Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Dạy học phần văn học nước ngoài lớp 11 theo quan điểm sư phạm tương tác

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (401.56 KB, 13 trang )

Dạy học phần Văn học nước ngoài lớp 11 theo
quan điểm sư phạm tương tác


Nguyễn Thị Luân


Trường Đại học Giáo dục
Luận văn ThS. ngành: Lý luận và phương pháp dạy học (Bộ môn Ngữ văn)
Mã số: 60 14 10
Người hướng dẫn: PGS.TS. Nguyễn Thúy Hồng
Năm bảo vệ: 2012


Abstract. Nghiên cứu cơ sở lí luận của việc tăng cường hứng thú học tập phần văn
học nước ngoài cho học sinh (HS) lớp 11 theo quan điểm sư phạm tương tác: cơ sở
tâm lí học (tâm lí của học sinh lớp 11 và vấn đề tiếp nhận tác phẩm Văn học nước
ngoài), giáo dục học (quan điểm sư phạm tương tác), lí thuyết tiếp nhận văn học.
Nghiên cứu, tìm hiểu thực trạng hứng thú học tập phần văn học nước ngoài cho học
sinh lớp 11 trong nhà trường hiện nay : Nội dung và yêu cầu của phần Văn học nước
ngoài trong chương trình Ngữ văn Trung học phổ thông (THPT) và lớp 11; Thực
trạng dạy học và hứng thú học tập của HS. Đề xuất một số phương pháp, cách thức
dạy học phần văn học nước ngoài cho HS lớp 11 theo quan điểm sư phạm tương tác
nhằm nâng cao hứng thú, tăng hiệu quả dạy học. Tiến hành thực nghiệm sư phạm
nhằm đánh giá tính khả thi của các biện pháp đã đề xuất.

Keywords. Ngữ văn; Văn học nước ngoài; Phương pháp giảng dạy; Hứng thú học
tập


Content


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đối với bất kỳ một môn học nào, để có thể học tập hiệu quả, đòi hỏi học sinh phải có
động cơ, hứng thú học tập và tiếp nhận kiến thức. Biện pháp nào để có thể nâng cao hiệu quả
dạy học từ việc nâng cao hứng thú, động cơ học tập ở HS cũng chính là vấn đề quan trọng
bức thiết hiện nay, là mối quan tâm đặc biệt của mỗi GV nói chung, đặc biệt của GV Ngữ
văn nói riêng.
Quan điểm SPTT của các tác giả Madeleine Roy, Jean-Marc Denommé là một quan
điểm tiến bộ, tích cực. Quan điểm Sư phạm tương tác đang được rất nhiều nhà giáo dục quan
tâm và đưa lên thành một quan điểm dạy học có tính ứng dụng cao vào thực tiễn dạy học các
môn học.
Thực tế dạy học Ngữ văn phổ thông hiện nay cho thấy, bên cạnh những thành tựu đã đạt
được vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế ảnh hưởng đến chất lượng học tập của HS. Mặc dù môn
Ngữ văn là môn học vô cùng quan trọng trong nhà trường nhưng hiệu quả dạy học Ngữ văn
thực sự chưa đạt kết quả như mong đợi. Đặc biệt đối với phần văn học nước ngoài lớp 11,
đây là một phần văn học có nội dung hay nhưng khó đối với học sinh vì các em phần lớn
cảm thấy xa lạ và khó tiếp nhận với những tác giả, tác phẩm văn học nước ngoài.
Với tất cả những lý do trên, tôi quyết định chọn đề tài: Dạy học phần văn học nước
ngoài lớp 11 theo quan điểm Sư phạm tương tác làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt
nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu
Xét ở góc độ lịch sử nghiên cứu vấn đề, có khá nhiều tác giả đã nghiên cứu đến việc làm
thế nào để dạy học hiệu quả từng mảng văn học, từng bộ phận văn học cụ thể. Đối với mảng
VHNN cũng đã có một số công trình nghiên cứu đã được công bố như cuốn luận văn thạc sĩ
chuyên ngành Giáo dục học “Tổ chức dạy học theo dự án phần văn học nước ngoài chương
trình Ngữ văn 11 trung học phổ thông” của Phạm Thị Thúy Chinh. Liên quan đến vấn đề vận
dụng quan điểm SPTT vào dạy học Ngữ văn, có thể kể đến một số công trình nghiên cứu như
khóa luận tốt nghiệp năm 2007 “Nâng cao hứng thú học tập môn Ngữ văn của học sinh
THPT theo quan điểm Sư phạm tương tác” của Đặng Thị Thanh Vân - cử nhân khoa sư phạm
Đại học Quốc gia Hà Nội.

Mặc dù cũng đã có một số công trình nghiên cứu có liên quan đến đề nghiên cứu trong
luận văn này nhưng hầu như chưa có tác giả nào quan tâm đến việc ứng dụng quan điểm
SPTT vào dạy học văn học nước ngoài, cụ thể là VHNN lớp 11.
3. Đối tƣợng, khách thể nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: Quá trình dạy học môn Ngữ văn ở trường THPT
- Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu các phương pháp, biện pháp cụ thể nhằm
dạy học hiệu quả phần văn học nước ngoài lớp 11 theo quan điểm sư phạm tương tác.
4. Phạm vi, giới hạn của đề tài
Vận dụng quan điểm sư phạm tương tác vào thực tiễn dạy học phần văn học nước
ngoài cho HS lớp 11 nhằm tăng cường hứng thú học tập
5. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất các biện pháp, phương pháp dạy học phần văn học nước ngoài cho học sinh
lớp 11 theo quan điểm sư phạm tương tác nhằm tạo hiệu quả dạy học.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lí luận của việc tăng cường hứng thú học tập phần văn học nước
ngoài cho học sinh lớp 11 theo quan điểm sư phạm tương tác
- Nghiên cứu, tìm hiểu thực trạng hứng thú học tập phần văn học nước ngoài cho học
sinh lớp 11 trong nhà trường hiện nay : Nội dung và yêu cầu của phần VHNN trong chương
trình Ngữ văn THPT và lớp 11; Thực trạng dạy học và hứng thú học tập của HS.
- Đề xuất một số phương pháp, cách thức dạy học phần văn học nước ngoài cho HS
lớp 11 theo quan điểm sư phạm tương tác nhằm nâng cao hứng thú, tăng hiệu quả dạy học.
- Tiến hành thực nghiệm sư phạm nhằm đánh giá tính khả thi của các đề xuất trong
luận văn.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng kết hợp nhiều phương pháp, trong đó có các phương pháp nghiên
cứu chính:
- Phương pháp nghiên cứu lí luận
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm
- Phương pháp thu thập và xử lí thông tin
8. Cấu trúc của đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, tài liệu tham khảo, luận văn dự kiến được
trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn
Chương 2: Một số biện pháp dạy học phần văn học nước ngoài lớp 11 theo quan điểm
sư phạm tương tác
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm

CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Về quan điểm Sư phạm tương tác
1.1.1.1. Cơ sở khoa học hình thành quan điểm SPTT
Dựa vào khoa học thần kinh nhận thức ở người với những nghiên cứu về cấu tạo
của hệ thần kinh và hoạt động của não bộ từ đó đề xuất ra lý thuyết dạy học mới dựa trên sự
tương tác giữa các đối tượng mà cụ thể là giữa người học, người dạy và môi trường của họ.
Về bản chất, học tập là quá trình nhận thức đặc biệt của con người và được sự trợ giúp của hệ
thống thần kinh bao gồm hệ thần kinh trung ương và hệ thần kinh ngoại biên. Ngoài ra quan
điểm SPTT cũng có cơ sở khoa học từ việc nghiên cứu các năng lực bổ trợ của hệ thần kinh
như vai trò của trí nhớ, ngôn ngữ, sự chú ý đối với việc học tập của người học
1.1.1.2. Nội dung của quan điểm Sư phạm tương tác
Toàn bộ tư tưởng SPTT được tập trung gói gọn trong ba câu hỏi lớn, ba câu hỏi căn
bản, phác họa nên bức tranh của SPTT, đó là: Người học học như thế nào?Người dạy dạy
như thế nào? Và môi trường tác động đến HS trong quá trình học tập và người dạy trong quá
trình giảng dạy như thế nào? Tư tưởng cốt lõi của quan điểm SPTT là “người học là trung
tâm thu hút; người dạy được xem là tác nhân can thiệp chủ yếu bên cạnh người học, trong
khi đó môi trường là nhân tố có tác động kích thích hay ngược lại cản trở quá trình học tập
và giảng dạy „.
1.1.1.3. Các tác nhân cơ bản trong quan điểm SPTT
Sơ đồ 1.1: Quan hệ giữa các tác nhân trong quan điểm SPTT



Ngƣời học (học: hứng thú, tham gia, có trách nhiệm)







Ngƣời dạy Môi trƣờng.
(Giúp đỡ: lập kế hoạch, (ảnh hưởng, thích nghi)
hướng dẫn, hợp tác)

1.1.1.4. Các đặc trưng, bản chất của quan điểm sư phạm tương tác
- Đặc trưng thứ nhất: SPTT là một cách tiếp cận cơ bản, năng động, mang tính hệ
thống và khoa học về hoạt động SP.
- Đặc trưng thứ hai: SPTT – tiếp cận khoa học thần kinh về học và dạy là một tiếp cận
lấy người học làm trung tâm.
- Đặc trưng thứ ba: SPTT là một quan điểm tiếp cận dựa trên tương tác giữa người
học, người dạy và môi trường.
1.1.2. Hứng thú và động cơ học tập
1.1.2.1. Hứng thú
Hứng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó. Hứng thú làm nảy sinh
khát vọng hành động, làm tăng hiệu quả của hoạt động nhận thức, tăng sức làm việc.
Hứng thú học tập là thái độ đặc biệt của chủ thể đối với đối tượng của hoạt động học tập,
vì sự cuốn hút về mặt tình cảm và ý nghĩa thiết thực của nó trong đời sống cá nhân.
1.1.2.2. Động cơ
Động cơ chính là cái thôi thúc con người hoạt động, khi có động cơ thì HS sẽ mong muốn
học và tích cực học. Động cơ gắn liền với hứng thú, ham thích, có động cơ, HS sẽ hứng thú
học và ngược lại, có hứng thú tức là có động cơ.

 Phân loại động cơ học tập
- Động cơ hoàn thiện tri thức: là mong muốn khao khát chiếm lĩnh, mở rộng tri thức,
say mê với việc học tập vì tri thức và phương pháp chiếm lĩnh tri thức có sức hấp dẫn, lôi
cuốn HS.
- Động cơ quan hệ xã hội: HS học bởi sự lôi cuốn hấp dẫn của các yếu tố khác như:
đáp ứng sự mong đợi của cha mẹ, cần có bằng cấp vì lợi ích tương lai, lòng hiếu danh hay sự
khâm phục của bạn bè.
1.1.2.3. Tâm lí của HS lớp 11 và vấn đề tiếp nhận tác phẩm VHNN
Đối với môn Ngữ văn nói chung, với mảng văn học nước ngoài lớp 11 nói riêng, thì
tâm lí chung của các em HS là khi mới tiếp cận đều cảm thấy khá hay, khá hấp dẫn nhưng để
hiểu, để phân tích, cảm nhận một cách sâu sắc thì lại khó đối với các em bởi những rào cản
về ngôn ngữ, về văn hóa, lịch sử…giữa nền văn học của các nước trên thế giới.
Một lí do nữa khiến HS lớp 11 khá thờ ơ với mảng văn học nước ngoài bởi đây là
phần văn học không đưa vào thi tốt nghiệp hoặc thi đại học. Tâm lí đó dẫn đến việc các em
thiếu động cơ học tập bên ngoài đối với mảng văn học này.
1.1.3. Lí thuyết tiếp nhận văn học và vấn đề nâng cao hứng thú tiếp nhận tác phẩm văn
học nước ngoài
*Vấn đề tấm đón nhận:
Tầm đón nhận là những nhu cầu và trình độ thưởng thức kết tinh từ kinh nghiệm
sống, hứng thú, lí tưởng của từng người đọc. Nó chính là tầm văn hoá do điều kiện lịch sử- xã
hội và thời đại quy định.
Trong nhà trường, mỗi người học, nhóm, lứa tuổi… đều có một tầm đón nhận riêng
mà vấn đề đặt ra là phải xác định được tầm đón nhận của những đối tượng đó. Có nhận thức
được tầm đón nhận của những đối tượng này thì việc dạy văn sẽ đạt hiệu quả cao hơn.
*Kinh nghiệm thẩm mĩ:
Kinh nghiệm thẩm mĩ chỉ có được trực tiếp thông qua hoạt động đọc của học sinh
nhưng hoạt động đọc không được giám sát chặt chẽ hoặc bị chính người học “qua mặt”. Hậu
quả là người học có thể nói thao thao bất tuyệt về các tác phẩm đã học (do đã đọc các bài văn
mẫu, các bài nghiên cứu) nhưng không thể cảm nhận được các tác phẩm văn chương khác dù
là đơn giản.

*Khoảng cách thẩm mĩ:
Khoảng cách thẩm mĩ là khái niệm xác định mức bất ngờ của tác phẩm đối với độc
giả và xác định giá trị thi học của nó. Mỗi tác phẩm có một tầm chờ đợi riêng, mỗi người học,
nhóm học sinh, sinh viên có một tầm đón nhận riêng, vấn đề là người dạy văn phải biết cách
điều chỉnh khoảng cách này sao cho “phù hợp nhất”.
*Định hƣớng tiếp nhận:
Thực tế tiếp nhận văn học diễn ra rất phong phú, đa dạng. Khả năng đồng sáng tạo ở
các lớp độc giả được giải phóng trong môi trường tự do càng làm cho tác phẩm thể hiện được
giá trị thực sự của nó.
Chú ý đến vấn đề vận dụng lí thuyết tiếp nhận vào dạy học văn học nước ngoài cũng
có nghĩa là người dạy đang tìm cách đổi mới PPDH để lấy HS làm trung tâm của quá trình
lĩnh hội, làm mọi cách để HS có thể lĩnh hội kiến thức một cách đầy đủ, sâu sắc nhất để hình
thành những kĩ năng cần thiết cho mỗi người học.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Nội dung và yêu cầu của phần văn học nước ngoài trong chương trình Ngữ văn
THPT
Từ bảng thống kê về các bài học văn học nước ngoài cùng với mục đích, yêu cầu của
mảng văn học này, có thể khẳng định rằng mảng văn học nước ngoài ở trường phổ thông có
một tầm quan trọng đặc biệt, tầm quan trọng đó được thể hiện ngay ở mục tiêu, yêu cầu của
phần VHNN trong chương trình THPT. Quá trình dạy học VHNN đã cố gắng để đạt được
những mục tiêu, yêu cầu đó, tuy nhiên chất lượng dạy học VHNN chưa đạt được như mong
muốn.
1.2.2. Vị trí, vai trò của phần văn học nước ngoài trong nhà trường phổ thông
 Giúp học sinh có hiểu biết về tinh hoa văn học và văn hóa thế giới:
Trong cấu trúc của chương trình có nhiều tác phẩm của các tác giả nổi tiếng tiêu biểu
cho các nền văn học qua các thời kỳ văn học khác nhau. Điều đó đã tạo điều kiện cho học
sinh có thể mở rộng và nâng cao phông văn hóa của mình. Như vậy, văn học nước ngoài có
khả năng trang bị thêm cho HS những kiến thức phong phú đa dạng về các nền văn hóa, văn
học nổi tiếng trên thế giới.
 Giúp học sinh có sự đối sánh với văn học nƣớc nhà:

Nội dung của chương trình được sắp xếp theo tiến trình văn học của các dân tộc đó trong
tiến trình văn học thế giới (trong đó có Việt Nam), đặc biệt được sắp xếp đan xen với văn học
Việt Nam. Cách sắp xếp như vậy sẽ giúp học sinh có cái nhìn so sánh mang tính chất tổng thể
với văn học nước nhà. Không chỉ đối sánh với văn học Việt Nam về tiến trình, thể loại mà
khi tiếp cận chúng ta vẫn tìm được tiếng nói chung giữa các nền văn học về những vấn đề lớn
lao như chiến tranh, hòa bình, quyền sống của con người.
 Góp phần hoàn thiện nhân cách con ngƣời Việt Nam hiện đại theo xu hƣớng
toàn cầu hóa:
Xét một cách tổng thể thì văn học là tiếng nói của dân tộc, nên khi ta tiếp cận với một tác
phẩm cũng có nghĩa là ta đang tiếp cận với một nền văn hóa. Trên cơ sở hiểu được ngôn ngữ,
tư tưởng và tâm hồn của các dân tộc khác nhau trên thế giới thì cơ hội để chúng ta xích lại
gần nhau trong xu thế hội nhập là dễ dàng hơn rất nhiều.
1.2.3. Thực trạng dạy học phần văn học nước ngoài trong nhà trường phổ thông hiện
nay
1.2.3.1. Đánh giá thực trạng ở góc độ dạy học VHNN của giáo viên Ngữ văn hiện nay
Kết quả thu được từ phiếu điều tra khảo sát và phỏng vấn các GV đang trực tiếp giảng
dạy môn Ngữ văn trong trường phổ thông đã cho thấy cái nhìn tổng quan về thực trạng dạy
VHNN của GV hiện nay.
- Ưu điểm: GV đã chú ý nhiều hơn đến vấn đề đổi mới PPDH để tạo hứng thú học tập
cho HS và nâng cao hiệu quả dạy học.
- Một số hạn chế còn tồn tại:
+ Hiện tượng DH theo PP thuyết trình, theo kiểu “đọc – chép”.
+ PPDH theo kiểu “nhồi nhét”.
+ GV chưa áp dụng nhiều PPDH nhằm kích thích sự sáng tạo tích cực chủ động của
HS vì thế HS học văn tỏ ra thụ động, thiếu sáng tạo, thiếu hứng thú đam mê và không biết
cách tự học.
+ GV không đặt tác phẩm vào vào bầu không khí văn hóa, lịch sử của dân tộc sản
sinh ra .
1.2.3.2. Đánh giá thực trạng ở góc độ hứng thú học tập VHNN của học sinh hiện nay
Kết quả điều tra khảo sát cho thấy:

+ Phần đông HS hiện nay không thích học VHNN (Trong số 100HS được điều tra
ngẫu nhiên thì có tới 64 HS (chiếm tỉ lệ 64%) trả lời là hoàn toàn không thích học văn học
nước ngoài. Trong dố các em còn lại thì cũng rất nhiều em dửng dưng với mảng VH này
(15HS trả lời là mức độ hứng thú bình thường).
+ Phần lớn các em chưa được tạo hứng thú, động cơ học tập từ phương pháp dạy của
GV.
+ Hs còn thụ động, chưa tham gia tích cực vào việc phát biểu xây dựng bài, vì thế
thiếu đi sự tương tác giữa GV và HS trong dạy học và kết quả giờ học chưa đạt được như
mong đợi.
1.2.3.3. Nguyên nhân của thực trạng trên
+ Nguyên nhân khách quan: Bộ phận văn học nước ngoài ít nằm trong chương trình
kiểm tra, đánh giá, thi cử. Chính điều đó khiến cho cả GV- HS đều xem nhẹ phần này. Ngoài
ra, do sự khác biệt về văn hóa, ngôn ngữ nên sự tiếp nhận tác phẩm của học sinh cũng chỉ ở
mức độ vừa phải, đặc biệt là đối với các tác phẩm trữ tình.
+ Nguyên nhân chủ quan
Nguyên nhân đầu tiên phải kể đến đó là GV chưa có sự chuẩn bị tốt bài dạy cũng như
tâm thế tiếp nhận cho các em học sinh, chưa nắm bắt đúng tinh thần của tiếp nhận văn
học,đặc biệt là văn học nước ngoài.
Nhiều GV chưa hướng dẫn cho học sinh những công việc cụ thể cho tiết học sau.
Giáo viên cũng không chú ý để hướng dẫn học sinh cách thức tiếp cận một tác phẩm hoặc
một tác phẩm trữ tình là như thế nào? Một nguyên nhân khác cũng không kém phần quan
trọng là GV chưa chú ý nhiều đến việc đổi mới PP khi dạy học tác phẩm VHNN.

CHƢƠNG 2
MỘT SỐ BIỆN PHÁP DẠY HỌC PHẦN VĂN HỌC NƢỚC NGOÀI LỚP 11
THEO QUAN ĐIỂM SƢ PHẠM TƢƠNG TÁC
2.1 Nguyên tắc đề xuất một số biện pháp
2.1.1. Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa tính khoa học và tính giáo dục trong dạy
học tác phẩm VHNN
Lấy nguyên tắc này làm cơ sở đề xuất các biện pháp dạy học văn học nước ngoài lớp 11

theo quan điểm SPTT, chúng tôi sẽ đưa ra được những biện pháp đảm bảo việc dạy học
VHNN vừa có tính khoa học vừa có tính thiết thực trong việc giáo dục người học.
2.1.2. Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa tính tự giác, tích cực, tính độc lập, sáng tạo
của học sinh khi học VHNN và vai trò chủ đạo của giáo viên trong quá trình dạy tác phẩm
VHNN
Nguyên tắc này đòi hỏi trong quá trình dạy học VHNN, phải phát huy cao độ tính tự
giác, tính tích cực, tính độc lập, sáng tạo của người học dưới tác dụng vai trò chủ đạo của
giáo viên, tạo nên sự cộng hưởng của hoạt động dạy và hoạt động học. Việc chọn nguyên tắc
này làm cơ sở đề xuất các biện pháp dạy học VNNN theo quan điểm SPTT có nghĩa là các
biện pháp được đề xuất sẽ chú ý đến việc làm sao khi dạy học VNN, người dạy cố gắng
khuyến khích HS phát huy tính tích cực, tự giác, để cho HS được độc lập sáng tạo, người dạy
một mặt là người hướng dẫn, kèm cặp, dẫn dắt nhưng mặt khác vẫn đảm bảo vai trò chủ đạo
trong quá trình dạy học (định hướng quá trình dạy học).
2.1.3. Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa tính trực quan với sự phát triển tư duy lý
thuyết trong dạy học VHNN
Để thực hiện nguyên tắc này, quá trình dạy học VHNN cần phải chú ý: Sử dụng phối
hợp nhiều phương tiện trực quan khác nhau với tư cách là phương tiện và nguồn nhận thức để
dạy học VHNN đạt hiệu quả. Dạy học VHNN cần sử dụng lời nói giàu hình ảnh để giúp học
sinh vận dụng những biểu tượng để có để hình thành những biểu tượng mới, những tri thức
mới.
2.1.4. Nguyên tắc đảm bảo tính vừa sức và chú ý tới đặc điểm lứa tuổi, đặc điểm cá biệt và
tính tập thể của việc dạy học tác phẩm VHNN
Nguyên tắc này đòi hỏi trong quá trình dạy học VHNN, khi lựa chọn nội dung,
phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phải không ngừng nâng cao mức độ khó khăn trong
học tập, gây nên sự căng thẳng về trí lực, thể lực một cách cần thiết.
2.1.5. Nguyên tắc đảm bảo tính cảm xúc tích cực của dạy học VHNN
Nguyên tắc này đòi hỏi quá trình dạy học VHNN phải gây cho người học sự hấp
dẫn, hứng thú, lòng ham hiểu biết, niềm vui và tác động mạnh mẽ đến tình cảm của họ. Tình
cảm có vai trò quan trọng đối với hoạt động của con người, thôi thúc con người hành động,
thậm chí đến mức xả thân mình cho sự nghiệp.

2.1.6. Nguyên tắc chuyển quá trình dạy học VHNN sang quá trình tự học tác phẩm VHNN
Nguyên tắc này đòi hỏi dạy học VHNN phải hình thành cho người học có nhu cầu,
năng lực, phẩm chất tự học để có thể chuyển dần quá trình dạy học sang quá trình tự học.
Nghĩa là người học có thể tự mình tìm ra kiến thức cùng với cách khai thác bằng hành động
của chính mình, tự thể hiện mình và hợp tác với các bạn, tự tổ chức hoạt động của mình, tự
kiểm tra, tự đánh giá, tự điều chỉnh hoạt động học của mình.
2.2. Các giải pháp cụ thể
2.2.1. Về phía người dạy
2.2.1.1. Tạo ra những tình huống có sự tương tác giữa GV và HS
Để có thể vận dụng quan điểm SPTTT vào quá trình dạy học tác phẩm VHNN nhằm
đạt tới hiệu quả cao nhất, một trong những biện pháp đầu tiên người dạy cần chú ý đó là quan
tâm đến việc tạo ra những tình huống học tập thúc đẩy sự tương tác giữa GV – HS và môi
trường dạy học. Có nhiều phương pháp có thể áp dụng để tạo ra những tình huống có tính
tương tác :
+ Đưa ra các vấn đề có nhiều ý kiến trái chiều nhau. GV có thể đưa ra những câu hỏi
mà có thể nhận được nhiều ý kiến trái chiều từ phía HS, GV khuyến khích HS tranh luận (với
các bạn khác, thậm chí là với GV) để bảo vệ ý kiến của bản thân mình. Khi đó, sự tương tác
sẽ diễn ra và đem lại hiệu quả dạy học.
+ Đưa ra những câu hỏi, tình huống có vấn đề: HS sẽ nỗ lực hết mức để giải quyết
vấn đề, kiên trì tìm cách giải quyết vấn đề trong một thời gian đáng kể, dồn hết sự chú ý và
tập trung vào vấn đề đang được đặt ra, học sinh áp dụng các chiến lược nhằm giải quyết bài
học nên động cơ học tập tăng lên.
+ Tăng dần độ khó của các câu hỏi, bài tập : GV đặt HS vào tình huống đòi hỏi người
học cần phải cố gắng suy nghĩ để tìm ra những đáp án cho câu hỏi, bài tập.
2.2.1.2. Tổ chức các hoạt động dạy học tác phẩm VHNN nhằm tích cực hóa hoạt động của
HS
Đồng thời để tạo ra động cơ, hứng thú học tập VHNN theo hướng tích cực cho HS,
GV phải linh hoạt sử dụng và thay đổi các PPDH để luôn tạo ra sự chú ý, duy trì hứng thú và
động cơ say mê học tập cho học sinh.
Có một số phương pháp cụ thể sau:

+ Trong quá trình dạy học các tác phẩm VHNN, GV tổ chức chia nhóm và nêu ra
những chủ đề thảo luận để HS có cơ hội trao đổi, đưa ra những ý kiến và trình bày bảo vệ ý
kiến của nhóm mình.
+Sử dụng phương pháp đóng vai trong giờ học: Phương pháp đóng vai là hình thức
sân khấu hoá giờ học, tổ chức dạy học bằng phương pháp này có khả năng tạo ra sự chú ý và
hứng thú đối với học sinh và tích cực hóa hoạt động của HS.
2.2.1.3. Người dạy cần tăng cường vai trò người định hướng, dẫn dắt trong quá trình dạy
học tác phẩm văn học nước ngoài
Để thực hiện tốt vai trò là người định hướng, dẫn dắt trong quá trình dạy học, người
dạy trước hết cần lập một kế hoạch dạy học với các mục tiêu cụ thể, rõ ràng và chỉ ra cách
thức để đạt được những mục tiêu đó. Người dạy cũng cần xây dựng những hình thức KT-ĐG
phù hợp để định hướng cho những tiết học tiếp theo.
 Lập kế hoạch dạy học: nhiệm vụ đặc thù của Người dạy - Người dẫn đường
Lập kế hoạch học tập là một nhiệm vụ đặc trưng của người dạy, người có nhiệm vụ
dẫn dắt người học trong quá trình học tập. Ví dụ khi dạy phần VHNN lớp 11, GV sẽ không
tuân theo một cách “cứng nhắc” những yêu cầu mà chương trình môn Ngữ văn đã đề ra đối
với phần văn học này. Nhiệm vụ của GV lúc này là sẽ chuyển những yêu cầu đó thành những
mục tiêu cụ thể thiết thực đối với đối tượng HS lớp 11 mà GV đó đang trực tiếp giảng dạy.
GV sẽ căn cứ vào tình hình học tập, năng lực cụ thể của từng lớp HS mà có một kế hoạch dạy
học phù hợp, giúp HS có thể nắm bắt những kiến thức liên quan đến mảng VHNN một cách
dễ dàng và hiệu quả nhất.
 Xây dựng các hình thức KT-ĐG phù hợp:
Khi GV xác định được các hình thức KT-ĐG phù hợp và phối hợp đúng cách sẽ có
tác dụng rất lớn trong việc kích thích, khuyến khích tạo nên động cơ học tập ở người học. Khi
đó, người GV đóng vai trò là vừa như người huấn luyện viên hướng dẫn và trợ giúp người
học lại vừa như người trọng tài luôn giám sát và đánh giá một cách công bằng đối với những
kết quả mà người học đạt được.
2.2.2. Về phía học sinh
2.2.2.1. Người học cần có động cơ học tập với mảng văn học nước ngoài và chủ động chiếm
lĩnh tri thức về bộ phận văn học này

Để có động cơ và có sự chủ động trong học tập, người học phải thấy được sự cần
thiết và hữu dụng của tri thức cần lĩnh hội. Điều quan trọng là anh ta phải cảm nhận được sự
cần thiết và tính ưu việt của kiến thức cho hiện tại và tương lai, đặc biệt đối với môn đang
học.
Đối với mảng VHNN, để có được động cơ học tập đúng đắn, HS phải thấy được sự
cần thiết và tính ưu việt của mảng văn học này đối với việc bồi đắp tri thức cũng như góp
phần hình thành nhân cách của chính HS đó. Nói cách khác, HS phải thấy được vai trò, vị trí
của mảng VHNN trong chương trình Ngữ văn THPT, ý thức được rõ điều đó các em sẽ ý
thức được việc chủ động trong học tập. Ngoài ra các em phải được củng cố niềm tin về năng
lực của bản thân khi học mảng văn học này.
2.2.2.2. Người học cần có sự tham gia hợp tác tích cực với người dạy trong quá trình dạy học
tác phẩm văn học nước ngoài
Theo quan điểm SPTT, người học cũng phải thể hiện sự tham gia tích cực và bền
vững trong suốt quá trình học. Anh ta phải tự mình thực hiện trải nghiệm này bằng cách đóng
góp toàn bộ năng lực, các kiến thức đã biết, cũng như các kinh nghiệm đã có của mình.
Vận dụng điều này vào dạy học VHNN lớp 11,để người học có sự tham gia tích cực
và hợp tác với người dạy và môi trường dạy học, người học phải huy động tất cả những kĩ
năng, năng lực của mình vào việc học các tác phẩm trong chương trình. Bên cạnh đó, HS
cũng cần huy động tất cả các kinh nghiệm đã có, đó chính là những kiến thức văn học (cụ thể
là kiến thức về VHNN) đã được học ở THPT và được học ở lớp 10. HS phải xâu chuỗi, hệ
thống hóa kiến thức, lồng ghép những kinh nghiệm đã có để việc học VHNN lớp 11 đạt hiệu
quả cao nhất.
Tất cả những hình thức tổ chức dạy học mà GV dự định trong bài học chỉ thành công
khi có sự hợp tác nhiệt tình, chủ động, tích cực từ phía người học. Một khi thiếu đi sự hợp tác
này, chắc chắn những dự định của GV sẽ rất khó thực hiện, thậm chí sẽ bị “phá sản” và bài
học sẽ thất bại. Đối với mảng VHNN, những tác phẩm đưa vào chương trình đều là những tác
phẩm nổi tiếng của những tác giả lớn trên thế giới (tinh hoa văn học thế giới), vì thế để có thể
truyền đạt đến HS những tinh hoa văn học đó, để HS cảm nhận được hết cái hay cái đẹp, giá
trị văn chương trong những tác phẩm, rõ ràng GV cần sự tham gia hợp tác cao độ từ phía
người học. Vì vậy, có thể coi đây là một biện pháp mang tính nguyên tắc cần thiết trong quá

trình dạy học Ngữ văn nói chung, dạy học VHNN nói riêng.
2.2.2.3. Người học cần nâng cao tinh thần trách nhiệm với việc học của bản thân trong suốt
quá trình dạy học các tác phẩm văn học nước ngoài
Tính trách nhiệm sẽ khiến người học tự đánh giá việc học của mình và tự điều chỉnh
nếu cần thiết. Thực chất, việc tự thừa nhận một thất bại hoặc một lỗi nào đó và có khả năng
bắt đầu lại thể hiện nhân cách của người chiến thắng. Như vậy, họ sẽ biết giá trị của thành
công và trải nghiệm về thành công sẽ càng làm họ thêm hứng thú.
Có trách nhiệm có thể được thể hiện bằng việc người học luôn có thái độ học tập bền
bỉ. Trước một vấn đề dễ, người học thường dễ dàng cảm thấy hứng thú và nhiệt tình giải
quyết nhưng đối mặt với vấn đề khó, những học sinh không có trách nhiệm thường từ chối
vượt qua khó khăn và có thể từ bỏ cả dự án cá nhân của mình. Sự bền bỉ chính là một thước
đo đáng tin cậy để đánh giá mức độ trách nhiệm mà người học có khi học. Điều này có nghĩa
là trong dạy học Ngữ văn, GV luôn phải chú ý đến việc cho HS làm quen dần với các bài tập,
câu hỏi có mức độ khó cao dần để các em có thói quen không ỷ lại, không “bỏ cuộc” trước
bất cứ vấn đề nào. HS phải có sự cam kết trách nhiệm đối với các bài tập, nhiệm vụ được
giao. Sự cam kết này có thể do GV đặt ra những “ràng buộc” nhất định đối với HS (ví dụ cho
điểm hoặc những hình thức phạt, kiểm điểm hoặc cũng có thể là những giải thưởng mang
tính chất khuyến khích, khích lệ ).
Tóm lại, nếu như trong quá trình dạy học, đặc biệt đối với mảng VHNN, nếu như HS
là những người học có trách nhiệm với việc học của bản thân, biết chịu trách nhiệm về nhữnh
hành vi học tập cũng như sáng tạo, chủ động trong học tập, chắc chắn việc tiếp thu những
kiến thức về mảng văn học này sẽ thuận lợi dễ dàng hơn rất nhiều. Khi đó, GVsẽ có thể áp
dụng linh hoạt, đa dạng, sáng tạo những hình thức tổ chức dạy học.
2.2.3. Về phía môi trường dạy học
2.2.3.1. Tạo không gian văn hóa phù hợp khi dạy tác phẩm văn học nước ngoài
Vấn đề tạo được một không gian văn hóa phù hợp khi dạy học một tác phẩm VHNN
là điều rất hữu ích và vô cùng quan trọng. Điều này có nghĩa là khi dạy học một tác phẩm
VHNN, GV sẽ chú trọng đến việc tạo không gian mang đậm màu sắc văn hóa của quốc gia đã
sản sinh ra tác giả, tác phẩm VHNN đó. Khi đã có được một không gian văn hóa phù hợp,
các em sẽ cảm thấy sôi nổi, hứng thú hơn rất nhiều trong quá trình học tập. Một không gian

lớp học khác với mọi ngày bình thường chắc chắn sẽ thu hút sự chú ý của các em HS vào bài
giảng.
2.2.3.2. Tạo môi trường học tập có tính kích thích hứng thú, động cơ học tập tông giờ dạy
học tác phẩm văn học nước ngoài
Việc tạo một môi trường học tập có tính kích thích hứng thú động cơ học tập phải
được tạo lập và duy trì trong suốt quá trình dạy học, duy trì từ khi mở đầu cho đến khi kết
thúc tiết học.
+ Mở đầu bài học bằng những hiệu ứng gây sock: Theo quan điểm SPTT, mở đầu bài
học cần phải tạo ra được không khí học tập hứng khởi ngay từ đầu để từ đó tạo ra và duy trì
được sự sôi nổi hứng thú cho cả giờ học. Vì thế, chú trọng vào mở đầu bài giảng theo những
cách khác nhau sẽ có thể thu hút sự tập trung chú ý của HS đối với bài học. Người dạy có thể
mở đầu bài học theo nhiều cách khác nhau để tạo môi trường tâm lí học tập tích cực ở HS.
+ Dạy học một cách trực quan để tạo hứng thú là một biện pháp được sử dụng rất nhiều đặc biệt
trong dạy học có kết hợp sử dụng công nghệ thông tin: Theo quan điểm SPTT, các tác giả cũng
đề cao việc dạy học tác động vào các giác quan ở người học như thị giác, thính giác, xúc
giác… ở đây, tôi chỉ nhấn mạnh vào việc sử dụng trực quan sinh động để tạo hứng thú, từ đó
hình thành động cơ ở người học. Bên cạnh việc sử dụng các PP, hình thức tổ chức dạy học
kích thích tư duy sáng tạo, từ đó tạo động cơ học tập ở HS thì việc tạo không khí vui vẻ
trong lớp học cũng vô cùng cần thiết: Giáo viên có thể kể chuyện cười, hát cho HS nghe, sử
dụng ngôn ngữ cơ thể: ánh mắt, nụ cười, điệu bộ để tạo không khí cho lớp học.
Cũng theo lí thuyết SPTT, trang trí lớp học cũng tạo ra được không khí thoải phải,
hứng thú. Ví dụ, một cây xanh thiên nhiên đủ để làm cho lớp học sống động trong khi đó
không gây mất chú ý của người học.
2.2.3.3. Tạo môi trường học tập có sự tương tác giữa người dạy và người học trong quá
trình dạy học tác phẩm văn học nước ngoài
 Tạo môi trường vật chất phù hợp cho sự tương tác giữa GV và HS
Theo quan điểm SPTT, để học tập hiệu quả thì môi trường vật chất phải được sắp xếp
với mục đích góp phần tạo ra khung cảnh thuận lợi cho người học cũng như người dạy : đồ
đạc và sự bài trí của chúng, trang trí, trật tự, sự sạch sẽ và vẻ đẹp.
Ví dụ khi dạy thực nghiệm bài “Người trong bao” của Sê-khốp, tôi luôn chú ý đến

việc tạo khung cảnh lớp học thuận lợi cho sự tương tác giữa người dạy và người học bằng
cách cho HS sắp xếp lại bàn ghế lớp học sao cho các em vừa thuận lợi trong hoạt động thảo
luận nhóm, đồng thời GV cũng có thể di chuyển dễ dàng để thực hiện các hoạt động tương
tác với HS (vấn đáp, giám sát, hướng dẫn…).
 Tạo môi trường tâm lí có sự tương tác cao giữa GV và HS
Lớp học không chỉ là một không gian vật chất mà còn là một không gian tâm lý mang
nặng dấu ấn của người học và người dạy, điều đó cũng tạo ra một môi trường phong phú cho
học tập. Tóm lại, lớp học trở thành một nơi mà ở đó mỗi một người đều tìm thấy lợi ích cho
mình và có vị trí của mình.
Muốn tạo ra môi trường có sự tương tác cao giữa người dạy và người học, rõ ràng
chúng ta phải chú ý nhiều đến việc tổ chức các hình thức dạy học phong phú, mới mẻ để kích
thích sự hăng say, sáng tạo, tích cực ở HS. Trong tiết học, các hoạt động như vấn đáp gợi mở,
nêu vấn đề, thảo luận nhóm…đều là những hoạt động có khả năng tạo ra môi trường học tập
có sự tương tác cao.

CHƢƠNG 3
THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM
3.1. Tiến hành thực nghiệm sƣ phạm
*Mục đích thực nghiệm: Kiểm tra tính khả thi của vấn đề nghiên cứu (các biện pháp
đã đề ra).
* Đối tượng thực nghiệm: Tôi chọn hai lớp thuộc khối 11 (11B4 và 11B1) của trường
THPT Lê Quý Đôn –Đống Đa ( Hà Nội). Hai lớp này có học lực tương đương với nhau. Tôi
đã chọn lớp 11B4 làm lớp dạy thực nghiệm và lớp 11B1 làm lớp dạy để so sánh.
* Nội dung thực nghiệm:
Trong luận văn này, tôi tiến hành xây dựng kế hoạch và giáo án thực nghiệm bài
“Người trong bao” của tác giả Sê-khôp (SGK Ngữ văn 11, tập 2), tiến hành dạy trong 2 tiết
(giáo án thực nghiệm có ở phần phụ lục).
*Tiến hành thực nghiệm:
Tôi đã tiến hành dạy thực nghiệm với giáo án thực nghiệm tại lớp 11B4 và dạy với
giáo án đối chứng tại lớp 11B1 . Sau đó so sánh kết quả học tập của HS của 2 lớp này ( kế

hoạch và giáo án thực nghiệm xem chi tiết ở phần phụ lục). Sau khi tiến hành dạy thực
nghiệm, tôi đã phát phiếu điều tra thái độ học tập ở HS. Đồng thời sau giờ dạy tại hai lớp tôi
cũng cho các em làm cùng một bài kiểm tra để xem hiệu quả tiếp thu kiến thức ở hai lớp có
sự khác nhau như thế nào.
Sau khi tiến hành thực nghiệm, tôi thu được kết quả như sau:
3.2. Kết quả thực nghiệm
3.2.1. Về kết quả học tập
Sau khi triển khai dạy hết các nôi dung bài học, tôi tiến hành cho HS làm một phiếu
học tập là một bài kiểm tra nhanh trong 10 phút ( phần phụ lục) để đánh giá kiến thức đã thu
được của người học sau giờ dạy thực nghiệm. Ở lớp 11B1 (lớp dạy với giáo án đối chứng) tôi
cũng cho làm phiếu học tập như vậy, sau khi chấm bài, tôi thống kê kết quả và rút ra được
những nhận xét cụ thể.
So sánh kết quả học tập của HS thuộc 2 lớp 11B4 và 11B1. Đây là 2 lớp có trình độ
học lực ban đầu tương đương nhau. Kết quả thu được cho thấy, khi triển khai dạy học theo
hướng nghiên cứu của đề tài, việc tiếp thu lĩnh hội kiến thức của HS đạt hiệu quả rất cao. Còn
khi dạy học theo giáo án đối chứng, HS có kết quả học tập kém hơn. Điều này thể hiện rất rõ
trên biểu đồ, với đề bài kiểm tra trong phiếu học tập được phát vào cuối giờ học, có 73% HS
lớp 11B4 đạt điểm giỏi và xuất sắc (từ 8 điểm trở lên), trong khi cũng với đề bài đó, chỉ có
28% HS lớp 11B1 lĩnh hội được kiến thức như mục tiêu đã đề ra. Sự khác biệt này cho thấy
triển vọng và tính khả thi của đề tài khi áp dụng vào thực tế dạy học hiện nay.
3.2.2. Về thái độ học tập
Sau khi dạy thực nghiệm, tôi cũng đã phát cho các em HS ở cả 2 lớp, lớp dạy thực
nghiệm và lớp dạy để so sánh một phiếu hỏi để đánh giá về giờ dạy thực nghiệm đó (nội dung
phiếu hỏi xin xem chi tiết ở phần phụ lục). Phân tích phiếu hỏi, tôi nhận thấy việc triển khai
các nội dung và lựa chọn các hình thức tổ chức, các PPDH trong bài dạy thực nghiệm dựa
theo quan điểm SPTT – quan điểm tiếp cận dạy học qua nghiên cứu qui luật tự nhiên của não
bộ con người, vì thế các hoạt động dạy học trong bài đã có khả năng tạo hứng thú, kích thích
tư duy học tập ở HS. Tôi khẳng định được điều này vì theo kết quả điều tra (thể hiện rõ trên
biểu đồ 2) thì khi tổ chức dạy học theo quan điểm của đề tài, không có HS nào tỏ ra thụ động
trong việc lĩnh hội tiếp thu kiến thức, trong khi ở lớp dạy so sánh có đến 61% HS thụ động

trong giờ học. Điều này càng khẳng định triển vọng và tính đúng đắn của đề tài nghiên cứu.


KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
Sau khi tiến hành tìm hiểu, nghiên cứu, phân tích và thực nghiệm theo quan điểm của
đề tài, tôi rút ra được một số kết luận như sau:
1. Động cơ, hứng thú là yếu tố thúc đẩy hoạt động của con người vì thế khi có động
cơ, con người sẽ hoạt động thuận lợi và đạt kết quả cao hơn .Trong học tập cũng vậy, động cơ
học tập có vai trò thúc đẩy người học học tập một cách tích cực, chủ động, sáng tạo, phát
triển tư duy, động não trong quá trình lĩnh hội tri thức. Hoạt động DH môn Ngữ văn trong
trường phổ thông cần đặc biệt quan tâm đến việc tạo động cơ, hứng thú học tập ở người học.
2. Thực trạng dạy học Văn, đặc biệt là dạy học VHNN trong trường THPT hiện nay
chưa đạt được kết quả như mong đợi của các nhà quản lí cũng như của GV và HS. Vì vậy,
việc ứng dụng các PPDH, quan điểm DH tích cực, tiến bộ (trong đó có quan điểm SPTT) là
vô cùng cần thiết trong bối cảnh dạy học Ngữ văn hiện nay.
3. Quan điểm SPTT đề cập đến sự tương tác giữa GV, HS và môi trường dạy học.
Việc chú trọng đề xuất các biện pháp ứng dụng triệt để quan điểm này vào dạy học VHNN
lớp 11 theo cả 3 nhân tố GV –HS –Môi trường đã tạo nên hiệu quả dạy học cao hơn, chất
lượng hơn.
4. Để dạy học nói chung và dạy học VHNN nói riêng có hiệu quả, tạo được động cơ
học tập tích cực ở HS thì GV cần phải có những hiểu biết về có chế vận hành của hệ thần
kinh theo quan điểm SPTT, từ đó đề xuất những biện pháp về phía GV, về phía HS và về
phía môi trường dạy học nhằm tạo nên sự tương tác tối đa giữa ba nhân tố để nâng cao hiệu
quả DH.
2. Khuyến nghị
Từ việc rút ra những kết luận quan trọng, tôi cũng có một số khuyến nghị, đề xuất như
sau:
*Về phía nhà trường:
- Nhà trường cần đầu tư, trang bị những phương tiện công nghệ, tạo mọi điều kiện

thuận lợi về vật chất cũng như tinh thần để người dạy và người học có một môi trường học
tập tích cực.
- Nhà trường cũng cần có sự tìm hiểu, cập nhật ứng dụng những PPDH cũng như
những quan điểm dạy học tích cực, tiến bộ và khuyến khích GV mạnh dạn ứng dụng những
quan điểm, PPDH đó vào thực tế dạy học để nâng cao hiệu quả chất lượng dạy học.
*Về phía GV:
- Là những người có vai trò quan trọng trong việc đào tạo thế hệ trẻ, vì vậy GV cần
không ngừng rèn luyện, vun đắp tình yêu nghề, sự tâm huyết trách nhiệm với nghề để có thể
truyền được sự đam mê hứng thú đến HS của mình.
- GV nên chủ động tìm tòi và mạnh dạn áp dụng những PP, những quan điểm DH mới
tiến bộ, tích cực vào thực tế DH của bản thân để không ngừng nâng cao chất lượng hiệu quả
DH.
- Trong quá trình DH, GV nên tạo mọi điều kiện thuận lợi để người học được tích cực
chủ động, tự chiếm lĩnh tri thức bài học, “lấy người học làm trung tâm”.
- Trong giờ dạy, GV cần chú ý nhiều hơn đến việc tương tác với HS và với môi
trường dạy học để lôi cuốn sự tham gia hợp tác tích cực từ người học nhằm đem lại chất
lượng, hiệu quả dạy học.
* Về phía HS:
- HS cần rèn luyện, hình thành cho bản thân mình thói quen học tập tích cực chủ
động, không thụ động ỷ lại vào GV với những kiến thức có sẵn.
- Hình thành trách nhiệm với việc học của chính mình, tham gia tích cực các hoạt
động DH do GV tổ chức.
- HS cần thẳng thắn chia sẻ những nhu cầu, nguyện vọng về học tập với GV để GV có
những điều chỉnh kịp thời, phù hợp.



References
1. Đỗ Thị Ngọc Chi (2005), Các bước tổ chức một giờ dạy học văn có hiệu quả của
PTTH hiện nay, Khoá luận tốt nghiệp cử nhân Khoa Sư phạm – ĐHQGHN, Hà Nội.

2. Nguyễn Viết Chữ (2004), Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương, Nhà xuất bản
ĐHSPHN, Hà Nội.
3. Tôn Quang Cƣờng (2009), Tài liệu tập huấn dành cho giáo viên các trường THPT
chuyên, tài liệu tập huấn khoa Sư phạm – ĐHQGHN, Hà Nội.
4. Hồ Ngọc Đại (2000), Tâm lý học dạy học, Nhà xuất bản ĐHQGHN, Hà Nội.
5. Đỗ Thị Thu Hằng (2006), Phát huy tính tích cực học tập của học sinh THPT để có
một giờ dạy học văn hiệu quả, Khoá luận tốt nghiệp cử nhân Khoa Sư phạm –
ĐHQGHN, Hà Nội.
6. Đặng Hiển (2005), Dạy văn, học văn, Nhà xuất bản ĐH Sư phạm, Hà Nội.
7. Đỗ Thị Hiền (2005), Tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học tác phẩm văn chương ở
trường THPT, Khoá luận tốt nghiệp cử nhân Khoa Sư phạm – ĐHQGHN, Hà Nội.
8. Nguyến Thúy Hồng (2011), Đề kiểm tra theo chuẩn kiến thức, kĩ năng Ngữ văn 11,
Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
9. Nguyễn Thúy Hồng (2008), Đổi mới đánh giá kết quả học tập môn Ngữ văn của học
sinh THCS, THPT, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
10. Lê Văn Hồng (2002), Tâm lí học lứa tuổi và tâm lí học sư phạm, Nhà xuất bản Giáo
dục, Hà Nội.
11. Nguyễn Thị Thanh Hƣơng (2006), Dạy học văn ở phổ thông, Nhà xuất bản
ĐHQGHN, Hà Nội.
12. Lý Thanh Loan (2007), Một số phương pháp dạy học hỗ trợ học sinh đạt “trạng thái
T” trong dạy học môn Hoá họcTHPT theo quan điểm Sư phạm tương tác, Khoá luận tốt
nghiệp cử nhân Khoa Sư phạm – ĐHQGHN, Hà Nội.
13. Phan Trọng Luận (1996), Phương pháp dạy học văn, Nhà xuất bản ĐHQGHN, Hà
Nội.
14. Trịnh Văn Minh (dịch) (2009), Sư phạm tương tác - Một tiếp cận khoa học thần kinh
về học và dạy, Nhà xuất bản ĐHQGHN, Hà Nội.
15. Nguyễn Thái Phong (2011), Phương pháp dạy học tác phẩm văn học nước ngoài ở
trường phổ thông dưới ánh sáng của lí thuyết tiếp nhận, Khóa luận tốt nghiệp trường
Đại học An Giang, An Giang.
16. Trần Bá Thành (2003), Áp dụng dạy và học tích cực môn văn học, Nhà xuất bản

ĐHSP, Hà Nội.
17. Đinh Thị Kim Thoa (chủ biên) (2009), Tập bài giảng tâm lí học đại cương, Khoa Sư
phạm – ĐHQGHN, Hà Nội.
18. Trần Anh Tuấn (chủ biên) (2009), Tập bài giảng Giáo dục học đại cương, Khoa Sư
phạm – ĐHQGHN, Hà Nội.
19. Nguyễn Thành Vinh (2006), Tổ chức dạy học theo quan điểm SPTT trong các trường
(khoa) cán bộ quản lý giáo dục đào tạo hiện nay”, Luận án tiến sĩ ĐHQGHN, Hà Nội.
20. Đặng Thị Thanh Vân (2007), Nâng cao hứng thú học tập môn Ngữ văn của học sinh
THPT theo quan điểm Sư phạm tương tác, Khoá luận tốt nghiệp cử nhân Khoa Sư phạm
– ĐHQGHN, Hà Nội.








×