Tải bản đầy đủ (.docx) (48 trang)

Tiểu luận: Phương hướng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả xã hội hóa giáo dục ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.44 KB, 48 trang )

1

MỞ ĐẦU
Nhằm huy động các nguồn lực xã hội đầu tư cho phát triển, nâng cao chất
lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo, Đảng và Nhà nước ta đã có chủ trương xã hội
hóa giáo dục, đào tạo. Chủ trương này đã được thể hiện trong Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 4 khóa VII (1993); Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 khóa
VIII (1996); Luật giáo dục (1998)... Trong đó, ngày 21-8-1997, Chính phủ đã có
Nghị quyết số 90-CP về xã hội hóa giáo dục, y tế và văn hóa. Theo Nghị quyết
này, ở nước ta phải tạo ra một phong trào học tập sâu rộng với nhiều hình thức
học tập cho mọi người trong toàn xã hội; toàn xã hội phải có trách nhiệm tham
gia vào giáo dục và đào tạo, huy động mọi lực lượng và nguồn lực tham gia vào
q trình đa dạng hóa các hình thức học tập và loại hình nhà trường; xây dựng
hệ thống giáo dục thực sự của dân, do dân, vì dân phù hợp với nhu cầu học tập
suốt đời, đáp ứng được nhu cầu của sự phát triển xã hội. Xã hội hóa giáo dục là
chủ trương chiến lược đúng đắn của Đảng và Nhà nước nhằm phát triển nền giáo
dục quốc dân phù hợp với sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta. Chủ trươngnày được tiếp tục khẳng định qua các kỳ đại
hội, đặc biệt tại Đại hội lần thứ XI, Đảng ta đã khẳng định: “Giáo dục và đào tạo
có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp
phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt
Nam. Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ
là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư phát triển. Đổi
mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo theo nhu cầu phát triển của xã hội;
nâng cao chất lượng theo yêu cầu chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ
hóa và hội nhập quốc tế, phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đẩy mạnh xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội và điều kiện cho mọi công dân
được học tập suốt đời”1. Tại Đại hội lần thứ XIII, Đảng ta tiếp tục khẳng định:
“Tiếp tục hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân, đặc biệt chú trọng giáo dục
mầm non, tiểu học, tạo tiền đề và bảo đảm điều kiện thuận lợi để mỗi người dân
1 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,


2011, tr.77.


2

có cơ hội được thụ hưởng cơng bằng thành quả của nền giáo dục. Củng cố và
nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục. Thực hiện tốt hơn phân luồng học sinh
sau trung học cơ sở. Đa dạng hoá các loại hình đào tạo. Thúc đẩy xây dựng xã
hội học tập, học tập suốt đời.”2.
Trong thời gian thực hiện xã hội hóa giáo dục, nền giáo dục ở nước ta đã
có những bước phát triển mới. Sự hưởng ứng, tham gia tích cực của mọi tầng
lớp nhân dân đã góp phần thúc đẩy mục tiêu chiến lược phát triển con người.
Mạng lưới giáo dục phát triển nhanh, chất lượng, hiệu suất đào tạo không ngừng
tăng ở tất cả các cấp học, xây dựng được nhiều mơ hình cộng đồng học tập. Tuy
nhiên, giáo dục và đào tạo ở nước ta cịn yếu kém, bất cập cả về quy mơ, cơ cấu,
cả về chất lượng và hiệu quả, chưa đáp ứng được nhu cầu của xã hội trong thời
kỳ hội nhập, thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việc thực hiện
chủ trương xã hội hóa giáo dục cịn nhiều hạn chế. Trên thực tế, xã hội hóa giáo
dục ở nhiều nơi chưa phát huy được thế mạnh vốn có của nó, ảnh hưởng lớn đến
sự phát triển của giáo dục và tạo sự chênh lệch về hưởng thụ giáo dục ngày càng
tăng. Mặt khác, cho đến nay nhận thức về xã hội hóa giáo dục chưa thật rõ ràng,
cụ thể, đơi khi cịn có sự nhầm lẫn với những khái niệm khác như: thương mại
hóa giáo dục hay thị trường hóa giáo dục, v.v.. Điều đó dẫn đến một số bất cập
hạn chế trong giáo dục như: số lượng, loại hình trường mở ra nhiều nhưng
khơng đáp ứng được yêu cầu phát triển của xã hội, công tác chỉ đạo tổ chức thực
hiện thiếu kiên quyết; một số nơi lạm thu quá mức nhưng chất lượng giáo dục
không tăng; xuất hiện hiện tượng mất công bằng trong giáo dục... Đây chính là lí
do vì sao mà tác giả đã chọn chủ đề “Phương hướng và một số giải pháp nâng
cao hiệu quả xã hội hoá giáo dục ở Việt Nam hiện nay” để nghiên cứu.


2 ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb. CTQGST, H. 2021, tr. 137.

2


3

NỘI DUNG
I. QUAN NIỆM VỀ XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC

1. Khái niệm xã hội hóa
Thuật ngữ “xã hội hóa” xuất hiện vào nhữ năm đầu của thế kỷ XX. Từ đó
đến nay, thuật ngữ này được dùng trong nhiều lĩnh vực với nhiều ý nghĩa và
được nhiều nhà khoa học trên thế giới quan tâm.
Một số học giả trên thế giới đã định nghĩa cụ thể về "xã hội hóa" như NK.
Gontscharow cho rằng "xã hội hóa" là q trình cá nhân hòa nhập vào xã hội
hay vào một trong các nhóm của họ thơng qua q trình học các chuẩn mực và
giá trị của từng nhóm và xã hội"3
Theo FW. Krow: "Q trình xã hội hóa được hiểu chung là q trình biện
chứng, trong đó mỗi người có từ cách là thành viên của xã hội trở nên có năng lực
hành động và mặt khác, thơng qua q trình này duy trì và tái sản xuất xã hội”4
Theo từ điển Nouveau Petit Larousse 1969 và Petit Larousse en Couleurs:
"Xã hội hóa là biến các tư liệu sản xuất và trao đổi thành của cơng"5
Mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng khi đề cập xã hội hóa người
ta thường nhấn mạnh ở hai khía cạnh: thứ nhất, xã hội hóa cá nhân; thứ hai, xã
hội hóa là quá trình tăng tính xã hội trong các lĩnh vực.
Ở Việt Nam, thuật ngữ "xã hội hóa" mới bắt đầu xuất hiện từ Nghị quyết
Hội nghị Trung ương 4 (khóa VII). Đến hội thứ VIII, khái niệm "xã hội chính
thức đưa vào trong văn kiện của Đảng: vấn đề sách hội đều theo hóa. vai nịng
thời động viên người dân, doanh nghiệp, các chức xã các cá và tổ chức nước

ngoài cùng tham giải quyết các đề hội. Trong Nghị quyết hội thứ IX, Đảng tiếp
tục khẳng định: Các chính sách xã được hành theo tinh trách cấp, động các
nguồn lực nhân và tham gia các đoàn thể nhân dân, tổ chức xã hội. Đến Hội nghị
thứ tám Ban Chấp hành Trung ương XI, Đảng nhấn mạnh: mạnh hội hóa,

3 Võ Tấn Quang: Xã hội hóa giáo dục, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001, tr.31.
4 Võ Tấn Quang: Xã hội hóa giáo dục, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001, tr.31.
5 Chu Văn Thành: Dịch vụ công đổi mới quản lý và tổ chức cung ứng ở Việt Nam hiện nay, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2007, tr. 46.

3


4

khuyến thành tổ chức cung dịch vụ cơng phần ngồi nhà nước, trên mức, tiêu
chuẩn, các quy và sự kiểm tra giám sát các cơ quan nhà nước nhân dân"6
Như vậy, có hiểu: Xã hội là chuyển nội dung, nhiệm vụ thuộc chính sách
nước khơng nhất thiết phải thực hiện cho người dân các chức ngoài nước thực
2. Khái niệm xã hội hóa giáo dục
Xã hội hố giáo dục là một chủ trương chiến lược về phát triển giáo dục,
chỉ đạo quá trình xây dụng và phát triển giáo dục nhằm tạo ra chuyển biến sâu
sắc, có tính “cách mạng” trong hoạt động thực tiễn giáo dục, biến hoạt động giáo
dục vốn mang tính chuyên biệt trong một lĩnh vực, một thiết chế xã hội trở thành
một hoạt động xã hội rộng lớn, sâu sắc đi vào tất cả các lĩnh vực của đời sống
vật chất, tinh thần của toàn xã hội. Trong văn kiện Hội nghị lần 2 của Đảng khố
VIII nêu rõ: Xã hội hố trong cơng tác giáo dục là huy động toàn xã hội làm
giáo dục, động viên các tầng lớp nhân dân góp sức xây dựng nền giáo dục quốc
dân dưới sự quản lý của nhà nước.
Xã hội hoá được sử dụng để chỉ sự tăng cường chú ý quan tâm, sự tham

gia rộng rãi của xã hội (các cá nhân, nhóm, tổ chức, cộng đồng...) về cả vật chất
và tinh thần vào một số hoạt động mà trước đó chỉ được một đơn vị, một bộ
phận hay một ngành chức năng nhất định thực hiện; là một phương châm hành
động của các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội, từ vi mô đến vĩ mô nhằm phát
huy nội lực, huy động cộng đồng, hay huy động vốn xã hội từ nhân dân, theo cơ
chế: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ; Nhà nước và nhân
dân cùng làm. Theo đó, nội dung của xã hội hóa giáo dục được giải thích là:
“Phát triển giáo dục là sự nghiệp của Nhà nước và tồn dân; Nhà nước giữ vai
trị chủ đạo trong phát triển sự nghiệp giáo dục; Đa dạng hóa các loại hình
trường và hình thức giáo dục; Khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để tổ
chức, cá nhân tham gia phát triển giáo dục; Mọi tổ chức, gia đình và cơng dân có
trách nhiệm chăm lo sự nghiệp giáo dục”.

6 ĐCSVN - Văn kiện Hội nghị thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb. CTQG, H.2013, tr.119.

4


5

Theo cách tiếp cận này, nhiều người cho rằng, “xã hội hóa giáo dục có
nghĩa là nhà nước phải tạo ra khơng gian xã hội, luật pháp và chính trị cho việc
hình thành một khu vực giáo dục mà ở đấy ai cũng có quyền đóng góp vì sự
nghiệp giáo dục, thực hiện sự cạnh tranh về chất lượng giáo dục, tức là giáo dục
phải thuộc về xã hội”; hay diễn đạt cách khác là: “xã hội hóa giáo dục trước hết
phải là xã hội hóa khơng gian và quyền tham gia giáo dục, quản lý nhà trường,
thiết kế chương trình và triển khai các hoạt động giáo dục của tất cả các thành
phần trong xã hội”. Đồng thời, “xã hội hóa giáo dục khơng có nghĩa là nhà nước
chuyển giao hay phó thác nhiệm vụ hiến định của mình cho các cá nhân, tổ
chức, doanh nghiệp, mà là tạo điều kiện để toàn xã hội tham gia vào giáo dục,

sao cho nó đáp ứng tốt nhất nhu cầu của mọi thành viên trong xã hội, sao cho ai
cũng được đến trường, ai cũng có điều kiện hưởng cơ hội vào đời như nhau”.
Thuật ngữ “xã hội hóa” hiện được sử dụng khá phổ biến trong sách báo ở
nước ta. Thuật ngữ này được hiểu theo hai nghĩa chính sau: Thứ nhất, “xã hội
hóa” là “biến tư liệu sản xuất và trao đổi thành của công”; thứ hai, “xã hội hóa”
là tăng cường sự tham gia rộng rãi của xã hội (các cá nhân, nhóm, tổ chức, cộng
đồng…) vào một số hoạt động mà trước đó chỉ Nhà nước thực hiện. Theo đó, xã
hội hóa khơng chỉ là sự đóng góp của người dân với tư cách là người được
hưởng dịch vụ mà là một cơ chế điều phối nguồn lực xã hội; xã hội hóa là một
hình thức phi cơng lập hóa tức là có sự tham gia của các đối tác khác bên ngoài
Nhà nước. Như vậy, trong cụm từ xã hội hóa giáo dục, từ xã hội hóa được hiểu
theo nghĩa thứ hai ở trên. Từ đó, khái niệm xã hội hóa giáo dục trong các văn
kiện của Đảng và Nhà nước có nghĩa là q trình huy động sự tham gia dưới các
hình thức khác nhau của các chủ thể và cộng đồng xã hội đối với giáo dục nhằm
nâng cao chất lượng cung ứng các dịch vụ và mở rộng đối tượng hưởng thụ, bảo
đảm cơng bằng xã hội trong đóng góp và hưởng thụ các dịch vụ giáo dục. Hiểu
khái niệm "xã hội hoá giáo dục" đầy đủ với các nội dung như sau:
Xã hội hố giáo dục là q trình động viên sức mạnh tổng hợp của toàn xã
hội đối với sự nghiệp giáo dục, làm cho giáo dục trở thành phong phú, đa dạng.
5


6

Thực chất, xã hội hoá giáo dục là huy động lực lượng của toàn xã hội
cùng tham gia vào giáo dục, tạo điều kiện để mọi người dân được thụ hưởng các
thành quả do giáo dục đem lại; huy động sự đóng góp của người dân. Đẩy mạnh
đa dạng hố các loại hình trường lớp, phát triển hệ thống trường lớp ngồi cơng
lập, tổ chức tốt việc phối hợp giữa nhà trường gia đình và xã hội. Nhà nước giữ
vai trị định hướng, tạo cơ chế, chính sách cho sự phối hợp đồng bộ giữa các lực

lượng giáo dục.
Xuất phát từ giải quyết những mâu thuẫn cơ bản trong phát triển giáo dục.
Trong đó có mâu thuẫn giữa tính xã hội của giáo dục với sự đơn độc của nhà
nước và các tính chất chuyên biệt khác. Từ tính chất hoạt động của nhà trường:
Nhà trường độc lập dễ kéo theo sự đơn độc, mâu thuẫn giữa yêu cầu và điều
kiện phát triển giáo dục. Từ yêu cầu, đòi hỏi của xã hội đối với phát triển sự
nghiệp giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài;
vấn đề phát triển trí tuệ, tình cảm, thái độ, kỹ năng, thể chất của con người;... đòi
hỏi phải tiến hành xã hội hóa giáo dục.
II. MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC

1. Cộng đồng hóa trách nhiệm đối giáo dục
Mục tiêu của xã hội hóa giáo dục là phát triển tồn diện con người về đạo
đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và kỹ năng nghề nghiệp… nhằm đáp ứng yêu cầu
phát triển kinh tế - xã hội và tiến bộ khoa học, công nghệ. Mục tiêu trên không
thể đạt được nếu mơi trường gia đình, nhà trường, xã hội khơng lành mạnh. Vì
vậy, cần sự tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp của gia đình và các lực lượng xã hội
vào việc tạo ra môi trường thuận lợi cho giáo dục, hoàn thiện nội dung và
phương pháp giáo dục, cải tiến công tác quản lý giáo dục...
Giáo dục - đào tạo phải luôn là công việc hàng đầu của Nhà nước, của mỗi
cấp ủy đảng, hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân các cấp, các đoàn thể. Các cấp
phải dồn tâm sức và nguồn lực tương xứng để phát triển xã hội; giáo dục, đào
tạo phải là vấn đề được bàn định đầu tiên, ưu tiên hàng đầu trong tất cả các
chương trình cơng tác, sự đầu tư này phải được ưu tiên từ ngân sách nhà nước
6


7

đến tất cả các nguồn lực, cả nhân lực, vật lực và tài lực, trong đó đặc biệt phải có

chính sách ưu tiên, đãi ngộ với giáo viên, với việc chăm lo cơ sở vật chất trường
học, đất đai, tạo mọi điều kiện để mới cùng dân đều được đi học nhằm thực hiện
công bằng trong giáo dục.
Cùng với Nhà nước, các thành phần kinh tế, các đoàn thể nhân dân tùy
vào khả năng của mình có thể tham gia vào việc cung ứng và hưởng thụ các dịch
vụ giáo dục góp phần mở rộng quy mơ và chất lượng giáo dục.
Các tổ chức xã hội, cùng toàn thể nhân dân có vai trị kiểm tra, giám sát,
phản biện xã hội đối với các hoạt động giáo dục. Bởi lẽ, họ chính là người cung
ứng cũng là người trực tiếp thụ hưởng giáo dục nên họ hiểu rõ những thành tựu,
hạn chế, thậm chí là những tiêu cực của giáo dục. Nhà nước cần có những cơ
chế để các lực lượng này tiếp cận được thông tin, để đạt được nguyện vọng góp
phần khắc phục những hạn chế, tiêu cực, tạo nên sự cạnh tranh bình đẳng, lành
mạnh trong các hoạt động giáo dục.
Mỗi công dân trong xã hội cần phải nhận thức được học tập vừa là quyền
lợi, vừa là trách nhiệm, nghĩa vụ của mình đối với xã hội, cần tự tạo cho mình
khả năng tự học, tự học suốt đời, có động cơ học tập là nội lực quan trọng. Mỗi
người lấy học tập làm phương pháp tiếp cận, là một phần không thể thiếu của
cuộc sống nhằm phát triển con người bên vững - động lực cho sự tiến bộ của xã
hội.
2. Huy động, khai thác các nguồn lực xã hội tham gia và hoạt động
giáo dục
Xã hội hóa hoạt động giáo dục là huy động và khai thác các nguồn lực xã
hội để đa dạng hóa các hình thức cung ứng dịch vụ giáo dục, đào tạo; vận động
tồn dân quan tâm chăm sóc thế hệ trẻ, tạo môi trường giáo dục lành mạnh, tự
giác rèn luyện thân thể, phịng chống dịch bệnh, giữ gìn vệ sinh, bảo vệ môi
trường..., vừa tạo điều kiện để mở rộng đối tượng thụ hưởng dịch vụ giáo dục,
đặc biệt là các đối tượng chính sách, người nghèo, vừa góp phần đảm bảo cơng
bằng xã hội trong đóng góp và thụ hưởng các dịch vụ giáo dục, đào tạo.
7



8

Dưới góc độ khai thác, phát huy nguồn lực, xã hội hoá các hoạt động giáo
dục là nhằm khơi dậy và huy động các tiềm năng về nhân lực, vật lực, tài lực
trong xã hội, xây dựng cộng đồng trách nhiệm trong việc đóng góp và chi trả
cho các dịch vụ giáo dục; tạo lập các quỹ khuyến học, quỹ trợ giúp học phí cho
học sinh, sinh viên, người thất nghiệp, người nghèo...; khai thác có hiệu quả
nguồn lực của các đối tác nước ngồi, tổ chức quốc tế...
Dưới góc độ của người thụ hưởng dịch vụ, xã hội hóa hoạt động giáo dục
phải tạo điều kiện để cho họ được tham gia vào việc quản lý các hoạt động giáo
dục cũng như xây dựng cơ chế, chính sách, giám sát việc cung ứng và lựa chọn
dịch vụ giáo dục nhằm tạo ra nguồn lực có chất lượng cao về trí tuệ, kỹ năng và
sức khỏe đáp ứng yêu cầu của xã hội.
Dưới góc độ của người trực tiếp cung ứng dịch vụ, đội ngũ viên chức giáo
dục, đào tạo được đảm bảo quyền tự do trong hoạt động nghề nghiệp theo quy
định của pháp luật; được phát huy mọi khả năng sáng tạo nhằm đa dạng hóa các
hình thức cung ứng dịch vụ như cơng lập, ngồi cơng lập, chính quy, khơng
chính quy, bổ túc, tại chức, từ xa... (đối với giáo dục, đào tạo); nhà nước, tập thể,
dân lập, tư nhân..., góp phần thỏa mãn nhu cầu đa dạng, phong phú và ngày càng
cao của các tầng lớp nhân dân.
3. Tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước trong giáo dục
Xã hội hoá hoạt động giáo dục đồng thời tăng cường vai trò của Nhà nước
trong việc đảm bảo tổ chức và cung ứng các dịch vụ giáo dục nhằm nâng cao
hiệu quả và chất lượng phục vụ người dân tốt hơn. Đẩy mạnh xã hội hóa các
hoạt động giáo dục là một phương thức phát triển sự nghiệp giáo dục của Đảng
và Nhà nước ta trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, xây dựng, hoàn
thiện nhà nước pháp quyền xã hội hội chủ nghĩa, chứ khơng đơn thuần là tăng
đóng góp của dân để giảm bớt gánh nặng ngân sách của Nhà nước hoặc hạn chế
vai trò của Nhà nước.

Xuất phát từ vai trò và đặc điểm của các dịch vụ giáo dục Nhà nước
không chỉ chịu trách nhiệm ban hành các cơ chế, chính sách và quy định những
8


9

tiêu chuẩn, định mức, chất lượng, giá, phí... dịch vụ giáo dục mà phải đảm bảo
việc cung ứng các dịch vụ giáo dục cơ bản như giáo dục phổ cập đáp ứng nhu
cầu cơ bản, thiết yếu của xã hội. Do đó, xã hội hóa giáo dục địi hỏi vừa khai
thác, phát huy, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội, đồng thời tiếp tục tăng
thêm và sử dụng có hiệu quả ngân sách Nhà nước đầu tư cho lĩnh vực giáo dục;
tăng cường trách nhiệm thanh tra, kiểm tra của các cơ quan nhà nước nhằm khắc
phục những hạn chế, yếu kém, tiêu cực của giáo dục, góp phần nâng cao chất
lượng dịch vụ giáo dục đáp ứng tốt hơn nhu cầu của các tầng lớp nhân dân.
4. Đổi mới cơ chế, chính sách quản lý giáo dục tạo
đẩy mạnh và phát triển xã hội hóa giáo dục phải gắn liền với đổi mới cơ
chế, chính sách quản lý giáo dục tạo được một không gian xã hội, luật pháp và
chính trị lành mạnh để phát triển các dịch vụ giáo dục.

Xây dựng và hoàn

thiện khung pháp lý cho việc tổ chức thực hiện chủ trương xã hội hoá giáo dục.
Đổi mới mục tiêu, phương thức, cơ cấu và nguồn vốn đầu tư của Nhà nước theo
hướng tập trung cho các mục tiêu ưu tiên, các chương trình quốc gia; hỗ trợ các
vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người; ưu đãi các đối tượng chính
sách và trợ giúp người nghèo trên cơ sở đổi mới chế độ miễn, giảm phí theo
hướng cơng khai, hợp lý và cấp trực tiếp cho đối tượng thụ hưởng.
Chuyển mạnh các cơ sở giáo dục công lập đang hoạt động theo cơ chế sự
nghiệp mang nặng tính hành chính bao cấp sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách

nhiệm; chuyển một số cơ sở cung ứng dịch vụ cơng lập sang loại hình đơn vị tự
trang trải hoặc tư thục; khuyến khích các tổ chức, cá nhân góp vốn đầu tư phát
triển các cơ sở dịch vụ giáo dục; tạo điều kiện cho các cơ sở giáo dục ngồi cơng
lập được thành lập, phát triển cả về quy mô và chất lượng. Xây dựng cơ chế để
người thụ hưởng dịch vụ được lựa chọn cơ sở dịch vụ, khơng phân biệt cơng lập
hay ngồi cơng lập nhằm tạo mơi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các loại
hình cơ sở cung ứng dịch vụ. Xác định hệ thống tiêu chuẩn, định mức chất
lượng, khung giá, phí... của các loại dịch vụ. Rà soát các định mức kinh tế kỹ
thuật để nghiên cứu sửa đổi bổ sung một số tiêu chuẩn, định mức lĩnh vực sự
9


10

nghiệp giáo dục làm căn cứ cho các đơn vị sự nghiệp thực hiện quyền tự chủ, tự
chịu trách nhiệm. Tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra của các cơ quan nhà
nước, xử lý kịp thời và nghiêm minh các trường hợp vi phạm nhằm đảm bảo số
lượng, chất lượng các dịch vụ giáo dục cung cấp cho người dân. Nghiên cứu ban
hành Quy chế giám sát và phản biện xã hội tạo điều kiện phát huy vai trò của
các đoàn thể, tổ chức quần chúng, đặc biệt là các hội nghề nghiệp trong việc
tham gia tư vấn, phản biện, giám định xã hội... các chủ trương chính sách pháp
luật liên quan đến phát triển giáo dục của đất nước. Đồng thời, khuyến khích
người dân và các tổ chức xã hội tham gia giám sát các hoạt động chuyên môn,
nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ giáo dục.
Tạo ra phong trào học tập sâu rộng trong toàn xã hội theo nhiều hình thức,
làm cho xã hội ta trở thành xã hội học tập.
Vận động tồn dân chăm sóc thế hệ trẻ, nâng cao ý thức trách nhiệm của
cáctổ chức cá nhân đối với sự nghiệp giáo dục tạo ra môi trường giáo dụclành
mạnh, phối hợp chặt chẽ giữa giáo dục trong nhà trường với giáo dục gia đình
và giáo dục ngồi xã hội.

Khai thác có hiệu quả các nguồn lực của xã hội cho giáo dục; tranh thủ sự
hỗ trợ, giúp đỡ của các tổ chức quốc tế, của nước ngồi để phát triển giáo dục.
Đa dạng hố các loại hình thức hoạt động giáo dục, khuyến khích các loại
hình thức hoạt động giáo dục, khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để phát
triển các trường ngồi cơng lập trên cơ sở đảm bảo vai trò nòng cốt của các
trường cơng lập.
III. THỰC TRẠNG XÃ HỘI HĨA GIÁO DỤC Ở VIỆT NAM

1. Một số thành tựu trong công tác xã hội hóa giáo dục
Trải qua nhiều giai đoạn, xã hội hóa giáo dục ở nước ta đã đạt được một
số thành tựu, biểu hiện ở các lĩnh vực sau đây:
a) Nhận thức về xã hội hóa giáo dục của các cấp, ngành, của tồn bộ xã
hội đã có những chuyển biến tích cực

10


11

Cùng với sự phát triển của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự
quản lý của Nhà nước, nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền, nhân dân về
giáo dục đã có những chuyển biến rõ nét, ngày càng thấy rõ vị trí và vai trị của
giáo dục. Phần lớn mọi người dân nhận thức được muốn phát triển giáo dục
khơng có cách nào khác ngồi huy động mọi nguồn lực trong xã hội tham gia
vào giáo dục. Trong cơng tác xã hội hóa giáo dục đã có những thay đổi về mặt
nhận thức như sau:
Một là, nếu như trước đây, một bộ phận không nhỏ trong xã hội cho rằng:
xã hội hóa giáo dục là một giải pháp tình thế tạm thời khi ngân sách nhà nước
cịn eo hẹp thì hiện nay hầu hết các cấp ủy đảng, chính quyền, các lực lượng xã
hội và nhân dân đều khẳng định xã hội hóa giáo dục là chủ trương lớn của Đảng

và Nhà nước để góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân
tài. Đây là một chủ trương đúng đắn, cần thiết và là một chiến lược lâu dài nhằm
tạo điều kiện, cơ hội cho con em các tầng lớp nhân dân được tham gia vào giáo
dục một cách dân chủ, cơng bằng và bình đẳng; đồng thời phần lớn các lực
lượng xã hội cũng đã nhận thức sâu sắc về trách nhiệm và nghĩa vụ của mình đối
với sự nghiệp giáo dục.
Hai là, các cấp ủy đảng, chính quyền đã thấy rõ được trách nhiệm của
mình trong việc lãnh đạo, tập hợp các ngành, các lực lượng xã hội tham gia vào
sự nghiệp giáo dục. Đảng lãnh đạo công tác giáo dục qua việc bạc, ra quyết định
về công tác giáo dục, trong đó định phương hướng, chủ trương, giải pháp lớn để
thực hiện mục tiêu. Trước khi đảng bộ hoặc đảng ủy ra nghỉ quyết về giáo dục,
ban tuyên giáo và ngành giáo dục phải chuẩn bị báo cáo và dự thảo nghị quyết.
Sau khi cấp ủy đảng nhất trí và ban hành nghị quyết, ra chỉ thị về công tác giáo
dục, các cơ quan chức năng như Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, kiểm sát,
tòa án, thanh tra... sẽ chủ động bàn bạc và triển khai lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện
nghị quyết theo chức năng nhiệm vụ và quyền hạn của mình. Ở địa phương, các
mục tiêu giáo dục đã được đưa vào nghị quyết của các cấp ủy đảng, hội đồng
nhân dân, ủy ban nhân dân, coi đó là mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của địa
11


12

phương Trong những năm gần đây, việc xuất hiện nhiều loại hình trường, lớp, cơ
sở đào tạo khác nhau dưới sự quản lý của ủy ban nhân dân các cấp đã phát huy
được lợi thế của từng địa phương. Các cấp ủy đảng, chính quyền đã có sự quan
tâm thiết thực đến giáo dục trong việc cải tạo, xây dựng trường, lớp, có chính
sách ưu đãi đối với giáo viên, phối hợp các lực lượng trong xã hội cùng chung
tay xây dựng nền giáo dục. Trong xã hội khơng cịn tồn tại tư duy giáo dục là
trách nhiệm của riêng ngành giáo dục. Chính vì vậy, đã góp phần nâng cao chất

lượng giáo dục, đáp ứng nhu cầu thực tiễn của mỗi địa phương, tạo nên tính
đồng thuận cao trong nhân dân cả nước.
Mặt khác, các cấp chính quyền nhận thức rõ vai trị của mình trong việc
tập hợp, tổ chức các lực lượng để xây dựng kế hoạch phát triển giáo dục, bảo
đảm triển khai đạt hiệu quả cao các chương trình giáo dục như: tiến hành đại hội
giáo dục; thành lập hội đồng giáo dục các cấp; huy động thành lập các quỹ của
cộng đồng hỗ trợ giáo dục: quỹ học bổng, quỹ khuyến học, quỹ giúp học sinh
nghèo vượt khó, quỹ tình thương...
Ba là, đối với các lực lượng xã hội và nhân dân đã có sự chuyển biến rõ
ràng trong nhận thức. Mặc dù nhân dân ta vốn có truyền thống hiếu học, nhưng
đã có giai đoạn - đặc biệt là giai đoạn đầu khi nước ta mới chuyển sang nền kinh
tế thị trường, nhiều người xem thường học tập, cho rằng "nhiều chữ không bằng
nhiều tiền", "văn hay chữ tốt, không bằng học dốt lắm tiền"... Bởi vậy, nhiều gia
đình khơng cho con em đi học, ở nhà để lao động, sản xuất. Hiện nay, đại bộ
phận xã hội đã ý thức rõ vai trò, trách nhiệm, quyền lợi của mình trong việc tạo
lập một môi trường giáo dục lành mạnh, tạo điều kiện tốt nhất cho con em mình
tham gia vào quá trình học tập nhằm xây dựng, phát triển nền giáo dục quốc
dân.
Chính từ sự chuyển biến tích cực trong nhận thức của đại bộ phận nhân
dân trong xã hội đã góp phần thực hiện thành cơng xã hội hóa giáo dục trong
thời gian qua.

12


13

b) Xây dựng được một nền giáo dục quốc dân thống nhất, đa dạng, linh
hoạt từ cấp học mầm non đến giáo dục sau đại học
Những năm đầu thời kỳ đổi mới, nước ta chuyển từ nền kinh tế tập trung,

bao cấp sang nền kinh tế thị trường, do tác động của khủng hoảng kinh tế, quy
mô giáo dục ở nước ta đã có sự giảm sút đáng kể. Trong giai đoạn 1986 - 1992,
ngoại trừ tiểu học và giáo dục cao đẳng, đại học có tăng (khơng đáng kể), cịn lại
tất cả các cấp học và trình độ khác đều có sự giảm sút về số lượng học sinh. Số
lượng học sinh năm học 1992 - 1993 so với năm học 1986 - 1987: mầm non
giảm 29,9%; trung học cơ sở giảm 38,3%; giáo dục nghề giảm 23%. Có thể nói
sự phát triển của kinh tế có ảnh hưởng và quyết định to lớn đến toàn bộ đời sống
xã hội, trong đó khơng thể khơng nói đến giáo dục, nhưng khi giáo dục phát
triển, nó sẽ là nhân tố tác động mạnh mẽ góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát
triển. Trước bối cảnh đó, Đảng và Nhà nước ta đã có những chủ trương lớn
nhằm phát triển nền giáo dục đất nước.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa VII) năm 1993 và Nghị quyết
Hội nghị Trung ương 2 (khóa VIII) năm 1996, đặc biệt khi Nghị quyết số 90/CP,
ngày 21-8 1997 và Nghị định số 73/1999/NĐ-CP được ban hành, là hành lang
pháp lý tạo điều kiện thực hiện xã hội hóa giáo dục. Từ đó đến nay, xã hội hóa
giáo dục đã được triển khai rộng khắp trên phạm vi cả nước và đạt được những
thành tựu nhất định. Hệ thống giáo dục quốc dân ngày càng phát triển về mọi
mặt, trong đó đã xây dựng được một nền giáo dục thống nhất, đa dạng, linh hoạt
từ cấp học mầm non đến giáo dục sau đại học. Theo thống kê, tính đến hết năm
học 2014 – 2015, tổng số các cơ sở giáo dục của tồn ngành là 43.874 trường,
trong đó có 41 248 trường cơng lập (chiếm 94%), 2.626 trường ngồi cơng lập
(chiếm 6%); về số lượng học sinh, sinh viên cả nước có 20.889.029 em, trong đó
các trường ngồi cơng lập có 1.323.797 học sinh, sinh viên (chiếm 6,4%). Tại
các tỉnh vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, vùng khó khăn, được sự quan
tâm của các cấp chính quyền, các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp, các tổ chức
quốc tế nên số người đi học ngày càng tăng.
13


14


c) Đa dạng hóa các nguồn đầu tư tài chính cho sự phát triển giáo dục
Nguồn tài chính là một trong những nhân tố hết sức quan trọng trong quá
trình phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo. Nếu khơng có nguồn tài chính dồi
dào thì các chủ trương, chính sách để phát triển giáo dục - đào tạo sẽ khó có thể
triển khai một cách hiệu quả. Vì vậy, trong những năm thực hiện xã hội hóa giáo
dục, chúng ta đã rất chú trọng đến việc thu hút nguồn đầu tư cho lĩnh vực này và
bước đầu đã đạt được những kết quả quan trọng nhất là huy động các nguồn lực
đầu tư xây dựng cơ sở vật chất trường học, mở trưởng và đóng góp kinh phí cho
giáo dục. Các nguồn đầu tư cho giáo dục ngày càng được kiểm soát chặt chẽ và
tăng dần hiệu quả sử dụng.
Cơng tác xã hội hóa giáo dục đã đạt được những kết qua quan trọng, nhất
là huy động các nguồn lực để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất trường học, mở
trường và đóng góp kinh phí cho giáo dục. Các nguồn đầu tư cho giáo dục ngày
càng được kiểm soát chặt chẽ và tặng dần hiệu quả sử dụng đã góp phần nâng
cao chất lượng nên giáo dục Việt Nam.
d) Sự tham gia của các tổ chức chính trị - xã hội, đồn thể và cá nhân
trong việc phát triển sự nghiệp giáo dục ngày càng tích cực
Thực hiện xã hội hóa giáo dục đã huy động được toàn bộ lực lượng xã hội
tham gia vào sự nghiệp phát triển giáo dục. Các tổ chức chính trị - xã hội như
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ
nữ Việt Nam, Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa
học Kỹ thuật Việt Nam, Hội Luật gia Việt Nam, Hội cựu giáo chức, Hiệp hội các
trường đại học, cao đẳng ngồi cơng lập, Hội cha mẹ học sinh, Hội khuyến học...
có nhiều hình thức và biện pháp đẩy mạnh cơng tác xã hội hóa giáo dục:
Thường xuyên tổ chức các lớp bổ túc văn hóa nhằm thực hiện xóa mù, phổ
cập giáo dục tiểu học, trung học Cơ sở và mở các lớp đào tạo nghề nhằm nâng
cao trình độ kỹ năng tay nghề cho cán bộ các cấp, hội viên và người lao động.
Để nâng cao trình độ học vấn, kỹ năng tay nghề cho người lao động nhằm
đáp ứng yêu cầu của đất nước trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa

14


15

Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã ban hành nhiều nghị quyết, cụ thể như:
Nghị quyết số 46/NQ BCH, ngày 6-1-2005 của Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn
Lao động Việt Nam (khóa IX) về "Cơng đồn với nhiệm vụ nâng cao trình độ
học vấn, nghề nghiệp của cơng nhân, viên chức, lao động đáp ứng yêu cầu
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", Nghị quyết liên tịch số 02,
ngày 27-7-2005 giữa Tổng Liên đoàn Lao động với Bộ Giáo dục và Đào tạo về
"phổi hợp nâng cao trình độ học vấn, kỹ năng nghề nghiệp trong cơng nhân lao
động giai đoạn 2005 - 2010" Chương trình phối hợp số 249, ngày 12-2-2007
giữa Tổng Liên đoàn Lao động với Bộ Giáo dục và Đào tạo để nâng cao trình độ
học vấn và tay nghề cho cơng nhân lao động ở khu vực ngoài quốc doanh và
vùng sâu, vùng xa. Ngoài ra liên đoàn lao động tỉnh, thành phố thường xuyên
phối hợp với trung tâm giáo dục thường xuyên để mở lớp bổ túc văn hóa cho
cơng nhân tới học, ngay cả một số cơng ty có 100% vốn đầu tư nước ngồi cũng
tạo điều kiện cho cơng nhân đi học như: hưởng nguyên lương, cấp sách vở và
không phải làm bù trong thời gian đi học.
Hội Nông dân Việt Nam cũng đã kết hợp với một số ngành tổ chức mở
lớp học: xóa mù chữ cho nơng dân, lớp chuyên đề về khoa học kỹ thuật và dạy
nghề, lớp tập huấn đề nâng cao kiến về học thuật cho cán bộ cấp hội làm công
tác vận động nông dân gia tập. Kết quả, hằng năm có khoảng 4.000.000 học
chuyên đề khoa học kỹ thuật.
Ngoài ra, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam cũng tích cực phối hợp với các
bộ, ngành tổ chức mở lớp xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học và trung học
cơ sở, mở lớp chuyên đề về giới, sức khỏe sinh sản, dinh dưỡng tại các trung
tâm học tập cộng đồng nhằm đáp ứng nhu cầu học tập thường xuyên của phụ nữ.
Đặc biệt Trung ương Hội cịn có Trường Cán bộ Phụ nữ Trung ương để làm

nhiệm vụ bồi dưỡng và đào tạo cán bộ cho phong trào phụ nữ.
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đã tổ chức nhiều hình thức đào
tạo, bồi dưỡng cho cán bộ đoàn và thanh niên thơng qua những hình thức tổ
chức: Học viện thanh, thiếu niên, Trung tâm giới thiệu và giải quyết việc làm,
15


16

Trung tâm hoạt động thanh, thiếu nhi, Lớp học tình thương, Lớp tập huấn, Lớp
chuyển giao công nghệ, ứng dụng khoa học, kỹ thuật, các lớp xóa mù chữ. Đồn
Thanh niên đã góp phần huy động thể hệ trẻ, biệt sinh viên tham gia vào sự
nghiệp phát triển giáo dục nước bằng những hành động thiết thực như chức vui
chơi, dạy nhạc, vẽ, một môn thuật, dạy ngoại ngữ, học hoặc nghiệp cho thanh
niên; nâng cao trình những thanh niên cơng nhân, các cán bộ trẻ tuổi; xóa mù chị
cho đối tượng lao động nghèo.
Các doanh nghiệp cũng đã có sự chia sẻ việc đào tạo kỹ thuật với ngành
giáo dục và ngành lao động. Trong những năm gần đây, một số doanh nghiệp
lớn đã tổ chức các hình thức học tập như: trường dạy nghề; mà các lớp ôn lý
thuyết, luyện tay nghề, thi thợ giỏi; kèm cặp thợ trẻ; liên kết đào tạo; mở các lớp
tập huấn ngắn ngày; các lớp dạy văn hóa cho cơng nhân; hội thì than diễn kỹ
thuật, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật Những hoạt động này đã góp phần
nâng cao tay nghề nâng cao trình độ cho cán bộ, nhân viên và công nhân, đạt
hiệu quả, năng suất cao trong sản xuất.
Tham gia biên soạn và đóng góp ý kiến xây dựng giáo trình, xây dựng các
văn bản quy phạm pháp luật như Luật giáo dục, Luật dạy nghề phát động nhiều
phong trào, cuộc vận động lớn nhằm huy động sự tham gia của toàn xã hội vào
việc phát triển giáo dục, đào tạo.
Ngồi ra, các tổ chức cịn thành lập các quỹ khuyến học, vận động các tổ
chức, cá nhân góp quỹ bằng tiền; phát động phong trào hiến đất xây dựng

trường, lớp một cách hiệu quả. Trong công tác này phải đặc biệt kể đến vai trò
của Hội khuyến học. Hội đã phối hợp với các lực lượng xã hội để xây dựng
phong trào học tập, xây dựng gia đình hiếu học, dịng học khuyến học, tổ dân
phố khuyến học, nhà trường khuyến học, nhà chùa khuyến học, xứ khuyến học.
Với việc hỗ trợ và khuyến khích dạy và học trong nhà trường thông qua các loại
quỹ khuyến học, khuyến tài, hơn 10.000.000 học sinh, sinh viên nghèo được hỗ
trợ kịp thời về học bổng, hàng vạn thanh niên học giỏi được nhận giải thưởng,
hàng vạn thầy, cô giáo có hồn cảnh khó khăn được trợ giúp. Hội Khuyến học
16


17

Việt Nam đã trở thành một nhân tố động lực trong sự nghiệp xây dựng xã hội
học tập, hội viên và các tổ chức cơ sở của Hội hoạt động trên khắp các vùng,
miền. Đó là lực lượng quan trọng làm nòng cốt cho các cuộc vận động nhân dân
tham gia học, các phong trào khuyến học, khuyến tài. Hiện nay, mạng lưới hội
khuyến học đang phát triển mạnh, có vai trị cùng xây dựng mơi trường giáo dục
lành mạnh, chăm sóc đội ngũ giáo viên, học sinh, sinh viên... và cùng đầu tư cho
giáo dục với tiêu chí giáo dục là sự nghiệp của toàn dân.
2. Một số hạn chế trong việc thực hiện xã hội hóa giáo dục, đào tạo
Sau gần 20 năm thực hiện xã hội hóa giáo dục, công tác này đã đạt được
những thành tựu đáng kể, song bên cạnh đó vẫn cịn tồn tại nhiều hạn chế cơ bản
như Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã khẳng định:
“Xã hội hóa cịn chậm và gặp nhiều khó khăn, chưa thu hút được nhiều nguồn
lực ngoài nhà nước cho phát triển giáo dục, đào tạo. Cơ sở vật chất vẫn còn
thiếu và lạc hậu. Chất lượng dạy và học ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu
số còn thấp. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý chưa đáp ứng yêu cầu” 7 Những
hạn chế đó được biểu hiện cụ thể trên những khía cạnh sau:
a) Nhận thức về xã hội hóa giáo dục chưa thật đầy đủ, đúng đắn của một

số cấp ủy, chính quyền địa phương, cán bộ quản lý ngành giáo dục - đào tạo và
người dân
Trong quá trình thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng về xã hội hóa
giáo dục, các cấp ủy đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội, các tầng
lớp nhân dân đã nhận thức ngày càng rõ hơn, đúng đắn hơn về bản chất, nội
dung lẫn mục tiêu của chủ trương này. Song bên cạnh đó, ở một số nơi khơng
chỉ ở cấp địa phương mà có lẽ một số bộ phận ở cấp bộ cũng chưa hiểu thật sự
đầy đủ về xã hội hóa giáo dục, hậu quả là cho “bung ra” một loạt các trường, các
cơ sở giáo dục và khơng kiểm sốt được.
Nhiều nơi, nhiều người, thậm chí khơng ít cán bộ quản lý cho rằng xã hội
hóa giáo dục - đào tạo đơn thuần chỉ là xây dựng phong trào vận động nhân dân,
7 ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr 249.

17


18

các tổ chức, đoàn thể kinh tế - xã hội đóng góp tiền của để xây dựng trường sở,
mua sắm trang thiết bị, nâng cấp cơ sở vật chất cho trường học với phương châm
Nhà nước và nhân dân cùng làm trong lúc ngân sách nhà nước còn eo hẹp. Từ
cách hiểu này, dẫn đến một số nơi tự ý đặt ra các khoản thu không đúng với quy
định của Nhà nước, nhiều khoản thu vượt quá khả năng của nhân dân gây bức xúc
trong dư luận xã hội. Mặt khác, sự buông lỏng trong quản lý đã làm nảy sinh
những hiện tượng "thương mại hóa" khơng lành mạnh trong giáo dục, dạy thêm,
học thêm tràn lan. Cũng vì thế mà phần nào nhân dân khơng cịn tích cực hưởng
ứng chủ trương này. Nguyên nhân căn bản ở đây là khơng nhận thức đúng mục
tiêu của xã hội hóa giáo dục là sẽ "mở cửa" nhà trường với xã hội bên ngoài, tạo
điều kiện xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa nhà trường với nhân dân, làm cho
nhân dân có thể thực hiện tốt quyền làm chủ của mình đối với giáo dục, khơng

những góp phần xây dựng nhà trường mà còn giám sát, kiểm tra nhà trường trong
việc thực hiện các mục tiêu giáo dục (Luật giáo dục năm 2005). Thực chất, xã hội
hóa giáo dục là một chủ trương tạo ra sự thay đổi về cơ bản cơ chế quản lý, vận
hành và tổ chức hoạt động giáo dục theo hướng dân chủ hóa, đa dạng hóa, phù
hợp với cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy nội lực
tiềm tàng của xã hội, khơi dậy tính chủ động, tích cực, năng động, sáng tạo của
mọi tầng lớp nhân dân, tạo ra nguồn lực phong phú cả về nhân tài, vật lực; thực
hiện công bằng trong giáo dục, từng bước không ngừng nâng cao mức hưởng thụ
về giáo dục của mỗi người dân, hình thành trong nhân dân ý thức học tập thường
xuyên, học tập suốt đời, tiến tới xây dựng một xã hội học tập.
Một số người không nhận thức được việc huy động lực lượng toàn xã hội
vào xã hội hóa giáo dục sẽ hỗ trợ cho cơng tác điều hành, chỉ đạo, quản lý của
Nhà nước chứ không phải là sự làm thay cho chính quyền. Do đó, cịn tồn tại
một số nơi, các cấp chính quyền có tư tưởng "khốn trắng" cơng tác giáo dục
cho trường học, khơng quan tâm đến chỉ đạo xã hội hóa cơng tác giáo dục.
Ngoài ra, một số ngành hữu quan nhận thức cũng chưa thật sự đầy đủ,
chưa quan tâm tạo điều kiện để các trường ngồi cơng lập phát triển như các
18


19

trường công lập về cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên, chương trình, giáo trình
bảo đảm chất lượng đầu vào và đầu ra của các trường này. Chính vì vậy, bên
cạnh một số ít trường ngồi cơng lập có chất lượng thì hiện nay có rất nhiều
trường ngồi cơng lập (đặc biệt là ở giáo dục đại học) không bảo đảm về chất
lượng đào tạo. Bởi vậy, dư luận xã hội cũng chưa thật sự tin tưởng, vẫn còn tâm
lý phân biệt giữa trưởng ngồi cơng lập và trường cơng lập. Nhiều cơ quan, xí
nghiệp khơng tuyển sinh viên tốt nghiệp các trường đại học dân lập mà chỉ tuyển
sinh viên tốt nghiệp hệ chính quy ở các trường đại học, cao đẳng công lập. Cụ

thế, một số địa phương như Đà Nẵng, Nam Định đã từng "nói khơng" với sinh
viên tốt nghiệp các trường ngồi cơng lập.
Một số người lại quá nhấn mạnh đến việc đa dạng hóa các hình thức giáo
dục, đặc biệt họ cho rằng, xã hội hóa giáo dục là phát triển các loại trường ngồi
cơng lập. Vẫn biết rằng đa dạng hóa giáo dục là phương thức quan trọng để thực
hiện xã hội hóa giáo dục, tạo điều kiện để các tổ chức, cá nhân có thể tham gia
phát triển giáo dục dưới sự quản lý thống nhất của Nhà nước, nhưng nếu quá
nhấn mạnh một chiều đa dạng hóa các loại hình giáo dục trong khi công tác
quản lý, quy hoạch chưa phù hợp, sẽ dẫn đến tình trạng một số cơ sở loại hình
và hình thức giáo dục mới mở ra chưa đáp ứng được yêu cầu, mang tính tự phát,
phân tán ảnh hưởng đến chất lượng chung của giáo dục.
Khơng ít người chưa nhận thấy hết được tầm quan trọng của sự phối hợp
liên ngành để phát huy tính tích cực tham gia của các tổ chức xã hội, của quần
chúng nhân dân trong quá trình phát triển nền giáo dục nước nhà. Trong đó việc
thực hiện dân chủ hóa như một điều kiện tiên quyết để bảo đảm quá trình thực
hiện xã hội hóa giáo dục một cách hiệu quả. Chính vì vậy, hoạt động của một số
ngành có xu hướng khép kín, biệt lập, nhất là trong việc triển khai các chương
trình, dự án, dẫn đến chồng chéo, lãng phí nguồn lực. Nhiều tổ chức chính trị xã hội ở các địa phương chưa tích cực tham gia vào hoạt động giáo dục - đào tạo
theo chức năng của mình; việc phát huy dân chủ trong thực hiện xã hội hóa
nhiều nơi thực hiện chưa tốt.
19


20

Cũng có một số nơi, nhận thức về chủ trương xã hội hóa một cách máy
móc khơng tính đến đặc điểm riêng của từng địa phương như: điều kiện kinh tế,
đặc điểm dân tộc, dân cư, trình độ dân trí, nên việc chỉ đạo triển khai xã hội hóa
giáo dục ở một số vùng kinh tế kém phát triển không mang lại hiệu quả.
Tóm lại, hiện nay trong xã hội vẫn cịn một bộ phận khơng nhỏ người dân,

ngay cả một bộ phận của cấp ủy đảng địa phương, cấp chính quyền, các cơ quan,
đơn vị vẫn cịn nhận thức chưa hồn tồn đúng chủ trương chính sách của Đảng
về xã hội hóa giáo dục. Họ chưa nhận thức đầy đủ về bản chất, mục tiêu và nội
dung cơ bản của xã hội hóa giáo dục, chủ yếu mới thấy được xã hội hóa giáo dục
như một hình thức đa dạng hóa các nguồn đầu tư, khai thác nguồn nhân lực, vật
lực của xã hội và nhân dân vào hoạt động giáo dục; đa dạng hóa các hình thức
giáo dục. Chính vì vậy, khi thực hiện xã hội hóa giáo dục ở một số địa phương đã
không bao quát hết được nội dung của chủ trương xã hội hóa dẫn đến không đạt
hiệu quả cao và không xây dựng được môi trường phát triển giáo dục bền vững.
b) Một số cơ chế, chính sách chưa thực sự cụ thể thống nhất trong cơng
tác xã hội hóa giáo dục
Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách cụ thể về xã hội
hóa giáo dục, khuyến khích các lớp nhân dân, các tổ chức xã hội trong và ngoài
nước tham gia vào sự nghiệp giáo dục như về chính tang sách sử dụng đất đai,
thuế, phí và lệ phí, về tín dụng. về chế độ, chính sách, về chính sách huy động
nguồn văn..., bước đầu đã thu hút được sự tham gia của các lực lượng xã hội.
Tuy nhiên, vẫn có những chế độ, chính sách về xã hội hóa giáo dục chưa đồng
bộ, thống nhất, nhiều văn bản quy phạm chậm được các bộ, ngành, địa phương
hướng dẫn, phổ biến đã gây nhiều lúng túng, bất cập trong quá trình tổ chức,
thực hiện. Ví dụ, chính sách về sử dụng đất đai cho các trường ngồi cơng lập
như: Nghị định số 69/NĐ-CP ngày 30-5-2008 của Chính phủ về chính sách
khuyến khích xã hội hóa đổi với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy
nghề, y tế, văn hóa, thể thao, mơi trường quy định: Nhà nước có nhiệm vụ giao
đất, cho th đất đã hồn thành giải phóng mặt bằng đối với cơ sở thực hiện xã
20


21

hội hóa phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; có chính sách hỗ trợ kinh

phí bồi thường, giải phóng mặt bằng đối với các dự án đầu tư trong lĩnh vực xã
hội hóa đã tự thực hiện cơng tác đền bù, giải phóng mặt bằng. Tuy nhiên, hầu
hết các thành phố lớn, thị xã có quỹ đất hạn hẹp, nên chỉ có một số rất ít cơ sở
được giao đất, cịn phần lớn các cơ sở ngồi cơng lập phải đi th của các cơ
quan, xí nghiệp, trường công lập hoặc của tư nhân với giá cao. Cũng có thể có
trường hợp đất được giao nhưng là đất chưa được giải tỏa, các cơ sở ngồi cơng
lập phải tự bỏ tiền để đền bù. Như vậy, mặc dù được quy định rất thể nhưng trên
thực tế chính sách này chưa được thực thi một cách hiệu quả.
Bên cạnh đó vẫn có những nghị định trái nhau làm cho các đơn vị giáo dục
ngồi cơng lập mất phương hướng. Ví dụ như một số nghị định và luật cho các
trường đại học ngồi cơng lập phần đầu thì mở, cho quyền tự chủ về tài chính, tự
chủ về nhân sự, về hợp tác quốc tế, tuyển sinh, về chỉ tiêu nhưng phần sau cùng
thì ghi theo quy chế của Bộ Giáo dục và Đào tạo, theo quy định của Chính phủ.
Ngồi ra, cịn một thực tế đang diễn ra là việc chậm nghiên cứu và cụ thể
hóa các quy định của luật về cấm lợi dụng các hoạt động giáo dục vì mục đích vụ
lợi. Có thể nói dự thảo mới nhất về Luật giáo dục đại học khẳng định: Cấm lợi
dụng các hoạt động giáo dục vì mục đích vụ lợi. Tuy nhiên, hầu hết tất cả các quy
định hiện hành về tổ chức và hoạt động của các cơ sở giáo dục ngồi cơng lập đều
mang bản chất vì lợi nhuận Chính vì vậy, rất nhiều tổ chức, cá nhân lợi dụng xã
hội hóa để phát triển trường tư thục ồ ạt với mục đích vì lợi nhuận là chủ yếu,
nhưng lại dán mác khơng vì lợi nhuận. Mặt khác, ngay cả quan niệm thế nào là
"khơng vì lợi nhuận" cũng chưa thực sự nhất qn và rõ ràng khi quy định tại
Điều 6, khoản 7 trong dự thảo Luật giáo dục - bản đề ngày 6-1-2012: Cơ sở giáo
dục đại học tư thục và cơ sở giáo dục đại học có vốn đầu tư của nước ngồi hoạt
động khơng vì lợi nhuận là cơ sở giáo dục đại học tư thục, trong đó các cổ đơng
hoặc các thành viên góp vốn khơng hưởng lợi tức hằng năm không quá 1,5 lần lãi
suất huy động tiền gửi bình quân do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cơng bố. Nếu
quy định như thế này thì các trường đại học tư thục có vốn đầu tư của nước ngoài
21



22

có hiểu "khơng vì lợi nhuận" như vậy khơng? Vì sao cổ tức hằng năm không quá
1,5 lãi suất huy động tiền gửi bình quân do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cơng
bố? Cũng trong Điều 60, khoản 7: Chính phủ quy định phương thức và tiêu chí
phân bổ nguồn ngân sách nhà nước cho các cơ sở giáo dục đại học; tỷ lệ phần tài
chính giữa thu và chỉ từ hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học để đầu tư cho
phát triển cơ sở giáo dục đại học tư thục; về tài chính của cơ sở giáo dục đại học
có vốn đầu tư nước ngồi trong hoạt động giáo dục. Trên cơ sở này sẽ xác định
tiêu chí các cơ sở giáo dục đại học tư thục vì lợi nhuận hay khơng vì lợi nhuận để
có chính sách đầu tư, hỗ trợ phù hợp. Nếu quy định như vậy thì thời điểm nào một
dự án thành lập một cơ sở giáo dục đại học ngồi cơng lập phải khai báo về tính
chất vì lợi nhuận hay khơng vì lợi nhuận.
Trên thực tế, các cơ sở giáo dục công lập hay ngồi cơng lập, để bảo đảm
chất lượng và tính cơng bằng xã hội đều cần sự hỗ trợ về tài chính từ Nhà nước.
Đặc biệt là đối với các cơ sở giáo dục ngồi cơng lập hoạt động theo cơ chế phi
lợi nhuận cần được Nhà nước hỗ trợ tạo. điều kiện tốt hơn về cơ sở vật chất.
Mặt khác, một số quy định về thuế, tín dụng cịn chưa có những chính
sách mang tính khuyến khích đối với các cơ sở ngồi cơng lập:
Về thuế: việc áp dụng thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các cơ sở giáo
dục ngồi cơng lập đã gây nhiều tranh luận; một số vấn đề xung quanh mã số
thuế; xé miễn giảm các loại thuế; thuế thu nhập đối với những người có thu nhập
cao ở các cơ sở ngồi cơng lập cần phải được xem xét lại cho phù hợp.
Về tín dụng: việc huy động vốn và cho vay vốn của các cơ sở ngồi cơng
lập để đầu tư cịn nhiều khó khăn Ví dụ: cơ chế về tín dụng ưu đãi đối với đơn vị
thực hiện xã hội hóa chưa đủ sức khuyến khích, nhất là tỷ lệ lãi suất vốn vay cho
các trường để đầu tư cơ sở vật chất còn quá cao (5,4%); mức vốn vay quy định
hiện nay tối đa là 50% tổng mức vốn đầu tư, trong khi hoạt động trong lĩnh vực
giáo dục đòi hỏi tổng số vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn dài, gây khó khăn

đối với các chủ dự án trong việc huy động nguồn vốn và hoàn thành trả nợ gốc
và lãi của dự án; đối với chính sách huy động vốn Nhà nước vẫn chưa có quy
22


23

định cụ thể về nghĩa vụ đóng góp của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế - xã
hội cho các hoạt động giáo dục và đào tạo. Việc đầu tư ban đầu của Nhà nước
cho các cơ sở giáo dục và đào tạo ngồi cơng lập cũng chưa có cơ chế thực hiện.
Chính vì sự thiếu thống nhất, đồng bộ của hệ thống chính sách, văn bản
quy phạm pháp luật về xã hội hóa giáo dục, cùng với nhiều văn bản chậm được
các bộ, ngành, địa phương hướng dẫn đã gây ra nhiều lúng tùng, bất cập trong
quá trình tổ chức thực hiện xã hội hóa giáo dục. Bởi vậy, cần hồn thiện hệ
thống chính sách, văn bản quy phạm pháp luật về xã hội hóa giáo dục để từ đó
tạo điều kiện thuận lợi cho các cá nhân, tổ chức tham gia vào hoạt động trong
lĩnh vực giáo dục một cách có hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng nền giáo
dục Việt Nam.
c) Phương thức đầu tư và phân bổ ngân sách cho giáo dục chậm đổi mới,
chưa thực sự hiệu quả
Nguồn tài chính là một trong những nhân tố hết sức quan trọng trong quá
trình phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo. Nếu không có nguồn tài chính dồi
dào thì các chủ trương, chính sách để phát triển giáo dục sẽ khó có thể triển khai
một cách hiệu quả. Vì vậy, trong gần 20 năm thực hiện xã hội hóa giáo dục,
chúng ta đã rất chú trọng đến phương thức thu hút nguồn đầu tư và phân bổ ngân
sách cho lĩnh vực này và bước đầu đã đạt được những kết quả quan trọng, nhất
là huy động các nguồn lực đầu tư xây dựng cơ sở vật chất trường học, mở
trường và đóng góp kinh phí cho giáo dục. Các nguồn đầu tư cho giáo dục ngày
càng được kiểm soát chặt chẽ và tăng dần hiệu quả sử dụng. Tuy nhiên, phương
thức đầu tư và phân bổ ngân sách còn chậm đổi mới nên không phát huy được

tối đa hiệu quả của công tác xã hội hóa trong lĩnh vực này.
Trong những năm gần đây, ngân sách nhà nước đầu tư cho giáo dục tăng
nhanh. Tuy nhiên, quy mô ngân sách nước ta nhỏ, nên tổng mức đầu tư ngân
sách cho giáo dục còn hạn chế, mức chỉ bình quân cho học sinh, sinh viên thấp
so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Mặt khác việc đầu tư cho giáo
dục còn dàn trải và hiệu quả chưa cao. Việc quản lý ngân sách giáo dục phân
23


24

tán: các địa phương quản lý 74% ngân sách nhà nước chỉ cho giáo dục hằng
năm, các bộ, ngành khác là 21%, Bộ Giáo dục và Đào tạo là 5%. Điều này phần
nào đã làm cho công tác đánh giá hiệu quả sử dụng nguồn đầu tư của Nhà nước
cho giáo dục rất khó khăn nếu như các địa phương, các bộ, ngành khơng báo cáo
về tình hình và hiệu quả sử dụng ngân sách đó kịp thời.
Hiện nay, các cơ sở giáo dục ngồi cơng lập ở nước ta đều chủ yếu phải tự
lo tiền vốn để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và chi cho hoạt động thường xuyên
của nhà trường. Phương thức chính để huy động nguồn vốn là "vay" và thu học
phí. Vay của những người góp vốn, vay của quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển, vay của
ngân hàng, vay của các tổ chức khác. Tuy nhiên, việc vay vốn ưu đãi theo quy
định vẫn khó thực hiện do cịn nhiều phiền hà tại các ngân hàng về thủ tục, quy
trình tiến hành vay vốn ưu đãi theo chính sách của Nhà nước. Cịn về chính sách
thu học phí và lệ phí của học sinh, sinh viên trong những năm qua vẫn còn nhiều
tranh cãi.
Ngồi ra, việc thực hiện chính sách đất đai của Chính phủ đối với các cơ
sở giáo dục cơng lập còn phụ thuộc vào quỹ đất của địa phương nên phạm vi tác
dụng của chính sách cịn hẹp. Cụ thể ở các thành phố lớn, tỉnh, huyện, các cơ sở
giáo dục ngồi cơng lập gặp rất nhiều khó khăn khi tiến hành xin giao đất. Việc
ưu tiên thuê nhà, hệ thống hạ tầng của Nhà nước hầu như chưa thể thực hiện.

Xã hội hóa giáo dục địi hỏi mọi tổ chức, gia đình và cơng dân có trách
nhiệm cùng Nhà nước chăm lo và tạo điều kiện để đa dạng hóa các loại hình nhà
trường. Tuy nhiên, do nhận thức và khả năng đầu tư có hạn, các loại hình trường
ngồi cơng lập chưa được quan tâm đúng mức dẫn đến chất lượng cịn hạn chế,
tính bền vững chưa cao.
d) Công tác quản lý đối với các cơ sở giáo dục còn nhiều lúng túng, kém
hiệu quả ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục - đào tạo
Quản lý nhà nước về giáo dục có thể được coi là khâu then chốt nhằm bảo
đảm thắng lợi của mọi hoạt động giáo dục - đào tạo. Vì thơng qua quản lý nhà
nước về giáo dục, việc thực hiện các chủ trương chính sách giáo dục quốc gia,
24


25

nâng cao hiệu quả đầu tư cho giáo dục, việc thực hiện các mục tiêu giáo dục, nâng
cao chất lượng giáo dục, mới được triển khai, thực hiện có hiệu quả. Để xã hội
hóa giáo dục đạt hiệu quả góp phần phát triển nền giáo dục Việt Nam, hơn lúc nào
hết vai trò quản lý giáo dục của Nhà nước cần được tăng cường và phát huy.
Trong những năm thực hiện chủ trương xã hội hóa giáo dục, cơng tác
quản lý nhà nước về giáo dục đã có những đổi mới nhất định phù hợp với sự
phát triển giáo dục - đào tạo, làm cho cơng tác xã hội hóa giáo dục bước đầu đạt
được những hiệu quả nhất định góp phần phát triển sự nghiệp giáo dục ở nước
ta. Song bên cạnh đó, so với yêu cầu phát triển của kinh tế - xã hội và nhu cầu
học tập của người dân, thì hoạt động quản lý giáo dục vẫn còn nhiều bất cập cả
trong định hướng phát triển. quy hoạch và chỉ đạo thực hiện. Việc triển khai thực
hiện còn chậm và nhiều lúng túng. Quản lý nhà nước đơi khi vừa gị bó, vừa
bng lỏng; cơ chế, chính sách chưa cụ thể, rõ ràng, thiếu đồng bộ, chưa phù
hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các lực lượng trong xã
hội chưa được tổ chức và phối hợp tốt để chủ động, tích cực tham gia vào q

trình xã hội hóa giáo dục.
Việc quản lý cơng tác xã hội hóa giáo dục - đào tạo chậm đổi mới, về cơ
bản vẫn còn chịu ảnh hưởng của cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao
cấp. Một số quan điểm, chủ trương, chính sách về xã hội hóa giáo dục chưa theo
kịp với tình hình mới của đất nước trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường,
hội nhập quốc tế. Bởi thế, cơ chế xin - cho" trong việc cấp phép thành lập các cơ
sở giáo dục ngồi cơng lập đã tạo điều kiện phát sinh nhiều tiêu cực. Trong vấn
đề này, có ý kiến cho rằng: "Sự mập mờ về thị trường giáo dục đại học chưa
được thừa nhận, từ sự quản lý nhà nước bất cập sử dụng rất nhiều điều kiện hành
chính "phải xin" và "được cho" để đối phó với vấn đề kinh tế mở ngõ cho tiêu
cực chui vào trong hoạt động giáo dục"8
Vì thế, có những trường, cơ sở giáo dục ngồi cơng lập khơng đủ điều kiện
như thiếu cơ sở vật chất (phòng học, trang thiết bị đồ dùng dạy học...), không đủ
8 Nguyễn Minh Phương: Đầy mạnh xã hội hóa giáo dục, y tế ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012,
tr 257.

25


×