Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Tiểu luận Phương hướng kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.83 KB, 28 trang )

MỞ ĐẦU
Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là quan điểm cơ bản của
Đảng và cũng là một bài học lớn của cách mạng Việt Nam. Hiện nay, trước bối
cảnh quốc tế và yêu cầu mới của nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bài học đó
cần tiếp tục được quán triệt, thực hiện; song điều quan trọng là cần có chiến lược,
sách lược, hình thức, phương pháp đúng đắn, sáng tạo.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung,
phát triển năm 2011) đã nêu nhiều bài học quý; trong đó, "Kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế " là một
trong những bài học lớn của cách mạng Việt Nam. Hơn 80 năm qua, nhất là trong
30 năm kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược (1945-1975),
ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã tạo nên sức mạnh đoàn kết to lớn của dân tộc, của tất cả những người
Việt Nam yêu nước, yêu độc lập, tự do, không phân biệt trai gái, già trẻ, giàu
nghèo, tôn giáo, dân tộc..., dựa trên nền tảng vững chắc là liên minh công nhân với
nông dân và trí thức, dưới chế độ dân chủ nhân dân và XHCN, do Đảng Cộng sản
lãnh đạo. Mặt khác, do mục tiêu cách mạng, mục đích chính trị của cuộc chiến
tranh yêu nước, chính nghĩa của dân tộc ta phù hợp với khát vọng chung, mục tiêu
chung của thời đ ại là hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội; cùng
với chiến lược đối ngoại đúng đắn của Đảng và nghệ thuật đấu tranh ngoại giao tài
tình, khôn khéo, sáng tạo, chúng ta đã phát huy cao độ yếu tố quốc tế, yếu tố thời
đại thành sức mạnh hiện thực, nên cuộc kháng chiến của nhân dân ta ngày càng
được sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ to lớn, chí tình cả về vật chất và tinh thần của
các nước XHCN và lực lượng cách mạng, ti ến bộ trên thế giới. Vận dụng và phát
triển sáng tạo bài học đó trong quá trình thực hi ện đường lối đổi mới của Đảng
gần 30 năm qua, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng:
đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế được triển khai sâu rộng và hiệu quả. Thế và
lực của đất nước đã vững mạnh thêm nhiều; vị thế của Việt Nam trên trường quốc
tế được nâng lên, tạo tiền đề quan trọng để đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại
1



hoá đất nước và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Những thực tiễn lịch
sử đó chứng minh rằng, để tạo nên sức mạnh to lớn, giành thắng l ợi trong sự
nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và đổi mới xây dựng đất nước, chúng ta
phải biết khai thác và phát huy cao nhất sức mạnh của dân tộc kết hợp với sức
mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế, trên cơ sở kiên định ý
chí độc lập, tự chủ, phát huy sức mạnh nội lực, dựa vào sức mình là chính, đồng
thời tranh thủ ngoại lực, khai thác tối đa sức mạnh của thời đại.
Nhằm góp phần nhận thức đúng đắn hơn về bài học kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại, người viết lựa chọn đề tài "Phương hướng kết hợp sức
mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại hiện nay"
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở những nguyên lý và phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, căn cứ vào một số quan
điểm trong đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước từ sau Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986) đến nay.
Do điều kiện về thời gian, về tài liệu cũng như trình độ hiểu biết vấn đề của
người viết còn hạn chế nên không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được
những ý kiến đóng góp quý báu từ quý thầy cô để tiểu luận này được hoàn thiện
hơn!

2


PHẦN NỘI DUNG

1. Cơ sở khoa học của bài học kinh nghiệm kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế.
Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là nguyên tắc chiến lược, là quy
luật giành thắng lợi của cách mạng vô sản.
Chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ ra sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân

và điều kiện để hoàn thành sứ mệnh đó là giai cấp công nhân phải thực hiện đoàn kết
dân tộc, đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Thời đại
mới mở ra từ Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, là thời đại quá độ từ chủ nghĩa
tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, giai cấp công nhân trở thành
giai cấp giữ vị trí trung tâm của thời đại, có đầy đủ khả năng kết hợp được sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại. Nội dung, phương hướng, hình thức của sự kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại phản ánh những điều kiện lịch sử cụ thể, phục vụ
đắc lực cho quá trình thực hiện nhiệm vụ chính trị của từng giai đoạn cách mạng trong
sự nghiệp giải phóng và phát triển của mỗi dân tộc. Chủ nghĩa Mác-Lênin đòi hỏi các
Đảng Cộng sản phải nhận thức đúng nội dung, đặc điểm, xu thế phát triển của thời
đại, đó là cơ sở để đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế phù hợp với điều kiện
lịch sử cụ thể. V.I.Lênin chỉ rõ: “Chúng ta có thể biết và chúng ta biết giai cấp nào
đứng ở trung tâm thời đại này hay thời đại khác và xác định nội dung căn bản,
phương hướng phát triển chính của thời đại ấy, những đặc điểm chủ yếu của bối cảnh
lịch sử của thời đại ấy v.v.. Chỉ trên cơ sở này, nghĩa là trước hết xem xét những nét
khác nhau cơ bản của các "thời đại" (chứ không phải của các giai đoạn lịch sử cá biệt
ở các nước) thì chúng ta mới có thể định ra đúng đắn sách lược của chúng ta”1.
Một trong những tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh là vấn đề kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước và sức mạnh quốc tế, đó là
cơ sở tạo ra sức mạnh tổng hợp to lớn cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và sự nghiệp
xây dựng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
1

V.I Lênin, Toàn tập, tập 26, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr. 174

3


Cách mạng Việt Nam diễn ra trong bối cảnh thời đại mới, phải kết hợp sức

mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế
mới giành được thắng lợi.
Các phong trào cứu nước cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX theo các khuynh
hướng tư tưởng phong kiến, dân chủ tư sản, tiểu tư sản diễn ra rất sôi nổi, nhưng
đều bị thất bại. Nguyên nhân của sự thất bại đó là do sự hạn chế về lập trường giai
cấp và điều kiện lịch sử, các nhà lãnh đạo các phong trào yêu nước đó đã đưa ra
đường lối cứu nước không phù hợp với thời đại mới. Cách mạng Việt Nam đứng
trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, về giai cấp lãnh đạo cách mạng.
Đầu thế kỷ XX, trong quá trình tìm đường cứu nước, đồng chí Nguyễn Ái
Quốc đã tìm thấy chủ nghĩa Mác-Lênin, sớm nhận thức đúng tính chất, đặc điểm
và xu thế của thời đại mới, do đó đã tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn, gắn
độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế
giới. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa MácLênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Dưới sự lãnh
đạo của Đảng, cách mạng Việt Nam đã đi đúng quỹ đạo của cách mạng vô sản thế
giới, phù hợp với xu thế thời đại. Đó là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của
cách mạng Việt Nam.
Thực tiễn quá trình cách mạng Việt Nam, nhờ Đảng kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế đã tạo nên
nguồn sức mạnh tổng hợp đưa cách mạng Việt Nam giành được những thắng lợi to
lớn, có ý nghĩa lịch sử.

4


2. Phương hướng kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại hiện nay.
2.1. Đặc điểm tình hình thế giới, trong nước.
2.1.1 Tình hình thế giới
Cục diện thế giới đa cực ngày càng rõ hơn, xu thế dân chủ hóa trong quan
hệ quốc tế tiếp tục phát triển nhưng các nước lớn vẫn sẽ chi phối các quan hệ
quốc tế.

Toàn cầu hóa và cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ,
thúc đẩy quá trình hình thành xã hội thông tin và kinh tế tri thức. Những xu thế
đó vừa tạo cơ hội phát triển, vừa đặt ra những thách thức lớn đối với các nước,
nhất là các nước đang phát triển như nước ta.
Chủ nghĩa xã hội thế giới lâm vào thoái trào tạm thời, nhưng vẫn có khả năng
phục hồi và phát triển, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội vẫn là chân lý
lớn của thời đại. Chủ nghĩa tư bản tiếp tục có sự điều chỉnh để thích nghi với điều
kiện mới của thời đại, song nó không khắc phục được những mâu thuẫn vốn có của
nó. Lợi dụng khó khăn của các nước xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa đế quốc đứng đầu
là đế quốc Mỹ ra sức thực hiện chiến lược “diễn biến hoà bình” để xóa bỏ các nước
xã hội chủ nghĩa còn lại.
Trong bối cảnh hiện nay chiến tranh thế giới ít có khả năng xảy ra nhưng
chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ
trang, hoạt động can thiệp lật đổ, ly khai, hoạt động khủng bố, những tranh chấp
về biên giới, lãnh thổ, biển đảo và các tài nguyên thiên nhiên tiếp tục diễn ra ở
nhiều nơi với tính chất ngày càng phức tạp. Quan hệ giữa các nước lớn theo
chiều hướng vừa đấu tranh, vừa thoả hiệp. Các mâu thuẫn lớn của thời đại vẫn
gay gắt.
Cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới chống chiến tranh, chống áp đặt và
can thiệp, chống mặt trái của toàn cầu hóa vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ

5


và tiến bộ xã hội có bước phát triển mới, nhưng vẫn thiếu sự liên kết, chưa đủ
sức ngăn chặn sự hung hăng, hiếu chiến của Mỹ.
Nhiều vấn đề toàn cầu bức xúc đòi hỏi các quốc gia và các tổ chức quốc tế
phải phối hợp mới giải quyết được như: khoảng cách chênh lệch giữa các nhóm
nước giàu và nước nghèo ngày càng lớn; sự gia tăng dân số; tình trạng khan
hiếm nguồn năng lượng, cạn kiệt tài nguyên, môi trường tự nhiên bị huỷ hoại;

thiên tai khủng khiếp; các dịch bệnh lớn; các tội phạm xuyên quốc gia có chiều
hướng gia tăng...
Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á vẫn
sẽ là khu vực phát triển năng động, nhưng còn tồn tại nhiều nhân tố gây mất ổn
định; tranh chấp lãnh thổ, biển đảo ngày càng gay gắt. Xuất hiện các hình thức tập
hợp lực lượng và đan xen lợi ích mới. ASEAN tuy còn nhiều khó khăn thách thức
nhưng tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong khu vực.
2.1.2Tình hình trong nước
Những thành tựu, kinh nghiệm gần 30 năm đổi mới, đã tạo ra cho đất nước
thế và lực, sức mạnh tổng hợp lớn hơn nhiều so với trước..... Quan hệ đối ngoại
của nước ta được mở rộng, hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực được tiến hành
chủ động và tích cực, vị thế của nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng
cao. Cùng với môi trường hòa bình, sự hợp tác liên kết quốc tế và những xu
hướng tích cực trên thế giới đang tạo điều kiện thuận lợi cho nước ta tiếp tục đi
lên với triển vọng tốt đẹp.
Nước ta có nguồn lao động dồi dào, con người Việt Nam thông minh, sáng
tạo, có khả năng nắm bắt nhanh khoa học và công nghệ hiện đại. Nhân dân ta có
truyền thống yêu nước, đoàn kết, tin tưởng vào Đảng và chế độ. Nước ta có tài
nguyên thiên nhiên tương đối phong phú, đa dạng, có vị trí địa lý thuận lợi và
nằm trong khu vực phát triển kinh tế năng động.
Tuy nhiên, nước ta vẫn đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau tác động
tổng hợp và diễn biến phức tạp, không thể coi nhẹ bất cứ thách thức nào....
6


Nền kinh tế nước ta còn kém phát triển, các lĩnh vực văn hóa, xã hội, xây dựng hệ
thống chính trị còn nhiều yếu kém. Những nguy cơ mà Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa
nhiệm kỳ khoá VII nêu lên đến nay vẫn đang là những thách thức lớn. Nguy cơ tụt hậu
xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại. Tình trạng
suy thoái về chính trị tư tưởng, đạo đức lối sống của một bộ phận cán bộ đảng viên gắn

liền với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí là nghiêm trọng. Những biểu hiện xa rời mục
tiêu của chủ nghĩa xã hội chưa được khắc phục. Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực
hiện âm mưu “diễn biến hoà bình” gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”,
“nhân quyền” hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Trong nội bộ, những biểu
hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có những diễn
biến phức tạp.
Tình hình trên, đặt ra đòi hỏi bức bách của toàn dân tộc lúc này là phải tranh
thủ thời cơ, vượt qua thách thức, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ,
phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực, kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới để thực hiện thắng lợi sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh.
2.2. Yêu cầu của sự nghiệp cách mạng nước ta
Ngày nay, toàn cầu hoá mà trước hết là toàn cầu hoá về kinh tế đang tác
động mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống xã hội, đến mọi quốc gia, dân tộc. Không
một quốc gia, dân tộc nào có thể phát triển được mà lại tách biệt, cô lập với thế
giới. Mở cửa, hội nhập, chủ động gia nhập vào quá trình toàn cầu hoá, đó chính là
đòi hỏi của toàn cầu hoá, nhưng cũng chính là điều kiện thuận lợi để kết hợp và
phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong phát triển. Nhận thức sâu
sắc tính tất yếu và cơ hội đó, Đảng ta luôn coi việc kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại để tạo nên sức mạnh tổng hợp là một trong những yêu cầu, một
trong những bài học kinh nghiệm lớn trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt
Nam. Tại Đại hội Đảng lần thứ XI, một lần nữa, bài học kinh nghiệm này lại được
nhấn mạnh: "Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong
7


nước với sức mạnh quốc tế ... phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại
lực, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại".1
1. Sức mạnh dân tộc hay nội lực của một dân tộc, một quốc gia chính là tổng

hợp những lợi thế, những nguồn lực nội sinh của dân tộc, quốc gia đó. Những lợi
thế, những nguồn lực này bao hàm trong toàn bộ các lĩnh vực kinh tế chính trị văn
hoá, xã hội; chúng là tài nguyên thiên nhiên, nguồn lực con người, là tổng thể
những giá trị vật chất, tinh thần, truyền thống văn hoá,... Sức mạnh dân tộc, vì thế
là nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của một dân tộc. Như vậy,
sức mạnh dân tộc, nội lực của chúng ta bao gồm cả những nguồn lực, những tiềm
lực tự nhiên và xã hội.
Trên bình diện nguồn lực tự nhiên, Việt Nam có lợi thế về vị trí địa lí, giao
thông, có bờ biển dài rất thuận lợi cho phát triển kinh tế biển; lâm sản, hải sản,
khoáng sản tuy không thật nhiều nhưng khá đa dạng và phong phú. Cố nhiên,
những nguồn lực tự nhiên, tự nó, chỉ tồn tại như là tiềm năng. Vấn đề là làm sao
khơi dậy, huy động được những nguồn lực, những lợi thế đó trong phát triển. Ngày
nay, cơ chế thị trường tỏ ra là cơ chế kinh tế có hiệu quả nhất. Với việc thừa nhận
và khuyến khích lợi ích cá nhân (cố nhiên, đó là lợi ích cá nhân chính đáng), cơ
chế thị trường đã tạo ra động lực hết sức mạnh mẽ cho sự phát triển kinh tế. Cũng
chính trong điều kiện kinh tế thị trường, những nghiên cứu và áp dụng khoa học công nghệ được xúc tiến mạnh mẽ. Nhờ thế những nguồn lực tự nhiên được khai
thác và huy động tối đa cho phát triển. Tuy nhiên, những nguồn lực tự nhiên không
phải là vô tận. Việc khai thác tự nhiên, do vậy, cần đi liền với quá trình bảo vệ tự
nhiên, phát triển những nguồn tài nguyên có thể tái tạo. Chỉ có như vậy, những
nguồn lực tự nhiên mới trở thành nguồn nội lực bền vững cho xây dựng và phát
triển đất nước...
Trên bình diện nguồn lực xã hội, Việt Nam cũng có những ưu thế về mặt
văn hoá và con người. Có thể nói, đó là những nguồn lực nội sinh giữ vị trí trung
tâm của phát triển; bởi con người với những sức mạnh về văn hoá, chính là chủ thể
8


của sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, là chủ thể của sự khai thác, huy
động và hợp nhất các lợi thế, các nguồn nội lực khác.
Văn hoá, như chúng ta biết, không chỉ là mục tiêu mà đồng thời còn là động

lực của phát triển. Những giá trị văn hoá có khả năng liên kết, cố kết con người
thành một cộng đồng thống nhất; đồng thời định hướng họ trong hoạt động sống,
trong xây dựng và phát triển đất nước. Trải qua lịch sử hàng ngàn năm dựng nước
và giữ nước, những giá trị, những tinh hoa văn hoá của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam đã được hình thành và trở thành truyền thống. "Đó là lòng yêu nước nồng
nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lí, đức
tính cần cù, sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối
sống”2. Những giá trị văn hoá truyền thống chính là nguồn lực tinh thần, nền tảng
tinh thần để chúng ta xây dựng đất nước trong điều kiện mới. Những giá trị đó khi
được phát huy và nội tâm hoá thành sức mạnh tinh thần của mỗi người dân thì nó
không chỉ là động lực kích thích họ trong lao động sáng tạo, xây dựng và bảo vệ
đất nước mà đồng thời, còn góp phần tạo nên bản sắc dân tộc trong điều kiện toàn
cầu hoá. Bởi thế, chủ động và tích cực kế thừa, phát huy những giá trị văn hoá
truyền thống của dân tộc trong điều kiện hiện nay chính là phát huy một trong
những nguồn nội lực quan trọng nhất. Ngày nay, tính tất yếu của việc kế thừa các
giá trị văn hoá truyền thống đã được thừa nhận rộng rãi. Tuy nhiên, điều cần lưu ý
là kế thừa như thế nào để các giá trị văn hoá truyền thống có thể thực sự trở thành
sức mạnh tinh thần, nội lực của sự phát triển. Trong trường hợp này, chúng tôi
muốn nói tới cơ sở, tiêu chícủa việc kế thừa. Kế thừa truyền thống không có nghĩa
là phục cổ hoặc "lưu giữ giấy lộn”, theo cách nói của V. Lênin, mà là nhằm tạo ra
nhân tố mới cho hiện tại và tương lai. Vì thế, cần phải lấy những yêu cầu của sự
nghiệp xây dựng đất nước hiện nay làm cơ sở, tiêu chí cho việc thẩm định, kế thừa
và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống. Phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn
hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người mới với những đức tính
9


được xác định tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ năm khoá VIII là
những yêu cầu, những định hướng lớn của sự nghiệp đổi mới hiện nay. Đó chính là

cơ sở, là những tiêu chí cơ bản cho việc kế thừa các giá trị văn hoá truyền thống
với tư cách là nguồn nội lực tinh thần hiện nay.
Cùng với những giá trị văn hoá, con người là nguồn lực nội sinh có ý nghĩa
quyết định nhất đối với sự phát triển đất nước. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh
từng khẳng định, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội cần có những con người xã hội
chủ nghĩa. Con người chính là chủ thể của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Nguồn lực con người, trên bình diện số lượng, được xác định bởi quy mô dân số,
cơ cấu độ tuổi, giới tính, sự phân bố dân cư. Hiện Việt Nam đang có dân số khoảng
86 triệu người, trong đó hơn 50% thuộc độ tuổi lao động. Đó là một lợi thế cần
được huy động tối đa. Trên bình diện chất lượng, nguồn lực con người là tổng hợp
những sức mạnh về thể chất, tri thức, tay nghề, năng lực quản lí, phẩm chất đạo
đức, ... Xét về chất lượng, mặc dù người Việt Nam có một số ưu thế, chẳng hạn,
khéo léo, cần cù, ham hiểu biết, có lòng yêu nước, ý chí vượt khó,... nhưng chừng
ấy là chưa đủ. Hiện nay, trong cơ cấu lực lượng lao động ở nước ta, nông dân vẫn
chiếm tới 70%; công nhân chiếm xấp xỉ 10%; nguồn nhân lực trí thức chỉ chiếm
2,15%3. Thậm chí, lao động đã qua đào tạo vẫn còn bất cập so với yêu cầu một số
cơ sở sản xuất sau khi nhận người đã phải đào tạo lại từ 1 đến 2 năm mới sử dụng
được. Nhìn chung, lực lượng lao động hiện nay còn nhiều bất cập trước các yêu
cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế. Đó là những bất cập về
thể lực, năng lực chuyên môn, tính chuyên nghiệp, kỉ luật lao động, khả năng thích
ứng với những biến đổi kinh tế - xã hội,... Điểm tính cho năng lực cạnh tranh tổng
hợp về nguồn nhân lực của Việt Nam hiện còn rất thấp, mới chỉ đạt 3,79 điểm theo
thang điểm 104. Vì thế, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là yêu cầu vừa có tính
cấp thiết vừa có tính lâu dài nhằm tăng cường sức mạnh dân tộc trong điều kiện
hiện nay. Để giải quyết vấn đề này, cần có những đầu tư thích đáng và những đổi
mới hơn nữa trong hàng loạt các lĩnh vực liên quan đến sự phát triển con người,
đặc biệt là lĩnh vực giáo dục, đào tạo. Cần "đặc biệt coi trọng giáo dục lí tưởng,
10



giáo dục truyền thống lịch sử, đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, năng lực thực
hành, tác phong công nghiệp, ý thức trách nhiệm xã hội"5.
Sức mạnh con người không đơn thuần chỉ biểu hiện ở các cá nhân; nó còn
biểu hiện ở sức mạnh tập thể, cộng đồng. Vì thế, sức mạnh của khối đại đoàn kết
dân tộc Việt Nam là nguồn lực nội sinh cực kì quan trọng; nó luôn được coi là sợi
chỉ đỏ xuyên suốt đường lối, chiến lược của Đảng trong chiến tranh cũng như trong
đổi mới, xây dựng và bảo vệ đất nước. Tuy vậy, việc phát huy sức mạnh nội sinh
này không phải là một điều đơn giản. Trong điều kiện hiện nay, dưới tác động của
những biến đổi về cơ cấu thành phần kinh tế, của sự điều tiết bởi cơ chế thị trường,
của mở cửa hội nhập, sự phân hoá các tầng lớp xã hội cũng như sự phân hoá giàu
nghèo ngày một gia tăng, xuất hiện nhiều nhóm lợi ích khác biệt nhau, thậm chí
đôi khi đối lập nhau, thì vấn đề phát huy sức mạnh dân tộc đang đứng trước những
thách thức mới.Có sâu xa của sự đoàn kết xã hội là sự thống nhất về lợi ích. Điều
đó có nghĩa là, "Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hoà
quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội" 6. Bởi thế, một mặt, cần đẩy mạnh
tuyên truyền, giáo dục tinh thần "lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hoà
bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh làm điểm tương đồng; xoá bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ,
thành phần giai cấp, chấp nhận những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung
của dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung... để
tập hợp đoàn kết mọi người vào mặt trận chung, tăng cường đồng thuận xã
hội"7; mặt khác, các chính sách kinh tế, xã hội cần phải được hoạch định và thực
thi sao cho sự khác biệt, đặc biệt là sự đối lập lợi ích giữa các nhóm, các tầng lớp
xã hội ngày càng giảm thiểu. Có thể nói, đây là một vấn đề nan giải. Sự phát triển
kinh tế thị trường luôn giả định phân hóa giàu nghèo; nhưng sự ổn định, sự bền
vững lại đòi hỏi giảm thiểu sự phân hóa. Tuy nhiên, vấn đề không phải là không
thể giải quyết được. Giữ vững và tăng cường định hướng xã hội chủ nghĩa đối với
sự phát triển kinh tế thị trường không chỉ tạo điều kiện cho kinh tế phát triển mà
còn là đảm bảo cho việc giải quyết hài hoà các quan hệ lợi ích giữa các thành viên
11



trong xã hội. Chỉ có như thế, sự đồng thuận xã hội mới ngày được gia tăng, khối
đại đoàn kết dân tộc mới không ngừng được củng cố và phát triển. Ngoài ra, trong
điều kiện mà các thế lực thù địch chủ nghĩa xã hội luôn tìm mọi cách thực hiện
diễn biến hoà bình, chia rẽ các tôn giáo, các tầng lớp xã hội thì chính sách kinh tế,
xã hội và tôn giáo càng cần phải chú ý hơn đến việc khắc phục những tác động tiêu
cực từ những hoạt động đó nhằm tăng cường hơn nữa khối đại đoàn kết dân tộc với
tư cách là sức mạnh nội sinh quyết định thắng lợi của sự nghiệp phát triển đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Mặc dù có vai trò quyết định, nhưng sức mạnh dân tộc hay nội lực không
phải là tất cả. Sẽ là hạn chế và khiếm khuyết nếu không biết đến những nguồn lực
bên ngoài, những sức mạnh thời đại trong xây dựng và phát triển. Thực tế cho
thấy, giao lưu kinh tế và văn hoá là quy luật phổ biến của sự phát triển lịch sử nhân
loại; không dân tộc nào là không ít nhiều tiếp nhận và sử dụng những nguồn lực,
những thành tựu, những tinh hoa văn hoá của các dân tộc khác để làm giàu thêm
cho nội lực đồng thời tạo ra một sự thống nhất, một hợp lực cho phát triển. Chẳng
hạn, việc tiếp nhận và bản địa hóa các giá trị của Phật giáo, Nho giáo,... biến chúng
thành sức mạnh nội sinh đã từng được thực hiện rất thành công trong lịch sử Việt
Nam. Những hệ tư tưởng này, dưới hình thức Việt hoá đã thực sự trở thành những
yếu tố cấu thành của văn hóa Việt Nam, nghĩa là của sức mạnh Việt Nam. Điều đó
có nghĩa rằng, sức mạnh của một dân tộc phải bao hàm nội lực và sự bổ sung, sự
kết hợp với các nguồn lực từ bên ngoài, các yếu tố ngoại lực, tức sức mạnh của
thời đại. Trước đây, trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở Liên Xô, chính V. Lênin, người đã đối lập chủ nghĩa tư bản với chủ nghĩa xã hội
trên nhiều phương diện, đã phê phán triệt để nhiều khiếm khuyết của chủ nghĩa tư
bản vẫn khẳng định rằng: "Phải tiếp thu toàn bộ nền văn hoá do chủ nghĩa tư bản
để lại và dùng văn hoá đó để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Phải tiếp thu toàn bộ khoa
học kĩ thuật, tất cả những kiến thức, tất cả nghệ thuật. Không có những cái đó,
chúng ta không thể xây dựng cuộc sống của xã hội cộng sản được" 8. Ông còn nhấn

mạnh: "Dùng cả hai tay mà lấy những cái tốt của nước ngoài: Chính quyền Xô
12


viết + trật tự đường sắt Phổ + kĩ thuật và cách tổ chức các Tơrớt ở Mỹ + ngành
giáo dục quốc dân Mỹ… = Chủ nghĩa xã hội”9.
Trong điều kiện hiện nay, sức mạnh thời đại là đa dạng, chẳng bao hàm các
nguồn lực vật chất như vốn, máy móc, thiết bị, vật tư, công nghệ cùng các kiến
thức, kinh nghiệm quản lý, những giá trị văn hoá tinh thần,... của các dân tộc khác,
của thời đại nói chung. Những nguồn lực thuộc về vốn, công nghệ,... là những cái
mà chúng ta còn thiếu hoặc hạn chế. Bởi thế, tiếp nhận những nguồn ngoại lực này
là điều cần thiết và dễ hiểu. Vấn đề là làm sao để tăng cường được sự tiếp nhận
cũng như sử dụng được một cách hiệu quả những nguồn lực đó. Trong trường hợp
này, chúng tôi muốn nói tới sự thông thoáng của chính sách đầu tư, hợp tác, liên
kết, liên doanh; đồng thời cũng muốn nói tới năng lực cũng như trách nhiệm của
những cá nhân và các cấp có thẩm quyền đối với vấn đề này. Những yếu kém cũng
như tình trạng thiếu trách nhiệm trong lĩnh vực đầu tư, hợp tác quốc tế đã được phê
phán trong nhiều năm qua; nhưng sự khắc phục dường như là quá chậm. "Hiệu quả
sử dụng các nguồn vốn đầu tư còn thấp, còn thất thoát, lãng phí" 10. Những tụt hậu
về kinh tế, công nghệ của chúng ta so với khu vực và so với yêu cầu của thời đại
đang đòi hỏi phải có những biện pháp có tính triệt để hơn nữa nhằm thúc đẩy việc
"cải thiện môi trường đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút mạnh các nguồn
vốn quốc tế"11 và "khai thác hiệu quả các cơ chế hợp tác quốc tế, các nguồn lực về
vốn, khoa học - công nghệ, trình độ quản lí tiên tiến” 12. Điều đó có nghĩa là cần tận
dụng tối đa ngoại lực, sức mạnh thời đại phục vụ cho sự phát triển đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh những nguồn lực thuộc về lĩnh vực vật
chất, thì những giá trị tinh thần mà nhân loại đạt được, những giá trị được coi là
thành quả và yêu cầu của xã hội hiện đại nghĩa là những sức mạnh thời đại, cũng là
nguồn ngoại lực cần thiết, quý giá mà chúng ta cần tiếp thu.
Trong số những giá trị mang tính quốc tế, thời đại, tinh thần sống và làm

việc theo Hiến pháp và pháp luật là có ý nghĩa cực kì quan trọng. Đây là giá trị gắn
liền với kinh tế thị trường. Chính sự phát triển kinh tế thị trường đòi hỏi con người
tôn trọng và hoạt động theo hiến pháp và pháp luật. Những ảnh hưởng của tâm lí
13


và thói quen từ xã hội nông nghiệp truyền thống khiến cho ý thức pháp luật của xã
hội ta hiện nay chưa đáp ứng được đòi hỏi của sự phát triển. Cũng như vậy, tính
tích cực về mặt xã hội của công dân là một giá trị gắn liền với dân chủ. Dân chủ
hoá xã hội tạo điều kiện cho công dân phát huy tính tích cực về mặt xã hội. Nhờ
thế, cùng với những hoạt động sống mang tính cá nhân, con người đồng thời quan
tâm đến trách nhiệm xã hội, tích cực tham gia vào các hoạt động mang tính cộng
đồng. Ngược lại, tính tích cực về mặt xã hội của công dân được thực hiện thông
qua những hoạt động mang tính cộng đồng, đặc biệt là các hoạt động chính trị (bầu
cử, tham gia quản lí xã hội, giám sát, phản biện,...) không chỉ là biểu hiện mà còn
là nhân tố để mở rộng và phát huy dân chủ. Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa
đang là một trong những yêu cầu, một trong những phương diện được nhấn mạnh
trong "Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020". Điều đó đòi hỏi nâng
cao hơn nữa tính tích cực về mặt xã hội của công dân trong điều kiện hiện
nay. Tính chuyên nghiệp trong hoạt động nghề nghiệp cũng là một trong những yêu
cầu mang tính thời đại. Với sự phát triển của kinh tế thị trường và tiến bộ công
nghệ, sự phân công lao động ngày một chuyên sâu đã dẫn đến sự đa dạng của các
loại hình lao động nghĩa là các loại hình nghề nghiệp. Những yêu cầu của hoạt
động nghề nghiệp trong điều kiện hiện đại đòi hỏi người lao động phải có sự phát
triển tương ứng về trách nhiệm nghề nghiệp, trình độ chuyên môn, phong cách làm
việc. Những phẩm chất đó tạo nên tính chuyên nghiệp và do đó tính hiệu quả của
hoạt động. Dưới ảnh hưởng của lề lối làm ăn cũ cùng những yếu kém trong quản lí,
sự thiếu gương mẫu của những người có trách nhiệm, tính thiếu chuyên nghiệp
đang là một trong những hạn chế cần khắc phục trong hoạt động nghề nghiệp ở
nước ta hiện nay. Cũng với sự phát triển của kinh tế thị trường và tiến bộ công

nghệ, nhu cầu và khả năng khai thác tự nhiên phục vụ sản xuất và tiêu dùng đang
vượt quá sức chịu đựng của tự nhiên. Cạn kiệt tài nguyên và biến đổi khí hậu đang
tác động bất lợi đến sự phát triển của mọi quốc gia và trở thành vần đề toàn cầu.
Bảo vệ môi trường là đòi hỏi của thời đại và do đó, ý thức sinh thái trở thành yêu
cầu, trở thành sức mạnh mà chúng ta không thể xem nhẹ được.
14


Như vậy, tinh thần sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật, tính tích
cực về mặt xã hội của công dân, tính chuyên nghiệp của hoạt động nghề nghiệp, ý
thức sinh thái, cùng nhiều giá trị khác nữa là những giá trị, những sức mạnh đặc
trưng cho thời đại mà chúng ta còn yếu hoặc thiếu; và do đó, cần học tập, tiếp thu
để bổ sung, làm phong phú Bảng giá trị tinh thần của xã hội Việt Nam - động lực,
nguồn lực tinh thần của sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Với tư cách là nguồn lực của phát triển, sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời
đại là thống nhất. Tuy nhiên, việc huy động và kết hợp hai nguồn lực này trong
thực tế là có một vấn đề mà nếu không giải quyết hợp lý thì hiệu quả sẽ không cao.
Tuyệt đối hoá sức mạnh dân tộc, xem nhẹ sức mạnh thời đại hay ngược lại, tuyệt
đối hoá sức mạnh thời đại, xem nhẹ sức mạnh dân tộc đều là cách nhìn nhận phiến
diện và bất lợi cho phát triển.
Ngày nay, việc tuyệt đối hoá sức mạnh dân tộc thường được lí giải rằng, chỉ
những nhân tố bên trong là trực tiếp quyết định sự phát triển của sự vật. Nếu quá
chú ý đến sức mạnh thời đại có nghĩa là hạn chế việc phát huy các yếu tố nội lực;
là lệ thuộc vào nước ngoài, là dẫn tới mất độc lập, mất bản sắc trong phát triển.
Ngược lại, việc tuyệt đối hoá sức mạnh bên ngoài lại được biện minh bằng tính
quy định của thời đại đối với phát triển. Những giá trị thời đại là những giá trị hình
thành trong quá trình hiện đại hoá đã dẫn đến những thành công, đặc biệt là những
thành công về kinh tế, công nghệ ở các nước phát triển. Chúng mang ý nghĩa phổ
quát và đặc trưng cho thời đại. Hiện đại hoá xã hội, do vậy, không thể xem nhẹ
tính quy luật này; không thể không coi trọng và tiếp nhận những nguồn lực, những

giá trị mang tính quốc tế, tính thời đại. Nếu quá chú ý đến nội lực thì sẽ rơi vào bảo
thủ, biệt lập, trì trệ, tụt hậu.
Từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ
giữa cái chung và cái riêng, giữa cái giai cấp, cái dân tộc và cái nhân loại phổ biến,
có thể khẳng định rằng, giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại có mối quan
hệ biện chứng. Trong quan hệ này,việc phát huy sức mạnh dân tộc là có ý nghĩa
15


quyết định, là cơ sở để mở rộng và tăng cường việc tranh thủ một cách có hiệu quả
sức mạnh thời đại, và ngược lại, việc tận dụng sức mạnh thời đại là nhân tố không
thể thiếu để phát triển và khơi dậy tiềm năng, sức mạnh dân tộc.
Trong quá trình lãnh đạo Cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh
không khi nào xem nhẹ ngoại lực, sức mạnh thời đại, nhưng Người luôn nêu cao
tinh thần "tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính”. Dựa vào sức mình là chính
đòi hỏi phải đẩy mạnh việc tạo dựng nội lực, phát huy sức mạnh dân tộc. Sức
mạnh dân tộc bao gồm cả những nguồn lực tự nhiên, kinh tế, văn hoá, con người,...
Do vậy, việc phát huy sức mạnh dân tộc đòi hỏi không chỉ đẩy mạnh tạo dựng,
phát triển từng nguồn lực với tư cách là yếu tố cấu thành sức mạnh dân tộc, mà còn
đòi hỏi kết hợp các yếu tố đó thành một hợp lực. Nói cách khác, yêu cầu phát huy
sức mạnh dân tộc đòi hỏi phát triển đồng bộ các thành phần, các yếu tố của nội lực,
sức mạnh dân tộc. Chủ động và tích cực xây dựng nội lực không chỉ có nghĩa là
làm gia tăng bản thân nội lực, mà còn có nghĩa là tạo ra điều kiện để tiếp nhận
ngoại lực. Hồ Chí Minh từng khẳng định rằng, muốn người ta giúp mình thì trước
hết mình phải tự giúp mình đã. Phải đẩy mạnh xây dựng lực lượng bản thân mới
tạo ra được "thế" và "lực" để tiếp nhận sự giúp đỡ từ bên ngoài. Hơn thế, từ bình
diện chính trị có thể thấy, có xây dựng được nội lực, phát huy được sức mạnh dân
tộc mới bảo đảm giữ vững đượcđộc lập, tự chủ trên mọi lĩnh vực: kinh tế, chính trị,
văn hoá, an ninh,... Đại hội Đảng lần thứ XI khẳng định : "Trong bất kì hoàn cảnh
nào cũng cần kiên định ý chí độc lập, tự chủ và nêu cao tinh thần hợp tác quốc

tế”13. Độc lập, tự chủ chính là yêu cầu sống còn, là bản sắc, lẽ sống của dân tộc ta.
Trong điều kiện hiện nay, những thành quả mà nhân loại đạt được trong thế
giới hiện đại là những yếu tố vô cùng quan trọng đối với sự phát triển đất nước ta.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ (2011) và Chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội 2011- 2020 đã khẳng định rằng, mục tiêu của chúng ta là làm
sao đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại,
đến giữa thế kỉ XXI trở thành nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Mục tiêu đó, một mặt, đòi hỏi phải hiện đại hoá các yếu tố nội lực, mặt
16


khác, đòi hỏi phải chủ động tích cực tiếp như các yếu tố ngoại lực, hiện đại tiêu
biểu cho thời đại. Vốn nước ngoài, công nghệ hiện đại cùng những giá trị văn hoá
tinh thần gắn liền với công nghệ hiện đại là nguồn ngoại lực, sức mạnh thời đại cần
thiết cho sự phát triển đất nước hiện nay. Các yếu tố ngoại lực đó chính là tác nhân
quan trọng không thể thiếu để hiện đại hoá đất nước. Nhưng, như đã phân tích,
những vấn đề ngoại lực chỉ có thể phát huy tác dụng khi được tiếp nhận và chuyển
hóa thành sức mạnh bên trong, thành nội lực. Về vấn đề này, Hồ Chí Minh từng
viết: "Các nước bạn giúp ta cũng như thêm vốn cho ta, ta khéo dùng cái vốn ấy để
bồi bổ lực lượng của ta, phát triển khả năng của ta” 14. Đó chính là biện chứng của
quan hệ giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại .
Như vậy, biện chứng của quan hệ giữa nội lực và ngoại lực, giữa sức mạnh
dân tộc và sức mạnh thời đại dẫn đến yêu cầu là: tăng cường và phát huy những
sức mạnh dân tộc cho phát triển, tạo cơ sở và điều kiện để tiếp nhận những sức
mạnh của thời đại. Đồng thời chủ động và tích cực tiếp sức thời đại, dân tộc hoá
chúng, biến chúng thành sức mạnh bên trong cho phát triển. Thực hiện đồng bộ và
hiệu quả hai yêu cầu đó sẽ tạo ra hợp lực, sức mạnh tổng hợp cho sự phát triển đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
2.3. Nội dung bài học kinh nghiệm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế của cách mạng

Việt Nam
2.3.1. Đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, phân tích khách
quan, khoa học tình hình thế giới, trong nước để giải quyết đúng đắn mối
quan hệ giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với
sức mạnh quốc tế
Phải đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, vận dụng phương pháp
luận khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, phân tích đúng đắn tình hình thế giới,
trong nước mới có thể giải quyết đúng đắn mối quan hệ kết hợp sức mạnh dân tộc
và sức mạnh thời đại.

17


Chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ ra sứ mệnh lịch sử thế giới, của giai cấp công nhân,
bản chất quốc tế và tính dân tộc của giai cấp công nhân, đồng thời khẳng định vị trí, vai
trò của nó trong thời đại mới. Thời đại ngày nay, giai cấp công nhân giữ vị trí trung tâm,
là giai cấp quyết định nội dung, phương hướng phát triển của thời đại. Lợi ích của giai
cấp công nhân phù hợp với lợi ích của dân tộc và lợi ích chung của nhân loại. Mục tiêu
nhất quán của giai cấp công nhân không chỉ giải phóng giai cấp mà còn giải phóng dân
tộc, giải phóng nhân loại, giải phóng con người khỏi áp bức, bất công xã hội, xây dựng
một chế độ xã hội tốt đẹp. Để thực hiện được mục tiêu đó, giai cấp công nhân phải tập
hợp được xung quanh mình một lực lượng cách mạng rộng rãi, cả trong nước và quốc tế.
Do đó, chỉ có đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân mới kết hợp được sức mạnh
dân tộc và sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế một cách đúng
đắn, bảo đảm thống nhất giữa lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc và lợi ích chung của nhân
loại.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế là yêu cầu khách quan
của cách mạng vô sản. Song, sự kết hợp ấy phải có nội dung, hình thức phù hợp
với điều kiện lịch sử cụ thể. V.I.Lênin cho rằng, mỗi nhiệm vụ chính trị phải được

đặt đúng trong hoàn cảnh cụ thể. Trong xem xét sự vật, hiện tượng, chủ nghĩa
Mác-Lênin đòi hỏi phải có quan điểm khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể và phát
triển. Thực tế lịch sử cho thấy, tiến trình cách mạng vô sản diễn ra ở các nước
không giống nhau về thời gian và trình độ phát triển của cách mạng. Đặc điểm của
mỗi giai đoạn trong thời đại và những diễn biến cụ thể của tình hình thế giới trong
mỗi thời điểm cụ thể cũng không giống nhau. Điều đó đặt ra đối với tất cả các
Đảng Cộng sản phải phân tích một cách khách quan, khoa học tình hình thế giới và
trong nước, đánh giá đúng những điều kiện lịch sử cụ thể thì mới xác định chính xác
nội dung, phương hướng, hình thức cụ thể, kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế đạt hiệu quả cao nhất.
Lịch sử cách mạng Việt Nam hơn 80 năm qua cho thấy, Đảng ta luôn đứng
vững trên lập trường giai cấp công nhân, phân tích khách quan, khoa học tình hình
thế giới và trong nước, đã kết hợp tốt sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế.

18


Khi Đảng ra đời, trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã xác định: cách mạng
Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới.
Thời kỳ đấu tranh giành chính quyền, Đảng luôn nắm vững mối quan hệ
khăng khít giữa cách mạng nước ta và cách mạng thế giới đề ra đường lối chiến
lược và sách lược đúng đắn, giải quyết tốt lợi ích dân tộc và lợi ích quốc tế, lãnh
đạo nhân dân cả nước đấu tranh giành chính quyền thắng lợi.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Đảng
đã sáng suốt phân tích hàng loạt nhân tố chủ quan và khách quan, nắm bắt nhạy
bén tình hình trong nước, thế giới, tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi, hạn chế
đến mức thấp nhất những tác động khó khăn từ bên ngoài để đẩy mạnh kháng
chiến. Đặc biệt, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đứng vững trên lập
trường giai cấp công nhân, phân tích khách quan, khoa học tình hình thế giới và

trong nước Đảng đã đề ra và lãnh đạo cả nước tiến hành đồng thời hai chiến lược
cách mạng, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân ở miền Nam, vừa đẩy mạnh chiến tranh cách mạng trong nước, vừa tích
cực góp phần vào sự nghiệp giữ gìn hòa bình của nhân dân thế giới, giải quyết đúng
đắn mối quan hệ giữa đẩy mạnh chiến tranh cách mạng và bảo vệ hòa bình. Vì vậy,
cách mạng nước ta đã tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ có hiệu quả của tất cả các
dân tộc, của cả loài người tiến bộ. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại,
tạo nên sức mạnh tổng hợp đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược và giành nhiều thắng
lợi trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Bước vào thời kỳ cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội, đứng vững trên lập trường
của giai cấp công nhân, vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, phân
tích khách quan, khoa học tình hình đất nước, đánh giá đúng những chuyển biến của
tình hình thế giới, đặc điểm và xu thế thời đại, Đảng đã kết hợp sáng tạo mối quan hệ
sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế, đề
ra đường lối, phương pháp cách mạng đúng đắn, từng bước đưa cách mạng tiến lên đạt
thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử.
Ngày nay, tình hình thế giới đang có những chuyển biến nhanh chóng và phức
tạp, đòi hỏi phải đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, vận dụng
phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, nhận định đúng tình hình
thế giới và trong nước để có chủ trương phù hợp nâng cao hiệu quả của việc kết
19


hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh
quốc tế.
Chỉ trên cơ sở đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, vận dụng
phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
chúng ta mới nắm được những diễn biến và dự báo chính xác diễn biến của tình
hình thế giới, trong nước đề ra đường lối đối nội, đối ngoại phù hợp, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế,

đưa cách mạng tiến lên.
2.3.2. Giữ vững độc lập, tự chủ mở rộng đoàn kết, hợp tác quốc tế, thường
xuyên đấu tranh chống tư tưởng dân tộc hẹp hòi, ích kỷ, dân tộc nước lớn
Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã khẳng định vị trí, vai trò,
mối quan hệ giữa nhân tố bên trong và nhân tố bên ngoài đối với sự phát triển của
cách mạng mỗi nước. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, độc lập tự chủ, tự lực, tự cường phát huy sức mạnh trong nước là nhân tố
quyết định thành công của cách mạng; đoàn kết, hợp tác quốc tế, là rất quan trọng
không thể thiếu được. Độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường và mở rộng đoàn kết, hợp
tác quốc tế có mối quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ cho nhau. Có độc lập, tự chủ
thì mới mở rộng, tranh thủ được đoàn kết, hợp tác quốc tế, ngược lại có mở rộng
hợp tác quốc tế mới làm tăng lên sức mạnh của dân tộc, qua đó mà tăng cường khả
năng giữ vững độc lập tự chủ.
Quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng luôn chú trọng giải quyết
đúng đắn giữa độc lập tự chủ và mở rộng đoàn kết hợp tác quốc tế trong đường lối,
chủ trương và trong chỉ đạo thực tiễn đưa cách mạng đến thắng lợi.
Trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền, Đảng đã đề ra đường lối chiến
lược và sách lược độc lập, tự chủ, sáng tạo và chỉ đạo thực tiễn đúng đắn, luôn nêu
cao tinh thần độc lập, tự chủ đồng thời tranh thủ được điều kiện quốc tế thuận lợi
để thúc đẩy sự phát triển của cách mạng. Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành
tổng khởi nghĩa thành công giành chính quyền trong cả nước.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, nhờ có đường lối
kháng chiến “toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh”, Đảng và nhân dân
ta đã tạo ra điều kiện để tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của quốc tế, đưa tới thắng
20


lợi trong cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953 - 1954 mà đỉnh cao là Chiến
dịch Điện Biên Phủ, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, bên cạnh những thuận lợi cơ
bản, còn có những khó khăn phức tạp về nhiều mặt. Đất nước tạm thời chia làm hai
miền với hai chế độ chính trị - xã hội khác nhau ; Đảng ta đứng trước sức ép từ
nhiều phía, với nhiều ý kiến khác nhau về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
của dân tộc ta. Nhưng với truyền thống và kinh nghiệm giữ vững độc lập tự chủ, tự
lực tự cường, Đảng đã đề ra đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược cách
mạng: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân ở miền Nam. Với đường lối cách mạng đúng đắn và sự chỉ đạo linh hoạt, sáng
tạo, Đảng đã phát huy cao độ sức mạnh trong nước, sức mạnh dân tộc, đồng thời
tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ và giúp đỡ to lớn của các nước xã hội chủ
nghĩa, các lực lượng cách mạng, tiến bộ trên thế giới trong điều kiện phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế có sự bất hoà nghiêm trọng. Thắng lợi hoàn toàn
của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước một lần nữa chứng tỏ
trí tuệ, bản lĩnh và tinh thần độc lập tự chủ, tự tực tự cường của Đảng và nhân dân
ta, sự kết hợp có hiệu quả sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong bối cảnh
đất nước và thế giới có nhiều khó khăn, phức tạp.
Thời kỳ Đảng lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa trên phạm vi cả nước,
đặc biệt là trong công cuộc đổi mới vừa qua đã chứng tỏ rằng: khi nào Đảng ta
giữ vững độc lập tự chủ, tự lực tự cường và tranh thủ mọi khả năng mở rộng đoàn
kết, hợp tác quốc tế thì cách mạng phát triển và giành thắng lợi, nếu không cách
mạng sẽ gặp khó khăn, tổn thất. Chính vì vậy công cuộc đổi mới đã khai thác và
phát huy được sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại để phát triển đất nước.
Cách mạng nước ta qua các thời kỳ lịch sử cho thấy, giữ vững độc lập tự
chủ đồng thời tranh thủ mọi khả năng đoàn kết, hợp tác quốc tế là quan điểm
nhất quán, đồng thời là kinh nghiệm lớn của Đảng ta để thực hiện kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Vận dụng kinh nghiệm này trong điều
kiện hiện nay, trước hết đòi hỏi Đảng ta phải độc lập tự chủ trong đề ra đường
lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, trong tổ chức thực hiện, phải xuất
phát từ thực tiễn Việt Nam, trung thành, vận dụng, phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; độc lập, tự chủ sáng tạo, dựa vào sức

21


mình là chính, phát huy cao độ nội lực, coi đó là nhân tố quyết định thắng lợi
của cách mạng, không ỷ lại, hoặc học tập kinh nghiệm nước ngoài máy móc.
Tuy nhiên, độc lập tự chủ, tự lực tự cường không có nghĩa là đóng cửa khép
kín, biệt lập với bên ngoài, tự cô lập mình mà phải gắn liền với mở rộng đoàn
kết hợp tác quốc tế. Ngày nay, không một nước nào có thể tách biệt khỏi các
quan hệ quốc tế mà có thể phát triển được. Độc lập tự chủ, tự lực tự cường và
mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế có mối quan hệ mật thiết với nhau, làm điều
kiện cho nhau. Phải mở rộng quan hệ quốc tế trên cơ sở giữ vững độc lập tự
chủ, giữ gìn bản sắc truyền thống dân tộc, đồng thời tiếp thu những tinh hoa trí
tuệ, những thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của nhân loại.
Để giữ vững độc lập tự chủ, đồng thời tranh thủ mọi khả năng mở rộng đoàn kết,
hợp tác quốc tế đòi hỏi chúng ta phải chống chủ nghĩa dân tộc cực đoan, sô vanh nước
lớn, nó là những trở ngại đối với việc thực hiện sự đoàn kết, hợp tác giữa các dân tộc.
Việc chống chủ nghĩa dân tộc cực đoan, là điều kiện quan trọng để giữ vững độc lập
tự chủ và tăng cường đoàn kết, hợp tác quốc tế.
2.3.3. Thực hiện “thêm bạn, bớt thù”, lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ
kẻ thù
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, thực hiện thêm bạn, bớt thù, lợi
dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù là nguyên tắc của cách mạng vô sản, cả
trong đấu tranh giành chính quyền cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
chế độ xã hội mới. Sự tồn tại những mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù là một thực tế
khách quan nảy sinh từ bản chất của kẻ thù, bắt nguồn sâu xa từ quan hệ chiếm
hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng của
giai cấp công nhân cần thiết phải phát hiện và lợi dụng những mâu thuẫn, những
rạn nứt nhỏ nhất trong hàng ngũ kẻ thù, nhằm triệt để phân hóa chúng làm cho
chúng suy yếu, tạo điều kiện thay đổi so sánh lực lượng có lợi cho sự phát triển của
cách mạng.

Một trong những đặc điểm của cách mạng nước ta là luôn luôn phải đương
đầu với những kẻ thù có tiềm lực kinh tế, quân sự lớn mạnh hơn mình gấp nhiều
lần. Có khi cách mạng nước ta cùng một lúc phải đương đầu với nhiều kẻ thù,
do đó cách mạng đòi hỏi phải tập hợp được nhiều đồng minh và bầu bạn, lợi
dụng mâu thuẫn phân hóa, hạn chế và làm suy yếu sức mạnh của từng kẻ thù. Các
22


thế lực thù địch thống nhất với nhau một mục đích chống lại độc lập, thống nhất và
chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta, nhưng giữa chúng có sự khác nhau, thậm chí
mâu thuẫn nhau về lợi ích riêng. Từ thực tế đó, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
sớm chỉ ra khả năng và sự cần thiết lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù,
phân hóa, làm suy yếu chúng, thực hiện thêm bạn, bớt thù, bảo đảm cho thắng lợi
của cách mạng.
Thực hiện “thêm bạn, bớt thù”, lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù là
kinh nghiệm lớn được Đảng ta tổng kết từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, đó là
yếu tố quan trọng đưa cách mạng đến thắng lợi.
Ngày nay, để tạo được môi trường quốc tế thuận lợi phục vụ cho sự nghiệp
đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng chủ trương tiếp
tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở theo phương châm thêm
bạn, bớt thù. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã nêu rõ: Thực
hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển;
đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc
tế.... là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc
tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội
trên thế giới.
Trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình hiện nay, Đảng ta cho rằng
phải có nhận thức đúng đắn về đối tượng và đối tác. Theo đó, những ai chủ trương
tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác
bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta. Bất kể thế lực

nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội của cách mạng nước ta đều là đối tượng đấu tranh. Mặt khác, trong tình hình
hiện nay cần có cách nhìn biện chứng, trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần
tranh thủ, hợp tác, trong một số đối tác có thể có mặt khác biệt, mâu thuẫn với lợi
ích của ta. Những tư duy mới của Đảng ta về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, về đối
ngoại trong tình hình mới có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc thực hiện chính
sách thêm bạn, bớt thù nhằm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.

23


2.3.4. Phát huy sức mạnh tổng hợp trong hoạt động đối ngoại
Quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng luôn xây dựng và phát huy
sức mạnh tổng hợp để giành thắng lợi cho cách mạng. Trong đó, Đảng rất coi trọng
và vận dụng thành công phương pháp phát huy sức mạnh tổng hợp trên mặt trận
đối ngoại nhằm tăng cường đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại.
Trong chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước, Đảng đã lãnh đạo kết hợp chặt chẽ đấu tranh ngoại giao
với đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị tạo ra sức mạnh tổng hợp to lớn và
vững chắc để giành thắng lợi.
Từ khi cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là trong công cuộc đổi mới
toàn diện đất nước, Đảng đã lãnh đạo kết hợp chặt chẽ giữa yêu cầu phát triển kinh tế,
văn hóa với nhiệm vụ mở rộng hợp tác quốc tế, giữa nhiệm vụ tăng cường giao lưu
quốc tế với nhiệm vụ bảo đảm quốc phòng, an ninh, phát huy sức mạnh của nhiều lực
lượng, của các cấp, các ngành trong hoạt động đối ngoại, nhằm phát huy sức mạnh tổng
hợp trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Để kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với
sức mạnh quốc tế có hiệu quả trong quá trình lãnh đạo cách mạng Đảng ta cần tiếp
tục phát huy và nâng lên tầm cao mới những kinh nghiệm được tổng kết, góp phần

tạo nên sức mạnh tổng hợp thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
2.4. Yêu cầu của sự kết hợp kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời,
sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế trong điều kiện hiện nay
Phát huy sức mạnh dân tộc hiện nay đòi hỏi phải củng cố vững chắc độc lập
dân tộc, kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, lựa chọn hình thức, bước đi, mô
hình chủ nghĩa xã hội phù hợp với thực tiễn Việt Nam, kết hợp nguyên lý chung
với đặc điểm, đặc trưng dân tộc; nêu cao hơn nữa ý chí tự lực, tự cường, độc lập, tự
chủ, sáng tạo, phát huy nội lực, bản sắc và truyền thống dân tộc. Kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại đòi hỏi tăng cường đoàn kết hợp tác với các nước xã
hội chủ nghĩa, với các Đảng Cộng sản và công nhân, với phong trào cách mạng và
24


tiến bộ trên thế giới; chủ động hội nhập quốc tế, tranh thủ có hiệu quả các thành
tựu của cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới, mặt tích cực trong xu thế
toàn cầu hóa; tranh thủ môi trường hoà bình hữu nghị và hợp tác để thúc đẩy đất
nước phát triển nhanh, khắc phục nguy cơ tụt hậu về kinh tế, rút ngắn khoảng cách
giữa nước ta và các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới
Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức
mạnh quốc tế trong điều kiện hiện nay đòi hỏi:
Một là, phải kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế
của giai cấp công nhân
Đây là nguyên tắc chiến lược của cách mạng vô sản, cũng là tình cảm của
những người cách mạng. Chủ nghĩa yêu nước chân chính hiện nay đòi hỏi yêu
nước trên lập trường giai cấp công nhân, độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Sự kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế của
giai cấp công nhân là cơ sở giải quyết đúng đắn mối quan hệ giai cấp và dân tộc,
dân tộc và quốc tế. Bất kể trong điều kiện lịch sử nào, đường lối chiến lược của
Đảng Cộng sản cũng phải thể hiện sự thống nhất giữa lợi ích dân tộc chân chính và

chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân. Trong xác định mục tiêu, nhiệm vụ của
cách mạng phải bảo đảm thống nhất lợi ích giai cấp công nhân với lợi ích dân tộc,
giữa yêu cầu thực hiện nhiệm vụ cách mạng nước mình với thực hiện nghĩa vụ
quốc tế, góp phần thúc đẩy sự nghiệp cách mạng thế giới.
Hai là, kết hợp lợi thế và nguồn lực trong nước với nguồn lực ngoài
nước.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hợp tác quốc tế, kết hợp nguồn lực trong
nước với nguồn lực bên ngoài là xu thế khách quan. Đối với nước ta sự kết hợp đó
lại càng đặc biệt quan trọng vì đi lên chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát thấp về
kinh tế. Qua hơn 25 năm đổi mới, đất nước ta đã có sự thay đổi cơ bản và toàn
diện, tuy nhiên, nước ta vẫn đang đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau
và diễn biến phức tạp không thể xem thường. Đặc biệt kinh tế còn lạc hậu so với
25


×