
phép giao hàng sau khi nhận được lệnh giao hàng của người mua -> trong
trường hợp người mua không gửi lệnh giao hàng hoặc chậm trễ trong viẹc
gửi lệnh giao hàng thì sẽ gây thiệt hại cho người bán, từ đó tranh chấp sẽ
phát sinh.
 Ngoài những vấn đề nêu trên, các tranh chấp liên quan đến nghĩa vụ của người
mua còn có thể phát sinh trong các trường hợp như khi người mua mở L/C
không đúng các quy định của hợp đồng, người mua tự ý yêu cầu ngân hàng
ngừng thanh toán,….
Như vậy các tranh chấp liên quan đến nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán
hàng hoá quốc tế là rất đa dạng và phức tạp.
Vì vậy, vấn đề đặt ra là phải tìm được những phương pháp giải quyết tranh chấp đó
một cách có hiệu quả nhất.
Phần 2: GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
2.1 Các phương pháp giải quyết tranh chấp không mang tính tài phán
2.1.1 Hòa giải
Hòa giải có 3 đặc điểm sau:
Một là, hòa giải là một biện pháp giải quyết tranh chấp.
Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

23
Hai là, chủ thể trung tâm của hòa giải là bên trung gian giúp cho các bên tranh
chấp thỏa thuận với nhau về GQTC. Điều này làm cho hòa giải có sự khác biệt với
thương lượng. Người trung gian có thể là cá nhân, tổ chức luật sư, tư vấn, hoặc các tổ
chức khác do các bên thỏa thuận lựa chọn. Người này phải có vị trí độc lập với các
bên và hoàn toàn không có lợi ích liên quan đến tranh chấp. Bên thứ ba làm trung
gian không đại diện cho quyền lợi của bất cứ bên nào và không có quyền đưa ra phán

quyết.
Ba là, sự điều chỉnh, thỏa thuận về giải quyết các tranh chấp phải do chính các
bên tranh chấp quyết định. Các thỏa thuận, cam kết từ kết quả của quá trình hòa giải
không có giá trị bắt buộc cưỡng chế thi hành mà phụ thuộc vào thiện chí, sự tự
nguyện của các bên.
Như vậy, có thể hiểu hòa giải là việc các bên tiến hành thương lượng giải
quyết tranh chấp với sự hỗ trợ của bên thứ ba là hòa giải viên. Kết quả hòa giải phụ
thuộc vào thiện chí của các bên tranh chấp và uy tín, kinh nghiệm, kỹ năng của trung
gian hòa giải, quyết định cuối cùng của việc giải quyết tranh chấp không phải của
trung gian hòa giải mà hoàn toàn phụ thuộc các bên tranh chấp.
Hình thức giải quyết này có nhiều ưu điểm:
 Thủ tục hòa giải được tiến hành nhanh gọn, chi phí thấp,
 Các bên có quyền tự định đoạt, lựa chọn bất kỳ người nào làm trung gian hòa
giải cũng như địa điểm tiến hành hòa giải. Họ không bị gò bó về mặt thời gian
như trong thủ tục tố tụng tại tòa án.
 Hòa giải mang tính thân thiện nhằm tiếp tục giữ gìn và phát triển các mối quan
hệ kinh doanh vì lợi ích của cả hai bên. Hòa giải là mong muốn của các bên
dàn xếp vụ việc sao cho không có bên nào bị thua cuộc, không dẫn đến tình
trạng đối đầu, thắng thua như quá trình kiện tụng tại tòa án.
Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết

24
 Hình thức giải quyết này đặc biệt hiệu quả khi giải quyết những tranh chấp
kinh doanh, thương mại mang tính chất kỹ thuật (xây dựng, tài chính,… ). Vì
rằng, các bên trong vụ việc tranh chấp hoàn toàn có quyền chủ động trong việc
tìm kiếm một hòa giải viên có đủ hiểu biết để tham gia giải quyết tranh chấp.
Nhưng trong thực tiễn kiện tụng tại tòa thì các bên không có quyền lựa chọn
cán bộ giải quyết trừ một số trường hợp phải thay đổi hội đồng xét xử theo
quy định của pháp luật. Một điều quan trọng khác mà các nhà kinh doanh
cũng rất quan tâm là khi giải quyết bằng con đường này các bên kiểm soát

được các tài liệu chứng cứ có liên quan (những bí mật kinh doanh) trong khi
giải quyết tại tòa án thì các yêu cầu này không được đảm bảo do tòa án thực
hiện xét xử theo nguyên tắc công khai.
Bên cạnh những ưu điểm trên, giải quyết tranh chấp bằng phương pháp hòa
giải vẫn còn tồn tại những nhược điểm nhất định:
 Việc hòa giải có được tiến hành hay không phụ thuộc vào sự nhất trí của các
bên, hòa giải viên không có quyền đưa ra một quyết định ràng buộc hay áp đặt
bất cứ vấn đề gì đối với các bên tranh chấp thỏa thuận hòa giải không có tính
bắt buộc thi hành như phán quyết của trọng tài hay của tòa án. Nếu hoà giải
bất thành, thì lợi thế về chi phí thấp trở thành gánh nặng bổ sung cho các bên
tranh chấp.
 Người thiếu thiện chí sẽ lợi dụng thủ tục hòa giải để trì hoản việc thực hiện
nghĩa vụ của mình và có thể đưa đến hậu quả là bên có quyền lợi bị vi phạm
mất quyền khởi kiện tại Tòa án hoặc trọng tài vì hết thời hạn khởi kiện.
 Thủ tục này ít được sử dụng nếu các bên không có sự tin tưởng với nhau.
Các hình thức hòa giải:

×