PHẦN I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Các cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa chỉ diễn ra khi mục đích của
nó là tiêu diệt chế độ tư bản chủ nghĩa lỗi thời và xây dựng một xã hội tiên
tiến hơn. Nếu như giai cấp lãnh đạo của chủ nghĩa tư bản (CNTB) là giai
cấp tư sản thì cơng nhân là những người bắt đầu cho quá trình chuẩn bị lực
lượng, vật chất, tinh thần cho cách mạng xã hội. Giai cấp cơng nhân sẽ
thơng qua chính đảng của mình là Đảng cộng sản lãnh đạo các tầng lớp
nhân dân lao động và các lực lượng tiến bộ dùng sức mạnh để lật đổ ách
thống trị của giai cấp tư sản. Trên cơ sở lật đổ xã hội tư bản cũ sẽ xây dựng
một xã hội mới tiến bộ hơn, tiêu diệt toàn bộ yếu điểm, hạn chế mà chế độ
xã hội cũ để lại. Chủ nghĩa xã hội sẽ xây dựng thành công khi đạt được
mục tiêu đề ra ban đầu.
Khi các nước chủ nghĩa xã hội(CNXH) ở Đông Âu và Liên Xô sụp
đổ các thế lực chống phá cộng sản đã hí hửng tuyên bố chủ nghĩa xã hội là
sản phẩm sai lầm của lịch sử, Chủ nghĩa tư bản
CNTB) là chế độ xã hội vĩnh hằng.
Ở nước ta hồi đó đã khơng ít người có phù họa với những luận
điểm trên đây của các thế lực thù địch, họ kêu gọi Đảng ta từ bỏ con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội, con đường này là ảo tưởng trái với quy luật, họ cho
rằng chủ nghĩa tư bản là khuôn mẩu, chủ nghĩa xã hội đã chết và bị phủ
định.“Cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng nhằm thay đổi chế
độ tư bản lỗi thời, bằng chế độ xã hội chủ nghĩa khi những điều kiện vật
chất và tinh thần cho sự thay thế đó đã ở mức nhất định, và khi hình thành
tình thế cách mạng.”
Như vậy, muốn cho một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa nổ ra phải
có những điều kiện tiên quyết cơ bản đó là điều kiện về vật chất, điều kiện
về tinh thần, và tình thế cách mạng. Có thể nói đây là một q trình lâu dài
và phức tạp. Trong lịch sử nhân loại đã chứng kiến nhiều sự thay đổi của
các hình thái kinh tế xã hội. Các hình thái xã hội ra đời sau đều tiến bộ hơn
hình thái xã hội trước nó và đưa lịch sử nhân loại phát triển lên một tầm
cao hơn. Xã hội muốn phát triển phải có sự đấu tranh và loại bỏ những mâu
thuẫn trong xã hội. Và những cuộc đấu tranh loại bỏ những mâu thuẫn đối
kháng chính là cuộc cách mạng xã hội. “Cách mạng xã hội là sự cải biến
căn bản chế độ xã hội, là sự thay thế chế độ xã hội này bằng chế độ xã hội
khác tiến bộ hơn, phù hợp hơn với trình độ và nhu cầu phát triển của lịch
sử” Các bộ môn khoa học Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nghiên cứu thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội là công việc quan
trọng của nhiều thế hệ, với vốn kiến thức của bản thân cịn nhiều thiếu sót,
xong em cũng xin mạnh dạn lựa chọn đề tài “ Con đường quá độ đi lên
Chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ Tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam” làm đề
tài nghiên cứu của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu
Đã có khá nhiều cơng trình nghiên cứu, phân tích về con đường đi
lên bỏ qua chế độ TBCN ở Việt Nam. Và trong những tài liệu nghiên cứu,
đánh giá về quá trình xây dựng CNXH ở Việt Nam bỏ qua chế độ TBCN
với những nghiên cứu rất sâu sắc cụ thể và những bài học rất thực tế như:
GS, TS. Dương Xuân Ngọc (chủ biên) “Chính trị học Việt Nam”,
Nxb. Chính trị- Hành chính, HN, 2009. PGS, TS. Phạm Ngọc Anh (chủ
biên) “Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh”, Nxb. Chính trị quốc gia, HN,
2005. PGS-TS Nguyễn Viết Thông “Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta”
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội là để khẳng định
tính đúng đắn khoa học của con đường định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội
của đảng và nhân dân ta là hoàn tồn chính xác.
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ của đề tài là làm rõ:
2
+ Hệ thống các khái niệm, quan điểm cơ bản của đề tài: về con
đường đi lên XHCN bỏ qua chế độ TBCN.
+ Nêu rõ các phần, mục cấu thành của tiểu luận.
+ Nêu ra những giải pháp cơ bản để xây dựng thời kỳ quá độ lên
CNXH bỏ qua TBCN ở Việt Nam.
+ Phân tích những thuận lợi và khó khăn trong việc xây dựng CNXH
ở Việt Nam.
+ Ý nghĩa của việc quá độ đi lên bỏ qua chế độ TBCN ở Việt Nam
4. Bố cục nghiên cứu.
Ngoài phần mở đầu danh mục tài liêu tham khảo thì bài nghiên cứu
của chúng tôi chia làm ba chương
Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUÁ ĐỘ ĐI LÊN CHỦ NGHĨA
XÃ HỘI
Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG CUỘC XÂY DỰNG THỜI KỲ
QUÁ ĐỘ Ở VIỆT NAM
Chương 3: NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN XÂY DỰNG THỜI KỲ
QUÁ ĐỘ ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI BỎ QUA TƯ BẢN CHỦ
NGHĨA
3
PHẦN II. NỘI DUNG
Chương 1:
LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUÁ ĐỘ ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1. Khái niệm cơ bản về quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Quá độ lên Chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc,
triệt để và toàn diện từ xã hội cũ sang xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa.
Nó diễn ra trong tồn bộ các lĩnh vực đời sống của xã hội, tạo ra các tiền đề
vật chất và tinh thần cần thiết để hình thành một xã hội mà trong đó những
nguyên tắc căn bản của xã hội xã hội chủ nghĩa từng bước được thực hiện.
Để hiểu được rõ thế nào là quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH)
trước hết ta phải hiểu được thế nào là là thời kỳ quá độ. Theo lý luận MacLenin đã khẳng định muốn tiến từ phương thức sản xuất thấp leenmootj
phương thức sản xuất cao hơn cần bắt buộc phải trải qua thời kỳ quá độ.
Mác đã khái quát về mặt lý luận và chỉ rõ: “Thời kỳ quá độ là thời kỳ cải
biến Cách mạng không ngừng, triệt để và toàn diện từ phương thức sản
xuất này sang phương thức sản xuất khác. Trong thời kỳ quá độ xét cả về
mặt kinh tế, chính trị, xã hội đó là một thời kỳ có nhiều mâu thuẫn đặt ra
địi hỏi lý luận phải giải quyết triệt để”
2. Tính tất yếu và các loại hình q độ lên CNXH.
2.1.Tính tất yếu của quá độ lên CNXH.
C.Mac cho rằng thời kì này bao gồm những cơn đau đẻ kéo dài có
nghĩa là tiến trình q độ khơng dễ dàng, nhanh chóng và có thể phải trải
qua nhiều khúc quanh; những quãng cách mới đi đến kết quả cuối cùng.
Điều đó cũng được Lênin khẳng định rằng: Trong thời kì quá độ, sự nghiệp
xây dựng CNXH có khi phải “ làm lại nhiều lần” mới xong và trong thực tế
diễn biến của tiến trình quá độ trong gần 90 năm qua với những thất bại
thăng trầm cũng đã chứng minh điều đó.
Theo V.I. Lênin tất yếu xảy ra quá độ lên CNXH là do đặc điểm ra
đời phương thức sản xuất Cộng sản chủ nghĩa và cách mạng vô sản quy
4
định, sự hình thành chế độ mới có thể ví như một cơn đau đẻ kéo dài do đó
nó cần phải có thời gian, có những sự chuẩn bị và những tích luỹ vật chất
cần thiết đủ cho nó lọt lịng và phát triển.
Thứ nhất: Cách mạng vơ sản có điểm khác biệt căn bản so với Cách
mạng tư sản. Đối với Cách mạng tư sản quan hệ sản xuất phong kiến và
quan hệ sản xuất Tư bản chủ nghĩa đều dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu
sản xuất nên quan hệ sản xuất Tư bản chủ nghĩa có thể ra đời từ trong lịng
xã hội phong kiến; nhiệm vụ của nó chỉ là giải quyết về mặt chính quyền
Nhà nước làm kinh tế thị trường thích ứng với cơ sở hạ tầng của nó.
Thứ hai: Sự phát triển của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa
là một thời kì lâu dài, khơng thể ngay một lúc có thể hồn thiện được. Để
phát triển lực lượng sản xuất, tăng năng suất lao động, xây dựng chế độ
công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, xây dựng kiểu xã hội mới,
cần phải có thời gian, hay tất yếu phải có thời kì q độ lên CNXH.
2.2. Tính tất yếu của quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
Thời kì quá độ là thời kì lịch sử mà bất cứ một quốc gia nào đi lên
CNXH cũng đều phải trải qua ngay cả đối với những nước có nền kinh tế
phát triển. Con đường phát triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở
Việt Nam mà chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lựa chọn là con đường
phát triển rút ngắn theo phương thức quá độ gián tiếp. Đó là con đường
phát triển tất yếu khách quan, hợp quy luật theo tiến trình phát triển lịch sử
tự nhiên của Cách mạng Việt Nam vì:
Thứ nhất: là do bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ: thế giới bước vào thời
kì quá độ từ chủ nghĩa tư bản (CNTB) lên CNXH. CNTB lúc đó là xã hội
đã lỗi thời về mặt lịch sử, sớm hay muộn cũng phải được thay bằng hình
thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là giai đoạn xã hội
xã hội chủ nghĩa. CNTB không phải là tương lai của lồi người, nó khơng
vượt qua những mâu thuẫn mà mâu thuẫn cơ bản nhất là mâu thuẫn giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; mâu thuẫn này càng ngày càng
5
phát triển gay gắt và sâu sắc hơn; CNXH mà con người đang vươn tới là
hình thái kinh tế xã hội cao hơn CNTB đó là xã hội vì sự nghiệp giải phóng
con người, sự phát triển tự do và toàn diện của loài người. Chúng ta quá độ
thẳng lên CNXH nghĩa là đi theo dòng chảy của thời đại nghĩa là đi theo
quy luật tự nhiên của lịch sử.
Thứ hai: là do sự lựa chọn con đường độc lập dân tộc của Đảng.
Ngay khi ra đời Đảng ta đã xác định con đường phát triển của dân tộc là
quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ. Từ sau khi Cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân do Đảng cộng sản lãnh đạo đã thành cơng thì chúng ta đã cởi bỏ
được hai vịng xích, đã thốt khỏi cảnh một cổ hai tròng, Đảng và Nhà
nước thêm vững mạnh, nhân dân đã thêm niềm tin vào Đảng, quyết tâm đi
theo Đảng. Thành quả của cuộc Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cần
được giữ vững, cuộc sống vật chất cũng như tinh thần của nhân dân phải
được cải thiện, nâng cao nhiều so với những năm chiến đấu hy sinh. Có
hàng loạt vấn đề kinh tế, xã hội và chính trị cần được giải quyết cấp bách
sau khi Cách mạng dân tộc dân chủ thành cơng. Nhưng điều đó không ngăn
cản việc tiến lên CNXH; hơn nữa, việc giải quyết nó chỉ có thể bằng con
đường xây dựng CNXH. Việc đưa miền Bắc tiến lên CNXH có ý nghĩa rất
lớn lao trong những năm đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất
nước. Chính điều đó được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh trong hội nghị
cán bộ văn hoá ngày 30/10/1958 “ Miền Bắc tiến lên CNXH để làm cơ sở
vững chắc cho việc đấu tranh thống nhất nước nhà. Muốn đấu tranh thống
nhất nước nhà thắng lợi thì nhất định phải xây dựng miền Bắc tiến lên
CNXH”. Trong thời đại ngày nay chỉ có độc lập dân tộc gắn liền với
CNXH mới đem lại nhiều lợi ích và hạnh phúc thực sự cho toàn thể nhân
dân lao động.
Vì những lẽ đó, Đảng tất yếu lãnh đạo tồn thể nhân dân lao động
tiến thẳng lên CNXH không trải qua giai đoạn phát triển TBCN.
6
2.3. Khả năng tiến hành quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
Về khả năng khách quan: Yếu tố khách quan quan trọng đầu tiên
giúp chúng ta tiến lên CNXH là Liên Xơ lúc đó đã tiến hành thành cơng
cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa và sẵn sàng giúp đỡ chúng ta cả về vật
chất và tinh thần. Sau đó hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu
tan rã đã đưa ra cho chúng ta tấm gương khá sinh động về sự thành công và
thất bại đã sâu sắc và chi tiếtđến mức có thể từ đó đưa ra những giải pháp
điển hình cho sự lãnh đạo và thực hiện tiến trình cách mạng. Cịn đến ngày
nay, xu thế quá độ lên CNXH trên phạm vi tồn thế giới đã đóng vai trị
tích cực, khơng những làm cho quá độ bỏ qua CNTB là tất yếu mà còn đem
lại điều kiện và khả năng khách quan cho sự q độ này. Q trình quốc tế
hố sản xuất, tồn cầu hố với sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học
và công nghệ đã tạo khả năng cho những nước kém phát triển đi sau tiếp
thu, vận dụng đưa vào nước mình lực lượng sản xuất hiện đại và kinh
nghiệm của những nước đi trước cũng như tạo khả năng khách quan cho
việc khắn phục khó khăn về nguồn vốn, kĩ thuật hiện đại. Điều kiện đó giúp
chúng ta tranh thủ được cơ hội, tận dụng, khai thác, sử dụng có hiệu quả
những thành tựu mà nhân loại đã đạt được để rút ngắn thời kì quá độ lên
CNXH ở nước ta.
Về khả năng chủ quan: Mọi thành công của chúng ta đạt được phải
kể đến yếu tố quan trọng bậc nhất là sự lãnh đạo của Đảng và liên minh
công nông vững chắc. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mac – Lênin luôn
luôn nhấn mạnh vai trị của Đảng vơ sản trong việc lãnh đạo cách mạng nói
chung và trong việc thực hiện q trình phát triển rút ngắn ở các nước tiền
tư bản nói riêng thì ở Việt Nam, Đảng cộng sản Việt Nam là một nhân tố có
vai trị quyết định đối với việc đẩy nhanh sự phát triển đất nước .Và trong
công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo đã thu được những kết
quả khả quan như: đã củng cố và khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội của chúng ta là đúng đắn. Sự lựa chọn con đường quá độ lên CNXH bỏ
7
qua TBCN của nước ta là phù hợp với sự lựa chọn của nhân dân ta. Các
tầng lớp lao động cơng nhân, nơng dân và trí thức dưới sự lãnh đạo của
Đảng đã cùng nhau chiến đấu, hy sinh để giành lại độc lập dân tộc và cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Do đó họ sẵn sàng liên minh chặt chẽ với
nhau và cùng với Đảng để vượt qua mọi khó khăn, xây dựng thành cơng
CNXH.
Ngồi ra, khả năng và nguồn lực trong nước có thể đáp ứng được
yêu cầu của thời kì quá độ lên CNXH. Chúng ta có lực lượng lao động dồi
dào, chăm chỉ, khéo léo, dễ đào tạo, sẵn sàng đáp ứng được yêu cầu của
thời đại mới. Tài nguyên thiên nhiên của nước ta cũng hết sức giàu có và
phong phú tạo điều kiện hồn thành sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại
hố đất nước tạo tiền đề xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa.
3. Quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội là một quy luật tất yếu của lịch
sử.
Bộ phận quan trọng trong học thuyết của V.I.Lênin về xây dựng chủ
nghĩa xã hội là lý luận về thời kỳ quá độ lên CNXH.Theo V.I.Lênin, sự cần
thiết khách quan phải có thời kỳ quá độ lên CNXH là do đặc điểm ra đời,
phát triển của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa và cách mạng vô
sản quy định.
Quan hệ sản xuất phong kiến và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa
đều dựa trên cơ sở chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Do vậy, quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa có thể ra đời từ trong lòng xã hội phong kiến. Sự
phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đến một trình độ nhất
định, sẽ làm sâu sắc thêm mâu thuẫn của xã hội phong kiến, cách mạng tư
sản sẽ nổ ra. Nhiệm vụ của cách mạng tư sản chủ yếu chỉ là giải quyết về
mặt chính quyền Nhà nước, làm cho kiến trúc thượng tầng thích ứng với cơ
sở hạ tầng của nó.
Cuộc cách mạng vơ sản khác với các cuộc cách mạng khác ở chỗ:
các cuộc cách mạng trước đó giành được chính quyền là kết thúc cuộc cách
8
mạng vì nó dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Cịn
cuộc cách mạng vơ sản giành được chính quyền mới chỉ là bước đầu, cịn
vấn đề chủ yếu cơ bản hơn đó là giai cấp vô sản phải xây dựng một xã hội
mới, cả về lực lượng sản xuất lẫn quan hệ sản xuất, cả về cơ sở hạ tầng lẫn
kiến trúc thượng tầng, cả về tồn tại xã hội và ý thức xã hội.Hơn nữa, sự
phát triển của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ lâu
dài, không một lúc có thể hồn thiện đợc. Để phát triển của lực lượng sản
xuất, tằng năng xuất lao động, xây dựng chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa
về tư liệu sản xuất, xây dựng kiểu xã hội mới, cần phải có thời gian tương
đối lâu dài. Nói cách khác, tất yếu phải có thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội .
* Lý luận của V.I.Lênin về con đường quá độ lên CNXH ở những
nước chủ nghĩa tư bản chưa phát triển.
C.Mác và Ph.Ăngghen là những người đầu tiên đã nêu lên khả năng
những nước còn đang ở trong giai đoạn phát triển tiền tư bản chủ nghĩa có
thể chuyển thẳng lên hình thái chế độ cộng sản chủ nghĩa và khả năng phát
triển rút ngắn của các nước này bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Đây chính
là điểm phát triển của V.I.Lênin về cách mạng Xã hội chủ nghĩa và về thời
kỳ quá độ ở nhữnh nước tiền đề kinh tế cho cuộc cách mạng ấy chưa chín
muồi, cho dù ở nước đó chủ nghĩa tư bản phát triển ở mức trung bình .
Lý luận của V.I.Lênin về thời kỳ quá độ lên CNXH ở các nước chưa
có CNTB phát triển bao gồm một số luận điểm cơ bản sau đây:
* Một là, luận điểm về việc giành lấy chính quyền làm điều kiện tiên
quyết để xây dựng tiền đề kinh tế cho CNXH.
* Hai là, luận điểm về thời kỳ quá độ với một loạt những bước quá
độ. Luận điểm này của V.I.Lênin được rút ra sau những sai lầm dẫn tới
khủng hoảng kinh tế, chính trị ở nước Nga Xô Viết sau nội chiến. Phân tích
nguyên nhân khủng hoảng ở Nga, V.I.Lênin chỉ ra rằng, đối với một nước
9
mà CNTB chưa phát triển cao nhất nước Nga, không thể thực hiện quá độ
trực tiếp lên CNXH được mà phải trải qua một loạt những bước quá độ.
Luận điểm “Một loạt những bước quá độ ” xây dựng CNXH ở một
nước mà trình độ phát triển kinh tế chưa chín muồi của V.I.Lênin bao gồm
những nội dung chủ yếu sau đây: Không thể quá độ trực tiếp lên CNXH mà
phải qua con đường gián tiếp chứ không, không thể vội vàng không chuẩn
bị Những bước quá độ ấy theo V.I.Lênin là chủ nghĩa tư bản nhà nước và
chủ nghĩa xã hội. V.I.Lênin nói: “ Để chuẩn bị, việc chuyển sang chủ nghĩa
cộng sản thì cần thiết phải có một loạt những bước quá độ như chủ nghĩa
tư bản nhà nước và chủ nghĩa xã hội”.
4. Các hình thức đi lên chủ nghĩa xã hội
a. Quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội từ nước tư bản chủ nghĩa đi lên
Chủ Nghĩa Xã Hội (theo quy luật tư nhiên của thời đại)
Loại quá độ này phản ánh quy luật phát triển tuần tự của xã hội loài
người. Là sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở các nước mà CNTB đã phát
triển đầy đủ, lực lượng sản xuất đã xã hội hoá cao mâu thuẫn gay gắt với
quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN; mâu thuẫn
giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản đến độ chín muồi. Cách mạng
XHCN nổ ra và thắng lợi, chính quyền nhà nước của giai cấp cơng nhân
được thiết lập, mở đầu thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH. Cho đến nay
loại hình nay chưa xuất hiện.
b. Quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội nước có nền kinh tế chưa phát triển:
Loại quá độ này phản ánh quy luật phát triển nhảy vọt của xã hội loài người.
Tư tưởng về loại quá độ thứ hai đã được C.Mác và Ph.Ăngghen dự kiến.
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, sau khi chủ nghĩa xã hội ở các nước tư bản
Tây Âu giành được thắng lợi, thì các nước lạc hậu có thể đi thẳng lên chủ
nghĩa xã hội.
Tiếp tục tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã chỉ ra bản
chất giai cấp, nội dung và các điều kiện của quá độ tiến thẳng tới chủ nghĩa
xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
10
CHƯƠNG II:
THỰC TRẠNG CÔNG CUỘC XÂY DỰNG
THỜI KỲ QUÁ ĐỘ Ở VIỆT NAM
1. Về kinh tế:
Như ta đã biết dưới ách thống trị của thực dân Pháp nền kinh tế nước
ta phụ thuộc hoàn toàn vào chủ nghĩa đế quốc, kinh tế hết sức nghèo nàn,
lạc hậu, nạn đói xảy ra triền miên và kéo dài, nghiêm trọng nhất là vào năm
1945 có tới hàng vạn người có nguy cơ chết đói. Nhưng từ khi cuộc kháng
chiến trường kì kết thúc thắng lợi, miền Bắc bước vào thời kì quá độ thì
dưới sự lãnh đạo của Đảng tính chất nền kinh tế đã thay đổi. Từ nền kinh tế
thuộc địa nửa phong kiến, chúng ta đã xây dựng được nền kinh tế mang
tính độc lập mang tính chất dân chủ nhân dân, thốt khỏi sự phụ thuộc hồn
tồn vào chủ nghĩa đế quốc.
Trong giai đoạn từ 1945 đến 1975 kinh tế đã có những bước phát
triển nhất định nhưng kết quả thực sự đáng lưu ý là từ năm 1986 đến nay
(thời kì đổi mới). Sau gần 20 năm đổi mới kinh tế đã có những bước
chuyển biến đáng mừng.
Thứ nhất: Nền kinh tế trong những năm qua tăng trưởng liên tục và
có tốc độ cao. Mức tăng GDP năm 2002 đạt 6,79%, năm 2003 đạt 7,26% và
năm 2004 đạt 7,5% cao nhất từ năm 1997 trở lại đây. Cụ thể mức tăng của
một số ngành như sau.
Ngành nông nghiệp: Mặc dù trong những năm qua thời tiết khắc
nghiệt, thiên tai và hạn hán thường xuyên xảy ra, nạn cúm gia cầm trong
hai năm vừa qua đã gây ảnh hưởng lớn nhưng tổng sản phẩm ngành nông,
lâm, thuỷ sản vẫn tăng 3,5% góp 0,7% vào tốc độ tăng trưởng chung. Sản
xuất lương thực, thực phẩm vẫn giữ vai trò lớn nhất trong sản xuất nông
nghiệp. Nhờ áp dụng khoa học công nghệ mà sản xuất lúa đã chuyển dịch
mạnh theo hướng tăng năng suất lao động, tăng chất lượng lúa gạo để phù
hợp nhu cầu thị trường, tăng sức cạnh tranh của gạo Việt Nam trên trường
11
quốc tế. Chúng ta vẫn giữ vững vị trí thứ hai về xuất khẩu gạo, ngoại tệ thu
được từ xuất khẩu gạo tăng từ 734 triệu USD lên 900 triệu USD năm 2004.
Ngành công nghiệp: sản xuất vẫn phát triển ổn định và tăng trưởng cao.
Sản xuất công nghiệp và xây dựng tăng 10,2% chiếm tỷ trọng 3,9% trong
tốc độ tăng trưởng chung. Tổng giá trị sản xuất công nghiệp năm 2004 đạt
354 nghìn tỷ đồng, tăng 16% so với năm 2003 trong đó tăng cao nhất là
khu vực ngồi quốc doanh (22,8%), khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài tăng 15,7%.
Thứ hai: Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế với sự chuyển dịch ngành
và chuyển các thành phần kinh tế.
Cơ cấu ngành kinh tế đã có sự chuyển dịch theo hướng khu vực I
(gồm nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản) tuy vẫn đạt tốc độ tăng trưởng
cao liên tục nhưng tỷ trọng đã giảm xuống trong đó tỷ trọng khu vực II
(công nghiệp và xây dựng cơ bản) và khu vực III (gồm các ngành dịch vụ)
đã tăng lên. Đến năm 2003 tỷ trọng của khu vực I là 22%, khu vực II là
39%, khu vực III là 39%; năm 2004 thì tỷ trọng các khu vực tương ứng là
21.8%; 40.1%; 32.2% .Các thành phần kinh tế trong GDP cũng có sự
chuyển dịch từ chủ yếu là quốc doanh, hợp tác xã sang đa thành phần
nhung vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh vẫn được tăng cường.
Thứ ba: Về cơ chế quản lý kinh tế mới đã bước đầu được hình
thành. Nhà nước đã xố bỏ về cơ bản kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan
liêu, bao cấp, xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Trong quá trình hình thành cơ chế thị trường, Nhà nước đã dần
dần cải tổ bộ máy và các công cụ quản lý. Từ chỗ chủ yếu sử dụng phương
pháp hành chính coi kế hoạch hố với các chỉ tiêu pháp lệnh là công cụ để
quản lý, điều hành nền kinh tế sang chủ yếu quản lý bằng pháp luật kết hợp
chính sách và các cơng cụ điều tiết vĩ mơ như chính sách tài chính, tiền tệ,
thu nhập và chính sách kinh tế đối ngoại.
12
Thứ tư: Kinh tế nước ta đã đạt thành công lớn trong việc kiềm chế
và đẩy lùi lạm phát. Trong những năm từ 1986 đến 1988 lạm phát tới ba
con số (cao nhất là 774,7% năm 1986) nhưng đến năm 1989 lạm phát đã
được chặn lại ở hai con số sau đó giảm xuống một con số (năm 1997 là
3,7%; năm 1999 là 0,1%; năm 2001 là 0,8%; năm 2002 là 4%; năm 2003 là
3% thậm chí cịn có giảm phát vào năm 2000 là - 0.6%. Năm 2004 vừa qua
lạm phát đã tăng lên 9,5%.
Thứ năm:Về kinh tế đối ngoại. Trong thời kì quá độ cũng phát triển
mạnh mẽ. Chúng ta đã tham gia vào các tổ chức khu vực cũng như trên thế
giới: gia nhập ASEAN năm 1995, gia nhập AFTA năm 1996, gia nhập
APEC năm 1998, ký hiệp định thương mại Việt – Mĩ, nộp đơn gia nhập
WTO năm 1994 và hiện nay đang xúc tiến đàm phán để thực hiện mục tiêu
gia nhập WTO trong năm nay. Tháng 10 năm 2004 vừa qua chúng ta đã tổ
chức thành công Hội nghị thượng đỉnh Á - Âu lần thứ 5 (ASEM 5). Và đến
tháng 11 năm 2004 Việt Nam đã kí 86 hiệp định thương mại song phương,
46 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, 40 hiệp định chống đánh thuế
hai lần đối với các nước, vùng lãnh thổ có quan hệ thương mại với 160
nước và nền kinh tế, thiết lập quan hệ với các tổ chức tài chính, tiền tệ như
WB, FDI, IMF, ODA…
2. Về xã hội:
Trong suốt thời kì quá độ chúng ta đã đạt được những chuyển biến
tốt về mặt xã hội. Nhìn chung đời sống vật chất, tinh thần của phần lớn
nhân dân được cải thiện một bước rõ rệt. Số hộ có thu nhập trung bình và
số hộ giàu tăng lên ( hiện nay lớn hơn 10%), GDP bình quân đầu người
trong cả nước đạt 484,8 USD, khu vực thành thị đạt tới 794,8%, khu vực
Đông Nam Bộ đạt 820,8 USD. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 30% năm 1992
xuống còn 10,8% năm 2003 và 9,03% năm 2004.
Một thành quả to lớn về xã hội phải kể đến là sự phát triển của hệ
thống y tế, giáo dục. Mạng lưới y tế bây giờ đã rộng khắp luôn kịp thời
13
chăm lo sức khoẻ cho nhân dân. Ở hầu hết các xã phường thị trấn đều có
các trạm xá với những cán bộ y tế đã được qua đào tạo. Thành công về y tế
lớn nhất trong năm vừa qua là chúng ta đã nhanh chóng kiềm chế, khoanh
vùng được dịch Sar cũng như dịch cúm gia cầm, rồi những ca phẫu thuật
cấy ghép tuỷ, thận…
Về giáo dục: Giáo dục ở Việt Nam trong những năm vừa qua luôn
được coi là quốc sách hàng đầu. Đảng và Nhà nước luôn có những chính
sách hỗ trợ và đầu tư cho phát triển giáo dục như đầu tư cơ sở hạ tầng kĩ
thuật, trợ cấp cho học sinh, sinh viên…Kết quả là số người tham gia xóa
mù chữ ở tất cả các cấp tăng lên 12%. Về cơ bản nước ta đã phổ cập được
tiểu học. Đến tháng 6 năm 2004 đã có 19 tỉnh trong cả nước được cơng
nhận phổ cập trung học cơ sở. Tính năng động sáng tạo của người dân được
khơi dậy và phát huy. Người lao động ngày càng chủ động hơn trong tìm
kiếm việc làm tìm cách tăng thu nhập, tự cải thiện đời sống, tham gia ý
kiến đóng góp vào các sinh hoạt chung của cộng đồng, xã hội. Khơng cịn
nhiều hiện tượng ỷ lại, thụ động, trông chờ Nhà nước, dựa dẫm tập thể.
3. Về chính trị
Thứ nhất đã thực hiện tốt Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý. Sự
lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp cách mạng Việt
Nam là một tất yếu lịch sử và là tất yếu khách quan. Từ khi giành được
thắng lợi trong cuộc cách mạng Tháng 8 năm 1945, Đảng cộng sản Việt
Nam về thực chất đã trở thành một Đảng cầm quyền. Trong suốt mấy chục
năm qua Đảng đã thành công trong việc vừa lãnh đạo nhân dân tiến hành
các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập và xây dựng một xã
hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa. Đảng ln là lực lượng chính trị duy
nhất lãnh đạo cách mạng và lãnh đạo nhân dân, Đảng lãnh đạo toàn diện
đối với Nhà nước và mọi mặt của đời sống xã hội. Tuy nhiên, Đảng khơng
tự biến mình thành Nhà nước.
14
Thứ hai: Trong suốt thời kì quá độ vừa qua nhìn chung chúng ta tiếp
tục giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ chế độ,
chủ quyền đất nước. Mặc dù những kẻ thù địch không ngừng chống phá
cách mạng trong nước, mặc dù xảy ra khủng hoảng kinh tế, xã hội vào thời
kì những năm 1996 – 2000 nhưng chính trị của nước ta vẫn được ổn định.
Thành quả này là kết quả tổng hợp của cơng cuộc đổi mới trong đó quốc
phịng an ninh giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Các nhu cầu củng cố quốc
phòng, cải thiện đời sống của lực lượng vũ trang luôn được quan tâm đáp
ứng. Chất lượng và sức mạnh quân đội luôn được nâng lên. Thế trận quốc
phịng tồn dân ln được củng cố vững chắc, chủ quyền đất nước càng
được khẳng định rõ ràng. Như vậy, chúng ta đã thực hiện tốt chính sách kết
hợp kinh tế và an ninh quốc phòng.
Thứ ba: chúng ta thực hiện có kết quả nhiều bước quan trọng về hệ
thống chính trị.
Về củng cố Đảng: Trong thời gian qua Đảng đã từng bước bổ sung,
cụ thể hoá đường lối đổi mới, làm rõ dần con đường đi lên CNXH ở nước
ta, củng cố về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đổi mới phương thức lãnh đạo và
tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong xã hội.
Về phát huy quyền làm chủ của nhân dân: Tuy thực hiện cơ chế
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý nhưng Nhà nước ta là Nhà nước pháp
quyền dân chủ, do dân và vì dân. Điều đó thể hiện rõ nhất trong các cuộc
bầu cử Đại biểu hội đồng nhân dân các cấp theo chế độ phổ thơng đầu
phiếu, chính người dân đã trực tiếp được cầm phiếu đi bầu người đại diện
cho mình – những người sẽ thay mặt họ trình bày lên cơ quan cấp trên có
thẩm quyền những vấn đề bất cập trong cuộc sống hàng ngày, sẽ thay mặt
họ đòi hỏi những quyền lợi hợp pháp mà họ được hưởng. Bên cạnh đó, đời
sống của nhân dân các vùng dân tộc cũng được đặc biệt chú ý quan tâm,
Đảng và Nhà nước đã tạo mọi điều kiện để các dân tộc phát triển đi lên con
đường văn minh, tiến bộ, gắn bó mật thiết với sự phát triển của cộng đồng
15
các dân tộc Việt Nam. Đảng luôn luôn tôn trọng lợi ích, truyền thống, văn
hố, tập qn, tín ngưỡng tơn giáo của các dân tộc, ln thực hiện nhất
qn chính sách tơn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo
nhưng cũng đồng thời chống việc lợi dụng tín ngưỡng để xâm hại đến lợi
ích quốc gia dân tộc.
Thứ tư: chúng ta phát triển mạnh mẽ quan hệ đối ngoại, phá vỡ thế
bao vây, cô lập, tham gia tích cực vào đời sống cộng đồng quốc tế. Chúng
ta đã triển khai tích cực và năng động đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ,
đa phương hoá, đa dạng hoá. Chúng ta đã khắc phục và tăng cường quan hệ
với các nước công nghiệp phát triển như Mỹ, Nhật, bình thường hố quan
hệ Việt – Mỹ, mở rộng quan hệ với các nước Nam á, Châu Phi, Mỹ Latinh,
Trung Đông, với các tổ chức quốc tế, khu vực, đã tham gia vào các tổ chức
ASEAN, AFTA, APEC, WTO..v.v. Tiếp tục duy trì phát triển quan hệ đồn
kết hữu nghị với các Đảng cộng sản và công nhân các phong trào độc lập,
các tổ chức và phong trào cách mạng tiến bộ trên thế giới.
Thành tựu trên lĩnh vực đối ngoại là một nhân tố quan trọng góp phần giữ
vững hồ bình, phá bỏ thế bị bao vây, cấm vận, cải thiện môi trường quốc
tế, nâng cao vị thế nước ta trên trường quốc tế.
4. Những hạn chế
Tuy đã đạt được những thành tựu to lớn nhưng trong thời kì quá độ
và trong công cuộc đổi mới đất nước chúng ta đã cịn mắc khơng ít khuyết
điểm và yếu kém.
Một là: Nước ta đã có nhiều biện pháp thúc đẩy phát triển cơ chế thị
trường nhưng cho đến nay cơ chế thị trường vẫn còn sơ khai. Hệ thống
quản lý kinh tế nước ta cịn đang trong q trình chuyển đổi, luật pháp, cơ
chế, chính sách chưa đồng bộ, nhất quán và tác động cùng chiều để thúc
đẩy nền kinh tế phát triển mạnh mẽ, nâng cao hiệu quả và đúng hướng. Các
kế hoạch định hướng phát triển kinh tế về quy hoạch, xây dựng, quản lý, sử
dụng đất đai, tài ngun thiên nhiên…, thủ tục hành chính có nhiều tiến bộ
16
nhưng cịn chậm chạp. Thường có sai sót mới sửa đổi bổ sung chứ chưa
đưa ra được từ khi ban hành nên cịn nhiều bất cập trong hệ thống hành
chính quốc gia. Về thương nghiệp thì Nhà nước cịn “bỏ trống” một số
“trận địa” quan trọng, chưa phát huy tốt được vai trị chủ đạo trong lưu
thơng hàng hố, ổn định giá cả thị trường, bảo vệ sản xuất và tiêu dùng.
Khâu quản lý xuất nhập khẩu còn nhiều sơ hở, tiêu cực như nhập lậu, trốn
thuế, nhận hối lộ… gây ra những tác động xấu không nhỏ cho đối với sản
xuất trong nước.
Hai là: Vấn đề sử dụng vốn đầu tư cũng là vấn đề nan giải. Hiệu
quả sử dụng vốn đầu tư được phản ánh qua chỉ số ICOR. Vào đầu thập kỉ
90 của thế kỉ XX chỉ số ICOR khoảng 0,4:1 – 0,5:1 thì năm 2001 là
4,12:1, năm 2003 là 4,92:1 chỉ số ICOR tăng cho thấy tốc độ phát triển
của vốn lớn hơn giá trị tăng thêm suy ra chúng ta sử dụng vốn đầu tư còn
rất kém hiệu quả.
Ba là: Kinh tế tăng trưởng khá nhanh nhưng năng suất hiệu quả cịn
thấp. Nhìn chung tốc độ tăng trưởng nền kinh tế chưa xứng với mức tăng
đầu tư và thấp hơn so với kế hoạch, tính bền vững và độ đồng đều chưa
cao, cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm. Khu vực dịch vụ tuy được đầu
tư khá xong tỷ trọng tăng chậm trong cơ cấu GDP thậm chí năm 2004 cịn
giảm so với năm 2003 là 6,8%. Hệ thống dịch vụ hỗ trợ sản xuất vừa thiếu
vừa yếu và kém hiệu quả. Cơ cấu lao động chuyển dịch chậm không tương
ứng với chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhất là trong khu vực nông nghiệp nơng
thơn ( năm 2003 cịn chiếm lớn hơn 60% lao động).
Bốn là: cạnh tranh cịn yếu và trình độ kĩ thuật lạc hậu. Sức cạnh
tranh và năng lực quản lý của các doanh nghiệp còn yếu, thiếu sự chuẩn bị
để ứng phó hiệu quả với q trình hội nhập đang diễn ra ngày càng sâu
rộng (thể hiện rõ ở việc các doanh nghiệp chưa thực sự chú ý đến việc đăng
kí nhãn hiệu cho sản phẩm của mình). Xét về tiêu chí cạnh tranh của sản
phẩm như giá cả, chất lượng, mạng lưới tổ chức tiêu thụ thì hàng hoá của
17
Việt Nam cũng có sức cạnh tranh yếu. Những mặt hàng xuất khẩu chưa có
được hàm lượng cơng nghệ cao, giá trị gia tăng lớn, hàng xuất khẩu chủ
yếu là thơ hoặc sơ chế ví dụ như dầu khí, than… và chất lượng thấp. Bên
cạnh đó chưa xây dựng và sử dụng các biện pháp bảo vệ thị trường nội địa.
Một trong những nguyên nhân khiến cho cạnh tranh yếu là hàm lượng cơng
nghệ trong sản phẩm, trình độ lao động của Việt Nam còn thấp. Theo con
số thống kê Việt Nam có gần 40 triệu lao động thì có tới 83% lao động
khơng có trình độ chun mơn kĩ thuật, số lượng công nhân được đào tạo
nghề chiếm chưa tới 26 %.
18
CHƯƠNG III:
NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN XÂY DỰNG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ
ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI BỎ QUA TƯ BẢN CHỦ NGHĨA
Nhìn lại chặng đường quá độ trong thời gian qua, chúng ta có quyền
tự hào về những thành tựu đã đạt được. Tuy nhiên đến nay vẫn còn một số
mặt chưa được củng cố vững chắc. Chính từ những thành tựu và những hạn
chế còn tồn tại chúng ta có thể đưa ra được những giải pháp để trong thời
gian tới chúng ta đạt được những thành tựu quan trọng hơn để hồn thành
nhiệm vụ của thời kì quá độ lên CNXH của Việt Nam để tiến đến một
tương lai tươi đẹp xã hội xã hội chủ nghĩa.
1. Giải pháp về cơng nghiệp hố, hiện đại hố
Xu thế tồn cầu hố hiện nay đang tạo cho chúng ta những thời cơ,
những thách thức. Do đó chúng ta phải tiến hành cơng nghiệp hố, hiện đại
hố để tạo ra cơ sở vật chất kĩ thuật để chuyển dịch cơ cấu, để sử dụng có
hiệu quả các nguồn lực khan hiếm của đất nước, tạo năng suất lao động xã
hội cao, thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, bền vững. Muốn thực hiện
thành công sự nghiệp công nghiệp hố, hiện đại hố chúng ta cần phải có
giải pháp để đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.
Trước hết, cơng nghiệp hố, hiện đại hố địi hỏi nguồn vốn rất lớn
do đó chúng ta phải huy động vốn và sử dụng vốn có hiệu quả. Chúng ta có
thể huy động vốn từ trong nước hay nước ngồi. Nguồn vốn trong nước
được tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế quốc dân, muốn huy động được nguồn
vốn trong nước điều kiện cần là phải nâng cao hiệu quả sản xuất trên cơ sở
ứng dụng khoa học công nghệ, hợp lý hoá sản xuất như thế sẽ làm tăng
nhanh thu nhập của người lao động thì họ sẽ có các khoản dư để tiết kiệm.
Nhưng để có được tiết kiệm lớn thì Nhà nước và các ngân hàng phải có
những chính sách khuyến khích tiết kiệm như giảm thuế đánh vào lãi suất,
nâng lãi suất tiết kiệm, đấu tranh triệt để với nạn tham nhũng, lãng phí.
Nhưng nền kinh tế nước ta cịn nghèo nàn nên tích luỹ vốn từ nội bộ nền
19
kinh tế là hết sức khó khăn, do đó cần tận dụng mọi khả năng để thu hút
vốn đầu tư nước ngoài. Muốn thu hút được vốn đầu tư nước ngồi buộc
chúng ta phải có những chính sách ưu đãi đầu tư nước ngoài, giảm bớt
rườm rà trong thủ tục hành chính, cải thiện được mơi trường đầu tư theo
hướng giảm giá đầu vào của sản xuất thuộc độc quyền nhà nước như là
điện, viễn thông, dịch vụ cảng biển, phí cầu đường…
Về nâng cao trình độ chun mơn của đội ngũ lao động: Vấn đề
thiếu lao động có tay nghề đang là một vấn nạn chung. Để nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực đáp ứng mục tiêu phát triển và hội nhập của đất nước
thì Đảng, Nhà nước và địa phương cần phải có chiến lược đào tạo nghề,
chuẩn đội ngũ lao động có kĩ năng tay nghề, trình độ chuyên môn kĩ thuật
cao. Cần phải chuyển dần việc đào tạo nghề đơn giản sang đào tạo đội ngũ
lao động có nghề, có kĩ năng và có trình độ chun mơn kĩ thuật cao, có
khả năng thích ứng nhanh với thị trường lao động. Cụ thể là ưu tiên đào tạo
những ngành nghề mũi nhọn có tỷ trọng kinh tế cao, địi hỏi kĩ thuật, cơng
nghệ mới như ngành cơ khí, chế tác, sinh học và dịch vụ tiên tiến…Muốn
nâng cao được trình độ đội ngũ lao động thì đầu tiên cần phải phát triển
giáo dục phải tăng mức chi phí giáo dục bình qn đầu người lên (hiện nay
Việt Nam đang đứng gần cuối bảng xếp hạng của ngân hàng Deustche thấp
hơn 24 lần so với Singapo) và cũng phải đưa ra được chiến lược giáo dục
hướng tới các kĩ năng mà thị trường đang cần.
Về phát triển khoa học công nghệ: Khoa học công nghệ cũng là một
nhân tố của lực lượng sản xuất. Để phát triển kinh tế buộc phát triển mạnh
mẽ hơn nữa về khoa học công nghệ. Khoa học công nghệ sẽ đáp ứng được
yêu cầu nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, khả năng cạnh
tranh và hiệu quả kinh doanh… Phát triển khoa học cơng nghệ thì phải đi
thẳng vào công nghệ hiện đại đối với các mũi nhọn, lựa chon cơng nghệ
thích hợp, khai thác được lợi thế của lao động. Cùng với việc nhập cơng
nghệ của nước ngồi chúng ta phải khẩn trương đổi mới tổ chức, sắp xếp
20
hợp lý các viện, trung tâm, các cơ sở nghiên cứu trong cả nước. Phải dành
vốn đầu tư thích đáng cho nghiên cứu cơ bản trong các ngành khoa học,
phải phát triển khoa học công nghệ, tạo môi trường cạnh tranh, bảo hộ sở
hữu trí tuệ. Phải đổi mới chính sách đào tạo, sử dụng và đãi ngộ trí thức để
tránh chảy máu chất xám. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho mở
rộng giao lưu và hợp tác quốc tế về khoa học công nghệ, thu hút chuyên gia
giỏi của thế giới.
Về mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại: Trong xu thế tồn cầu hố
hiện nay, quan hệ kinh tế đối ngoại càng phát triển rộng rãi và có hiệu quả
bao nhiêu thì sự nghiệp cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước càng được
thuận lợi và nhanh chóng thành cơng bấy nhiêu. Trong suốt thời gian qua,
chúng ta ln tích cực tham gia vào xu thế chung của quốc tế, tích cực hội
nhập kinh tế quốc tế. Trong thời gian tới chúng ta phải tiếp tục mở rộng
quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa dạng hoá, đa phương hoá, chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp với điều kiện của nước
ta. Nhà nước phải có chính sách khuyến khích mạnh mẽ mọi thành phần
kinh tế tham gia sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ,
nâng cao được sức cạnh tranh, phát triển mạnh sản phẩm, xây dựng được
quỹ hỗ trợ xuất khẩu; đẩy mạnh các lĩnh vực thu ngoại tệ như du lịch, xuất
khẩu lao động, vận tải, thu hút kiều hối…
2. Phát triển mạnh mẽ nền kinh tế thị trường
2.1.Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần.
Để phát triển được kinh tế thị trường thì việc đầu tiên là phải phát
triển các thành phần kinh tế và thực hiện nhất quán chính sách kinh tế
nhiều thành phần. Khi đó, mọi doanh nghiệp, mọi cơng dân được đầu tư
kinh doanh theo các hình thức do pháp luật quy định và bảo vệ.
Tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế Nhà nước để thực hiện tốt vai
trò chủ đạo trong nền kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý, phân biệt quyền chủ
sở hữu và quyền kinh doanh của doanh nghiệp. Chuyển các doanh nghiệp
21
Nhà nước kinh doanh sang hoạt động theo cơ chế công ty trách nhiệm hữu
hạn, công ty cổ phần. Thực hiện chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp mà
Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn để huy động thêm vốn, tạo động
lực và cơ chế quản lý năng động, thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu
quả.Ưu tiên cho người lao động được mua cổ phần và từng bước mở rộng
bán cổ phần cho nhà đầu tư trong nước và nước ngoài.
Phát triển kinh tế tập thể với các hình thức hợp tác đa dạng, chuyển
đổi hợp tác xã cũ theo Luật hợp tác xã đạt hiệu quả thiết thực. Phát triển
hợp tác xã kinh doanh tổng hợp đa ngành hoặc chuyên ngành để kinh
doanh phù hợp quá trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố .
Kinh tế cả thể và tiểu chủ ở nông thôn và thành thị cần được Nhà
nước tạo điều kiện để phát triển Kinh tế tư bản tư nhân phải được khuyến
khích phát triển khơng hạn chế về quy mô trong những ngành, nghề mà
pháp luật khơng cấm, cần được khuyến khích hợp tác liên doanh với nhau
và liên doanh với doanh nghiệp Nhà nước để chuyển thành doanh nghiệp
cổ phần hay bán cổ phần cho người lao động.
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: Là một bộ phận của kinh tế Việt
Nam Khu vực kinh tế này ngày càng phát triển mạnh mẽ ở Việt Nam, điều
đó rất phù hợp với mong muốn của Đảng và Nhà nước nhưng bên cạnh
việc khuyến khích phát triển thì chúng ta cũng cần phải chú ý đến quyền
công dân của lao động trong các doanh nghiệp này đồng thời phải cảnh
giác những âm mưu chính trị được nguỵ trang trong việc đầu tư kinh tế ở
Việt Nam.
2.2.Giữ vững chính trị và hồn thiện hệ thống pháp luật.
Để giữ vững chính trị thì Đảng và Nhà nước phải quan tâm nhiều
hơn nữa đến đời sống hàng ngày của nhân dân, phải luôn chú ý đến những
kẻ sống lưu vong trong nước nhằm gây dựng các tổ chức chống phá cách
mạng nước ta ví dụ như tổ chức tơn giáo. Đảng phải thường xun duy trì
được khối liên minh cơng - nơng – trí thức, phải cùng với các tổ chức chính
22
trị, các đoàn thể như hội cựu chiến binh, hội phụ nữ, đoàn thanh niên, mặt
trận tổ quốc… thường xuyên tổ chức các hoạt động văn hoá nhằm tuyên
truyền về đường lối chính sách đúng đắn của Đảng, phải tạo được lòng tin
ngày càng sâu sắc của dân vào Đảng.
Nhà nước pháp quyền đòi hỏi pháp luật phải được thực hiện nghiêm
chỉnh và thống nhất: “Sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật” phải
trở thành đạo đức hàng đầu, thành nếp sống tốt đẹp của mọi người. Do đó,
để hệ thống pháp luật được hồn chỉnh hơn thì cùng với việc sửa đổi, bổ
sung các văn bản pháp luật thì chính nhân dân phải nghiêm túc chấp hành
pháp luật.
3. Hoàn thiện bộ máy Nhà nước và nâng cao hiệu quả quản lý
Nhà nước của Đảng
Muốn hoàn thiện bộ máy Nhà nước và nâng cao hiệu quả quản lý
Nhà nước thì chúng ta phải thực hiện cải cách bộ máy hành chính, phải
tăng cường khả năng kiểm kê, kiểm soát của Nhà nước, phải đổi mới pháp
chế và phải hồn thiện chính sách về thuế, tiền lương, tiền tệ, tín dụng và
ngân hàng.
Về cải cách bộ máy hành chính: Bộ máy hành chính của Nhà nước
Việt Nam cịn chứa nhiều bất cập, để phù hợp với điều kiện nền kinh tế qua
độ hiện nay buộc Nhà nước ta phải tiến hành cải cách bộ máy hành chính,
các cơ quan quản lý. Đảng và Nhà nước phải tăng cường quản lý đội ngũ
cán bộ, đảng viên. Phải chăm lo công tác đào tạo, kể cả việc đào tạo lại, bồi
dưỡng cán bộ, công chức Nhà nước theo yêu cầu, nhiệm vụ của tình hình
mới. Đảng phải lãnh đạo cơng tác quy hoạch và chiến lược phải thực hiện
tinh chế cơ quan Nhà nước để tránh cồng kềnh mà kém hiệu quả.
Đối với chính sách về lương thì phải có những chính sách đãi ngộ
hợp pháp và thoả đáng để người lao động an tâm gắn bó với cơng sở.
Chính sách tiền tệ, tài chính, ngân hàng: những chính sách này có tác
động trực tiếp đến việc huy động vốn cho đầu tư – nhân tố đầu vào quan
23
trọng của sản xuất. Do đó phải bám sát vào diễn biến của thị trường, phải
thông qua cho vay, huy động tiền gửi định ra các chính sách tiền tệ để điều
tiết giá cả và nhu cầu tiền tệ để hỗ trợ thêm vào việc tăng trưởng nhanh và
ổn định nền kinh tế. Ngân hàng Nhà nước phải tham gia xây dựng những
chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội.
4. Lĩnh vực đối ngoại
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở đa
phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là
đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hồ bình
độc lập và phát triển.
24
KẾT LUẬN
Qua cơ sở lý luận và qua thực tiễn đã nêu ở trên, có thể khẳng định
lại một lần nữa rằng con đường quá độ lên CNXH bỏ qua TBCN ở Việt
Nam là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan. Đó là sự vận
dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mac – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong tiến trình thực hiện q độ ở nước ta thì Đảng và Nhà nước đóng
một vai trò quan trọng hàng đầu, Đảng lãnh đạo và Nhà nước quản lý mọi
mặt của đời sống kinh tế, xã hội. Muốn thực hiện thành cơng nhiệm vụ của
thời kì quá độ thì Đảng và Nhà nước phải đưa đất nước phát triển theo con
đường cơng nghiệp hố, hiện đại hố có như thế chúng ta mới xây dựng
được cơ sở vật chất cho nền kinh tế quá độ mới giảm bớt khoảng cách lạc
hậu về khoa học công nghệ và kĩ thuật so với các nước tiên tiến trong khu
vực và thế giới. Trong q trình thực hiện cơng nghiệp hố, hiện đại hố
đất nước trong thời kì q độ, chúng ta đã đạt được những thành tựu quan
trọng cả về kinh tế, chính trị và xã hội. Nhưng bên cạnh đó cũng chưa tránh
khỏi những hạn chế, lúng túng trong quản lý, trong thực hiện cơ chế, chính
sách và những tiêu cực của nền kinh tế thị trường. Nhưng em hy vọng với
những giải pháp thích hợp thì những hạn chế đó sẽ sớm được khắc phục để
nước ta có những bước tiến nhanh hơn trên con đường quá độ lên CNXH.
25