TIỂU LUẬN:
Nâng cao chất lượng bảo đảm
trong hoạt động cho vay tại chi
nhánh Ngân Hàng Công Thương
Thái Nguyên
LỜI MỞ ĐẦU
Năm 2007 là năm đã đánh dấu sự thành công rực rỡ của nền kinh tế Việt Nam
với tốc độ tăng trưởng kinh tế 8,5%. Trong sự thành công đó có sự đóng góp
không nhỏ của hệ thống Ngân Hàng Thương Mại.
Mặc dù các NHTM nhà nước đang gặp khó khăn do sự lớn mạnh của các
NHTM cổ phần hiện nay, tuy nhiên đây vẫn là năm thành công của khối NHTM
Nhà nước. Họ liên tục tăng vốn điều lệ, lợi nhuận tăng cao, đầu tư vào các công
nghệ hiện đại, các dịch vụ đa dạng nhằm thu hút khách hàng.
Với sự lớn mạnh của nền kinh tế như hiện nay thì nhu cầu vốn của các doanh
nghiệp cũng như các tổ chức kinh tế để thực hiện các dự án đầu tư, mở rộng quy
mô sản xuất kinh doanh là rất lớn và giải pháp tối ưu của họ là tìm đến ngân hàng
để vay vốn. Để đảm bảo an toàn cho những khoản cho vay của mình các NHTM
thường yêu cầu khách hàng đi vay phải có tài sản bảo đảm(TSBĐ) cho khoản vay
đó nhằm hạn chế rủi ro mất vốn có thể xảy ra.
Tài sản bảo đảm là nguồn thu nợ thứ hai của các NHTM khi khách hàng do
nguyên nhân khách quan hoặc chủ quan nào đó mà không có khả năng trả nợ. Vì
vậy mà việc thẩm định, quản lý TSBĐ là vô cùng quan trọng đối với ngân hàng.
Ngân hàng cần phải nâng cao chất lượng bảo đảm tài sản.
Xuất phát từ việc nhận thấy được tầm quan trọng của TSBĐ trong hoạt động cho
vay của NHTM nên trong quá trình thực tập tại chi nhánh NHCT Thái Nguyên,
em đã chọn đề tài : “Nâng cao chất lượng bảo đảm trong hoạt động cho vay tại
chi nhánh Ngân Hàng Công Thương Thái Nguyên ’’ để làm bài chuyên đề thực
tập.
Với chuyên đề này em xin đưa ra những nhận định tổng quát và giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng bảo đảm trong hoạt động cho vay tại Chi Nhánh NHCT Thái
Nguyên. Bài viết của em được chia thành ba chương như sau :
CHƯƠNG 1 : Những vấn đề cơ bản về bảo đảm trong hoạt động cho vay của
NHTM.
CHƯƠNG 2 : Thực trạng bảo đảm bằng tài sản trong hoạt động cho vay tại chi
nhánh NHCT Thái Nguyên.
CHƯƠNG 3 : Giải pháp nâng cao chất lượng bảo đảm bằng tài sản trong hoạt
động cho vay tại chi nhánh NHCT Thái Nguyên.
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ BẢO ĐẢM TRONG HOẠT ĐỘNG CHO
VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 NHTM và hoạt động của NHTM.
1.1.1 Khái niệm NHTM.
NHTM là ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt
động kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận , góp phần thực hiện các
mục tiêu kinh tế của Nhà nước. Hoạt động ngân hàng gồm các hoạt động như :
huy động vốn, hoạt động tín dụng, dịch vụ thanh toán, ngân quỹ và các hoạt động
khác.
1.1.2 Hoạt động chủ yếu của ngân hàng.
1.1.2.1 Hoạt động huy động vốn.
Ngân hàng muốn dễ dàng tìm kiếm nguồn vốn thì trước hết phải đa dạng hoá
hình thức huy động. Hình thức huy động càng phong phú thì ngân hàng càng dễ
huy động hơn. NHTM có thể huy động bằng cách huy động tiền gửi tiết kiệm
trong đó đưa ra nhiều thời hạn khác nhau cho các loại tiền gửi tiết kiệm có kỳ
hạn, tiền gửi không kỳ hạn của các tổ chức, cá nhân; huy động bằng cách phát
hành kỳ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác; các hình thức huy động vốn
khác theo quy định của NHNN. Cụ thể như :
Hoạt động huy động tiền gửi không kỳ hạn : đây là loại tiền gửi mà chủ
nhân của nó có thể rút tiền hoặc trả cho bên thứ ba bằng cách phát hành
séc. Vì vậy mà nó còn có tên tiền gửi có thể phát hành séc. Ở Việt Nam
tiền gửi này được thể hiện dưới hình thức tài khoản tiền gửi không kỳ
hạn của các tổ chức kinh tế và tài khoản tiền gửi các nhân. Do tỷ trọng
thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt Nam còn thấp nên để khuyến
khích việc thanh toán quan ngân hàng các NHTM đã tiến hành trả lãi cho
loại tiền gửi này. Tuy nhiên lãi suất của loại tiền gửi này thấp.
Huy động tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm: Đối với tiền gửi có kỳ
hạn thì lãi suất có thể cố định hoặc linh hoạt tuỳ theo sự lựa chọn của
khách hàng. Đối với tiền gửi tiết kiệm gồm có tiền gửi tiết kiệm không
kỳ hạn, có kỳ hạn và tiết kiệm dài hạn. Ở Việt Nam chủ yếu là loại hình
tiết kiệm có kỳ hạn: 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 7 tháng, 9 tháng, 12
tháng…
Huy động qua phát hành trái phiếu, kỳ phiếu và các giấy tờ có giá khác:
đây là các công cụ vay nợ dài hạn trên thị trường vốn dưới hình thức
giậy nhận nợ do các tổ chức tín dụng phát hành để huy động trong đó
cam kết trả gốc và lãi sau một thời gian nhất định cho người mua. Hình
thức này giúp các NHTM chủ động trong việc huy động vốn để thực
hiện các dẹ án đầu tư dài hạn, nó có tính ốn định cao về thời gian sử
dụng và lãi suất. Đây là một cách tạo vốn nhanh chóng.
Huy động qua việc đi vay như vay ngân hàng nhà nước thường là vay tái
chiết khấu, đây là sân sau đối với hoạt động huy động vốn nhằm gia tăng
vốn khả dụng trong kinh doang của NHTM; vay các tổ chức tín dụng
khác đó là khoản vay thông thường mà các NHTM vay lẫn nhau trên thị
trường liên ngân hàng hay thị trường tiền tệ.
1.1.2.2 Hoạt động tín dụng.
Hoạt động tín dụng là một trong những hoạt động cơ bản và quan trọng của
NHTM. Hoạt động tín dụng thu hút tập trung mọi nguồn vốn tiền tệ tạm thởi nhàn
rỗi của các tổ chức kinh tế, dân cư để đầu tư cho quá trình mở rộng sản xuất, tăng
trưởng kinh tế, đáp ứng đầy đủ nhu cầu về vốn, thúc đẩy lưu thông hàng hoá,
tăng tốc độ chu chuyển vốn cho xã hội, góp phần thúc đẩy tái sản xuất mở rộng,
tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế phát triển bền vững.
Một số hoạt động tín dụng của NHTM như: cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài
hạn; chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá khác; bảo lãnh vay, bảo lãnh
thanh toán…Cụ thể như sau:
NHTM được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho
vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê
tài chính và các hình thức khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
NHTM cho các tổ chức, các nhân vay vốn dưới các hình thức: Cho vay
ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ,
đời sống. Cho vay trung hạn và dài hạn để thực hiện các dự án đầu tư
phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống.
NHTM còn tiến hành các hình thức chiết khấu thương phiếu và các giấy
tờ có giá ngắn hạn khác cho các tổ chức, cá nhân. Tái chiết khấu thương
phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác đối với các tổ chức tín dụng
khác.
Trong quá trình cho vay các NHTM cần xét duyệt việc cho vay theo một
quy trình nhất định: lập hợp đồng tín dụng, thẩm định khách hàng vay
vốn, ra quyết định tín dụng, tiến hành giải ngân, giám sát quá trình thực
hiện hợp đồng, thu nợ và xử lý nợ.
Quá trình thẩm định khách hàng vay vốn ngân hàng sẽ tiến hành yêu cầu
khách hàng công khai tình hình tài chính của mình, trình bày phương án,
dự án đầu tư và thu hồi nợ trước hạn khi phát hiện khách hàng cung cấp
thông tin sai sự thật, vi phạm hợp đồng tín dụng.
NHTM phải tuân thủ các quy định về bảo đảm tiền vay, chính sách lãi
suất, có quyền xử lý tài sản đảm bảo tiền vay của khách hàng vay, tài sản
của người bảo lãnh trong việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh để thu hồi nợ
theo quy định tại Nghị định của Chính phủ về bảo đảm tiền vay của các
tổ chức tín dụng.
Mức cho vay, bảo lãnh đối với một hách hàng và tổng mức cho vay, bảo
lãnh của một NHTM không được vượt quá tỷ lệ so với vốn tự có của
NHTM do NHNN quy định.
1.1.2.3 Dịch vụ thanh toán và ngân quỹ.
Hoạt động thanh toán và ngân quỹ phản ánh quá trình sử dụng vốn vào các mục
đích nhằm bảo đảm an toàn về khả năng thanh toán và thực hiện quy định về dự
trữ bắt buộc do ngân hàng nhà nước quy định. Các dịch vụ đó như:
Đối với dịch vụ ngân quỹ thì NHTM phải mở tài khoản tiền gửi tại NHNN
nơi NHTM đặt trụ sở chính và duy trì tại đó số dư tiền gửi dự trữ bắt buộc
theo quy định; được mở tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng khác theo quy
định của NHNN.
Các dịch vụ thanh toán của NHTM gồm có: Thực hiện các dịch vụ thanh
toán trong nước và các dịch vụ thanh toán khác theo quy định của NHNN
cho khách hàng , các dịch vụ thanh toán quốc tế, dịch vụ thu hộ và chi hộ,
thống thanh toán nội bộ và tham gia hệ thống liên ngân hàng trong nước
ngoài ra NHTM còn cung ứng các phương tiện thanh toán nhằm đa dạng
hoá thu hút khách hàng.
1.1.2.4 Các hoạt động khác.
Ngoài các hoạt động trên, NHTM còn có một số hoạt động khác như :
NHTM được dùng vốn điều lệ và quỹ dự trữ để góp vốn, mua cổ phần của
doanh nghiệp và của các tổ chức tín dụng khác trong nước theo quy định
của pháp luật. Mức góp vốn, mua cổ phần của NHTM trong một doanh
nghiệp, tổng mức góp vốn, mua cổ phần của NHTM trong tất cả các doanh
nghiệp không được vượt quá mức tối đa theo quy định của NHNN.
NHTM được tham gia thị trường tiền tệ theo quy định của NHNN
NHTM được quyền uỷ thác, nhận uỷ thác, làm đại lý trong các lĩnh vực
liên quan đến hoạt động ngân hàng kể cả việc quản lý tài sản, vốn đầu tư
của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo hợp đồng uỷ thác, đại lý.
NHTM được cung ứng dịch vụ bảo hiểm, được thành lập công ty trực
thuộc hoặc liên doanh để kinh doanh bảo hiểm theo quy định của pháp luật.
NHTM được cung ứng các dịch vụ :Tư vấn tài chính, tiền tệ cho khách
hàng dưới hình thức trực tiếp tư vấn cho khách hàng hoặc thành lập công ty
trực thuộc theo quy định của pháp luật; bảo quản hiện vật quý, giấy tờ có
giá, chi thuê tủ két, cầm đồ và các dịch vụ khác theo quy định của pháp
luật.
NHTM không được trực tiếp kinh doanh bất động sản.
1.2 Tổng quan về bảo đảm trong hoạt động cho vay của NHTM.
1.2.1 Nguyên nhân hình thành yêu cầu bảo đảm trong hoạt động cho vay của
NHTM.
Trong cho vay kinh doanh, nguồn thu nợ thứ nhất từ doanh tu thực tế đối với
cho vay ngắn hạn; từ khấu hao và lợi nhuận đối với cho vay trung và dài hạn.
Trong cho vay tiêu dùng nguồn thu nợ thứ nhất từ thu nhập cá nhân như tiền
lương, các khoản thu nhập tài chính (lãi tiền gửi, cổ tức, trái tức) và các khoản thu
nhập khác. Các nguồn thu nợ thứ nhất này thể hiện dưới hình thức lưu chuyển
tiền tệ của người đi vay. Trong hoạt động kinh doanh có muôn ngàn lý do dẫn đến
nguồn thu nợ thứ nhất không thực hiện được, nếu không có một nguồn bổ sung
tất yếu ngân hàng sẽ gặp rủi ro tín dụng.
Vì vậy, để bảo vệ lợi ích của mình các ngân hàng thường yêu cầu người đi vay
phải có các bảo đảm cần thiết, ngoại trừ những khách hàng hoạt động tốt và có
quan hệ tín dụng thường xuyên. Nguồn thu nợ thứ hai chính là đảm bảo nợ vay,
nó giúp ngân hàng phòng ngừa được những diễn biến không thuận lợi trong quá
trình kinh doanh.
1.2.2 Khái niệm bảo đảm tiền vay.
Bảo đảm tiền vay (hay còn gọi là bảo đảm tín dụng) là việc bảo vệ quyền lợi của
người cho vay dựa trên cơ sở thế, cầm cố tài sản thuộc sở hữu của người đi vay
hoặc bảo lãnh của bên thứ ba. Nhằm tạo cơ sở pháp lý và kinh tế để thu hồi được
các khoản nợ đã cho khách hàng vay, lãi vay và các khoản phí nếu có.
1.2.3 Các đặc trưng của bảo đảm tiền vay.
Xét một cách khái quát thù bất kỳ tài sản hoặc quyền về tài sản được phép giao
dịch mà có khả năng tạo ra lưu chuyển tiền tệ đều có thể dùng làm bảo đảm. Tuy
nhiên từ góc độ của người cho vay bảo đảm phải thể hiện được ba đặc trưng cơ
bản sau :
1.2.3.1 Giá trị của bảo đảm phải lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm.
Bảo đảm tiền vay không chỉ là nguồn thu nợ của ngân hàng mà còn có nghĩa vụ
thúc dục người đi vay phải trả nợ, nếu không họ sẽ mất tài sản. Nhưng nếu giá trị
của tài sản nhỏ hơn nghĩa vụ được bảo đảm thì người đi vay dễ có động cơ không
trả nợ.
Nghĩa vụ được bảo đảm bao gồm vốn gốc, lãi (kể cả lãi quá hạn) và các chi phí
khác trừ trường hợp các bên có thoả thuận lãi và các loại phí không thuộc phạm
vi bảo đảm được thực hiện nghĩa vụ.
Thường thì giá trị của khoản cho vay tối đa bằng 70% so với giá trị của tài sản
bảo đảm, tuy nhiên trong những trường hợp nhất định các ngân hàng sẽ có tỷ lệ
quy định nhất định đối với từng loại tài sản.
1.2.3.2 Tài sản phải có sẵn thị trường tiêu thụ.
Đây là điều kiện để ngân hàng có thể bán hoặc phát mại tài sản khi khách hàng
không trả được nợ.Mức độ thanh khoản của tài sản có quan hệ đến lợi ích của
người cho vay. Mức độ thanh khoản thấp hay nói cách khác là tài sản khó bán
thường khó được ngân hàng chấp nhận. Mức độ thanh khoản có thể chấp nhận
được nhưng phải tính đến chi phí do kéo dài thời gian xử lý. Vì vậy, khi xem xét
tài sản bảo đảm có thoả mãn nguyên tắc này hay không phải trả lời được các câu
hỏi như : Tài sản có tuân theo quy định pháp luật không?
Trên thị trường hiện tại có tài sản đó không?
Tài sản đó có thể bán được dễ dàng hay không?
Chi phí cho việc bán tài sản đó như thế nào?
Biến động giá của tài sản đó cao hay thấp?
1.2.3.3 Có đầy đủ cơ sở pháp lý để người cho vay có quyền ưu tiên về xử lý tài
sản.
Đặc trưng này phải thể hiện được các mặt sau : tài sản phải thuộc sở hữu hợp
pháp của nguời đi vay hoặc người bảo lãnh và được pháp luật cho phép giao dịch,
đồng thời phải có đủ các cơ sở pháp lý để ngân hàng - chủ thể cho vay được
quyền ưu tiên xử lý tài sản nhằm thu nợ khi người đi vay không thanh toán đúng
hạn.
1.2.4 Các nguyên tắc của bảo đảm tiền vay.
Khách hàng vay phải cầm cố, thế chấp tài sản (gồm cả tài sản hình thành từ vốn
vay) hoặc phải được bên thứ ba cầm cố, thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ trả nợ với ngân hàng, trừ trường hợp khách hàng vay được ngân hàng
cho vay có bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay hoặc cho vay không có
bảo đảm bằng tài sản theo quy định của Nghị định số 181/NĐ-CP về vấn đề bảo
đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng.
Ngân hàng và khách hàng vay thoả thuận lựa chọn áp dụng biện pháp bảo đảm
tài sản bằng cầm cố, thế chấp của khách hàng vay và/hoặc của bên thứ ba.
Ngân hàng có quyền lựa chọn tài sản đủ điều kiện để làm bảo đảm tiền vay;
lựa chọn bên thứ ba cầm cố, thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ
cho khách hàng vay. Trường hợp bên bảo đảm là cá nhân, tổ chức nước ngoài thì
ngân hàng được nhận bảo đảm đối với tài sản hợp pháp, hợp lệ ở Việt Nam. Đối
với tài sản đủ điều kiện làm bảo đảm tiền vay nhưng đang được bên bảo đảm cho
thuê; ngân hàng chỉ được nhận thế chấp khi đảm bảo xử lý được tài sản cho thuê
trong trường hợp xử lý để thu hồi nợ; hợp đồng thuê tài sản giữa bên cho thuê và
bên thuê có điều khoản quy định: Bên cho thuê phải giao tài sản cho ngân hàng
và hợp đồng thuê tài sản sẽ chấm dứt (kể cả trường họp hợp đồng cho thuê chưa
hết hiệu lực) nếu tài sản cho thuê bị ngân hàng xử lý để thu hồi nợ. Khi thế chấp
tài sản gắn liền với đất, khách hàng vay phải thế chấp cả giá trị quyền sử dụng đất
cùng với tài sản đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Sau khi xử lý tài sản, nếu khách hàng vay, bên vay, bên bảo lãnh vẫn chưa thực
hiện đúng nghĩa vụ trả nợ / trả thay thì khách hàng vay, bên bảo lãnh có trách
nhiệm tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả nợ / trả thay đã cam kết.
Trường hợp giao dịch bảo đảm tiền vay bị coi là vô hiệu từng phần hay toàn bộ
thì không ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng tín dụng mà giao dịch bảo đảm
đó là một điều kiện.
1.2.5 Các hình thức bảo đảm trong hoạt động cho vay của NHTM.
1.2.5.1 Bảo đảm tiền vay bằng tài sản.
Khái niệm : Bảo đảm tiền vay bằng tài sản là việc cho vay của ngân hàng cho
vay theo đó nghĩa vụ trả nợ của khách hàng vay được bảo đảm thực hiện bằng tài
sản của bên cầm cố, bên thế chấp, tài sản hình thành từ vốn vay của khách hàng
vay hoặc của bảo lãnh của bên thứ ba.
Tài sản đảm bảo tiền vay là tài sản được dùng để bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ trả nợ gồm tài sản thuộc quyền sở hữu, giá trị quyền sử dụng đất
của bên cầm cố, bên thế chấp.
Bảo đảm tiền vay có các hình thức sau : cầm cố, thế chấp bằng tài sản của khách
hàng vay, bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba.
1.2.5.2 Bảo đảm tiền vay không bằng tài sản.
Ngân hàng chủ động lựa chọn khách hàng vay để cho vay không có bảo đảm
bằng tài sản nếu đáp ứng đủ các điều kiện để cho vay không có bảo đảm bằng tài
sản như : điều kiện cho vay, mức cho vay và thẩm quyền quyết định cho vay
không có bảo đảm bằng tài sản được quy định tại các văn bản quy định cho vay
hiện hành của các NHTM.
Trường hợp cho vay không có bảo đảm bằng tài sản đối với khách hàng vay để
thực hiện các dự án đầu tư thuộc chương trình kinh tế đặc biệt, chương trình kinh
tế trọng điểm của Nhà nước, chương trình KT-XH và đối với một số khách hàng
thuộc đối tượng đang được hưởng các chính sách tín dụng ưu đãi về điều kiện
vốn vay theo quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ hoặc
của Thủ Tướng Chính phủ thì ngân hàng hực hiện theo các quy định cho vay và
hướng dẫn hiện hành của NHTM.
Các biện pháp bảo đảm tiền vay trong trường hợp không có TSBĐ gồm có bảo
lãnh của Chính Phủ, bảo lãnh bằng tín chấp của tổ chức chính trị - xã hội.
1.3 Bảo đảm bằng tài sản trong hoạt động cho vay của NHTM.
1.3.1 Khái niệm bảo đảm bằng tài sản.
Bảo đảm bằng tài sản là việc ngân hàng cho khách hàng vay với điều kiện
khách hàng phải có tài sản để làm đảm bảo rằng nếu khách hàng không thực hiện
được nghĩa vụ trả nợ thì ngân hàng sẽ có quyền xử lý tài sản ấy để thu hồi nợ.
Đối với cho vay có bảo đảm NHTM cần quan tâm tới biện pháp bảo đảm tiền
vay, loại tài sản bảo đảm, giá trị TSBĐ cho hoạt động tín dụng, mức độ biến động
của tài sản bảo đảm tiền vay trong thời gian vay vốn.
1.3.2 Các hình thức của bảo đảm bằng tài sản.
1.3.2.1 Cầm cố bằng tài sản của khách hàng vay vốn.
Khái niệm : Cầm cố tài sản là hình thức theo đó khách hàng vay, bên thứ ba (bên
cầm cố) chuyển quyền kiểm soát tài sản bảo đảm sang cho ngân hàng cho vay
trong thời gian cam kết để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ.
Tài sản cầm cố là động sản do cầm cố thích hợp với những tài sản ngân hàng có
thể kiểm soát và bảo quản tương đối chắc chắn, đồng thời việc ngân hàng nắm
giữ không ảnh hưởng đến quá trình hoạt động của khách hàng. Các tài sản này
gọn nhẹ, dễ quản lý, không chịu ảnh hưởng của các yếu tố môi trường tự nhiên.
Đối với hàng hoá ngân hàng thường chấp nhận các loại ít chịu tác động của môi
trường trong thời gian cầm cố.
Các tài sản có thể được cầm cố như :
Tài sản thực như xe cộ, máy móc, hàng hoá, vàng, tàu biển, máy bay…
Tiền gồm tiền mặt, tiền trên tài khoản.
Giấy tờ có giá như cổ phiếu, trái phiếu, hối phiếu…
Quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền
đòi nợ, quyền được nhận số tiền bảo hiểm…
Lợi tức và các quyền phát sinh từ tài sản cầm cố.
Ngân hàng yêu cầu cầm cố khi xét thấy việc khách hàng nắm giữ tài sản bảo đảm
là không an toàn cho ngân hàng. Thường đó là các tài sản mà khách hàng dễ bán,
dễ chuyển nhượng.
Khi tài trợ dựa trên bảo đảm bằng cầm cố, ngân hàng kiểm tra tính hợp pháp, hợp
lệ, an toàn của vật cầm cố như quyền sở hữu của khách hàng, khả năng chi trả của
người cam kết đối với vật cầm cố, giá trị thị trường khi phát mại…Ngân hàng
cùng với khách hàng định giá vật cầm cố, kí hợp đồng cầm cố, quy định quyền và
nghĩa vụ đối với các bảo đảm cầm cố như chuyển giao vật cầm cố, nghĩa vụ của
ngân hàng trong việc quản lý, giữ gìn vật cầm cố, quyền của ngân hàng phát mại
vật cầm cố khi khách hàng vi phạm các cam kết trong hợp đồng tài trợ…
Có nhiều hình thức cầm cố bằng tài sản của khách hàng vay, tuy nhiên sau đây
em chỉ nêu ra một số hình thức cho vay cầm cố bằng tài sản chủ yếu như :
Cho vay cầm cố bằng chứng khoán: là hình thức cho vay mà khách hàng có
thể dùng một hay nhiều chứng khoán để bảo đảm cho một khoản nợ. Các
loại chứng khoán mà ngân hàng có thể nhận để cầm cố cho một khoản nợ
là: Công trái nhà nước phát hành để vay vốn, trái phiếu do các công ty xí
nghiệp phát hành để vay nợ dài hạn, tín phiếu kho bạc, cổ phiếu do các
công ty cổ phần phát hành khi thành lập hoặc tăng vốn. Những chứng
khoán mà ngân hàng nhận cầm cố là những chứng khoán có thể lưu thông
tự do được và giá cả tương đối ổn định.
Cho vay cầm cố bằng thương phiếu: Thương phiếu là giấy nợ được lập trên
cơ sở quan hệ thương mại. Khả năng thanh toán của thương phiếu rất lớn
bởi vì ngoài yếu tố thương phiếu được bảo đảm bằng một lượng ở người
mua còn có một yếu tố khác là theo luật định tất cả những người có ký tên
chuyển nhượng trên thương phiếu đều phải chịu trách nhiệm liên đới về
việc thanh toán thương phiếu đấy.
Cho vay cầm cố bằng hợp đồng thầu khoán: Các công ty xây dựng hoặc
các doanh nghiệp trong các lĩnh vực kinh doanh khác sau khi trúng thầu đòi
hỏi phải ứng vốn ra ban đầu với một khối lượng lớn để tiến hành xây lắp
hay cung cấp máy móc, thiết bị và các loại hàng hoá theo hợp đồng thầu
khoán. Sau khi hoàn thành toàn bộ hay từng hạng mục thì họ sẽ được các
cơ quan tổ chức thầu khoán thanh toán. Trong trường hợp này các doanh
nghiệp đó có thể cầm cố hợp đồng thầu khoán như một vật đảm bảo để vay
vốn ngân hàng. Nếu được ngân hàng chấp thuận thì các doanh nghiệp ấy ký
kết với ngân hàng một văn tự về cầm cố hợp đồng thầu khoán. Đây là hình
thức bảo đảm tương đối chắc chắn.
Cho vay cầm cố bằng hàng hoá: Đây là hình thức tín dụng ngắn hạn mà
việc cấp tín dụng được xác định căn cứ vào giá trị của hàng hoá thuọc
quyền sở hữu của người vay vốn đã được cầm cố cho ngân hàng. Cho vay
có cầm cố bằng hàng hoá là một nghiệp vụ tín dụng có đảm bảo được áp
dụng phổ biến ở các NHTM.
1.3.2.2 Thế chấp bằng tài sản của khách hàng vay vốn.
Khái niệm : Thế chấp tài sản là hình thức theo đó khách hàng vay phải chuyển
các giấy tờ chứng nhận sở hữu hoặc sử dụng các tài sản bảo đảm sang cho ngân
hàng nắm giữ trong thời gian cam kết để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối
với ngân hàng cho vay.
Nhiều tài sản của khách hàng trở thành bảo đảm cho các khoản tài trợ của ngân
hàng song vẫn phải tham gia vào quá trình hoạt động. Những tài sản này khách
hàng không thể cầm cố. Ví dụ như máy móc, trang thiết bị, nhà đất đang trong
quá trình sử dụng, hàng hoá đang trong quá trình luân chuyển. Các loại tài sản
này thường cồng kềnh, phân tán. Hơn nữa việc bán hay chuyển nhượng cũng
không đơn giản. Trừ các ngân hàng, các công ty tài chính có thể nắm giữ nhiều
chứng khoán, tài sản chủ yếu của doanh nghiệp là hàng hoá và tài sản cố định. Vì
vậy, bảo đảm bằng thế chấp rất phổ biến, đặc biệt đối với doanh nghiệp và người
tiêu dùng. Do giá trị của loại tài sản này thường lớn nên doanh nghiệp có thể vay
ngân hàng với quy mô lớn.
Đảm bảo bằng thế chấp cho phép người nhận tài trợ sử dụng tài sản đảm bảo
phục vụ cho hoạt động kinh doanh, đó là một thuận lợi. Tuy nhiên, quá trình sử
dụng sẽ làm biến dạng tài sản, hơn nữa do khả năng kiểm soát của tài sản bảo
đảm của ngân hàng bị hạn chế, khách hàng có thể lợi dụng phân tán, làm giảm giá
trị của tài sản, gây thiệt hại cho ngân hàng.
Khi tài trợ dựa trên bảo đảm bằng thế chấp, ngân hàng phải xem xét kỹ vật thế
chấp. Trong hợp đồng thế chấp ký cùng với hợp đồng tài trợ phải có phần mô tả
vật thế chấp như : diện tích, các mốc đánh dấu, giấy tờ sở hữu đối với đất, giá trị
thị trường, công dụng, loại công nghệ, quyền sỡ hữu…đối với máy móc, thiết bị,
phương tiện vận chuyển, năm tuổi, khả năng sinh trưởng…đối với cây trồng, vật
nuôi, các sản phẩm gắn với đất…Do đó, ngân hàng cần phải có các nhà chuyên
môn đủ khả năng đánh giá tài sản bảo đảm. Nếu định giá quá cao, quy mô tài trợ
có thể lớn (tài trợ theo tỷ lệ % trên giá trị bảo đảm), có thể gây rủi ro cho ngân
hàng. Ngược lại nếu định giá thấp sẽ ảnh hưởng đến khả năng vay của khách
hàng. Sau khi định giá, ngân hàng và khách hàng phải thoả thuận về nội quy sử
dụng bảo đảm, phát mại bảo đảm khi khách hàng vi phạm hợp đồng tài trợ.
1.3.2.3 Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba.
Khái niệm: Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba là việc bên thứ ba (gọi là bên
bảo lãnh) cam kết với tổ chức tín dụng cho vay về việc sử dụng tài sản thuộc sở
hữu của mình để thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho khách hàng vay, nếu đến hạn
trả nợ mà khách hàng vay không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ
trả nợ.
Bên bảo lãnh chỉ được bảo lãnh bằng tài sản thuộc sở hữu của mình. Tổ chức tín
dụng và bên bảo lãnh có thể thoả thuận biện pháp cầm cố, thế chấp tài sản của
bên bảo lãnh để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Nếu bên bảo lãnh là tổ
chức tín dụng thì thực hiện bảo lãnh theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng
và quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Các nhân tố ảnh hưởng gồm: uy
tín của người bảo lãnh, tài sản bảo đảm của người bảo lãnh.
1.3.2.4 Bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay.
Khái niệm : Tài sản hình thành từ vốn vay là tài sản của khách hàng vay mà giá
trị tài sản được tạo nên bởi một phần hoặc toàn bộ khoản vay của ngân hàng cho
vay.
Bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay là việc khách
hàng vay dùng tài sản hình thành từ vốn vay để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ
cho chính khoản vay đó đối với ngân hàng cho vay.
Tài sản hình thành từ vốn vay dùng làm bảo đảm tiền vay có các điều kiện sau :
Xác định được quyền sở hữu hoặc quyền quản lý, sử dụng.
Có căn cứ để xác định được giá trị, số lượng và phải dễ chuyển nhượng.
Phải được phép giao dịch, chuyển nhượng theo quy định của pháp luật.
Với tài sản mà pháp luật có quy định phải mua bảo hiểm thì khách hàng
vay phải mua bảo hiểm trong suốt thời gian vay vốn khi tài sản đã được
hình thành đưa vào sử dụng.
1.3.3 Ưu và nhược điểm của bảo đảm bằng tài sản trong hoạt động cho vay của
NHTM.
1.3.3.1 Ưu điểm.
Việc các ngân hàng yêu cầu khách hàng của mình phải có tài sản bảo đảm khi đi
vay là nhằm đảm bảo món tiền cho vay có thể thu hồi về được nhiều nhất và tránh
rủi ro tín dụng có thể xảy ra do mất vốn. Tức nó là biện pháp để bảo đảm quyền
lợi của nguời cho vay.
Nâng cao trách nhiệm thực hiện cam kết trả nợ của bên vay. Tài sản bảo đảm
bảo cũng có ý nghĩa tác động đến việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ của khách hàng,
nó giúp nhắc nhở khách hàng đi vay phải có kế hoạch trả nợ cụ thể và phải chịu
trách nhiệm về món vay của mình.
Bảo đảm bằng tài sản còn giúp phòng ngừa gian lận.
1.3.3.2 Nhược điểm.
Do tài sản bảo đảm thường xuyên thay đổi giá trị theo sự biến động của thị
trường, nếu giá trị của TSBĐ đến khi xử lý giảm so với giá trị định giá ban đầu sẽ
dẫn đến việc ngân hàng bị thiệt hại về vốn, không thu hồi đủ nợ.
Một số cán bộ ngân hàng do dựa vào TSBĐ của khách hàng nên đã không để ý
đến tình hình tài chính, khả năng thanh toán của khách hàng dẫn đến nhiều rủi ro
có thể xảy ra. TSBĐ không phải là điều kiện duy nhất để cho vay.
Nhiều TSBĐ trong thời gian được dùng làm bảo đảm cho khoản vay của khách
hàng có thể bị hỏng, hao mòn…làm giảm giá trị của tài sản.
1.4 Chất lượng bảo đảm bằng tài sản trong hoạt động cho vay của NHTM.
1.4.1 Khái niệm.
Khi khách hàng vay vốn có sử dụng tài sản bảo đảm thì các ngân hàng luôn quan
tâm đến chất lượng bảo đảm bàng tài sản đó, xem TSBĐ đó có giúp ngân hàng
bảo toàn được vốn khi xảy ra rủi ro hay không. Việc xem xét này diễn ra trong
một quá trình từ khi cán bộ ngân hàng tiến hành thẩm định dự án, giám sát quá
trình sử dụng vốn của khách hàng vay, theo dõi việc sử dụng và bảo quản các tài
sản bảo đảm.
Vì vậy có thể hiểu chất lượng bảo đảm bằng tài sản trong hoạt động cho vay
của NHTM là thước đo phản ánh những tài sản mà ngân hàng chấp nhận làm bảo
đảm cho khoản vay của khách hàng có khả năng thực hiện đúng chức năng là
nguồn thu nợ thứ hai cho ngân hàng hay không, có giúp ngân hàng bảo toàn vốn
khi xảy ra rủi ro hay không. Trong hoạt động cuả ngân hàng thì chất lượng bảo
đảm bằng tài sản trong hoạt động cho vay là rất cần được quan tâm đầy đủ và
phải có kế hoạch ngay từ đầu năm.
1.4.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng bảo đảm bằng tài sản của NHTM.
Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng có bảo đảm bằng tài sản bảo đảm
của ngân hàng tuy nhiên có một số nhân tố ảnh hưởng chính như sau:
1.4.2.1 Nhân tố thuộc về ngân hàng.
1.4.2.1.1 Trình độ cán bộ tín dụng.
Trình độ cán bộ tín dụng ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng bảo đảm bằng tài sản
của ngân hàng. Từ việc thẩm định và đánh giá tài sản bảo đảm, phân tích và dự
báo được biến động giá trị của TSBĐ đến việc lập và tiến hành các giao dịch bảo
đảm, thực hiện công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm để bảo đảm nợ vay,
định kỳ tái thẩm định TSBĐ, đề xuất các biện pháp xử lý kịp thời các vấn đề phát
sinh để bảo đảm an toàn tín dụng. Tất cả các quy trình này chỉ cần cán bộ tín
dụng mắc sai sót ở một khâu nào đó sẽ dẫn đến hậu quả nghiêm trọng đến khoản
cho vay với khách hàng.
Ngoài ra cán bộ tín dụng phải có đạo đức, nhạy bén trong phân tích sự việc để
thẩm định được chính xác, hợp lệ và khách quan. Phải có kiến thức chuyên môn,
nghiệp vụ, nắm vững và vận dụng tốt các quy định của nhà nước và của ngân
hàng để đánh giá chính xác, kịp thời tính pháp lý, giá trị, tính chuyển nhượng, các
yếu tố ảnh hưởng của tài sản được thẩm định. Ngày nay ở trong các ngân hàng thì
vấn đề đạo đức của cán bộ ngân hàng luôn được đặt lên hàng đầu.
Không phải cán bộ tín dụng nào cũng đưa ra một kết luận giống nhau, vì vậy mà
cán bộ tín dụng là nhân tố rất quan trọng trong việc ảnh hưởng đến chất lượng của
tài sản bảo đảm.
1.4.2.1.2 Công tác giám sát khách hàng.
Giám sát khách hàng cũng rất quan trọng, xem xét tình hình kinh doanh của tổ
chức kinh tế, phương án kinh doanh, phương án trả nợ cho ngân hàng. Thường thì
cán bộ ngân hàng thường căn cứ vào báo cáo tài chính khách hàng đưa cho để
theo dõi, tuy nhiên ngoài ra các cán bộ ngân hàng cũng thường xuyên phải xuống
đơn vị để nắm được hoạt động của doanh nghiệp.
Giám sát khách hàng cũng có nghĩa là theo dõi xem khách hàng có ý đồ xấu gì
không như có hiện tượng lừa đảo, chây lỳ không chịu trả nợ, để có phương án giải
quyết kịp thời.
1.4.2.1.3 Một số công tác khác.
Như công tác định giá TSBĐ, công tác quản lý TSBĐ. Để đảm bảo cho khoản
tiền của ngân hàng phát ra cho vay có khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi khi
đến hạn, thì khoản vay đo phải được bảo đảm bằng tài sản của người vay. Với
điều kiện giá trị của tài sản đó phải lớn hơn giá trị của khoản vay và giá cả của tài
sản đó phải tương đối ổn định. Nếu trường hợp đến hạn người vay không trả được
nợ, ngân hàng phát mại tài sản thu hồi nợ thì tiền thu về bán tài sản đủ để ngân
hàng thu nợ gốc, lãi và các chi phí khác…Vì vậy, giá trị tài sản đưa ra làm bảo
đảm càng lớn thì mức độ đảm bảo của khoản tín dụng phát ra càng chắc chắn.
Trong quá trình quản lý TSBĐ những tài sản như máy móc, thiết bị…thường bị
hao mòn theo thời gian vì vậy cần phải bảo quản tốt các TSBĐ. Công việc bảo
quản không tốt rất dễ dẫn đến giá trị bán tài sản không đủ để thu hồi lại vốn ban
đầu, gây ra tổn thất cho ngân hàng. Một điều mà các ngân hàng không bao giờ
muốn.
1.4.2.2 Nhân tố thuộc về khách hàng.
1.4.2.2.1 Đạo đức, uy tín của khách hàng vay vốn.
Uy tín của khách hàng thể hiện ở khả năng tài chính của khách hàng mạnh, sản
xuất kinh doanh có hiệu quả tạo ra nhiều lợi nhuận, quan hệ vay vốn và trả nợ
ngân hàng của khách hàng sòng phẳng không có nợ quá hạn. Uy tín của khách
hàng còn thể hiện ở vị trí của khách hàng trên thị trên thị trường và mối quan hệ
của khách hàng với bạn hàng.
Ta thấy khi ngân hàng phân tích khách hàng thấy được rằng uy tín của khách
hàng là tốt thì tài sản bảo đảm mà khách hàng đưa ra để bảo đảm cho món vay
cũng được an toàn hơn. Ngoài ra, uy tín của khách hàng cao cũng giúp ngân hàng
yên tâm hơn về khả năng đảm bảo tài chính của khách hàng. Chất lượng tài sản
đảm bảo cũng được nâng cao.
Đạo đức của khách hàng thể hiện ở việc khách hàng có chây ỳ trong việc trả nợ
hay không, có hành vi lừa đảo không. Có nhiều khách hàng vay vốn của ngân
hàng song không có ý thức trả nợ khi đến kỳ hạn trả nợ và lãi. Ngân hàng cần
nhìn thấy trước được tình hình của khách hàng nếu không rất dễ gặp rủi ro.
1.4.2.2.2 Tài chính của khách hàng.
Tài chính của khách hàng cũng là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến chất
lượng bảo đảm bằng tài sản của ngân hàng. Vì dù khách hàng vẫn có ý thức trả nợ
cho ngân hàng song tình hình tài chính của khách hàng không ổn định hoặc đang
gặp khó khăn không có khả năng trả nợ cho ngân hàng thì cũng tác động mạnh
đến chất lượng bảo đảm bằng tài sản của ngân hàng.
Thường thì các cán bộ ngân hàng thu thập thông tin tài chính của khách hàng
mình dựa vào các báo cáo tài chính mà khách hàng mang tới, tuy nhiên để nắm rõ
được cụ thể hơn các cán bộ cần phải đi xuống thực tế đơn vị.
1.4.2.3 Nhân tố thuộc về môi trường.
Hàng năm có hàng nghìn văn bản được ban hành : quyết định, nghị định, thông
tư, công văn, chỉ thị…Tuy nhiên không phải văn bản nào cũng đi vào cuộc sống
được, các văn bản chồng chéo lên nhau, thiếu sự thống nhất, đồng bộ. Trong khi
đó ngân hàng là lĩnh vực phức tạp, nhạy cảm, liên quan đến hầu hết các văn bản
pháp luật. Nếu môi trường pháp lý không tốt sẽ gây khó khăn cho ngân hàng và
các chủ thể kinh tế khác trong xã hội, sẽ tạo ra những khe hở pháp luật để cho
những đối tượng xấu lợi dụng, luồn lách
Có những bộ luật tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng
như: Luật các tổ chức tín dụng, Luật Ngân hàng nhà nước…Những luật này quy
định tỷ lệ huy động vốn vủa ngân hàng so với vốn tự có, quy định việc phát hàng
trái phiếu, kỳ phiếu, quy định mức cho vay của NHTM đối với một khách hàng,
quy định về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng…
Vì vậy mà để nâng cao được chất lượng bảo đảm bằng tài sản của NHTM thì
cần phải làm cho môi trường pháp lý tốt hơn nữa, ý thức chấp hành pháp luật tốt
các văn bản ban hành cần phải được đồng bộ, thống nhất, đồng thời, minh bạch,
có tính thực tế.
Ngoài môi trường pháp lý thì môi trường kinh tế cũng là một trong những nhân
tố ảnh hưởng đến chất lượng bảo đảm bằng tài sản trong hoạt động cho vay của
NHTM. Do nền kinh tế càng phát triển thì doanh nghiệp càng phải hoàn thiện
mình hơn, phải có những dự án sản xuất có hiệu quả hơn, và muốn làm được điều
ấy cần phải có một số vốn lớn. Vốn tự có của doanh nghiệp chỉ đáp ứng được
phần nào, còn lại phải đi vay của ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác. Khi đó
càng phải quan tâm đến TSBĐ và chất lượng của nó.
1.4.3 Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng bảo đảm bằng tài sản của NHTM.
1.4.3.1 Chỉ tiêu về tỷ lệ dư nợ có tài sản bảo đảm trên tổng dư nợ.
Công thức :
Chỉ tiêu về tỷ lệ Dư nợ có TSBĐ
dư nợ có TSBĐ = x 100%
trên tổng dư nợ Tổng dư nợ
Chỉ tiêu này có ý nghĩa nói lên có bao nhiêu % dư nợ của tổ chức tín dụng được
bảo đảm bằng tài sản. Chỉ tiêu này càng cao càng tốt vì khi đó khoản vay sẽ được
đảm bảo an toàn hơn. Thường tỷ lệ này trong khoảng 60% đến 80% là tốt.
Các ngân hàng luôn muốn tỷ lệ dư nợ có TSBĐ trên tổng dư nợ cao vì tỷ lệ này
càng cao thì càng bảo đảm khoản vốn mà ngân hàng đã cho vay sẽ thu hồi được
nhiều nhất, giảm tỷ lệ rủi ro xuống mức thấp nhất.
Tuy nhiên, với tình hình phát triển nền kinh tế của đất nước như hiện nay thì
không phải lúc nào tỷ lệ này cao cũng là tốt. Vì nó sẽ hạn chế khả năng kinh
doanh của ngân hàng. Đánh mất những khách hàng tiềm năng. Đây chính là trở
ngại lớn của các ngân hàng có chính sách kinh doanh thận trọng.
Tỷ lệ này cao hay thấp còn tuỳ thuộc vào tổng dư nợ có tài sản bảo đảm, nếu
tổng dư nợ có TSBĐ cao thì tỷ lệ này sẽ cao và ngược lại.
Chỉ tiêu này phụ thuộc vào các yếu tố như: chính sách tín dụng của ngân hàng
trong từng thời kỳ, lĩnh vực ưu tiên của ngân hàng trong từng thời kỳ, cơ cấu cho
vay trong sản xuất hay trong tiêu dùng…, quy định của Chính phủ và của NHNN.
1.4.3.2 Chỉ tiêu về giá trị khoản vay so với giá trị của tài sản bảo đảm.
Công thức :
Chỉ tiêu về giá trị Giá trị của khoản vay
khoản vay so với =
giá trị của TSBĐ Giá trị của TSBĐ
Chỉ tiêu này phản ánh mức độ bù đắp vốn của một tài sản bảo đảm trong trường
hợp khách hàng không thực hiện được nghĩa vụ của mình. Thường thì tuỳ loại tài
sản bảo đảm sẽ cho chỉ tiêu khác nhau, chỉ tiêu này thay đổi theo thời gian do tác
động của nhiều yếu tố. Chỉ tiêu này thường từ 0.5 đến 0.7 là tốt.
Theo quy định của NHNH và chính sách hoạt động của từng ngân hàng thì giá
trị của khoản vay đều được quy định tỷ lệ đối với mỗi tài sản bảo đảm. Nếu
TSBĐ có tính thanh khoản cao, dễ tiêu thụ trên thị trường, ít bị hao mòn vô hình
thì sẽ có tỷ lệ cao hơn những TSBĐ khác.
Chỉ tiêu về giá trị khoản vay so với giá trị của TSBĐ phụ thuộc vào một số yếu
tố như: tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, loại hình
TSBĐ, biến động giá trị của TSBĐ…
1.4.3.3 Chỉ tiêu tỷ trọng dư nợ cho vay không có bảo đảm bằng tài sản so với
dư nợ cho vay có tài sản bảo đảm.
Công thức :
Chỉ tiêu tỷ trọng dư nợ cho Dư nợ cho vay không có BĐ bằng TS
vay không có BĐ bằng TS so =
với dư nợ cho vay có TSBĐ Dư nợ cho vay có TSBĐ
Chỉ tiêu này phản ánh tỷ lệ giữa việc cho vay không có bảo đảm bằng tài sản so
với cho vay có TSBĐ, thường thì tỷ lệ này thấp vì ngân hàng chỉ cho những
khách hàng uy tín, có truyền thống và có khả năng đảm bảo tài chính tốt cho vay
không có bảo đảm bằng tài sản, còn lại hầu hết đều là cho vay có TSBĐ để giúp
ngân hàng có nguồn thu nợ thứ hai chắc chắn và chịu ít rủi ro nhất.
Từ chỉ tiêu này mà ta có thể nhận biết được chính sách mà NHTM đang sử dụng
là chính sách thận trọng hay chính sách mở rộng nhóm khách hàng vay. Nhưng
thông thường các ngân hàng chỉ cho vay không có bảo đảm bằng tài sản trong
trường hợp khách hàng vay để thực hiện các dự án đầu tư thuộc chương trình kinh
tế đặc biệt, chương trình kinh tế trọng điểm của Nhà nước, chương trình KT-XH
và đối với một số khách hàng thuộc đối tượng đang được hưởng các chính sách
tín dụng ưu đãi về điều kiện vốn vay theo quy định tại các văn bản quy phạm
pháp luật của Chính phủ hoặc của Thủ Tướng Chính phủ.
Hiện tại một số ngân hàng đang mở rộng cho vay không có bảo đảm bằng tài
sản để tiêu dùng vì vậy mà chỉ tiêu này còn phụ thuộc vào chính sách của từng
ngân hàng.
1.4.3.4 Chỉ tiêu về tỷ lệ dư nợ quá hạn cho vay có tài sản bảo đảm so với tổng
dư nợ cho vay có tài sản bảo đảm.
Công thức :
Chỉ tiêu về tỷ lệ dư nợ quá hạn Dư nợ quá hạn cho vay có TSBĐ
cho vay có TSBĐ so với tổng =
dư nợ cho vay có TSBĐ Tổng dư nợ cho vay có TSBĐ
Chỉ tiêu này phản ánh có bao nhiêu % nợ quá hạn có TSBĐ so với tổng dư nợ
cho vay. Tỷ lệ này càng thấp thì càng tốt.
Mỗi NHTM đều có những chính sách kinh doanh riêng của mình tuy nhiên họ
đều có điểm chung là không muốn có nợ quá hạn đối với khoản cho vay của
mình. Đối với khoản cho vay có tài sản bảo đảm mà vẫn có nợ quá hạn điều đó
chứng tỏ rằng ngân hàng đã sử dụng TSBĐ làm nguồn thu nợ thứ hai, song vẫn
chưa thu hồi được hết nợ và tình hình tài chính của doanh nghiệp đi vay đang gặp
khó khăn.
Từ việc chỉ tiêu này cao hay thấp mà ngân hàng có thể tự điều chỉnh chính sách
cho vay cho phù hợp đồng thời đưa ra những quyết định xử lý đối với phần nợ
quá hạn.
1.4.3.5 Một số chỉ tiêu khác
Ngoài các chỉ tiêu cơ bản trên đây còn có một số chỉ tiêu khác cũng đánh giá
chất lượng bảo đảm bằng tài sản của NHTM như chỉ tiêu về xếp hạng tín dụng
khách hàng chỉ tiêu này mỗi ngân hàng có một cách đánh giá khác nhau; hay chỉ
tiêu về tỷ trọng các loại tài sản bảo đảm được khách hàng mua bảo hiểm so với
tổng TSBĐ thường thì các loại TSBĐ của khách hàng trong quá trình bảo đảm có
hao mòn hay những tài sản có thể gặp rủi ro thì ngân hàng thường yêu cầu khách
hàng phải mua bảo hiểm.
Chỉ tiêu mức cho vay so với giá trị tài sản bảo đảm, còn tuỳ thuộc vào loại tài
sản bảo đảm thuộc tài sản nào sẽ có mức cho vay tương ứng. Nhưng thông
thường mức cho vay của các NHTM tối đa là 70% giá trị TSBĐ.