Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ phòng ngừa rủi ro tín dụng tại ngân hàng đầu tư và phát triển việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 109 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ





NGUYỄN TIỀN PHONG




HOÀN THIỆN HỆ THỐNG KIỂM SOÁT NỘI BỘ PHÒNG NGỪA RỦI RO TÍN
DỤNG TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM







LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN TRỊ KINH DOANH
MÃ SỐ 60 34 05


Người hướng dẫn khoa học: Tiến sỹ Nguyễn Thị Thư




HÀ NỘI- 2007



1


MỞ ĐẦU


1/Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đưa nền kinh tế từng
bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới trong bối cảnh tốc độ toàn cầu hoá
diễn ra nhanh chóng, các lĩnh vực hoạt động dịch vụ như bảo hiểm, ngân
hàng đứng trước yêu cầu phải thích nghi, hội nhập toàn diện, nâng cao
năng lực cạnh tranh. Khi gia nhập WTO, Việt Nam phải ký kết hàng loạt
hiệp định song phương và đa phương với hầu hết các nước thành viên theo
nguyên tắc cơ bản và lộ trình mở cửa được quy định trong hiệp định chung
về thương mại và dịch vụ ( GATS) của WTO. Căn cứ vào các cam kết
Việt Nam đã ký kết thì các quy định hạn chế đối với các nhà đầu tư nước
ngoài tham gia vào thị trường tài chính ở Việt Nam phải được nới lỏng và
dỡ bỏ toàn bộ trong tương lai gần theo lộ trình đã được định sẵn. Bởi vậy,
việc nâng cao hiệu quả kinh doanh, phát triển bền vững của các ngân hàng
thương mại Việt Nam là yêu cầu tất yếu. Thời gian qua ngân hàng Đầu tư
và Phát triển Việt Nam (BIDV) là một trong các ngân hàng thương mại
Việt Nam được ngân hàng thế giới tài trợ thực hiện dự án hiện đại hoá
ngân hàng và hệ thống thanh toán giai đoạn 1. Hiện đại hoá là bước đi cần
thiết để các Ngân hàng quốc doanh có điều kiện nâng cao năng lực cạnh
tranh, phát triển các dịch vụ ngân hànghiện đại từ đó nâng cao hiệu quả
kinh doanh đáp ứng được yêu cầu hội nhập của nền kinh tế. Việc hiện đại
hoá hệ thống ngân hàngViệt Nam giai đoạn vừa qua tập trung chủ yếu vào
việc ứng dụng công nghệ thông tin xử lý các nghiệp vụ và quản lý kinh
doanh ngân hàng.

Thực hiện hiện đại hoá mà điểm cốt lõi là việc ứng dụng công nghệ
thông tin vào toàn bộ quá trình xử lý nghiệp vụ ngân hàng. Kết quả của
2
việc ứng dụng công nghệ thông tin vào xử lý nghiệp vụ là các ngân
hàngthương mại có thể thực hiện được tập trung được cơ sở dữ liệu tại Hội
sở chính nhưng hạch toán phân tán tại các chi nhánh và đơn vị thành viên.
Điều này cũng đồng nghĩa với việc quản trị điều hành của các ngân hàng
thương mại về bản chất là tiếp nhận và xử lý thông tin đã có sự thay đổi
mang tính hệ thống. Về mặt lý thuyết tại Hội sở chính của các ngân hàng
thương mại có thể kiểm soát và can thiệp trực tuyến (online) các với quá
trình xử lý nghiệp vụ của các đơn vị thành viên ngay cả lúc họ đang thao
tác nghiệp vụ, không phụ thuộc vào không gian và thời gian cụ thể. Chính
vì vậy, hệ thống kiểm soát nội bộ của các ngân hàng thương mại sẽ phải
được thay đổi một cách căn bản để có thể đáp ứng được sự thay đổi của
công nghệ nhằm mục đích phòng ngừa rủi ro và an toàn hệ thống.
Mặt khác, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các tổ chức
tín dụng (được Quốc hội thông qua ngày 15/06/2004) đã quy định các tổ
chức tín dụng phải thiết lập một hệ thống kiểm soát nội bộ chặt chẽ, hiệu
quả. Theo quy định cũ và thực tế đang áp dụng hiện nay thì hệ thống kiểm
tra, kiểm soát nội bộ của tổ chức tín dụng được xây dựng theo mô hình các
phòng ban chuyên trách từ trên xuống dưới. Vì vậy, tính chất thường
xuyên, liên tục và kịp thời của của việc kiểm tra, kiểm soát đối với nghiệp
vụ phát sinh hàng ngày không được bảo đảm. Hệ thống kiểm soát nội bộ
của các ngân hàng thương mại hiện nay chưa tiến kịp tiến trình hiện đại
hoá ngân hàng, chưa phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Việc
kiểm tra, kiểm soát chủ yếu là kiểm tra sau và kiểm tra tại chỗ, thực chất là
hậu kiểm, do đó không đáp ứng được yêu cầu ngăn ngừa, phát hiện và xử
lý kịp thời các rủi ro phát sinh trong quá trình hoạt động của các ngân hàng
thương mại.
Ngoài ra, các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay công nghệ còn

tương đối lạc hậu, khả năng đáp ứng các dịch vụ ngân hàng hiện đại còn
3
thấp, chưa đưa ra được nhiều sản phẩm dịch vụ phong phú ra thị trường
nên tín dụng đang là hoạt động kinh doanh và nguồn thu chủ yếu của các
Ngân hàng thương mại. Bên cạnh đó, do yêu cầu về vốn của nền kinh tế
trong giai đoạn phát triển nên đã đẩy tốc độ tăng trưởng tín dụng trong thời
gian qua của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam quá nhanh trong
điều kiện quy mô vốn tự có và năng lực quản lý rủi ro chậm được cải thiện
đã đưa hoạt động tín dụng trở thành một trong những lĩnh vực tạo nhiều
rủi ro nhất cho các ngân hàng thương mại. Chính vì vậy, thiết lập một hệ
thống kiểm soát nội bộ hiệu quả trong đó nhấn mạnh đến kiểm soát nội bộ
đối với hoạt động tín dụng nhằm phòng ngừa, hạn chế rủi ro trong hoạt
động ngân hàng là nhu cầu bức thiết.
Xuất phát từ thực tế nói trên và với những kiến thức đã được học đề tài
“Hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ phòng ngừa rủi ro tín dụng tại
ngân hàng Đầu tƣ và Phát triển Việt Nam” sẽ mang tính thiết thực đối
với công tác quản trị, điều hành của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt
Nam nói riêng và các ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung trong
giai đoạn hiện nay.
2/ Tình hình nghiên cứu
Cho đến nay, việc nghiên cức các lĩnh vực liên quan đến công tác kiểm
soát nội bộ của ngân hàng thương mại của các học giả Việt Nam và nước
ngoài liên quan đến luận văn dưới nhiều góc độ khác nhau. Có thể phân
thành 2 vấn đề được nghiên cứu chủ yếu là : a) Nghiên cứu những vấn đề
có liên quan đến kiểm soát nội bộ; b) Nghiên cứu việc nhận diện và phòng
ngừa rủi ro tín dụng.
Trong nhóm công trình thứ nhất bao gồm một số ấn phẩm đáng chú ý
sau: các tác giả tại khoa Kinh tế - Kiểm toán trường Đại học Kinh tế
Thành phố Hồ Chí Minh - Kiểm toán ( xuất bản lần thứ 3) – Nhà xuất bản
4

thống kê – Vương Đình Huệ - Giáo trình Kiểm toán – Nhà xuất bản thống
kê xuất bản năm 2004; Vữ Hữu Đức, Nguyễn Phan Quang, Diệp Quốc
Huy ( 1999) - Kiểm toán nội bộ - Khái niệm và quy trình – Nhà xuất bản
thống kê, Hà nội. Những ấn phấm này đã giới thiệu khái niệm về kiểm
toán, kiểm toán nội bộ, cũng như bước đầu nghiên cứu vai trò, chức năng
của hệ thống kiểm soát nội bộ nhưng không đi sâu vào nghiên cứu hệ
thống kiểm soát nội bộ của các ngân hàngthương mại. Ngoài ra, trong
quyển “ Năng lực cạnh tranh của các ngân hàngthương mại trong xu thế
hội nhập” của tác giả Nguyễn Thị Quy cũng đề cập đến hệ thống kiểm soát
nội bộ của các ngân hàng thương mại Việt Nam nhưng cũng chỉ ở mức độ
giới thiệu chứ không đi sâu vào phân tích, nghiên cứu.
Trong nhóm công trình thứ 2 có các bài viết như “Cảnh báo rủi ro tín
dụng khi cho vay đảm bảo bằng tài sản hình thành từ vốn vay” của tác giả
Việt Thắng và bài “ Rủi ro tín dụng Ngân hàngtrên địa bàn thành phố Hồ
Chí Minh- Nguyên nhân và một số giải pháp” của tác giả Nguyễn Đức
Lệnh đăng trên tạp chí Tài chính tiền tệ số 18/2005; Học viện Ngân hàng–
“Ngân hàngthương mại” – NXB Thống kê năm 2003; PGS, TS Lê Văn Tư
“Quản trị ngân hàngthương mại” NXB Thống kê năm 2004; Các bài “Bàn
về rủi ro và biện pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng “ của tác
giả Nguyễn Thị Thu Hương đăng trên tạp chí Ngân hàngsố 10/2005 Các
ấn phẩm này đã tập trung vào phân tích rủi ro tín dụng trong hoạt động của
các Ngân hàng thương mại nói chung và rủi ro tín dụng của các ngân hàng
thương mại Việt Nam nói riêng nhưng vẫn tách rời rủi ro tín dụng trong
công tác kiểm soát nội bộ của các ngân hàngthương mại.
Như vậy, tình hình nghiên cứu từ trước đến nay chỉ đơn thuần tập
trung vào công tác kiểm soát nội bộ hoặc rủi ro tín dụng, chưa có công
trình nào nghiên cứu một cách toàn diện những khía cạnh của công tác
kiểm soát nội bộ đối với việc ngăn ngừa rủi ro tín dụng tại các ngân hàng
5
thương mại. Đặc biệt chưa có công trình nào nghiên cứu tác dụng của hệ

thống kiểm soát nội bộ nhằm hạn chế và ngăn ngừa rủi ro tín dụng tại các
ngân hàng thương mại có trình độ công nghệ tương đối hiện đại.với việc
ứng dụng công nghệ thông tin vào tất cả các mặt nghiệp vụ. Vì vậy, lấy
việc hoàn thiện Hệ thống kiểm soát nội bộ phằm phòng ngừa rủi ro tín
dụng sau khi đã hiện đại hoá của ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
là đối tượng nghiên cứu chính, luận văn sẽ là một công trình nghiên cứu hệ
thống, toàn diện và cập nhật về vấn đề này.
3/Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn sẽ tập trung nghiên cứu hệ thống kiểm soát nội bộ của Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam từ trước khi hiện đại hoá đến khi đã
thực hiện hiện đại hoá đối với rủi ro tín dụng. Đề tài sẽ xem xét nghiên
cứu một cách có hệ thống những luận cứ, cơ sở khoa học về hệ thống kiểm
soát nội bộ ngân hàng thương mại nói chung và ngân hàng Đầu tư và Phát
triển Việt Nam nói riêng trong hoạt động phòng ngừa rủi ro tín dụng.
Những đề xuất, giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiêụ quả và khắc phục
những khiếm khuyết trong hoạt động kiểm soát nội bộ tại ngân hàng Đầu
tư và Phát triển Việt Nam sẽ được trình bày trong luận văn để có thể áp
dụng vào thực tiễn hoạt động hoạt động kinh doanh của đơn vị.
Với mục đích nghiên cứu trên, luận văn sẽ tập trung vào việc thực
hiện các nhiệm vụ cụ thể sau:
- Phân tích lý thuyết, quy định và chuẩn mực liên quan đến hệ thống
kiểm soát nội bộ của ngân hàng thương mại.
- Nghiên cứu thực trạng tổ chức và hoạt động của hệ thống kiểm soát
nội bộ tại ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam trước và sau khi thực
hiện hiện đại hoá cũng như kinh nghiệm xây dựng hệ thống kiểm soát nội
6
bộ của một số ngân hàng thương mại các nước trên thế giới đối với phòng
ngừa rủi ro tín dụng.
- Qua nhận thức lý luận và tổng kết thực tiễn, đề xuất các giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả của công tác kiểm soát nội bộ đối với việc ngăn

ngừa rủi ro tín dụng của ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
4/Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là về tổ chức và hoạt động của hệ
thống kiểm soát nội bộ của các ngân hàngthương mại đối với việc phòng
ngừa rủi ro tín dụng, trong đó đi sâu vào nghiên cứu mô hình và tổ chức
hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ của Ngân hàngĐầu tư và Phát
triển Việt Nam sau khi đã thực hiện hiện đại hoá.
Ngoài ra luận văn cũng nghiên cứu một số vấn đề nhằm nhận diện rủi
ro tín dụng đối với các ngân hàngthương mại và Ngân hàngĐầu tư vfa
Phát triển Việt Nam.
Về không gian luận văn sẽ tập trung nghiên cứu những cơ sở pháp lý
để hình thành hệ thống kiểm soát nội bộ của các ngân hàng thương mại nói
chung cũng như của ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam nói riêng
cũng nghiên cứu các chuẩn mực, thông lệ quốc tế áp dụng cho hệ thống
kiểm soát nội bộ các ngân hàngthương mại. Luận văn cũng nghiên cứu ảnh
hưởng của công nghệ ngân hànghiện đại đối với công tác kiểm soát nội bộ
và hệ thống phương pháp kỹ thuật chuyên môn, nghiệp vụ nhằm phòng
ngừa rủi ro trong hoạt động tín dụng ngân hàng.
5/ Phƣơng pháp nghiên cứu
7
Trong luận văn, ngoài các phương pháp cơ bản được sử dụng trong
việc nghiên cứu khoa học xã hội cũng như kinh tế học, các tác giả sử dụng
các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp chung là phương pháp phân tích, so sánh nhằm tìm ra
những căn cứ, số liệu minh hoạ cho luận điểm được nêu ra.
- Phương pháp bổ trợ như phương pháp phân kỳ, thống kê, tổng hợp và
toán học nhằm nêu rõ đặc thù từng giai đoạn khác nhau của hệ thống kiểm
soát nội bộ ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam . Đồng thời, các
bảng, biểu, đồ thị…. có thể được sử dụng trong luận văn để minh hoạ cho
vấn đề được nghiên cứu.

6/ Nh÷ng ®ãng gãp míi cña luËn v¨n
Tác giả hy vọng luận văn có những đóng góp cơ bản như sau:
Thứ nhất, tổng hợp các cơ sở pháp lý, các chuẩn mực và thông lệ liên
quan đến hệ thống kiểm soát nội bộ và vai trò của hệ thống kiểm soát nội
bộ đối với hoạt động của các ngân hàng thương mại
Thứ hai, hệ thống hoá một cách có chọn lọc các công trình nghiên cứu
của các học giả Việt Nam và nước ngoài về hệ thống kiểm soát nội bộ
ngân hàng thương mại trên thế giới và của Việt Nam đối với phòng ngừa
rủi ro tín dụng.
Thứ ba, phân tích tác động và sự thay đổi của hệ thống kiểm soát nội
bộ đối với hoạt động tín dụng sau khi thực hiện hiện đại hoá ngân hàngđể
đánh giá những vấn đề còn tồn tại cần khắc phục đối với ngân hàng Đầu tư
và Phát triển Việt Nam.
8
Thứ tƣ, cung cấp cho độc giả một cái nhìn tổng quan về hệ thống kiểm
soát nội bộ của ngân hàng thương mại hiện đại và danh mục tài liệu tham
khảo phong phú liên quan đến đề tài.
7/ Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về hệ thống kiểm soát nội bộ nhằm phòng
ngừa rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại
Chƣơng 2: Thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ của ngân hàng Đầu tư
và Phát triển Việt Nam
Chƣơng 3: Một số giải pháp hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ
nhằm phòng ngừa rủi ro tín dụng tại ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt
Nam










9


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HỆ THỐNG KIỂM SOÁT NỘI BỘ NHẰM
PHÒNG NGỪA RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI

1.1 HỆ THỐNG KIỂM SOÁT NỘI BỘ VÀ ẢNH HƢỞNG CỦA NÓ ĐẾN
PHÒNG NGỪA RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CAC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI
1.1.1 KHÁI NIỆM, CHỨC NĂNG VÀ NHIỆM VỤ CỦA HỆ THỐNG
KIỂM SOÁT NỘI BỘ
1.1.1.1 Khái niệm hệ thống kiểm soát nội bộ
Việc nghiên cứu và áp dụng hệ thống kiểm soát nội bộ đã đi đến việc
nhận thức và định nghĩa hệ thống kiểm soát nội bộ theo nhiều mức độ
khác nhau. Theo định nghĩa do COSO ( Committee of Sponsoring
Orgnization) là một Uỷ ban thuộc hội đồng quốc gia Hoa kỳ về chống gian
lận báo cáo tài chính (National Commission on Fraudulent Financial
Reporting) đưa ra đã được thừa nhận rộng rãi thì hệ thống kiểm soát nội bộ
được xác định như sau:
“ Kiểm soát nội bộ là một quá trình do Hội đồng quản trị, người điều
hành và các nhân viên khác chi phối, nó được thiết lập để cung cấp một sự
đảm bảo hợp lý nhằm thực hiện được các mục tiêu sau đây: (a) Báo cáo
tài chính đáng tín cậy, (b) hoạt động hữu hiệu và hiệu quả, (c) các luật lệ
và các quy định được tuân thủ.”

10
Viện kế toán quốc tế đưa ra định nghĩa “Hệ thống kiểm soát nội bộ là
tập hợp bao gồm các chính sách, quy trình, quy định nội bộ, các thông lệ,
cơ cấu tổ chức được thiết lập và được tổ chức thực hiện nhằm đạt được
các mục tiêu của tổ chức và đảm bảo phòng ngừa, phát hiện và xử lý kịp
thời các rủi ro xảy ra”
Tại chuẩn mực kế toán quốc tế ISA 400 về đánh giá rủi ro và kiểm soát
nội bộ đã đưa ra định nghĩa về hệ thống kiểm soát nội bộ như sau “ Hệ
thống kiểm soát nội bộ là bao gồm tất cả các chính sách và thủ tục ( kiểm
soát nội bộ) được chấp nhận bởi người quản lý của một tổ chức để giúp
đạt các mục tiêu quản trị đã đề ra, cũng như khả năng áp dụng vào thực
tế, tuân thủ và kiểm soát các mặt hoạt động của tổ chức, bao gồm cả việc
tôn trọng chính sách quản lý, an toàn tài sản, ngăn ngừa và phát hiện
những vi phạm và sai sót, sự chính xác và toàn diện các ghi nhận kế toán,
sự kịp thời và đáng tin cậy của các thông tin tài chính”
Trong báo cáo đặc biệt về kiểm soát nội bộ do uỷ ban AICPA phát
hành năm 1949 về các thủ tục làm việc đã đưa ra khái niệm về kiểm soát
nội bộ: “ Kiểm soát nội bộ bao gồm kế hoạch của tổ chức và tất cả các
phương pháp phối hợp và đo lường được thừa nhận trong doanh nghiệp
để bảo đảm an toàn tài sản có của họ, kiểm tra sự phù hợp và độ tin cậy
của dữ liệu kế toán, tăng cường tính hiệu quả của hoạt động, và khuyến
khích việc thực hiện các chính sách quản lý lâu dài”
Từ các định nghĩa trên, hệ thống kiểm soát nội bộ được hiểu như sau:
- Kiểm soát nội bộ là một chuỗi hoạt động kiểm soát hiện diện ở mọi
bộ phận, mọi hoạt động của tổ chức. Nó được thiết kế bằng sự kết hợp
nhiều khâu trong quá trình quản trị và vận hành tổ chức nhưng các khâu
được kết hợp với nhau thành một thể thống nhất tạo nên hệ thống kiểm
soát nội bộ.
11
- Hệ thống kiểm soát nội bộ là một quá trình giám sát thường xuyên,

liên tục, là phương tiện để các cấp quản lý trong tổ chức kiểm soát hoạt
động của tổ chức mình đồng thời nó đảm bảo hiệu quả, an toàn cho hoạt
động, tuân thủ các quy định của luật pháp và đảm bảo sự tin cậy của
những thông tin tài chính.
- Hệ thống kiểm soát nội bộ được thiết kế và vận hành bởi con người.
Hệ thống kiểm soát nội bộ không chỉ đơn thuần chỉ là những chính sách,
thủ tục, biểu mẫu, các quy định mà phải bao gồm cả những con người
trong tổ chức như Hội đồng quản trị, Ban giám đốc, các thành viên trong
tổ chức. Chính con người định ra mục tiêu, thiết lập cơ chế kiểm soát ở
mọi nơi và vận hành chúng.
- Kiểm soát nội bộ đảm bảo một sự hợp lý, chứ không phải là tuyệt
đối là các mục tiêu sẽ được thực hiện. Vì khi vận hành hệ thống kiểm soát,
những yếu kém có thể xảy ra do các sai lầm của con người hoặc sự khiếm
khuyết trong bản thân hệ thống kiểm soát nội bộ nên dẫn đến không thực
hiện được các mục tiêu đề ra. Ngoài ra, hệ thống kiểm soát nội bộ chỉ có
thể ngăn chặn và phát hiện những rủi ro, sai phạm nhưng không thể đảm
bảo rằng nó không bao giờ xảy ra. Hơn nữa, nguyên tắc cơ bản trong việc
đưa ra quyết định quản lý là chi phí cho quá trình kiểm soát không thể
vượt quá lợi ích được đem lại bởi quá trình kiểm soát đó. Do đó, tuy người
quản lý có thể nhận thức được rủi ro nhưng chi phí kiểm soát quá cao thì
họ vẫn không áp dụng các biện pháp để kiểm soát rủi ro tương ứng.
Có một khái niệm dễ nhầm lẫn với kiểm soát nội bộ là kiểm toán nội
bộ. Theo hiệp hội kiểm toán viên nội bộ IIA thì “ Kiểm toán nội bộ là hoạt
động bảo đảm và tư vấn mang tính độc lập, khách quan được thiết lập
nhằm tăng thêm giá trị và cải thiện cho các hoạt động của tổ chức. Kiểm
toán nội bộ giúp cho tổ chức hoàn thành mục tiêu thông qua việc đưa ra
12
một cách tiếp cận có hệ thống và kỷ cương nhằm đánh giá và cải thiện tính
hữu hiệu trong quản trị rủi ro, kiểm soát và giám sát”. Như vậy, kiểm toán
nội bộ có nhiệm vụ đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ nhằm phát hiện

những khiếm khuyết của hệ thống kiểm soát nội bộ. Trên cơ sở đó có các
kiến nghị với các cấp quản trị của tổ chức để hoàn thiện hệ thống kiểm
soát nội bộ. Tuy nhiên, nếu xét về mặt tổng thể và tính hệ thống thì kiểm
toán nội bộ cũng nằm trong hệ thống kiểm soát nội bộ. Hệ thống kiểm soát
nội bộ và kiểm toán nội bộ được thiết lập và vận hành nhằm mục đích cuối
cùng là kiểm soát và phòng ngừa rủi ro trong hoạt động là việc thực hiện
quản trị rủi ro của các tổ chức. Trong khi kiểm toán nội bộ chỉ tập trung
vào đánh giá việc quản trị rủi ro sau khi các hoạt động đã diễn ra thì kiểm
soát nội bộ lại thực hiện cả việc kiểm soát rủi ro trước và sau các hoạt
động. Nói cách khác, kiểm toán nội bộ chỉ là một phần của quá trình kiểm
soát nội bộ. Ngoài ra, trong quá trình quản trị và điều hành tổ chức thì hệ
thống kiểm soát nội bộ không độc lập khỏi quy trình nghiệp vụ mà nó
được bố trí, xây dựng trong mọi quy trình tác nghiệp của tổ chức còn kiểm
toán nội bộ độc lập khỏi quy trình tác nghiệp để bảo đảm tính khách quan,
hiệu quả.
1.1.1. 2 Các bộ phận cấu thành hệ thống kiểm soát nội bộ
Mặc dù có sự khác biệt đáng kể về tổ chức hệ thống kiểm soát nội bộ
giữa các đơn vị vì phụ thuộc vào nhiều yếu tố như quy mô, tính chất hoạt
động, mục tiêu của tổ chức nhưng hệ thống kiểm soát nội bộ muốn vận
hành hiệu quả phải có những bộ phận cấu thành cơ bản. Theo mô hình do
tổ chức COSO đưa ra và cũng được coi là quan điểm cơ bản, phổ biến hiện
nay thì hệ thống kiểm soát nội bộ phải gồm những bộ phận chủ yếu sau:
- Môi trường kiểm soát
- Đánh giá rủi ro
13
- Hoạt động kiểm soát
- Thông tin và trao đổi thông tin
- Giám sát
a) Môi trường kiểm soát
Môi trường kiểm soát bao gồm phương châm quản lý và phong

cách kinh doanh (hoạt động) của Ban lãnh đạo, sự tham gia của những
người chịu trách nhiệm quản trị doanh nghiệp hoặc điều hành tổ chức, hiệu
quả của cơ cấu tổ chức, tính hợp lý của các kế hoạch và mức độ tin cậy
của các ước tính của ban lãnh đạo
Môi trường kiểm soát là nền móng cho toàn bộ các yếu tố còn lại của
hệ thống kiểm soát nội bộ, quy định nguyên tắc và cơ cấu.
Môi trường kiểm soát phản ánh sắc thái chung của một đơn vị, nó chi
phối ý thức kiểm soát của mọi thành viên trong đơn vị và là nền tảng đối
với các bộ phận khác của kiểm soát nội bộ. Các nhân tố chính thuộc về
môi trường kiểm soát là:
- Tính trung thực và giá trị đạo đức: sự hiệu quả của hệ thống kiểm
soát nội bộ trước tiên phụ thuộc vào tính trung thực và sự tôn trọng các giá
trị đạo đức của những người liên quan đến quá trình kiểm soát. Để đáp ứng
yêu cầu này, nhà quản lý cao cấp phải xây dựng những chuẩn mực đạo đức
trong tổ chức và có những xử lý thích hợp nhằm đảm bảo ngăn ngừa các
thành viên có hành vi thiếu đạo đức hoặc phạm pháp.
- Đảm bảo về năng lực: là đảm bảo cho nhân viên có được những kỹ
năng và hiểu biết cần thiết để thực hiện các nhiệm vụ của mình. Nhân tố
này có thể đạt được và duy trì với điều kiện nhà quản lý thực hiện tuyển
dụng nhân viên có trình độ đào tạo và kinh nghiệm phù hợp với yêu cầu vị
14
trí công việc mà họ dự kiến được đảm nhiệm. Ngoài ra, việc đào tạo lại,
huấn luyện và truyền thụ những bí quyết kinh nghiệm thực hiện công việc
của tổ chức cũng rất quan trọng.
- Hội đồng quản trị và uỷ ban kiểm toán ( ban kiểm soát): Đối với
các công ty đại chúng ( công ty cổ phần) theo quy định phải có Ban kiểm
soát, nếu Công ty có quy mô ở mức độ nhất định hoặc các định chế tài
chính như ngân hàng thương mại thì có uỷ ban kiểm toán. Đây là uỷ ban
gồm có một số thành viên trong, hoặc ngoài Hội đồng quản trị nhưng
không trực tiếp điều hành đơn vị. Ủy ban này giám sát sự tuân thủ pháp

luật, giám sát việc lập các báo cáo tài chính, giữ sự độc lạp của kiểm toán
nội bộ… do các chức năng quan trọng trên nên sự hoạt động hiệu quả của
Ban kiểm soát ( Uỷ ban kiểm toán) ảnh hưởng lớn đến môi trường kiểm
soát.
Các nhân tố được xem xét để đánh giá sự hữu hiệu của Hội đồng quản
trị hoặc uỷ ban kiểm toán ( Ban kiểm soát) gồm mức độ độc lập, kinh
nghiệm và uy tín của các thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, mối
quan hệ của họ đối với các bộ phận kiểm toán nội bộ và kiểm toán độc lập.
- Triết lý quản lý và phong cách điều hành của nhà quản lý: triết lý
quản lý thể hiện qua quan điểm và nhận thức của người quản lý; phong
cách điều hành lại thể hiện qua cá tính, tư cách và thái độ của họ khi điều
hành đơn vị.
Triết lý quản lý và phong cách điều hành cũng được phản ánh trong
cách thức nhà quản lý sử dụng các kênh thông tin và quan hệ cấp dưới. Có
nhiều nhà quản lý trong quá trình điều hành thích tiếp xúc và trao đổi trực
tiếp với các nhân viên. Ngược lại, có những nhà quản lý chỉ thích điều
hành công việc theo một trật tự đã được xác định trong cơ cấu tổ chức của
đơn vị.
15
- Cơ cấu tổ chức: cơ cấu tổ chức thực tế là sự phân chia quyền hạn và
trách nhiệm giữa các bộ phận trong đơn vị, nó góp phần rất lớn trong việc
đạt được các mục tiêu của tổ chức. Nói cách khác, cơ cấu phù hợp sẽ là cơ
sở cho việc hoạch định mục tiêu, điều hành, kiểm soát và giám sát các hoạt
động.
- Cách thức phân định quyền hạn và trách nhiệm: phân định quyền
hạn và trách nhiệm được coi như là phần mở rộng của cơ cấu tổ chức. Nó
cụ thể hoá trách nhiệm và quyền hạn của từng thành viên trong các hoạt
động của đơn vị, giúp cho các thành viên phải hiểu rằng họ có nhiệm vụ cụ
thể gì và từng hoạt động của họ sẽ ảnh hưởng như thế nào đến người khác
trong việc hoàn thành các mục tiêu.

- Chính sách nhân sự: là các chính sách và thủ tục của nhà quản lý về
tuyển dụng, huấn luyện, sa thải, đề bạt, khen thưởng và kỷ luật nhân viên.
Chính sách nhân sự có ảnh hưởng đáng kể đến sự hữu hiệu của môi trường
kiểm soát thông qua các tác động của các yếu tố khác trong môi trường
kiểm soát như bảo đảm về năng lực, tính chính trực và các giá trị đạo đức.
b)Đánh giá rủi ro
Để giới hạn rủi ro ở mức chấp nhận được, người quản lý phải xác
định mục tiêu của đơn vị, nhận dạng và phân tích rủi ro từ đó mới có thể
kiểm soát được rủi ro.
- Xác định mục tiêu của đơn vị: mục tiêu tuy không phải là bộ phận
của kiểm soát nội bộ nhưng việc xác định nó là điều kiện tiên quyết để
đánh giá rủi ro. Bởi lẽ một sự kiện có thể trở thành một rủi ro quan trọng
đối với tổ chức hay không sẽ phụ thuộc vào mức độ tác động tiêu cực của
nó đến mục tiêu của đơn vị. Xác định mục tiêu bao gồm việc đưa ra sứ
mệnh, hoạch định các mục tiêu chiến lược cũng như những chỉ tiêu phải
16
đạt được trong ngắn hạn, trung hạn hay dài hạn. Việc xác định mục tiêu có
thể được thực hiện qua việc ban hành các văn bản hoặc đơn giản hơn, qua
nhận thức và phát biểu hàng ngày của người quản lý.
- Nhận dạng rủi ro: rủi ro có thể tác động đến toàn bộ tổ chức hay chỉ
ảnh hưởng đến từng hoạt động cụ thể. Để nhận dạng rủi ro, người quản lý
có thể sử dụng nhiều phương pháp khác nhau, từ việc sử dụng phương tiện
dự báo, phân tích dữ liệu quá khứ, cho đến việc rà soát thường xuyên các
hoạt động. Trong doanh nghiệp nhỏ, công việc này có thể tiến hành dưới
dạng những cuộc tiếp xúc với khách hàng, ngân hàng… hoặc các buổi họp
giao ban trong nội bộ.
- Phân tích và đánh giá rủi ro: vì rủi ro rất khó định lượng nên đây là
một công việc khá phức tạp và có nhiều phương pháp khác nhau. Tuy
nhiên, một quy trình phân tích và đánh giá rủi ro thường bao gồm các bước
sau đây : Ước lượng tầm cỡ của rủi ro qua ảnh hưởng có thể có của nó đến

mục tiêu của đơn vị, xem xét khả năng xảy ra rủi ro và những biện pháp có
thể sử dụng để đối phó với rủi ro.
c) Hoạt động kiểm soát
Hoạt động kiểm soát là những chính sách và thủ tục để đảm bảo cho
các chỉ thị, các yêu cầu của Ban lãnh đạo được thực hiện đúng và đầy đủ.
Các chính sách và thủ tục này giúp thực thi những hành động với mục đích
chính là giúp kiểm soát các rủi ro mà đơn vị đang hoặc có thể gặp phải. Có
nhiều loại hoạt động kiểm soát khác nhau có thể thực hiện, dưới đây là
một số hoạt động kiểm soát chủ yếu của đơn vị:
- Phân chia trách nhiệm đầy đủ: Phân chia trách nhiệm là không cho
phép một thành viên nào được giải quyết mọi mặt nghiệp vụ từ khi hình
thành cho đến khi kết thúc.
17
Mục đích của phân chia trách nhiệm nhằm để các nhân viên kiểm soát
lẫn nhau, nếu có các sai sót xảy ra sẽ được phát hiện nhanh chóng. Đồng
thời giảm cơ hội cho bất kỳ thành viên nào trong quá trình thực hiện
nghiệp vụ có thể gây ra và che dấu những sai phạm của mình.
- Kiểm soát quá trình xử lý thông tin và các nghiệp vụ: để thông tin
đáng tin cậy cần phải thực hiện nhiều hoạt động kiểm soát nhằm kiểm tra
tính xác thực, đầy đủ và việc phê chuẩn các nghiệp vụ.
Khi kiểm soát quá trình xử lý thông tin, cần đảm bảo rằng hệ thống
chứng từ, sổ sách, dữ liệu được kiểm soát chặt chẽ và việc phê chuẩn các
loại nghiệp vụ phải đúng đắn.
Cần đảm bảo rằng tất cả các nghiệp vụ hoặc hoạt động phải được phê
chuẩn bởi một nhân viên quản lý trong phạm vi quyền hạn cho phép. Sự
phê chuẩn được chia làm hai loại là phê chuẩn chung và phê chuẩn cụ thể:
+ Phê chuẩn chung: là trường hợp người quản lý ban hành các chính
sách để áp dụng chung cho toàn đơn vị.
+ Phê chuẩn cụ thể: là trường hợp người quản lý xét duyệt từng
nghiệp vụ riêng biệt chứ không đưa ra chính sách chung nào. Phê chuẩn cụ

thể được áp dụng cho những nghiệp vụ phát sinh không thường xuyên. Phê
chuẩn cụ thể cũng có thể được áp dụng đối với những nghiệp vụ thường
xuyên nhưng vượt ra khỏi giới hạn cho phép của chính sách chung.
Các cá nhân hoặc bộ phận được uỷ quyền để thực hiện phê chuẩn phải
có chức vụ tương xứng với tính chất và tầm quan trọng của nghiệp vụ.
Trong môi trường xử lý dữ liệu bằng phương pháp điện tử, việc kiểm soát
quá trình xử lý thông tin cũng thường được chia thành kiểm soát chung và
kiểm soát ứng dụng với những đặc thù riêng.
18
- Kiểm soát vật chất: hoạt động này được thực hiện cho các loại sổ
sách và tài sản, cũng như các chương trình phần mềm tin học và những hồ
sơ, dữ liệu nhằm đảm bảo rằng tài sản không bị mất mát, đánh cắp hoặc sử
dụng trái với thẩm quyền.
- Kiểm soát độc lập việc thực hiện: là việc kiểm tra được tiến hành
bởi các cá nhân (hoặc bộ phận) khác với cá nhân ( hoặc bộ phận) đang
thực hiện nghiệp vụ, thực chất đây là yêu cầu kiểm tra chéo giữa các bộ
phận, cá nhân trong tổ chức. Nhu cầu kiểm tra độc lập xuất phát từ hệ
thống kiểm soát nội bộ thường có khuynh hướng giảm sút tính hữu hiệu
trừ phi có một cơ chế thường xuyên kiểm tra soát xét lại.
Yêu cầu quan trọng đối với những thành viên thực hiện kiểm tra là họ
phải độc lập với đối tượng bị kiểm tra. Sự hữu hiệu của hoạt động này sẽ
mất đi nếu người thực hiện thẩm tra lại là nhân viên cấp dưới hoặc là
người có quyền lợi liên quan đến người bị kiểm tra.
d) Thông tin và truyền thông
Thông tin và truyền thông chính là điều kiện không thể thiếu cho việc
thiết lập, duy trì và nâng cao năng lực kiểm soát trong đơn vị thông qua
việc hình thành các báo cáo cung cấp thông tin về hoạt động, tài chính và
sự tuân thủ, bao gồm cả cho nội bộ và bên ngoài.
Thông tin cần thiết cho mọi cấp của tổ chức vì giúp việc đạt được các
mục tiêu kiểm soát khác nhau. Thông tin được cung cấp qua hệ thống

thông tin. Hệ thống thông tin có thể được xử lý trên máy tính, qua hệ
thống thủ công hoặc kết hợp cả hai, miễn đảm bảo yêu cầu chất lượng của
thông tin là thích hợp, kịp thời, chính xác và truy cập thuận tiện.
Truyền thông là một phần của hệ thống thông tin nhưng được nêu ra để
nhấn mạnh vai trò của việc truyền đạt thông tin, thể hiện ở các mặt sau:
19
- Mọi thành viên của tổ chức phải hiểu rõ công việc của mình, tiếp
nhận đầy đủ và chính xác các chỉ thị từ cấp trên, hiểu rõ mối quan hệ với
các thành viên khác và sử dụng được các phương tiện truyền thông trong
tổ chức. Điều này đòi hỏi phải thiết lập được thực hiện nhờ việc tổ chức
kênh thông tin hữu hiệu.
- Các thông tin bên ngoài ( khách hàng, nhà cung cấp, cơ quan quản
lý nhà nước, ) cũng phải được tiếp nhận và ghi nhận một cách trung thực,
đầy đủ và được xử lý chính xác phục vụ quá trình hoạt động của tổ chức.
Các thông tin cho bên ngoài ( các cơ quan quản lý, cổ đông,…) cũng được
cung cấp thông tin kịp thời, đúng quy định của pháp luật và tin cậy.
e) Giám sát
Đây là bộ phận cuối cùng của hệ thống kiểm soát nội bộ. Giám sát là
một quá trình mà người quản lý đánh giá chất lượng của hệ thống kiểm
soát. Điều quan trọng trong giám sát là phải xác định được hệ thống kiểm
soát nội bộ có vận hành đúng như thiết kế hay không và có cần thiết phải
sửa đổi chúng cho phù hợp với tùng giai đoạn phát triển của tổ chức hay
không. Thông thường các nhà quản lý thực hiện giám sát thường xuyên
hay định kỳ.
- Giám sát thường xuyên đạt được thông qua hệ thống báo cáo hoạt
động nội bộ; các ý kiến, thông tin từ bên ngoài như ý kiến khách hàng,
đánh giá của cơ quan quản lý Nhà nước để đánh giá hoạt động của tổ
chức và phát hiện những bất thường.
- Giám sát định kỳ được thực hiện thông qua các cuộc kiểm toán định
kỳ do kiểm toán viên nội bộ hoặc kiểm toán độc lập thực hiện.

1.1 .2 Hệ thống kiểm soát nội bộ của các ngân hàngthƣơng mại
20
1.1.2.1Một số đặc trưng của các ngân hàngthương mại
a) Khái niệm ngân hàng thương mại
Sự phát triển của nền sản xuất hàng hoá đã là điều kiện phát triển cho
hoạt động ngân hàng. Trên thế giới cũng đã có nhiều kiến giải khác nhau
về sự ra đời của ngân hàngcũng như nguồn gốc của thuật ngữ “ngân
hàng”. Về ngôn ngữ, thuật ngữ “ngân hàng” bắt nguồn từ Châu Âu. Cả
tiếng Pháp cổ Banque và tiếng Ý Banca đã được sử dụng từ nhiều thế kỷ
trước để chỉ “cái ghế dài” hay “bàn của người đổi tiền” [10]. Các ngân
hàng đầu tiên có thể dùng vốn tự có để tài trợ cho hoạt động của họ, nhưng
điều đó không kéo dài trước khi ý tưởng về thu hút tiền gửi và cho vay
ngắn hạn đối với những khách hàng giầu có trở thành nội dung quan trọng
của hoạt động ngân hàng.
Ngành ngân hàng nhanh chóng phát triển cùng với sự phát triển kinh
tế và công nghệ. Hoạt động ngân hàngngày càng được đa dạng hoá và mở
rộng, biến ngân hàngthành trung gian tài chính có vị trí quan trọng nhất
trong nền kinh tế thị trường. Việc đưa ra khái niệm “ngân hàngthương
mại” cũng theo đó mà trở nên phức tạp, nhất là hiện nay có xu hướng kinh
doanh đa lĩnh vực, ngân hàngcó thể tham gia vào kinh doanh các lĩnh vực
mới mẻ như bảo hiểm, bất động sản,… ngược lại các định chế tài chính
khác và các tập đoàn kinh tế lớn lại có xu hướng hoạt động sang lĩnh vực
ngân hàng.
Tại khoản 2, điều 20 luật các tổ chức tín dụng được Quốc hội thông
qua ngày 15/4/2004 sửa đổi, bổ sung một số điều của luật các tổ chức tín
dụng được Quốc hội thông qua ngày 12/12/1997, phần giải thích từ ngữ
định nghĩa “ Ngân hàng là tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ các
nghiệp vụ ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan” tại
khoản 7 cũng tại điều này xác định “ hoạt động ngân hàng là hoạt động
kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là

21
nhận tiền gửi, sử dụng tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ
thanh toán”
Theo David W. Pearce (Anh) định nghĩa trong cuốn Từ điển kinh tế
học hiện đại của Học viện công nghệ Massachusette thì ngân hàng thương
mại “là một tổ chức trung gian tài chính mà hoạt động kinh doanh của nó
chủ yếu là nhận tiền gửi không kỳ hạn hoặc có kỳ hạn và sử dụng số tiền
này để cho vay ngắn hạn, dài hạn, chủ yếu dưới dạng chiết khấu kỳ phiếu,
hoặc mua bán các loại tài sản tài chính khác. Chức năng quan trọng của
ngân hànglà duy trì hệ thống chuyển tiền bằng cách nhận tiền gửi vào các
tài khoản vãng lai và chuyển vốn bằng séc hoặc chuyển khoản” .
Theo giáo sư Peter S. Rose (Mỹ) thì “ngân hànglà loại hình tổ chức
tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc
biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán - và thực hiện nhiều chức
năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền
kinh tế” [10]. Điều này thể hiện rõ qua phạm vi, quy mô, vai trò của ngân
hàng thương mại trên thị trường tiền tệ, ảnh hưởng lớn mạnh của nó đối
với sự phát triển của nền kinh tế một đất nước. Đó là một trong những lý
do quan trọng nhất khiến cho luật pháp các nước đều quan tâm xem xét và
điều chỉnh lĩnh vực kinh doanh ngân hàngkhá chặt chẽ. Bằng cách mở
rộng nội hàm của khái niệm, định nghĩa này dường như là tổng quát nhất
và chính xác nhất. Như vậy, có thể hiểu ngân hàng thương mại là loại hình
tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng
nhất và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức
kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Ngân hàng thương mại có các hoạt động cơ bản sau:
Nhận tiền gửi là hoạt động cơ bản, truyền thống, được coi là điển
hình của ngân hàng thương mại. Tiền gửi là khoản tiền mà khách hàng gửi
trong tài khoản của họ mở tại ngân hàng. Các tài khoản này bao gồm các
22

tài khoản vãng lai và các tài khoản tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm.
Tài khoản vãng lai dành cho tiền gửi nhằm mục đích thanh toán đối với
người khác. Đối với tiền gửi có kỳ hạn, người gửi không được sử dụng các
hình thức thanh toán như đối với tiền gửi thanh toán nhưng sẽ được hưởng
lãi suất cao hơn. Nếu cần tiền, người gửi phải đến ngân hàng để rút tiền.
Tiền gửi tiết kiệm là khoản tiền tạm thời chưa sử dụng, được gửi vào ngân
hàng nhằm mục tiêu bảo toàn và sinh lời.
Tín dụng là một trong những hoạt động cơ bản nhất của ngân
hàngthương mại, là việc ngân hàngcung cấp cho khách hàng một khoản
tiền, khách hàng có trách nhiệm phải trả lãi và hoàn trả gốc theo đúng thời
hạn đã thoả thuận trong hợp đồng.
Trung gian thanh toán là hoạt động truyền thống của ngân hàng,
tạo điều kiện cho khách hàng thực hiện các khoản thanh toán bằng phương
thức giấy tờ hoặc điện tử mà không phải mang đi mang lại một lượng lớn
tiền mặt.
Hoạt động khác của ngân hàng thương mại:
Hoạt động đầu tư của ngân hàng thương mại thường gồm ba hoạt
động chính là đầu tư ngân quỹ, đầu tư hưởng lợi và đầu tư nắm quyền
kiểm soát. Đầu tư ngân quỹ là một hình thức đầu tư tài chính nhằm mục
đích quản lý dòng tiền, duy trì khả năng thanh toán cho ngân hàng. Đầu tư
hưởng lợi (đầu tư tài chính và chiến lược) chủ yếu để hưởng lợi tức. Lợi
tức thu được từ đầu tư loại này có thể từ chênh lệch giá chứng khoán, từ
lợi tức được trả cho việc nắm giữ chứng khoán (lãi trái phiếu, cổ tức) hoặc
lợi nhuận được chia từ góp vốn liên doanh. Đầu tư nắm quyền kiểm soát là
một hình thức đầu tư chiến lược, với mục tiêu dài hạn, nhằm mục đích
nắm quyền kiểm soát doanh nghiệp, mở rộng lĩnh vực kinh doanh của
ngân hàng.
23
Ngoài hai loại hình sử dụng vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong sử
dụng vốn của ngân hàngthương mại, các ngân hàngcòn phải sử dụng một

phần vốn để duy trì dự trữ theo quy định của Ngân hàngtrung ương và dự
trữ nhằm đảm bảo hoạt động kinh doanh ổn định. Ngoài ra, các ngân
hàngcũng sử dụng vốn đầu tư vào các trang thiết bị và trụ sở ngân hàng.
Bảo lãnh là cam kết của ngân hàng về việc sẽ thực hiện nghĩa vụ
thanh toán cho bên thứ ba nếu người được bảo lãnh không thực hiện được
hoặc thực hiện không đầy đủ thoả thuận ban đầu với bên thứ ba đó. Về bản
chất, bảo lãnh là hình thức kinh doanh uy tín của ngân hàng, chưa phải là
kinh doanh tiền tệ. Nó chỉ trở thành một khoản tài trợ, một khoản tín dụng
đối với người được bảo lãnh khi ngân hàngphải thực hiện việc thanh toán
thay cho họ.
Bảo hiểm là các ngân hàng thương mại cung cấp dịch vụ bảo hiểm
cho các khách hàng thông qua các công ty con hoặc thông qua các nhà môi
giới bảo hiểm trên cả hai lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ.
Cho thuê tài sản (Leasing) là việc ngân hàng sẽ mua tài sản theo
nhu cầu sử dụng của doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải trả tiền thuê hàng
năm và hết thời hạn thuê thì được quyền mua lại tài sản đó. Việc mua lại
tài sản phải được thoả thuận ngay từ khi ký kết hợp đồng thuê này.
Leasing không hoàn toàn là tín dụng bởi ngân hàng không tài trợ bằng
tiền. Doanh nghiệp chỉ có nghĩa vụ thực hiện đúng hợp đồng thuê đã ký
kết: trả tiền thuê hàng năm và mua lại tài sản vào thời điểm kết thúc hợp
đồng.
Hoạt động môi giới và kinh doanh chứng khoán ngân hàng thương
mại thực hiện việc kinh doanh, môi giới, tư vấn, … chứng khoán thông
qua việc lập các công ty chứng khoán.
24
Các dịch vụ tài chính của ngân hàng ngày càng được mở rộng, “biến
tướng” từ các hoạt động truyền thống, với mục đích đáp ứng một cách tốt
nhất nhu cầu của khách hàng, gia tăng thu nhập cho ngân hàng.
Ngoài ra, ngân hàng còn huy động nợ bằng cách phát hành kỳ phiếu,
trái phiếu ngân hàng và huy động vốn chủ sở hữu thông qua phát hành cổ

phiếu cũng được sử dụng để tăng vốn cho ngân hàng, nhưng không phải là
hoạt động thường xuyên. Ngoài ra, các ngân hàng còn thực hiện bổ sung
vốn thông qua lợi nhuận để lại hoặc nhận vốn từ ngân sách.
b) Hoạt động tín dụng và rủi ro tín dụng đối với các ngân hàng
thương mại
- Khái niệm tín dụng
Tín dụng là khoản mục tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất ở phần lớn
các ngân hàngthương mại, phản ánh hoạt động cơ bản của ngân hàng. Tín
dụng (credit) xuất phát từ tiếng la tinh là credo (có nghĩa là tin tưởng, tín
nhiệm). Hoạt động tín dụng, trong khuôn khổ của luận văn này được hiểu
đơn thuần là hoạt động cho vay của ngân hàng. Tiếp cận theo chức năng
hoạt động của ngân hàngthì tín dụng được hiểu như sau: “tín dụng là một
giao dịch về tài sản ( tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay ( ngân hàngvà
các định chế tài chính khác), trong đó bên vay chuyển giao tài sản cho bên
đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo thoả thuận, bên đi vay
có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi
đến hạn thanh toán”[1] tức là ngân hàng cung cấp cho khách hàng một
khoản tiền, khách hàng có trách nhiệm phải trả lãi và hoàn trả gốc theo
đúng thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng.
- Phân loại hoạt động tín dụng
Tín dụng được phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau, tuỳ thuộc
mục đích quản trị.

×