Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

Hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ phòng ngừa rủi ro tín dụng tại ngân hàng đầu tư và phát triển việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (432.43 KB, 29 trang )



Hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ phòng
ngừa rủi ro tín dụng tại ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Việt Nam

Nguyễn Tiền Phong

Trường Đại học Kinh tế
Luận văn ThS ngành: Quản trị kinh doanh; Mã số: 60 34 05
Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Thư
Năm bảo vệ: 2007


Abstract: Phân tích lý thuyết, quy định và chuẩn mực liên quan đến hệ thống kiểm soát
nội bộ nhằm phòng ngừa rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại. Nghiên cứu thực
trạng tổ chức và hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ tại ngân hàng Đầu tư và Phát
triển Việt Nam trước và sau khi thực hiện hiện đại hoá cũng như kinh nghiệm xây dựng
hệ thống kiểm soát nội bộ của một số ngân hàng thương mại các nước trên thế giới đối
với phòng ngừa rủi ro tín dụng. Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện hệ thống kiểm soát
nội bộ nhằm phòng ngừa rủi ro tín dụng tại ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam

Keywords: Hệ thống kiểm soát nội bộ; Ngân hàng; Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt
Nam; Tín dụng

Content
MỞ ĐẦU
1/Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đưa nền kinh tế từng bước hội nhập vào nền
kinh tế thế giới trong bối cảnh tốc độ toàn cầu hoá diễn ra nhanh chóng, các lĩnh vực hoạt động
dịch vụ như bảo hiểm, ngân hàng đứng trước yêu cầu phải thích nghi, hội nhập toàn diện, nâng


cao năng lực cạnh tranh. Bởi vậy, việc nâng cao hiệu quả kinh doanh, phát triển bền vững của
các ngân hàng thương mại Việt Nam là yêu cầu tất yếu.
Thực hiện hiện đại hoá mà điểm cốt lõi là việc ứng dụng công nghệ thông tin vào toàn bộ quá
trình xử lý nghiệp vụ ngân hàng. Kết quả của việc ứng dụng công nghệ thông tin vào xử lý
nghiệp vụ là các ngân hàng thương mại có thể thực hiện được tập trung được cơ sở dữ liệu tại
Hội sở chính nhưng hạch toán phân tán tại các chi nhánh và đơn vị thành viên. Điều này cũng


đồng nghĩa với việc quản trị điều hành của các ngân hàng thương mại về bản chất là tiếp nhận
và xử lý thông tin đã có sự thay đổi mang tính hệ thống. Chính vì vậy, hệ thống kiểm soát nội bộ
của các ngân hàng thương mại sẽ phải được thay đổi một cách căn bản để có thể đáp ứng được
sự thay đổi của công nghệ nhằm mục đích phòng ngừa rủi ro và an toàn hệ thống.
Mặt khác, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng (được Quốc
hội thông qua ngày 15/06/2004) đã quy định các tổ chức tín dụng phải thiết lập một hệ thống
kiểm soát nội bộ chặt chẽ, hiệu quả. Hệ thống kiểm soát nội bộ của các ngân hàng thương mại
hiện nay chưa tiến kịp tiến trình hiện đại hoá ngân hàng, chưa phù hợp với thông lệ và chuẩn
mực quốc tế. Việc kiểm tra, kiểm soát chủ yếu là kiểm tra sau và kiểm tra tại chỗ, thực chất là
hậu kiểm, do đó không đáp ứng được yêu cầu ngăn ngừa, phát hiện và xử lý kịp thời các rủi ro
phát sinh trong quá trình hoạt động của các ngân hàng thương mại.
Ngoài ra, các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay công nghệ còn tương đối lạc hậu, khả
năng đáp ứng các dịch vụ ngân hàng hiện đại còn thấp, chưa đưa ra được nhiều sản phẩm dịch
vụ phong phú ra thị trường nên tín dụng đang là hoạt động kinh doanh và nguồn thu chủ yếu của
các Ngân hàng thương mại. Bên cạnh đó, do yêu cầu về vốn của nền kinh tế trong giai đoạn phát
triển nên đã đẩy tốc độ tăng trưởng tín dụng trong thời gian qua của hệ thống ngân hàng thương
mại Việt Nam quá nhanh trong điều kiện quy mô vốn tự có và năng lực quản lý rủi ro chậm được
cải thiện đã đưa hoạt động tín dụng trở thành một trong những lĩnh vực tạo nhiều rủi ro nhất cho
các ngân hàng thương mại. Chính vì vậy, thiết lập một hệ thống kiểm soát nội bộ hiệu quả trong
đó nhấn mạnh đến kiểm soát nội bộ đối với hoạt động tín dụng nhằm phòng ngừa, hạn chế rủi ro
trong hoạt động ngân hàng là nhu cầu bức thiết.
Xuất phát từ thực tế nói trên và với những kiến thức đã được học đề tài “Hoàn thiện hệ

thống kiểm soát nội bộ phòng ngừa rủi ro tín dụng tại ngân hàng Đầu tƣ và Phát triển Việt
Nam” sẽ mang tính thiết thực đối với công tác quản trị, điều hành của Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển Việt Nam nói riêng và các ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung trong giai đoạn hiện
nay.
2/ Tình hình nghiên cứu
Cho đến nay, việc nghiên cức các lĩnh vực liên quan đến công tác kiểm soát nội bộ của ngân
hàng thương mại của các học giả Việt Nam và nước ngoài liên quan đến luận văn dưới nhiều góc
độ khác nhau. Có thể phân thành 2 vấn đề được nghiên cứu chủ yếu là : a) Nghiên cứu những


vấn đề có liên quan đến kiểm soát nội bộ; b) Nghiên cứu việc nhận diện và phòng ngừa rủi ro tín
dụng.
Trong nhóm công trình thứ nhất đề cập đến hệ thống kiểm soát nội bộ của các ngân hàng
thương mại Việt Nam nhưng cũng chỉ ở mức độ giới thiệu chứ không đi sâu vào phân tích,
nghiên cứu.
Trong nhóm công trình thứ 2 tập trung vào phân tích rủi ro tín dụng trong hoạt động của các
Ngân hàng thương mại nói chung và rủi ro tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam nói
riêng nhưng vẫn tách rời rủi ro tín dụng trong công tác kiểm soát nội bộ của các ngân hàng
thương mại.
Như vậy, tình hình nghiên cứu từ trước đến nay chỉ đơn thuần tập trung vào công tác kiểm
soát nội bộ hoặc rủi ro tín dụng, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện những
khía cạnh của công tác kiểm soát nội bộ đối với việc ngăn ngừa rủi ro tín dụng tại các ngân hàng
thương mại. Đặc biệt chưa có công trình nào nghiên cứu tác dụng của hệ thống kiểm soát nội bộ
nhằm hạn chế và ngăn ngừa rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại có trình độ công nghệ
tương đối hiện đại.với việc ứng dụng công nghệ thông tin vào tất cả các mặt nghiệp vụ. Vì vậy,
lấy việc hoàn thiện Hệ thống kiểm soát nội bộ phằm phòng ngừa rủi ro tín dụng sau khi đã hiện
đại hoá của ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam là đối tượng nghiên cứu chính, luận văn sẽ
là một công trình nghiên cứu hệ thống, toàn diện và cập nhật về vấn đề này.
3/Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn sẽ tập trung nghiên cứu hệ thống kiểm soát nội bộ của Ngân hàng Đầu tư và Phát

triển Việt Nam từ trước khi hiện đại hoá đến khi đã thực hiện hiện đại hoá đối với rủi ro tín dụng.
Đề tài sẽ xem xét nghiên cứu một cách có hệ thống những luận cứ, cơ sở khoa học về hệ thống
kiểm soát nội bộ ngân hàng thương mại nói chung và ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
nói riêng trong hoạt động phòng ngừa rủi ro tín dụng. Những đề xuất, giải pháp cụ thể nhằm
nâng cao hiêụ quả và khắc phục những khiếm khuyết trong hoạt động kiểm soát nội bộ tại ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam sẽ được trình bày trong luận văn để có thể áp dụng vào thực
tiễn hoạt động hoạt động kinh doanh của đơn vị.
Với mục đích nghiên cứu trên, luận văn sẽ tập trung vào việc thực hiện các nhiệm vụ cụ thể
sau:
- Phân tích lý thuyết, quy định và chuẩn mực liên quan đến hệ thống kiểm soát nội bộ của
ngân hàng thương mại.


- Nghiên cứu thực trạng tổ chức và hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ tại ngân hàng
Đầu tư và Phát triển Việt Nam trước và sau khi thực hiện hiện đại hoá cũng như kinh nghiệm xây
dựng hệ thống kiểm soát nội bộ của một số ngân hàng thương mại các nước trên thế giới đối với
phòng ngừa rủi ro tín dụng.
- Qua nhận thức lý luận và tổng kết thực tiễn, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả của công tác kiểm soát nội bộ đối với việc ngăn ngừa rủi ro tín dụng của ngân hàng Đầu tư
và Phát triển Việt Nam
4/Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là về tổ chức và hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ
của các ngân hàng thương mại đối với việc phòng ngừa rủi ro tín dụng, trong đó đi sâu vào
nghiên cứu mô hình và tổ chức hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ của Ngân hàngĐầu tư
và Phát triển Việt Nam sau khi đã thực hiện hiện đại hoá.
Ngoài ra luận văn cũng nghiên cứu một số vấn đề nhằm nhận diện rủi ro tín dụng đối với các
ngân hàng thương mại và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Về không gian luận văn sẽ tập trung nghiên cứu những cơ sở pháp lý để hình thành hệ thống
kiểm soát nội bộ của các ngân hàng thương mại nói chung cũng như của ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Việt Nam nói riêng cũng nghiên cứu các chuẩn mực, thông lệ quốc tế áp dụng cho hệ

thống kiểm soát nội bộ các ngân hàng thương mại. Luận văn cũng nghiên cứu ảnh hưởng của
công nghệ ngân hàng hiện đại đối với công tác kiểm soát nội bộ và hệ thống phương pháp kỹ
thuật chuyên môn, nghiệp vụ nhằm phòng ngừa rủi ro trong hoạt động tín dụng ngân hàng.
5/ Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong luận văn, ngoài các phương pháp cơ bản được sử dụng trong việc nghiên cứu khoa học
xã hội cũng như kinh tế học, các tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp chung là phương pháp phân tích, so sánh nhằm tìm ra những căn cứ, số liệu
minh hoạ cho luận điểm được nêu ra.
- Phương pháp bổ trợ như phương pháp phân kỳ, thống kê, tổng hợp và toán học nhằm nêu rõ
đặc thù từng giai đoạn khác nhau của hệ thống kiểm soát nội bộ ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Việt Nam . Đồng thời, các bảng, biểu, đồ thị…. có thể được sử dụng trong luận văn để minh hoạ
cho vấn đề được nghiên cứu.
6/ Nh÷ng ®ãng gãp míi cña luËn v¨n
Tác giả hy vọng luận văn có những đóng góp cơ bản như sau:


Thứ nhất, tổng hợp các cơ sở pháp lý, các chuẩn mực và thông lệ liên quan đến hệ thống
kiểm soát nội bộ và vai trò của hệ thống kiểm soát nội bộ đối với hoạt động của các ngân hàng
thương mại
Thứ hai, hệ thống hoá một cách có chọn lọc các công trình nghiên cứu của các học giả Việt
Nam và nước ngoài về hệ thống kiểm soát nội bộ ngân hàng thương mại trên thế giới và của Việt
Nam đối với phòng ngừa rủi ro tín dụng.
Thứ ba, phân tích tác động và sự thay đổi của hệ thống kiểm soát nội bộ đối với hoạt động
tín dụng sau khi thực hiện hiện đại hoá ngân hàngđể đánh giá những vấn đề còn tồn tại cần khắc
phục đối với ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Thứ tƣ, cung cấp cho độc giả một cái nhìn tổng quan về hệ thống kiểm soát nội bộ của ngân
hàng thương mại hiện đại và danh mục tài liệu tham khảo phong phú liên quan đến đề tài.
7/ Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương:

Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về hệ thống kiểm soát nội bộ nhằm phòng ngừa rủi ro tín dụng tại
các ngân hàng thương mại
Chƣơng 2: Thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ của ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt
Nam
Chƣơng 3: Một số giải pháp hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ nhằm phòng ngừa rủi ro
tín dụng tại ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam

Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HỆ THỐNG KIỂM SOÁT NỘI BỘ NHẰM PHÒNG
NGỪA RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI

1.1 HỆ THỐNG KIỂM SOÁT NỘI BỘ VÀ ẢNH HƢỞNG CỦA NÓ ĐẾN PHÒNG
NGỪA RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CAC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI
1.1.1 KHÁI NIỆM, CHỨC NĂNG VÀ NHIỆM VỤ CỦA HỆ THỐNG KIỂM SOÁT
NỘI BỘ
1.1.1.1 Khái niệm hệ thống kiểm soát nội bộ


“ Kiểm soát nội bộ là một quá trình do Hội đồng quản trị, người điều hành và các nhân viên
khác chi phối, nó được thiết lập để cung cấp một sự đảm bảo hợp lý nhằm thực hiện được các
mục tiêu sau đây: (a) Báo cáo tài chính đáng tín cậy, (b) hoạt động hữu hiệu và hiệu quả, (c) các
luật lệ và các quy định được tuân thủ.”
Từ các định nghĩa trên, hệ thống kiểm soát nội bộ được hiểu như sau:
- Kiểm soát nội bộ là một chuỗi hoạt động kiểm soát hiện diện ở mọi bộ phận, mọi hoạt
động của tổ chức.
- Hệ thống kiểm soát nội bộ là một quá trình giám sát thường xuyên, liên tục, là phương
tiện để các cấp quản lý trong tổ chức kiểm soát hoạt động của tổ chức mình đồng thời nó đảm
bảo hiệu quả, an toàn cho hoạt động, tuân thủ các quy định của luật pháp và đảm bảo sự tin cậy
của những thông tin tài chính.
- Hệ thống kiểm soát nội bộ được thiết kế và vận hành bởi con người. Hệ thống kiểm soát
nội bộ không chỉ đơn thuần chỉ là những chính sách, thủ tục, biểu mẫu, các quy định mà phải bao

gồm cả những con người trong tổ chức như Hội đồng quản trị, Ban giám đốc, các thành viên
trong tổ chức.
- Kiểm soát nội bộ đảm bảo một sự hợp lý, chứ không phải là tuyệt đối là các mục tiêu sẽ
được thực hiện. Hơn nữa, nguyên tắc cơ bản trong việc đưa ra quyết định quản lý là chi phí cho
quá trình kiểm soát không thể vượt quá lợi ích được đem lại bởi quá trình kiểm soát đó. Do đó,
tuy người quản lý có thể nhận thức được rủi ro nhưng chi phí kiểm soát quá cao thì họ vẫn không
áp dụng các biện pháp để kiểm soát rủi ro tương ứng.
Có một khái niệm dễ nhầm lẫn với kiểm soát nội bộ là kiểm toán nội bộ. Trong khi kiểm
toán nội bộ chỉ tập trung vào đánh giá việc quản trị rủi ro sau khi các hoạt động đã diễn ra thì
kiểm soát nội bộ lại thực hiện cả việc kiểm soát rủi ro trước và sau các hoạt động. Nói cách khác,
kiểm toán nội bộ chỉ là một phần của quá trình kiểm soát nội bộ. Ngoài ra, trong quá trình quản
trị và điều hành tổ chức thì hệ thống kiểm soát nội bộ không độc lập khỏi quy trình nghiệp vụ mà
nó được bố trí, xây dựng trong mọi quy trình tác nghiệp của tổ chức còn kiểm toán nội bộ độc
lập khỏi quy trình tác nghiệp để bảo đảm tính khách quan, hiệu quả.
1.1.1. 2 Các bộ phận cấu thành hệ thống kiểm soát nội bộ
Mặc dù có sự khác biệt đáng kể về tổ chức hệ thống kiểm soát nội bộ giữa các đơn vị vì phụ
thuộc vào nhiều yếu tố như quy mô, tính chất hoạt động, mục tiêu của tổ chức nhưng hệ thống
kiểm soát nội bộ muốn vận hành hiệu quả phải có những bộ phận cấu thành cơ bản. Theo mô


hình do tổ chức COSO đưa ra và cũng được coi là quan điểm cơ bản, phổ biến hiện nay thì hệ
thống kiểm soát nội bộ phải gồm những bộ phận chủ yếu sau:
- Môi trường kiểm soát
- Đánh giá rủi ro
- Hoạt động kiểm soát
- Thông tin và trao đổi thông tin
- Giám sát
a) Môi trường kiểm soát
Môi trường kiểm soát bao gồm phương châm quản lý và phong cách kinh doanh (hoạt
động) của Ban lãnh đạo, sự tham gia của những người chịu trách nhiệm quản trị doanh nghiệp

hoặc điều hành tổ chức, hiệu quả của cơ cấu tổ chức, tính hợp lý của các kế hoạch và mức độ tin
cậy của các ước tính của ban lãnh đạo
Môi trường kiểm soát là nền móng cho toàn bộ các yếu tố còn lại của hệ thống kiểm soát nội
bộ, quy định nguyên tắc và cơ cấu.
Môi trường kiểm soát phản ánh sắc thái chung của một đơn vị, nó chi phối ý thức kiểm
soát của mọi thành viên trong đơn vị và là nền tảng đối với các bộ phận khác của kiểm soát nội
bộ. Các nhân tố chính thuộc về môi trường kiểm soát là:
- Tính trung thực và giá trị đạo đức.
- Đảm bảo về năng lực.
- Hội đồng quản trị và uỷ ban kiểm toán ( ban kiểm soát).
- Triết lý quản lý và phong cách điều hành của nhà quản lý
- Cơ cấu tổ chức
- Cách thức phân định quyền hạn và trách nhiệm.
- Chính sách nhân sự
b)Đánh giá rủi ro
Để giới hạn rủi ro ở mức chấp nhận được, người quản lý phải xác định mục tiêu của đơn vị,
nhận dạng và phân tích rủi ro từ đó mới có thể kiểm soát được rủi ro.
- Xác định mục tiêu của đơn vị: mục tiêu tuy không phải là bộ phận của kiểm soát nội bộ
nhưng việc xác định nó là điều kiện tiên quyết để đánh giá rủi ro.


- Nhận dạng rủi ro: để nhận dạng rủi ro, người quản lý có thể sử dụng nhiều phương pháp
khác nhau, từ việc sử dụng phương tiện dự báo, phân tích dữ liệu quá khứ, cho đến việc rà soát
thường xuyên các hoạt động.
- Phân tích và đánh giá rủi ro: một quy trình phân tích và đánh giá rủi ro thường bao gồm
các bước sau đây : Ước lượng tầm cỡ của rủi ro qua ảnh hưởng có thể có của nó đến mục tiêu
của đơn vị, xem xét khả năng xảy ra rủi ro và những biện pháp có thể sử dụng để đối phó với rủi
ro.
c) Hoạt động kiểm soát
Hoạt động kiểm soát là những chính sách và thủ tục để đảm bảo cho các chỉ thị, các yêu

cầu của Ban lãnh đạo được thực hiện đúng và đầy đủ. Các chính sách và thủ tục này giúp thực thi
những hành động với mục đích chính là giúp kiểm soát các rủi ro mà đơn vị đang hoặc có thể
gặp phải. Có nhiều loại hoạt động kiểm soát khác nhau có thể thực hiện, dưới đây là một số hoạt
động kiểm soát chủ yếu của đơn vị:
- Phân chia trách nhiệm đầy đủ: Phân chia trách nhiệm là không cho phép một thành
viên nào được giải quyết mọi mặt nghiệp vụ từ khi hình thành cho đến khi kết thúc.
- Kiểm soát quá trình xử lý thông tin và các nghiệp vụ: để thông tin đáng tin cậy cần phải
thực hiện nhiều hoạt động kiểm soát nhằm kiểm tra tính xác thực, đầy đủ và việc phê chuẩn các
nghiệp vụ.
Cần đảm bảo rằng tất cả các nghiệp vụ hoặc hoạt động phải được phê chuẩn bởi một nhân
viên quản lý trong phạm vi quyền hạn cho phép. Sự phê chuẩn được chia làm hai loại là phê
chuẩn chung và phê chuẩn cụ thể.
Các cá nhân hoặc bộ phận được uỷ quyền để thực hiện phê chuẩn phải có chức vụ tương
xứng với tính chất và tầm quan trọng của nghiệp vụ. Trong môi trường xử lý dữ liệu bằng
phương pháp điện tử, việc kiểm soát quá trình xử lý thông tin cũng thường được chia thành kiểm
soát chung và kiểm soát ứng dụng với những đặc thù riêng.
- Kiểm soát vật chất: hoạt động này được thực hiện cho các loại sổ sách và tài sản, cũng
như các chương trình phần mềm tin học và những hồ sơ, dữ liệu nhằm đảm bảo rằng tài sản
không bị mất mát, đánh cắp hoặc sử dụng trái với thẩm quyền.
- Kiểm soát độc lập việc thực hiện: là việc kiểm tra được tiến hành bởi các cá nhân (hoặc
bộ phận) khác với cá nhân ( hoặc bộ phận) đang thực hiện nghiệp vụ, thực chất đây là yêu cầu
kiểm tra chéo giữa các bộ phận, cá nhân trong tổ chức.


- Yêu cầu quan trọng đối với những thành viên thực hiện kiểm tra là họ phải độc lập với
đối tượng bị kiểm tra. Sự hữu hiệu của hoạt động này sẽ mất đi nếu người thực hiện thẩm tra lại
là nhân viên cấp dưới hoặc là người có quyền lợi liên quan đến người bị kiểm tra.
d) Thông tin và truyền thông
Thông tin và truyền thông chính là điều kiện không thể thiếu cho việc thiết lập, duy trì và
nâng cao năng lực kiểm soát trong đơn vị thông qua việc hình thành các báo cáo cung cấp thông

tin về hoạt động, tài chính và sự tuân thủ, bao gồm cả cho nội bộ và bên ngoài.
e) Giám sát
Đây là bộ phận cuối cùng của hệ thống kiểm soát nội bộ. Giám sát là một quá trình mà người
quản lý đánh giá chất lượng của hệ thống kiểm soát. Điều quan trọng trong giám sát là phải xác
định được hệ thống kiểm soát nội bộ có vận hành đúng như thiết kế hay không và có cần thiết
phải sửa đổi chúng cho phù hợp với tùng giai đoạn phát triển của tổ chức hay không. Thông
thường các nhà quản lý thực hiện giám sát thường xuyên hay định kỳ.
- Giám sát thường xuyên đạt được thông qua hệ thống báo cáo hoạt động nội bộ; các ý
kiến, thông tin từ bên ngoài như ý kiến khách hàng, đánh giá của cơ quan quản lý Nhà nước để
đánh giá hoạt động của tổ chức và phát hiện những bất thường.
- Giám sát định kỳ được thực hiện thông qua các cuộc kiểm toán định kỳ do kiểm toán viên
nội bộ hoặc kiểm toán độc lập thực hiện.
1.1 .2 Hệ thống kiểm soát nội bộ của các ngân hàngthƣơng mại
1.1.2.1Một số đặc trưng của các ngân hàngthương mại
a) Khái niệm ngân hàng thương mại
Tại khoản 2, điều 20 luật các tổ chức tín dụng được Quốc hội thông qua ngày 15/4/2004 sửa
đổi, bổ sung một số điều của luật các tổ chức tín dụng được Quốc hội thông qua ngày
12/12/1997, phần giải thích từ ngữ định nghĩa “ Ngân hàng là tổ chức tín dụng được thực hiện
toàn bộ các nghiệp vụ ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan” tại khoản 7
cũng tại điều này xác định “ hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ
ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng tiền này để cấp tín dụng và cung
ứng các dịch vụ thanh toán”
Ngân hàng thương mại có các hoạt động cơ bản sau:


Nhận tiền gửi là hoạt động cơ bản, truyền thống, được coi là điển hình của ngân hàng
thương mại. Tiền gửi là khoản tiền mà khách hàng gửi trong tài khoản của họ mở tại ngân hàng.
Các tài khoản này bao gồm các tài khoản vãng lai và các tài khoản tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi
tiết kiệm.
Tín dụng là một trong những hoạt động cơ bản nhất của ngân hàngthương mại, là việc

ngân hàngcung cấp cho khách hàng một khoản tiền, khách hàng có trách nhiệm phải trả lãi và
hoàn trả gốc theo đúng thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng.
Trung gian thanh toán là hoạt động truyền thống của ngân hàng, tạo điều kiện cho
khách hàng thực hiện các khoản thanh toán bằng phương thức giấy tờ hoặc điện tử mà không
phải mang đi mang lại một lượng lớn tiền mặt.
Hoạt động khác của ngân hàng thương mại:
Hoạt động đầu tư của ngân hàng thương mại thường gồm ba hoạt động chính là đầu tư
ngân quỹ, đầu tư hưởng lợi và đầu tư nắm quyền kiểm soát.
Bảo lãnh là cam kết của ngân hàng về việc sẽ thực hiện nghĩa vụ thanh toán cho bên thứ
ba nếu người được bảo lãnh không thực hiện được hoặc thực hiện không đầy đủ thoả thuận ban
đầu với bên thứ ba đó.
Bảo hiểm là các ngân hàng thương mại cung cấp dịch vụ bảo hiểm cho các khách hàng
thông qua các công ty con hoặc thông qua các nhà môi giới bảo hiểm trên cả hai lĩnh vực bảo
hiểm nhân thọ và phi nhân thọ.
Cho thuê tài sản (Leasing) là việc ngân hàng sẽ mua tài sản theo nhu cầu sử dụng của
doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải trả tiền thuê hàng năm và hết thời hạn thuê thì được quyền
mua lại tài sản đó.
Hoạt động môi giới và kinh doanh chứng khoán ngân hàng thương mại thực hiện việc
kinh doanh, môi giới, tư vấn, … chứng khoán thông qua việc lập các công ty chứng khoán.
b) Hoạt động tín dụng và rủi ro tín dụng đối với các ngân hàng thương mại
- Khái niệm tín dụng
“tín dụng là một giao dịch về tài sản ( tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay ( ngân
hàngvà các định chế tài chính khác), trong đó bên vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử
dụng trong một thời gian nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều
kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán”


- Phân loại hoạt động tín dụng
Tín dụng được phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau, tuỳ thuộc mục đích quản trị.
- Theo thời gian:

- Theo mục đích sử dụng:
Ngoài ra, người ta còn sử dụng các phương pháp phân loại khác để phục vụ cho việc
quản trị tốt hoạt động tín dụng: theo tài sản đảm bảo (tín dụng có / không có tài sản đảm bảo),
theo khả năng hoàn trả,…
- Chất lượng tín dụng
Chất lượng tín dụng được xem xét dưới nhiều góc độ từ phía ngân hàng, phía khách hàng
và từ sự phát triền nền kinh tế - xã hội. Nếu một ngân hàng có chất lượng tín dụng cao, thể hiện
qua việc thu nợ gốc và lãi đúng hạn, bảo toàn được vốn cho vay, tỷ lệ nợ quá hạn thấp, vòng
quay vốn tín dụng nhanh, thì ngân hàng đó được đánh giá về cơ bản là hoạt động an toàn và hiệu
quả.
- Rủi ro trong hoạt động tín dụng
“ Rủi ro tín dụng là rủi ro về sự tổn thất tài chính ( trực tiếp hoặc gián tiếp) xuất phát từ
người đi vay không thực hiện nghĩa vụ trả nợ đúng hạn theo cam kết hoặc mất khả năng thanh
toán”[12]. Rủi ro lớn nhất trong hoạt động tín dụng mà các ngân hàng thương mại phải đối mặt
là rủi ro tín dụng. Đối với ngân hàng, rủi ro tín dụng vừa mang tính chất khách quan vừa mang
tính chất chủ quan. Sự khách quan trong rủi ro tín dụng làm cho nó trở nên không thể loại trừ. Mặt
khác, bởi lợi nhuận phần nào cũng là một phần thưởng của rủi ro nên người ta chỉ tìm cách hạn chế
rủi ro tới mức có thể chấp nhận được mà thôi.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng:
Thứ nhất, những yếu tố bất khả kháng tác động tới người vay khiến họ không trả nợ được
hoặc trả không đầy đủ cho ngân hàng.
Thứ hai, trình độ yếu kém của người vay trong việc quản lý các dự án đầu tư, phương án
sản xuất kinh doanh dẫn tới sử dụng vốn vay không hiệu quả.
Thứ ba, người vay có chủ ý lừa đảo cung cấp thông tin sai lệch hoặc cố ý không trả nợ
cho ngân hàng mặc dù họ kinh doanh có lãi.
Thứ tƣ, ngân hàng đánh giá sai do thiếu am hiểu về người vay và lĩnh vực kinh doanh
của họ.


Thứ năm, ngân hàng có chính sách tín dụng không hợp lý, chất lượng cán bộ ngân hàng

kém.
Thứ sáu, ngân hàng chưa thiết lập được hệ thống kiểm soát nội bộ có hiệu quả trong hoạt
động tín dụng, trong đó có việc xây dựng mô hình tổ chức, quy trình tín dụng thiếu chặt chẽ và
không phù hợp.
Ngoài rủi ro tín dụng, ngân hàng thương mại còn phải đối mặt với những rủi ro bắt nguồn
từ thao tác nghiệp vụ cho vay khách hàng. Rủi ro tác nghiệp là khả năng xảy ra những tổn thất
khi các nhân viên ngân hàng thực hiện sai quy trình, không tuân thủ chính sách và các quy định
của ngân hàng; khi các chính sách, quy trình nghiệp vụ không phù hợp với thực tiễn. Rủi ro tác
nghiệp cũng có thể phát sinh do chính sách và quy trình cho vay lỏng lẻo, phương pháp xem xét,
phân tích còn hạn chế.
1.1.2.2 Hệ thống kiểm soát nội bộ của các ngân hàng thƣơng mại đối với việc phòng
ngừa rủi ro tín dụng
a)Hệ thống kiểm soát nội bộ của các ngân hàng thương mại
Theo điều 2, phần giải thích từ ngữ tại quy chế kiểm tra, kiểm soát nội bộ của tổ chức tín
dụng ban hành kèm theo quyết định số 36/2006/QĐ-NHNN ngày 01/8/2006 đã định nghĩa hệ
thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ như sau “Hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ là tập hợp các cơ
chế, chính sách, quy trình, quy định nội bộ, cơ cấu tổ chức của tổ chức tín dụng được thiết lập
trên cơ sở phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành và được tổ chức thực hiện nhằm bảo
đảm phòng ngừa, phát hiện, xử lý kịp thời các rủi ro và đạt được các mục tiêu và tổ chức tín
dụng đã đề ra”. Cũng theo quy chế này, tại điều 3 quy định mục tiêu của hệ thống kiểm tra, kiểm
soát nội bộ đã xác định các mục tiêu cụ thể, chủ yếu của hệ thống kiểm tra, kiểm soat của tổ chức
tín dụng như sau:
1. Hiệu quả và an toàn trong hoạt động; bảo vệ, quản lý, sử dụng tài sản và các nguồn lực
kinh tế, an toàn, có hiệu quả (mục tiêu hoạt động)
2. Bảo đảm hệ thống thông tin tài chính và thông tin quản lý trung thực, hợp lý, đầy đủ và
kịp thời ( Mục tiêu thông tin)
3. Bảo đảm tuân thủ pháp luật và và các quy chế, quy trình, quy định nội bộ ( Mục tiêu tuân
thủ)
Một hệ thống kiểm soát nội bộ tốt có khả năng đánh giá được khả năng đạt được mục tiêu
đồng thời vẫn đảm bảo khả năng vững mạnh về tài chính của ngân hàng.



Quá trình kiểm soát nội bộ tại các ngân hàng thương mại gồm các yếu tố có sự tác động qua
lại:
1. Sự giám sát của điều hành và văn hoá kiểm soát
2. Nhận định và đánh giá rủi ro
3. Hoạt động kiểm soát và phân định trách nhiệm
4. Thông tin và giao tiếp
5. Giám sát các hoạt động và khắc phục các khiếm khuyết
b)Hệ thống kiểm soát nội bộ phòng ngừa rủi ro tín dụng
Hệ thống kiểm soát nội bộ để phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng phải đảm bảo các yêu
cầu sau:
1. Tạo dựng các điều kiện khung ổn định đối với rủi ro tín dụng
2. Thiết lập cơ chế ra quyết định trong hoạt động tín dụng
3. Duy trì một quy trình ổn định về quản lý tín dụng, tính toán và giám sát rủi ro tín dụng
4. Đảm bảo sự kiểm soát phù hợp đối với rủi ro tín dụng
- Tạo dựng các điều kiện khung ổn định đối với rủi ro tín dụng:Việc tạo dựng các điều
kiện khung ổn định đối với tủi ro tín dụng chính là chiến lược, quy trình, thủ tục đối với việc
kiểm soát rủi ro tín dụng và các nguyên tắc nhận dạng, phát hiện, phân tích rủi ro tín dụng.
Thiết lập cơ chế ra quyết định trong hoạt động tín dụng: các ngân hàng thương mại phải
thiết lập một cơ chế ra quyết định trong hoạt động tín dụng tuân thủ các nguyên tắc dưới đây:
- Các ngân hàng thương mại phải thực hiện nghiệp vụ tín dụng dựa theo các tiêu chí đã được
quy định rõ ràng và hiệu quả về cấp tín dụng.
- Các ngân hàng thương mại phải có cơ cấu nhân sự phù hợp, có nghĩa vụ và trách nhiệm
được xác định rõ ràng.
- Đối với các khách hàng vay riêng lẻ và các khách hàng cũng như nhóm khách hàng có liên
quan với nhau, ngân hàng cần áp dụng hạn mức tín dụng chung. Khoản hạn mức tín dụng chung
này tập hợp tất cả các loại rủi ro khác nhau một cách hợp lý và có thể so sánh được trong lĩnh
vực ngân hàng.
- Các ngân hàng phải có một quy trình cố định đối với việc chấp thuận các khoản tín dụng

mới cũng như đối với việc thay đổi, gia hạn và tái cơ cấu các khoản tín dụng hiện có. Quy trình
cố định này bao gồm cả hệ thống đánh giá tin dụng nội bộ.


Duy trì một quy trình ổn định về quản lý tín dụng, tính toán và giám sát rủi ro tín
dụng:
- Các ngân hàng phải có hệ thống quản lý thường xuyên các danh mục khác nhau có hàm
chứa rủi ro tín dụng. Cần phải có một hệ thống để giám sát hiện trạng các khoản tín dụng đơn lẻ,
hệ thống đó cũng bao gồm cả việc xác định tính phù hợp của các khoản trích lập dự phòng rủi ro
tín dụng.
- Các ngân hàng thương mại nên xây dựng và thiết lập một hệ thống đánh giá rủi ro tín dụng
nội bộ nhằm khắc phục rủi ro tín dụng. Hệ thống đánh giá này phù hợp với thể thức, quy mô và
sự đa dạng trong các nghiệp vụ của từng ngân hàng.
- Các ngân hàng phải có các hệ thống thông tin và các phương pháp phân tích để tạo điều
kiện cho cấp quản lý lượng hoá được các rủi ro tín dụng.
Đảm bảo sự kiểm soát phù hợp đối với rủi ro tín dụng: Để đảm bảo sự kiểm soát phù hợp
với rủi ro tín dụng ngân hàng phải thiết lập một hệ thống để đánh giá một cách độc lập và thường
xuyên các quá trình quản lý rủi ro của mình và các kết quả của việc rà soát này phải được thông
báo trực tiếp cho cơ quan quản lý cao nhất và ban giám đốc ngân hàng. Các ngân hàng phải có
một hệ thống các phương pháp phục hồi kịp thời đối với các khoản nợ xấu để giải quyết các
khoản nợ xấu và các tình huống có thể xảy ra tương tự.


Chương 2
THỰC TRẠNG HỆ THỐNG KIỂM SOÁT NỘI BỘ CỦA NGÂN HÀNG ĐẦU TƢ VÀ
PHÁT TRIỂN VIỆT NAM

2.1 ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA NGÂN HÀNG ĐẦU TƢ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM
2.1.1Khái quát về quá trình hình thành và phát triển của ngân hàng Đầu tƣ và Phát
triển Việt Nam

Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam được thành lập theo quyết định số 177/TTg ngày
26/4/1957 của Thủ tướng chính phủ với tên gọi ban đầu là ngân hàng Kiến thiết.
Thời kỳ trƣớc năm 1995


Giai đoạn này, ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam là ngân hàng chuyên doanh phục
vụ trong lĩnh vực cấp phát vốn đầu tư và xây dựng cơ bản. Hoạt động chủ yếu là cấp phát các
nguồn vốn có nguồn gốc từ ngân sách cho các dự án đầu tư và phát triển của nền kinh tế quốc
dân và các hoạt động cho vay vốn lưu động để thi công xây lắp, sản xuất.
Thời kỳ từ năm 1995 đến nay
Từ năm 1995 đến nay, ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam chuyển hẳn sang kinh
doanh như một ngân hàng thương mại thực sự. Theo quyết định số 2919/KTTH ngày 29/5/1995,
Thủ tướng chính phủ đã giao cho ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam 1500 tỷ đồng vốn
điều lệ để hoạt động. Đây cũng là năm đầu tiên ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam được
Thống đốc ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho phép thực hiện chức năng kinh doanh đa năng
tổng hợp.
2.1.2 Mô hình tổ chức và hoạt động của ngân hàng Đầu tƣ và Phát triển Việt Nam
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam là ngân hàng thương mại Nhà nước được thành lập
theo quyết định số 177/TTg ngày 26/4/1957 của Thủ tướng Chính phủ và được Thống đốc
NHNN Việt Nam ký quyết định số 287/QĐ-NH5 ngày 21/9/1996 thành lập lại theo mô hình
Tổng công ty Nhà nước theo quy định tại quyết định số 90/TTg ngày 07/3/1994 theo uỷ quyền
của Thủ tướng Chính phủ.
Mô hình tổ chức và hoạt động theo điều lệ tổ chức và hoạt động của ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Việt Nam ban hành kèm theo quyết định số 54/QĐ-HĐQT của Chủ tịch HĐQT và đã
được Thống đốc NHNN Việt Nam chuẩn y tại quyết định số 936/2002/QĐ-NHNN ngày
03/9/2002.
2.1.3 Quy chế quản lý tài chính của ngân hàng Đầu tƣ và Phát triển Việt Nam
Quy chế quản lý tài chính của ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam được ban hành
kèm theo quyết định số 42/QĐ-HĐQT ngày 17/4/2003 của Chủ tịch HĐQT.
2.2 THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG HỆ THỐNG KIỂM SOÁT NỘI BỘ CỦA

NGÂN HÀNG ĐẦU TƢ VÀ PHÁT TRIÊN VIỆT NAM
2.2.1. Các văn bản quy phạm pháp luật về Hệ thống kiểm soát nội bộ tại các ngân
hàng thƣơng mại
Hệ thống kiểm soát nội bộ của các tổ chức tín dụng ( bao gồm cả các ngân hàngthương
mại) xây dựng trên cơ sở vận hành của luật các tổ chức tín dụng số 10/1997/QH10 ban hành


ngày 12/12/1997 và luật số 20/2004/QH11 ngày 15/6/2004 về sửa đổi, bổ sung một số điều của
luật tín dụng;
Hiện nay, để hướng dẫn thực hiện các quy định trong Luật sử đổi, bổ sung một số điều của
luật tín dụng, Thống đốc ngân hàng Nhà nước đã ban hành quy chế kiểm tra, kiểm soát nội bộ
của tổ chức tín dụng ban hành kèm theo quyết định số 36/2006/QĐ-NHNN ngày 01/8/2006 và
quy chế kiểm toán nội bộ ban hành kèm theo quyết định số 37/2006/QĐ-NHNN ngày 01/8/2006.
2 2.2 Quá trình hình thành và phát triển hệ thống kiểm soát nội bộ trong hoạt động tín
dụng tại ngân hàng Đầu tƣ và Phát triển Việt Nam
2.2.2.1 Bộ phận kiểm tra, kiểm soát nội bộ chuyên trách
Để hoàn thiện về cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội
bộ chuyên trách thì ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã ban hành quy chế tổ chức và
hoạt động của hệ thống kiểm tra nội bộ của Ngân hàngĐầu tư và Phát triển Việt Nam kèm theo
quyết định số 7046/QĐ-KTNB4 ngày 06/12/2004 của Tổng giám đốc.
Hệ thống kiểm tra nội bộ của ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam được tổ chức, chỉ
đạo theo ngành dọc. Các chức danh từ kiểm tra viên đến phó, trưởng phòng và phó đốc, giám
đốc ban kiểm tra nội bộ do Tổng giám đốc bổ nhiệm. Cán bộ làm công tác kiểm tra nội bộ không
kiêm nhiệm các công tác khác của ngân hàng.
Hệ thống kiểm tra nội bộ ( kiểm soát nội bộ chuyên trách) thực hiện kiểm tra, kiểm soát
toàn bộ hoạt động nghiệp vụ của ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam trong đó có nghiệp vụ
tín dụng. Hiện nay, việc kiểm tra, kiểm soát nội bộ chuyên trách khi thực hiện kiểm tra nghiệp vụ
tín dụng chủ yếu là kiểm tra tại chỗ, hậu kiểm.
2.2.2.2 Kiểm soát nội bộ trong quy trình nghiệp vụ tín dụng
Hệ thống kiểm soát nội bộ trong hoạt động tín dụng do Tổng giám đốc chịu trách nhiệm

chỉ đạo triển khai trên cơ sở các quy định nội bộ và quy trình nghiệp vụ được ngân hàng Đầu tư
và Phát triển Việt Nam ban hành. Những quy định về kiểm soát nội bộ được được thiết lập, cài
đặt vào các quy định, quy trình nghiệp vụ bao gồm:
- Sổ tay tín dụng
- Quy trình cho vay ngắn, trung, dài hạn; quy trình bảo lãnh; quy trình thanh toán quốc
tế; quy trình thẩm định theo tiêu chuẩn ISO
- Các văn bản về phân cấp uỷ quyền phán quyết tín dụng trong từng thời kỳ


- Ban hành chính sách khách hàng
- Ban hành về quy định xếp hạng tín dụng nội bộ

Theo các văn bản quy định nội bộ đề cập ở trên, ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã
thiết lập một số quy định trong hoạt động tín dụng. Cụ thể:
- Việc thực hiện nghiệp vụ tín dụng bắt buộc thực hiện theo sổ tay tín dụng và các quy
trình ISO liên quan đến nghiệp vụ tín dụng.
- Việc ra phán quyết tín dụng phải phù hợp với mức uỷ quyền phán quyết tín dụng Tổng
giám đốc giao cho từng đối tượng cụ thể.
Về cơ cấu tổ chức, trong nghiệp vụ tín dụng ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã
thực hiện mô hình cơ cấu tổ chức theo các khuyến nghị của hợp đồng tư vấn kỹ thuật giai đoạn 1
(gọi tắt là TA1) của ngân hàng Thế giới (WB) theo đó đã tách riêng ra 02 bộ phận: gồm có bộ
phận tín dụng và bộ phận quản lý tín dụng . Trong đó:
- Bộ phận tín dụng: trực tiếp thực hiện cho vay
- Bộ phận quản lý tín dụng: quản lý về các phát sinh đến nghiệp vụ tín dụng, xử lý nợ xấu và
các vấn đề khác liên quan đến công tác tín dụng.
2.2.3 Một số nhận xét, đánh giá về hệ thống kiểm soát nội bộ trong hoạt động tín dụng
của Ngân hàngĐầu tƣ và Phát triển Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
2.2.3.1 Những kết quả đạt đƣợc
Việc hình thành và hoạt động hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ chuyên trách trước đây
của ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam là phù hợp với mô hình quản lý phân tán của ngân

hàng thương mại quốc doanh trong điều kiện Việt Nam khi mà hoạt động của các ngân hàng
thương mại quốc doanh chỉ mới được thành lập, chuyển sang hoạt động kinh doanh từ mô hình
ngân hàng một cấp (chỉ có ngân hàng Nhà nước), đặc biệt với ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Việt Nam chỉ được thực sự chuyển sang kinh doanh như ngân hàng thương mại quốc doanh khác
từ 1995. (Khác hẳn với sự ra đời và hoạt động của các NHTM các nước có nền kinh tế thị trường
trên Thế giới).
2.2.3.2 Một số hạn chế của hệ thống kiểm soát nội bộ trong hoạt động tín dụng của
Ngân hàng Đầu tƣ và Phát triển Việt Nam hiện nay
a) Hạn chế của mô hình kiểm soát nội bộ chuyên trách


Hệ thống kiểm soát nội bộ, kiểm toán nội bộ của ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
hiện nay bị đồng nhất, chưa tách bạch rõ giữa kiểm tra và kiểm toán nội bộ. Thực chất, hệ thống
kiểm tra, kiểm soát nội bộ chuyên trách hiện nay của ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
thực hiện một phần chức năng kiểm toán tuân thủ của kiểm toán nội bộ. Tuy nhiên, hệ thống
kiểm tra, kiểm soát nội bộ chuyên trách trực thuộc Tổng giám đốc (đối với Hội sở chính) và
Giám đốc các đơn vị thành viên (đối với các chi nhánh và công ty trực thuộc) nên hoạt động
chưa thể đảm bảo được tính độc lập, khách quan (độc lập với hệ điều hành và các bộ phận nghiệp
vụ) nhất là bộ phận kiểm tra, kiểm soát nội bộ chuyên trách tại các đơn vị thành viên.
Hoạt động kiểm tra, kiểm soát nội bộ hiện nay chưa được cài đặt một cách có hệ thống trong
các quy định, quy trình, quy chế và chưa được coi là nhiệm vụ của từng nhân viên, các cấp quản
lý trong quy trình giải quyết nghiệp vụ.
Ngoài ra, hệ thống kiểm soát nội bộ chưa xây dựng và áp dụng được phương pháp nghiệp vụ
giám sát, kiểm tra, kiểm soát tiên tiến nào để phục vụ cho công tác mà chủ yếu vẫn sử dụng các
phương pháp cũ dẫn đến hiệu quả kiểm soát thấp.
b)Hạn chế của của hoạt động kiểm soát nội bộ trong quy trình tín dụng
Hiện nay, tại ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam quá trình xử lý nghiệp vụ tín dụng
chưa có sự tách bạch giữa khởi tạo tín dụng, quản lý rủi ro tín dụng và tác nghiệp trong suốt quá
trình thực hiện.
Việc xác lập và quản lý danh mục rủi ro tín dụng chưa được xây dựng đầy đủ và hiệu quả.

Ngân hàng chưa có hệ thống thông tin và kỹ thuật cho phép Ban lãnh đạo đo lường được mọi rủi
ro tín dụng trong và ngoại bảng cân đối kế toán. Tại thời điểm hiện tại ngân hàng Đầu tư và Phát
triển Việt Nam đã có kho dữ liệu tập trung (datawarehouse) được cập nhật liên tục (online)
nhưng đang có khó khăn trong việc khai thác do đó không có khả năng tạo ra các báo cáo quản
lý rủi ro tín dụng từ kho dữ liệu này.
Bên cạnh đó, ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã xây dựng mô hình xếp hạng rủi ro
tín dụng và đã sử dụng được 2 năm vừa qua. Tuy nhiên, ngân hàng chưa tiến hành phân tích hay
kiểm tra khả năng dự đoán chính xác về xác suất mất vốn của mô hình này. Các khái niệm và các
chỉ tiêu tiên tiến theo thông lệ quốc tế áp dụng để đo lường, xếp hạng rủi ro tín dụng như xác
suất mất vốn ( Probability of default, PD), tổn thất do không trả nợ sau khi điều chỉnh cho giá trị
tài sản bảo đảm (LGD),… chưa được sử dụng phổ biến nên việc xây dựng mô hình xếp hạng rủi
ro tín dụng còn mang tính chất cảm tính.


2.2.4Thông lệ quốc tế và một số mô hình kiểm soát nội trong lĩnh vực tín dụng tiêu biểu
trên Thế giới và Việt Nam, khả năng vận dụng vào Ngân hàngĐầu tƣ và Phát triển Việt
Nam
2.2.4.1 Thông lệ quốc tế và một số mô hình kiểm soát nội bộ trong hoạt động tín dụng
trên Thế giới.
- a)Thông lệ quốc tế và mô hình kiểm soát nội bộ của các ngân hàng
Trên cơ sở định nghĩa và các tiêu chuẩn của uỷ ban COSO về hệ thống kiểm soát nội bộ,
tháng 11/1998 uỷ ban Basel về kiểm soát ngân hàngđã xây dựng và công bố các chuẩn mực của
hệ thống kiểm soát nội bộ qua bộ tài liệu “khuôn khổ cho hệ thống kiểm soát nội bộ trong các
ngân hàng”. Hiện nay các chuẩn mực do uỷ ban Basel đưa ra về hệ thống kiểm soát nội bộ ngân
hàng đang được hầu hết các ngân hàng thương mại trên Thế giới áp dụng bởi thực tiễn đã chứng
minh tính hiệu quả và cần thiết của nó. Đây được cho là thông lệ tốt nhất và phổ biến nhất đã
được hầu hết các ngân hàng thương mại của các nước trên thế giới áp dụng. Nội dung cụ thể của
thông lệ đã được tác giả trình bầy ở phần 1.1.2.2 chương 1 của luận văn này.
Mô hình kiểm soát nội bộ trong hoạt động tín dụng của Trung Quốc
Căn cứ theo hướng dẫn ngày 18/9/2002 của ngân hàng TW Trung Quốc ban hành bắt buộc

các Ngân hàng thương mại phải tuân theo thì những điểm quan trọng của hệ thống kiểm soát nội
bộ trong hoạt động tín dụng là:
- Thực hiện quản lý các nghiệp vụ tín dụng một cách tập trung, thống nhất
- Mở rộng việc nhận dạng và kiểm soát hệ thống giám sát rủi ro tín dụng của khách hàng
- Hoàn thiện việc ra quyết định và cải thiện hệ thống phát triển tín dụng
- Ngăn ngừa việc tập trung những rủi ro đáng chú ý vào một khách hàng đơn lẻ, các khách
hàng doanh nghiệp liên kết và/hoặc rủi ro của một nhóm khách hàng.
- Ngăn ngừa việc cho vay đối với các cá nhân liên kết hoặc các món vay có liên quan với
nhau, ngăn chặn việc vi phạm nguyên tắc tín dụng.
- Ngăn ngừa việc vốn đầu tư cho hoạt động tín dụng đổ vào lĩnh vực rủi ro cao và/hoặc sử
dụng cho các hoạt động bất hợp pháp.
Để thực hiện các điểm quan trọng trên, các ngân hàngthương mại phải thực hiện:
- Thiết lập một bộ phận quản trị rủi ro độc lập với hoạt động tín dụng để quản lý tập trung
đối với các hoạt động kinh doanh tín dụng.


- Xây dựng bộ phận nghiệp vụ tín dụng các ngân hàng thương mại phải có nhân sự phù hợp,
có nghĩa vụ và trách nhiệm rõ ràng.
- Các ngân hàng thương mại phải phòng ngừa tránh việc tập trung quá mức dẫn đến việc rủi
ro vốn cho vay.
- Các ngân hàng thương mại sẽ thực hiện tập trung, thống nhất đối với các quy định, tiêu
chuẩn công việc và quy trình làm việc đối với kiểm tra trước, kiểm tra trong quy trình và kiểm
tra bất thường, cũng như việc kiểm tra các trình tự hoạt động.
- Các ngân hàng thương mại sẽ thực hiện các biện pháp quản trị tập trung đối với tất cả các
trường hợp uỷ quyền phán quyết tín dụng, công bố công khai các điều kiện của việc cung cấp tín
dụng, bao gồm tất cả những điều kiện cụ thể như tiêu chuẩn chọn dự án, thời hạn vay, lãi xuất
và phí, điều kiện bảo đảm, quyền xét duyệt, thông tin công bố, quản trị và quá trình giải quyết
công việc nội bộ.
2.2.4.2 Mô hình hoạt động kiểm soát nội bộ trong hoạt động tín dụng của các ngân hàng
thƣơng mại nhà nƣớc tại Việt Nam

Qua nghiên cứu tổ chức và hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ của các ngân hàng
thương mại Nhà nước (trừ ngân hàng công thương Việt Nam tác giả không tham khảo) cho thấy
hệ thống kiểm soát nội bộ, trong đó có việc kiểm soát trong nghiệp vụ tín dụng có những có
những đặc điểm chung là:
+ Mô hình hệ thống kiểm soát nội bộ được thiết lập dưới hình tức bộ phận chuyên trách, chịu
sự quản lý, điều hành của Tổng giám đốc theo hệ thống ngành dọc tại Hội sở chính (phòng, Ban)
và tới các Chi nhánh (phòng, tổ kiểm tra, kiểm soát hoặc bố trí 01 cán bộ chuyên trách làm công
tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ)
+ Kiểm toán nội bộ bị đồng nhất, không có sự tách biệt với hoạt động kiểm tra, kiểm soát
nội bộ. Bộ phận kiểm toán nội bộ trực thuộc Tổng giám đốc do vậy hoạt động kiểm toán nội bộ
của các Ngân hàng thương mại Nhà nước không thể đảm bảo được tính khách quan, độc lập (
độc lập với hệ điều hành và các bộ phận nghiệp vụ)
+ Hoạt động kiểm tra, kiểm soát nội bộ của các ngân hàng thương mại Nhà nước trong hoạt
động tín dụng chủ yếu thực hiện các hoạt động kiểm tra nội bộ trên một số nội dung hoạt động
tín dụng tại các đơn vị bộ phận. Công tác kiểm tra nội bộ như vậy về bản chất là hậu kiểm (kiểm
tra sau) và dưới hình thức tổ chức từng đợt kiểm tra. Vì vậy, những vấn đề phát hiện thường là
những sai phạm đã phát sinh, đã xảy ra. Do đó, hạn chế tác dụng của hệ thống kiểm tra, kiểm


soát nội bộ trong việc phát hiện, ngăn ngừa, quản lý rủi ro tín dụng. Hoạt động kiểm tra, kiểm
soát nội bộ chưa được coi là nhiệm vụ của từng cán bộ, nhân viên trong quá trình thực hiện
nghiệp vụ tín dụng phát sinh hàng ngày mà là hoạt động mang tính chuyên trách.
+ Mô hình tổ chức và chu trình nghiệp vụ tín dụng chưa đảm bảo khả năng kiểm soát lẫn
nhau trong quá trình giải quyết nghiệp vụ. Vẫn để xảy ra các bộ phận có xung đột quyền lợi lẫn
nhau dẫn đến giảm thiểu khả năng phát hiện, quản lý rủi ro trong hoạt động tín dụng.
Xuất phát từ những đặc điểm chung về hệ thống kiểm soát nội bộ trong hoạt động tín dụng ở
các nước trên Thế giới và tại các ngân hàng thương mại Nhà nước ở Việt Nam, có thể rút ra một
số kinh nghiệm có thể vận dụng vào BIDV để hoàn thiện hệ thống kiểm tra nội bộ trong hoạt
động tín dụng có hiệu quả, đó là:
- Hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ trong hoạt động tín dụng phải bao gồm hệ thống kiểm

tra, kiểm soát nội bộ chuyên trách, các hệ thống các quy chế, quy trình nghiệp vụ cần được từng
cá nhân, bộ phận có liên quan của quy trình nghiệp vụ cần tuân thủ.
- Mô hình tổ chức của các ngân hàng thương mại phải được cơ cấu lại bảo đảm có sự tách
bạch giữa bộ phận khởi tạo tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng. Phải có bộ phận và quy trình đo
lường, định dạng rủi ro tín dụng hiệu quả phù hợp với các thông lệ tiên tiến trên Thế giới. Xây
dựng được hệ thống thông tin quản lý trong hoạt động tín dụng tin cậy, chính xác và hiệu quả.
Hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ chuyên trách phải được tổ chức lại với mô hình tổ chức phù
hợp, có các phương pháp kiểm tra, giám sát hiện đại, hiệu quả.
- Hệ thống kiểm soát nội bộ trong hoạt động tín dụng của ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Việt Nam phải tuân thủ pháp luật, chuẩn mực và thông lệ quốc tế được thừa nhận và đáp ứng
được yêu cầu quản lý của Nhà nước và bản thân Ngân hàng đầu tư và Phát triển Việt nam.

Chương 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HỆ THỐNG KIỂM SOÁT NỘI BỘ PHÒNG
NGỪA RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƢ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM

3.1 SỰ CẦN THIẾT PHẢI HOÀN THIỆN HỆ THỐNG KIỂM SOÁT NỘI BỘ
TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG ĐẦU TƢ VÀ PHÁT TRIỂN
VIỆT NAM


Hệ thống kiểm soát nội bộ trong hoạt động tín dụng của ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Việt Nam đã từng bước được hình thành và phát huy tác dụng. Tuy nhiên việc tiếp tục hoàn thiện
hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ trong hoạt động tín dụng là rất cần thiết bởi các lý do sau:
Thứ nhất, xuất phát từ yêu cầu khách quan của đời sống kinh tế, xã hội và sự đòi hỏi của
cơ chế, chính sách của Nhà nước
Thứ hai, do yêu cầu phải nâng cao năng lực quản lý và điều hành để tồn tại và đứng vững
trong cơ chế thị trường với điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ ba, do đặc điểm hoạt động kinh doanh đa dạng và phức tạp của ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Việt Nam

Thứ tư, Ngân hàngĐầu tư và Phát triển Việt Nam phát triển theo hướng tập đoàn kinh tế
đa năng, chiến lược này đòi hỏi sự tăng cường tối đa khả năng phòng ngừa và hạn chế rủi ro
Thứ năm, giai đoạn hiện nay tín dụng vẫn là hoạt động kinh doanh chủ yếu nhưng rủi ro
lớn có thể tạo ra nguy cơ đe doạ an toàn hoạt động của ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt
Nam đòi hỏi phải có hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ trong hoạt động tín dụng một cách có
hiệu quả
3.2 CÁC NGUYÊN TẮC VÀ ĐỊNH HƢỚNG HOÀN THIỆN HỆ THỐNG KIỂM
TRA, KIỂM SOÁT NỘI BỘ TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG
ĐẦU TƢ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM
3.2.1 Nguyên tắc hoàn thiện
Để hoàn thiện hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ trong hoạt động tín dụng của Ngân
hàngĐầu tư và Phát triển Việt Nam cần quán triệt các nguyên tắc cơ bản sau:
Nguyên tắc 1, tuân thủ pháp luật và đáp ứng yêu cầu quản lý của Nhà nước
Nguyên tắc 2, hệ thống kiểm tra, kiểm soát trong nghiệp vụ tín dụng phải kiểm soát kiểm
soát được toàn bộ thành phần và chất lượng của danh mục tín dụng.
Nguyên tắc 3, đảm bảo được tình độc lập của hệ thống kiểm soát nội bộ chuyên trách với
các bộ phận khác trong hệ thống ngân hàngĐầu tư và Phát triển Việt Nam
Nguyên tắc 4, Hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ trong nghiệp vụ tín dụng phải phù hợp
với đặc điểm tổ chức, hoạt động kinh doanh, yêu cầu, khả năng trình độ quản lý ngân hàng hiện
nay cũng như trong xu thế hội nhập, tận dụng được những lợi thế do việc hiện đại hoá công nghệ
ngân hàng mang lại.


Nguyên tắc 5, phải đảm bảo tính hiệu quả, tính kinh tế của hệ thống kiểm tra, kiểm soát
nội bộ trong hoạt động tín dụng
3.2.2 Định hƣớng hoàn thiện
Căn cứ vào yêu cầu của quy chế kiểm tra, kiểm soát nội bộ do ngân hàng Nhà nước ban
hành và thông lệ quốc tế tốt nhất, sau khi tham khảo các khuyến nghị của nhóm tư vấn quốc tế
TA2-WB (Dự án tái cơ cấu ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam giai đoạn II) theo chúng
tôi, định hướng mô hình hoạt động hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ trong hoạt động tín dụng

mà Ban lãnh đạo ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam cần sớm xem xét là:
- Thay đổi cơ cấu tổ chức, cải tiến quy trình tín dụng theo thông lệ tiên tiến nhất là có sự
phân tách giữa các chức năng khởi tạo tín dụng, quản trị rủi ro tín dụng và tác nghiệp trong suốt
quá trình thực hiện.
- Xây dựng một môi trường quản trị rủi ro tín dụng thích hợp, trong đó Hội đồng quản trị
chịu trách nhiệm phê duyệt và rà soát các chính sách và các chiến lược liên quan đến quản lý rủi
ro tín dụng còn Ban Tổng giám đốc chịu trách nhiệm triển khai các chiến lược và chính sách rủi
ro mà Hội đồng quản trị phê duyệt. Chức năng tác nghiệp thực hiện theo các thủ tục và quy trình
thích hợp sao cho có thể phát hiện và xác định rõ rang các rủi ro tín dụng đi liền với các sản
phẩm và các hoạt động trên cơ sở riêng rẽ và tổng hợp.
- Bộ phận kiểm tra, kiểm soát nội bộ chuyên trách trong hoạt động tín dụng nói riêng và hệ
thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ chuyên trách nói chung cần được tổ chức lại theo mô hình
phòng kiểm tra, kiểm soát nội bộ khu vực phân chia theo địa lý, xóa bỏ bộ phận kiểm tra, kiểm
soát nội bộ chuyên trách tại các chi nhánh, đơn vị thành viên nhằm tăng tính độc lập và hiệu quả
của Bộ phận kiểm soát nội bộ.
3.3 CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HỆ THỐNG KIỂM TRA, KIỂM SOÁT NỘI
BỘ TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG ĐẦU TƢ VÀ PHÁT TRIỂN
VIỆT NAM
3.3.1 Hoàn thiện quy trình tín dụng và mô hình quản trị rủi ro tín dụng
3.3.1.1Hoàn thiện quy trình tín dụng
Theo thông lệ tiên tiến nhất thường được các ngân hàng thương mại các nước phát triển áp
dụng thì quá trình tín dụng được đặc trưng bởi sự phân tách giữa các chức năng khởi tạo tín
dụng, quản lý rủi ro tín dụng và tác nghiệp trong toán bộ quá trình nhằm đảm bảo tính độc lập và


kiểm soát lẫn nhau trong các khâu trong quá trình tín dụng. Quá trình này được chia thành một
số giai đoạn, mỗi giai đoạn tiến hành một hoặc một vài chức năng như sau:
- Chức năng quản lý quan hệ khách hàng (phòng quản lý khách hàng doanh nghiệp, phòng
quản lý khách hàng cá nhân) chịu trách nhiệm khởi tạo và lập đề xuất tín dụng, bao gồm cả việc
thẩm định ban đầu.

- Phòng quản lý rủi ro tín dụng chỉ chịu trách nhiệm rà soát kết quả thẩm định và quá trình
phê duyệt tín dụng sau đó.
- Phòng quản trị cho vay chịu trách nhiệm lập và vào sổ đăng ký các dữ liệu về hạn mức và
lưu giữ an toàn các hợp đồng, hồ sơ tín dụng, đồng thời thực hiện giải ngân và độc lập chuẩn bị
báo cáo các trường hợp ngoại lệ để các phòng quản lý khách hàng giải quyết và phòng quản lý
rủi ro tín dụng giám sát.
3.3.1.2 Hoàn thiện quy trình quản trị rủi ro tín dụng
Ngoài các quy định của ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng thương mại phải phụ thuộc
vào chiến lược hoạt động, mảng kinh doanh tập trung, quy mô hoạt động, mức độ phức tạp và
các yếu tố khách của ngân hàng đó. Trên cơ sở thông lệ tốt nhất của ủy ban Basel về giám sát
ngân hàng, chúng tôi đề xuất mô hình quản trị rủi ro tín dụng để ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Việt Nam áp dụng như sau:
a)Trưởng khối rủi ro .
b)Trưởng phòng quản lý rủi ro tín dụng
c)Cán bộ quản lý rủi ro tín dụng
3.3.2 Các giải pháp hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của bộ phận kiểm tra,
kiểm soát nội bộ chuyên trách.
3.3.2.1 Các giải pháp hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của bộ phận kiểm tra,
kiểm soát nội bộ chuyên trách
Căn cứ vào điều 8, quy chế kiểm tra, kiểm soát nội bộ ban hành kèm theo quyết định số
36/2006/QĐ-NHNN của Thống đốc ngân hàngNhà nước Việt Nam thì tùy theo mức độ, phạm vi,
đặc thù hoạt động của mình mà các ngân hàng thương mại xây dựng bộ phận kiểm tra, kiểm soát
nội bộ chuyên trách chịu sự điều hành của Tổng giám đốc. Theo thông lệ tốt nhất của các ngân
hàng thương mại trên Thế giới thì không nhất thiết và không nên lập bộ phận kiểm tra, kiểm soát
nội bộ chuyên trách mà nên xây dựng cơ chế kiểm tra, kiểm soát nội bộ trong quy trình nghiệp
vụ. Tuy nhiên chúng tôi vẫn thấy cần thiết và đề xuất duy trì và hoàn thiện bộ phận kiểm tra,


kiểm soát nội bộ chuyên trách do ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam hiện nay có mấy đặc
điểm sau :

Một là, ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam là một trong những ngân hàng thương
mại lớn nhất Việt Nam, là doanh nghiệp nhà nước hạng đặc biệt có tổng tài sản lớn giữ vai trò
quan trọng đối với tình hình kinh tế xã hội nên việc cải cách, hoàn thiện phải có những bước đi
cẩn trọng tránh những xáo trộn lớn.
Hai là, hiện nay ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã có bộ phận kiểm tra, kiểm
soát nội bộ chuyên trách tuy nhiên mô hình chưa phù hợp, có thể hoàn thiện mô hình tổ chức bộ
phận kiểm tra, kiểm soát nội bộ chuyên trách với chi phí thấp và hiệu quả để đáp ứng cho yêu
cầu công việc trong giai đoạn trước mắt.
Ba là, hiện nay ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đang trong quá trình cơ cấu lại
ngân hàng, việc xây dựng các quy trình nghiệp vụ nói chung và nghiệp vụ tín dụng nói riêng vẫn
chưa hoàn thành nên yêu cầu kiểm tra, kiểm soát trong quy trình nghiệp vụ vẫn đạt hiệu quả
thấp.
Bốn là, kiểm toán nội bộ thuộc Hội đồng quản trị đã được thành lập và hoạt động nhưng
đạt hiệu quả thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu kiểm toán, đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ nên
vẫn cần thiết duy trì bộ phận kiểm tra, kiểm soát nội bộ chuyên trách để thực hiện một số chức
năng của kiểm toán nội bộ như kiểm toán tuân thủ, kiểm toán hoạt động,…
Mô hình bộ phận kiểm tra, kiểm soát nội bộ chuyên trách trong nghiệp vụ tín dụng nên vận
dụng theo mô hình hỗn hợp (tập trung về tổ chức hoạt động, phân tán về bố trí địa lý).
3.3.2.2 Xây dựng tiêu chuẩn, trách nhiệm và quyền hạn của bộ phận kiểm tra nội bộ
chuyên trách Ngân hàngĐầu tƣ và Phát triển Việt Nam
- Về trách nhiệm của bộ phận kiểm tra, kiểm soát nội bộ chuyên trách trong nghiệp vụ tín
dụng
- Về quyền hạn của bộ phận kiểm tra, kiểm soát nội bộ chuyên trách
- Về công tác đào tạo cán bộ kiểm tra, kiểm soát nội bộ chuyên trách
3.3.2.3 Áp dụng chuẩn mực, quy trình và phƣơng pháp kiểm tra, kiểm soát nội bộ
phù hợp với yêu cầu tổ chức và đặc điểm của ngân hàng Đầu tƣ và Phát triển Việt Nam
a)Kiểm tra, kiểm soát nội bộ trong hoạt động tín dụng dựa trên phương pháp kiểm tra,
kiểm soát căn cứ vào rủi ro (phương pháp ORCA)

×