Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Biện pháp tạm hoãn xuất cảnh theo luật tố tụng hình sự việt nam (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.43 MB, 82 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

TRẦN THỊ HÀ

BIỆN PHÁP TẠM HỖN XUẤT CẢNH
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
ĐỊNH HƢỚNG NGHIÊN CỨU

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2021


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

BIỆN PHÁP TẠM HỖN XUẤT CẢNH
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chun ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Định hƣớng nghiên cứu
Mã số: 8380104

Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Huỳnh Tấn Duy
Học viên: Trần Thị Hà
Lớp: Cao học Luật, khóa 29-30

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2021



LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn
khoa học của Tiến sĩ Lê Huỳnh Tấn Duy. Các kết quả, số liệu nghiên cứu trong luận
văn là trung thực. Tất cả trích dẫn đều được chú thích đầy đủ theo đúng quy định
của Trường. Tơi hồn tồn chịu trách nhiệm về lời cam đoan của mình.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày

tháng

Tác giả

TRẦN THỊ HÀ

năm 2021


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Từ viết tắt

Cụm từ đầy đủ

BLTTHS

Bộ luật Tố tụng hình sự

BPNC

Biện pháp ngăn chặn


TTHS

Tố tụng hình sự


MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU ...........................................................................................................1
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP TẠM HỖN XUẤT CẢNH
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ...............................................................................10
1.1. Khái niệm và đặc điểm của biện pháp tạm hỗn xuất cảnh trong tố tụng hình sự ... 10

1.1.1. Khái niệm biện pháp tạm hoãn xuất cảnh trong tố tụng hình sự .............10
1.1.2. Đặc điểm của biện pháp tạm hỗn xuất cảnh trong tố tụng hình sự ........13
1.2. Mục đích và ý nghĩa của biện pháp tạm hỗn xuất cảnh trong tố tụng hình sự ........ 15

1.2.1. Mục đích của biện pháp tạm hỗn xuất cảnh trong tố tụng hình sự ........15
1.2.2. Ý nghĩa của biện pháp tạm hỗn xuất cảnh trong tố tụng hình sự ..........17
1.3. Cơ sở của việc quy định biện pháp tạm hoãn xuất cảnh trong tố tụng hình sự ........ 19
1.4. Phân biệt biện pháp tạm hoãn xuất cảnh trong luật tố tụng hình sự với biện pháp tạm
hỗn xuất cảnh trong các ngành luật khác ....................................................................... 22

Kết luận Chƣơng 1 ..................................................................................................27
CHƢƠNG 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BIỆN PHÁP TẠM HOÃN XUẤT CẢNH
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ...............................................................................28
2.1. Căn cứ và đối tượng áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh trong tố tụng hình sự . 28

2.1.1. Căn cứ áp dụng biện pháp tạm hỗn xuất cảnh trong tố tụng hình sự.....28

2.1.2. Đối tượng áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh trong tố tụng hình sự 34
2.2. Thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh trong tố tụng hình sự ............. 36
2.3. Thủ tục và thời hạn áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh trong tố tụng hình sự .. 40

2.3.1. Thủ tục áp dụng biện pháp tạm hỗn xuất cảnh trong tố tụng hình sự ....40
2.3.2. Thời hạn áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh trong tố tụng hình sự .43
2.4. Hủy bỏ, thay thế biện pháp tạm hỗn xuất cảnh trong tố tụng hình sự .................... 49

Kết luận Chƣơng 2 ..................................................................................................53
CHƢƠNG 3..............................................................................................................54
THỰC TIỄN ÁP DỤNG BIỆN PHÁP TẠM HỖN XUẤT CẢNH TRONG
TỐ TỤNG HÌNH SỰ, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH .......................54
CỦA PHÁP LUẬT VÀ ĐẢM BẢO THỰC HIỆN ...............................................54
3.1. Thực tiễn áp dụng biện pháp tạm hỗn xuất cảnh trong tố tụng hình sự .................. 54

3.1.1. Khái quát tình hình áp dụng biện pháp tạm hỗn xuất cảnh trong tố tụng
hình sự ................................................................................................................54


3.1.2. Những hạn chế trong việc áp dụng biện pháp tạm hỗn xuất cảnh trong tố
tụng hình sự và ngun nhân .............................................................................56
3.2. Giải pháp hoàn thiện và đảm bảo thực hiện quy định của pháp luật về biện pháp tạm
hoãn xuất cảnh trong tố tụng hình sự ............................................................................... 57

3.2.1. Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về biện pháp tạm hỗn xuất
cảnh trong tố tụng hình sự .................................................................................57
3.3.2. Giải pháp đảm bảo thực hiện quy định của pháp luật về biện pháp tạm
hoãn xuất cảnh trong tố tụng hình sự.................................................................66
Kết luận Chƣơng 3 ..................................................................................................70
KẾT LUẬN CHUNG ..............................................................................................71

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO1
A. Văn bản quy phạm pháp luật1
B. Tài liệu tham khảo2


1

LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quyền con người là một trong những quyền rất thiêng liêng, được ghi nhận
trong nhiều văn bản như Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền năm 1948, Công ước
quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966, Cơng ước quốc tế về các quyền
kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966. Trên cơ sở đó, Hiến pháp năm 2013, BLTTHS
năm 2015 của nước ta đã cụ thể hóa và quy định ngày càng chặt chẽ, đầy đủ hơn
các quyền của người tham gia tố tụng.
Về nguyên tắc, “Quyền con người, quyền cơng dân chỉ có thể bị hạn chế theo
quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia,
trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”.1 Các BPNC2
trong TTHS là những biện pháp tước bỏ hoặc hạn chế một số quyền con người của
người bị áp dụng. Chính vì vậy, BLTTHS năm 2015 quy định chỉ áp dụng BPNC
nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ
gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để bảo
đảm thi hành án.
Trong số các BPNC, tạm hoãn xuất cảnh mặc dù khơng mang tính nghiêm
khắc như tạm giữ, tạm giam nhưng là biện pháp tạm thời hạn chế quyền tự do đi lại,
có thể ảnh hưởng đến công việc, kinh tế của người bị tố giác, người bị kiến nghị
khởi tố, bị can, bị cáo. Từ đó, đặt ra vấn đề là pháp luật phải được quy định hết sức
chặt chẽ, rõ ràng cụ thể đối với biện pháp tạm hỗn xuất cảnh trong TTHS. Ngồi
ra, các cơ quan có thẩm quyền, người có thẩm quyền khi áp dụng BPNC này cần
hiểu đúng, tuân thủ các quy định của pháp luật để tránh những trường hợp vi phạm,

gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người bị áp dụng. Nghiên cứu lý
luận và thực tiễn cho thấy các quy định về BPNC, biện pháp cưỡng chế trong
BLTTHS năm 2015 đã được áp dụng ngày càng đúng đắn hơn trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự. Các biện pháp này có vai trị, ý nghĩa quan trọng trong việc
ngăn chặn kịp thời hành vi trốn tránh pháp luật và bảo đảm thi hành án đối với
người phạm tội, người bị nghi thực hiện tội phạm.

1

Khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013.
Bao gồm các biện pháp: giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để
bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh.
2


2

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được thì thực tiễn cũng cho thấy
những hạn chế, bất cập trong quy định của pháp luật cũng như nhận thức của người
tiến hành tố tụng về áp dụng các BPNC, biện pháp cưỡng chế mà đáng chú ý là khi
áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh.
Một điểm mới tiến bộ là biện pháp tạm hoãn xuất cảnh đã được bổ sung vào
Chương VII của BLTTHS năm 2015, điều này khắc phục được điểm thiếu sót của
BLTTHS năm 2003. Việc nghiên cứu, đánh giá các quy định của pháp luật TTHS
và thực tiễn áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh, làm rõ những kết quả đã đạt
được cũng như những hạn chế, vướng mắc, nguyên nhân của hạn chế, vướng mắc
làm cơ sở cho việc đề xuất những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp
dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh là vấn đề rất cần thiết trong giai đoạn cải cách
tư pháp hiện nay. Bởi lẽ, những hạn chế, bất cập trong việc áp dụng biện pháp tạm
hoãn xuất cảnh một phần cũng xuất phát từ nguyên nhân đây là một biện pháp mới

được quy định trong BLTTHS năm 2015 nên trong quá trình lập pháp cũng như áp
dụng pháp luật chưa tổng kết được kinh nghiệm thực tiễn cũng như về mặt lý luận.
Đi sâu nghiên cứu quy định của BLTTHS năm 2015 và các văn bản quy phạm
pháp luật khác khi quy định về BPNC tạm hoãn xuất cảnh, tác giả nhận thấy còn
một số hạn chế, vướng mắc nổi bật như sau:
Thứ nhất, về căn cứ áp dụng thì Điều 124 BLTTHS năm 2015 quy định tạm
hỗn xuất cảnh có thể được áp dụng nếu xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người bị
tố giác, người bị kiến nghị khởi tố thực hiện các hành vi có dấu hiệu bỏ trốn hoặc
tiêu hủy chứng cứ. Đối với bị can, bị cáo Điều luật chỉ quy định căn cứ việc xuất
cảnh của họ có dấu hiệu bỏ trốn. Quy định hiện nay chưa khoa học về kỹ thuật lập
pháp đồng thời chưa tạo điều kiện thuận lợi cho Cơ quan điều tra áp dụng hiệu quả
trong thực tiễn.
Thứ hai, về đối tượng áp dụng biện pháp tạm hỗn xuất cảnh thì khi đối chiếu
quy định tại khoản 1 Điều 124 với quy định tại Điều 109 và Điều 4 BLTTHS năm
2015. Tác giả nhận thấy có một số điểm chưa đồng bộ, chưa có sự tương thích giữa
quy định chung về đối tượng áp dụng BPNC và quy định riêng về đối tượng áp
dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh.
Thứ ba, về thẩm quyền áp dụng thì BLTTHS năm 2015 chưa quy định đầy đủ
các chủ thể có thẩm quyền. Bởi lẽ, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra cũng có thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm nhưng


3

lại không được quy định là một trong các chủ thể có thẩm quyền quyết định tạm
hỗn xuất cảnh tại khoản 2 Điều 124.
Thứ tư, BLTTH hiện hành chưa quy định đầy đủ về thời hạn áp dụng BPNC
tạm hoãn xuất cảnh. Vì vậy, khi hết thời hạn theo quy định tại các giai đoạn giải
quyết vụ án thì cơ quan có thẩm quyền sẽ ra quyết định mới. Điều này dẫn đến sự
không thống nhất với quy định về thời hạn áp dụng của các BPNC khác trong

BLTTHS cũng như quy định về thời hạn áp dụng BPNC này trong một số văn bản
quy phạm pháp luật khác.
Thứ năm, việc quy định nội dung “xét thấy cần ngăn chặn ngay”, “có dấu
hiệu bỏ trốn” tại khoản 1 Điều 124 là có phần chung chung và định tính khi người
có thẩm quyền căn cứ vào đó để quyết định áp dụng biện pháp này.
Thứ sáu, biện pháp tạm hoãn xuất cảnh trong BLTTHS năm 2015 chưa có quy
định hay văn bản hướng dẫn thi hành về trình tự, thủ tục áp dụng cũng như giải
thích rõ những nội dung có liên quan trong việc áp dụng BPNC này.
Điển hình như, hiện nay còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau xung quanh
vấn đề: Biện pháp này có thể được áp dụng song song với một BPNC khác hay
không hay chỉ được áp dụng độc lập? Đây cũng là một vấn đề cần được quy định rõ
nhằm thống nhất nhận thức về mặt lý luận cũng như thực tiễn áp dụng biện pháp
tạm hoãn xuất cảnh trong BLTTHS năm 2015.
Những hạn chế, vướng mắc nêu trên và một số điểm hạn chế khác là nguyên
nhân dẫn đến thực trạng có một số trường hợp cơ quan có thẩm quyền khơng kịp
thời ngăn chặn bị can, bị cáo, đặc biệt là người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố
xuất cảnh ra nước ngồi. Điều này đã gây khó khăn, cản trở cho hoạt động kiểm tra,
xác minh tố giác, tin báo về tội phạm và điều tra vụ án hình sự. Trong khi đó, quyết
định áp dụng biện pháp tạm hỗn xuất cảnh là quyết định có ý nghĩa quan trọng đối
với quá trình giải quyết vụ án hình sự cũng như ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống
của người bị áp dụng. Quy định hiện nay của pháp luật TTHS về tạm hoãn xuất
cảnh chưa thật sự tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng
chính xác, hiệu quả cũng như chưa quy định trách nhiệm của các chủ thể này.
Cùng với đó theo hiểu biết của tác giả, đến thời điểm hiện nay chưa có một
cơng trình nào nghiên cứu chun sâu, tồn diện về lý luận và thực tiễn áp dụng
biện pháp tạm hỗn xuất cảnh. Vì những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài “Biện
pháp tạm hoãn xuất cảnh theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam” làm đề tài luận
văn thạc sĩ.



4

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Qua nghiên cứu và tìm hiểu, tác giả nhận thấy đã có một số tài liệu như giáo
trình, sách chun khảo, bài viết tạp chí khoa học liên quan đến biện pháp tạm hoãn
xuất cảnh trong TTHS ở những mức độ và phạm vi nhất định, điển hình như:
Giáo trình:
- Trường Đại học kiểm sát Hà Nội (2016), Luật tố tụng hình sự Việt Nam,
Nxb. Chính trị quốc gia sự thật;
- Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb.
Cơng an nhân dân;
- Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2018), Luật tố tụng hình sự Việt
Nam (Tái bản có sửa đổi, bổ sung), Nxb. Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam;
Sách chuyên khảo:
- Võ Thị Kim Oanh (2016), Bình luận những điểm mới cơ bản của Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2015, Nxb. Hồng Đức;
- Trần Văn Biên (2016), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự năm
2015, Nxb. Hồng Đức;
- Nguyễn Ngọc Anh (2018), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự năm
2015, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật;
- Phạm Mạnh Hùng (2018), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự năm
2015, Nxb. Lao động;
- Nguyễn Đức Mai (2019), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự (hiện
hành), Nxb. Chính trị quốc gia sự thật;
Nhìn chung, tất cả giáo trình và sách chuyên khảo nêu trên chỉ dừng lại ở việc
nêu lên khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của việc quy định biện pháp tạm hoãn xuất
cảnh trong BLTTHS năm 2015 một cách khái quát cùng với các BPNC khác, chứ
không đi sâu phân tích những nội dung và khía cạnh xung quanh BPNC này.
Ngồi ra, cịn có một số bài viết tạp chí khoa học như:
- Trần Ngọc Đức (2015), “Sửa đổi các quy định của bộ luật tố tụng hình sự

theo Hiến pháp năm 2013 nhằm bảo đảm quyền con người, quyền cơ bản của công
dân trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 08
(93).
Bài viết phân tích, làm rõ những quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền
con người, quyền cơ bản của công dân và cơ chế bảo vệ các quyền này. Đồng thời,
bài viết phân tích, đánh giá những quy định hiện hành về bảo đảm quyền con người,


5

quyền cơ bản của công dân khi áp dụng các BPNC nói chung trong TTHS. Trên cơ
sở đó tác giả đề xuất hướng hoàn thiện các quy định của BLTTHS nhằm bảo đảm
quyền con người, quyền cơ bản của công dân khi áp dụng BPNC.
- Bùi Thị Hạnh (2015), “Huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn theo quy định của Bộ
luật tố tụng hình sự”, Tạp chí Khoa học kiểm sát, số 04 (08).
Bài viết phân tích các trường hợp đương nhiên huỷ bỏ BPNC (theo BLTTHS
năm 2003) và việc huỷ bỏ BPNC theo quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng trên
cơ sở khoản 2 Điều 112 Dự thảo BLTTHS ngày 01/11/2015.
- Bùi Thị Hạnh (2016), “Về chế định biện pháp ngăn chặn trong Bộ luật TTHS
năm 2015”, Tạp chí Khoa học kiểm sát, số 04 (12).
Bài viết cho thấy điểm mới trong BLTTHS năm 2015 là việc bổ sung thêm
biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp (Điều 110) và biện pháp tạm hoãn
xuất cảnh (Điều 124). Tuy nhiên, khi phân tích thì bài viết chỉ tập trung vào biện
pháp Giữ người trong trường hợp khẩn cấp, khơng phân tích về biện pháp tạm hỗn
xuất cảnh. Tiếp theo tác giả giới thiệu về biện pháp tạm giam và các biện pháp
khác. Tác giả đề xuất một số điểm cần được hướng dẫn hoặc tiếp tục hoàn thiện
như: Căn cứ áp dụng, đề xuất xác định rõ căn cứ tạm giam; điều kiện áp dụng biện
pháp bắt, tạm giữ, tạm giam đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi và việc trả
tự do cho người bị tạm giữ.
- Hoàng Anh Tuyên (2016), “Những nội dung mới cơ bản về các biện pháp

ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015”, Tạp chí
Kiểm sát, số 14.
Bài viết chủ yếu trình bày và phân tích những nội dung mới cơ bản về các
BPNC, biện pháp cưỡng chế trong BLTTHS năm 2015. Trong đó, tập trung đánh
giá những điểm mới như: Bảo đảm chặt chẽ về nội dung và thống nhất về kỹ thuật
lập pháp; quy định chặt chẽ căn cứ áp dụng BPNC để đáp ứng yêu cầu đặt ra đối với
BLTTHS năm 2015 là quy định cụ thể, rõ ràng, chặt chẽ căn cứ áp dụng BPNC,
khắc phục các quy định “định tính” trong BLTTHS năm 2003 nhằm giảm sự tuỳ
nghi, lạm dụng, xâm phạm đến quyền con người, quyền cơng dân. Ngồi ra, bài viết
cịn đánh giá thời hạn áp dụng biện pháp tạm giam; khắc phục những bất cập,
vướng mắc trong việc quy định các BPNC trong BLTTHS năm 2003. Nội dung bài
viết chỉ dừng lại ở việc nêu lên những điểm mới về BPNC trong BLTTHS năm
2015 một cách chung chung, đặc biệt là không đi sâu phân tích những quy định về
biện pháp tạm hỗn xuất cảnh.


6

- Mai Đắc Biên (2016), “Chế định biện pháp ngăn chặn trong Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2015”, Tạp chí Kiểm sát, số 5.
Bài viết nêu lên một số điểm mới trong những quy định về BPNC so với
BLTTHS năm 2003. Tuy nhiên, bài viết này cũng chỉ dừng lại ở mức độ giới thiệu
về biện pháp tạm hoãn xuất cảnh như một quy định mới trong BLTTHS 2015 là phù
hợp với tình hình hiện nay khi nhiều trường hợp sau khi thực hiện hành vi phạm tội,
trong quá trình xác minh, điều tra, truy tố, xét xử hoặc thi hành án người phạm tội
đã lợi dụng việc xuất cảnh để trốn ra nước ngoài, gây cản trở cho việc xử lý vụ án
và thi hành hình phạt.
- Lưu Đức Dương (2017), “Nâng cao hiệu quả áp dụng BPNC đối với người
nước ngồi trong điều tra vụ án hình sự của Cơ quan cảnh sát điều tra”, Tạp chí
Kiểm sát, số 04.

Bài viết đi sâu phân tích những điểm còn lúng túng của một số đơn vị điều tra
khi điều tra, xử lý các vụ án hình sự do người nước ngoài thực hiện. Tác giả chỉ ra
nguyên nhân như: Vì ngồi việc chấp hành các quy định của pháp luật TTHS, Cơ
quan cảnh sát điều tra thụ lý vụ án còn phải báo cáo xin ý kiến của cấp có thẩm
quyền dẫn đến sự phức tạp về thủ tục, giảm tính chủ động của các Cơ quan điều tra.
Ngồi ra, tác giả phân tích một số thiếu sót trong quá trình áp dụng BPNC;
đánh giá việc thực hiện các thủ tục tố tụng trong quá trình áp dụng BPNC cịn mang
nặng tính hình thức, chưa đảm bảo u cầu pháp lý và theo chuẩn quốc tế. Đồng
thời, tác giả đưa ra một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng BPNC nhưng
chủ yếu tập trung vào biện pháp bắt và biện pháp giam giữ.
- Trần Văn Tuấn (2019), “Một số bất cập trong quy định của điều 124 Bộ luật
tố tụng hình sự năm 2015 về tạm hỗn xuất cảnh”, Tạp chí Tịa án nhân dân, số 6.
Bài viết chỉ ra một số điểm bất cập trong quy định về áp dụng biện pháp tạm
hoãn xuất cảnh như: Quy định pháp luật về đối tượng áp dụng biện pháp này chưa
được thống nhất còn mâu thuẫn giữa quy định chung và quy định riêng; đồng thời
tác giả nêu lên thiếu sót của BLTTHS năm 2015 khi chưa quy định cụ thể việc áp
dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh đối với người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố
trong trường hợp tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm. Từ đó,
tác giả đưa ra một số đề xuất nhằm khắc phục nhược điểm nêu trên.
- Lê Huỳnh Tấn Duy, Trần Thị Hà (2020), “Tạm hỗn xuất cảnh trong tố tụng
hình sự Việt Nam”, Tạp chí Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, số 4.


7

Nội dung bài viết thể hiện đầy đủ, bao quát các nội dung liên quan đến BPNC
tạm hoãn xuất cảnh trong BLTTHS và một số văn bản quy phạm pháp luật khác.
Tác giả đã nêu lên những điểm hạn chế còn tồn tại là điểm bất cập trong quy định
hiện hành và đề xuất một số giải pháp để hoàn thiện quy định pháp luật cũng như
đảm bảo sự phù hợp với thực tiễn áp dụng.

Nhìn chung, các tài liệu nêu trên có nội dung phong phú, đa dạng, liên quan
đến nhiều khía cạnh của các BPNC nói chung, trong đó có biện pháp tạm hỗn xuất
cảnh. Các cơng trình nghiên cứu này tuy được thực hiện gần đây (từ năm 2015 đến
nay), dựa trên quy định của BLTTHS năm 2015 nhưng chưa có một tài liệu nào
nghiên cứu, phân tích, đánh giá tổng hợp chuyên sâu về biện pháp tạm hoãn xuất
cảnh. Hiện nay, với xu thế hội nhập quốc tế, việc di chuyển giữa các nước đã thuận
tiện hơn so với trước đây, do vậy luật pháp cần được quy định chặt chẽ hơn nhằm
kịp thời chặn đứng hành vi bỏ trốn, tiêu huỷ chứng cứ… và ngặn chặn những hành
vi khác ảnh hưởng đến việc giải quyết đúng đắn, kịp thời vụ án hình sự là vơ cùng
cần thiết.
Vì vậy, việc phân tích quy định của pháp luật và thực trạng áp dụng biện pháp
này trong thực tiễn, cùng những đề xuất nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về
BPNC tạm hoãn xuất cảnh bằng các luận điểm thuyết phục được trình bày trong
luận văn này sẽ là rất cần thiết, mang tính cấp bách về lý luận lẫn thực tiễn và đảm
bảo tính mới trong nghiên cứu khoa học.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu với mục đích cuối cùng là đưa ra các giải pháp cụ thể,
khả thi, khoa học nhằm góp phần hồn thiện quy định của pháp luật TTHS Việt
Nam về biện pháp tạm hoãn xuất cảnh và đảm bảo thực hiện các quy định này trong
thực tiễn giải quyết vụ án hình sự.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn cần thực hiện được những nhiệm vụ
nghiên cứu cụ thể sau đây:
- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về biện pháp tạm hoãn xuất cảnh
trong TTHS;
- Phân tích và đánh giá quy định của pháp luật TTHS về biện pháp tạm hoãn
xuất cảnh;



8

- Khảo sát thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật TTHS về biện pháp
tạm hoãn xuất cảnh và phân tích tìm ra những ngun nhân dẫn đến hạn chế trong
thực tiễn áp dụng BPNC này;
- Đề xuất giải pháp hoàn thiện và đảm bảo thực hiện quy định của pháp luật
TTHS về biện pháp tạm hoãn xuất cảnh.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu
- Những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật TTHS Việt Nam về biện pháp
tạm hoãn xuất cảnh được ghi nhận chủ yếu bởi BLTTHS năm 2015 và một số văn
bản quy phạm pháp luật, Nghị định, Thơng tư có nội dung quy định về tạm hoãn
xuất cảnh.
- Thực tiễn áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh và các quan điểm pháp lý
xung quanh BPNC này.
Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu những quy định của BLTTHS
năm 2015 về biện pháp tạm hoãn xuất cảnh bao gồm: Căn cứ, đối tượng, thẩm
quyền, thủ tục, thời hạn áp dụng và việc hủy bỏ hoặc thay thế BPNC này. Bên cạnh
đó, luận văn còn so sánh, đối chiếu quy định của BLTTHS năm 2015 với các văn
bản quy phạm pháp luật khác cùng quy định về biện pháp tạm hoãn xuất cảnh.
- Về không gian: Luận văn nghiên cứu thực trạng áp dụng biện pháp tạm hoãn
xuất cảnh trong TTHS tại 04 tỉnh, thành phố là TP. HCM, Bạc Liêu, Bến Tre và Trà
Vinh.
- Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực trạng áp dụng biện pháp tạm hoãn
xuất cảnh trong hai năm 2018 và 2019.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với những quan điểm của Đảng và Nhà nước
ta về xây dựng nhà nước pháp quyền, cải cách tư pháp.

Để thực hiện đề tài, tác giả sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu phổ
biến trong khoa học pháp lý như phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, thu thập
số liệu, cụ thể như sau:
- Đối với Chương 1 của luận văn, tác giả dùng phương pháp phân tích và tổng
hợp nhằm phân tích những vấn đề lý luận về biện pháp tạm hoãn xuất cảnh, từ đó
rút ra những kết luận về mặt lý luận.


9

- Đối với Chương 2 của luận văn, tác giả dùng phương pháp phân tích, so sánh
và tổng hợp: Nhằm phân tích các quy định hiện hành về BPNC tạm hoãn xuất cảnh
và so sánh quy định của biện pháp này trong BLTTHS năm 2015 với một số văn
bản quy phạm pháp luật khác. Qua đó, tổng hợp các vấn đề đã phân tích để đánh giá
ưu điểm và những vấn đề tồn tại, hạn chế của các quy định này.
- Đối với Chương 3 của luận văn, tác giả dùng phương pháp phân tích, thu
thập số liệu, tổng hợp: Phân tích thực trạng áp dụng biện pháp tạm hỗn xuất cảnh
qua số liệu đã thu thập. Phương pháp tổng hợp nhằm đánh giá những bất cập trong
quy định và thực tiễn áp dụng, từ đó đề xuất những giải pháp góp phần nâng cao
hiệu quả áp dụng biện pháp này.
6. Đóng góp của luận văn
Kết quả nghiên cứu trong luận văn này có thể được sử dụng nhằm phục vụ cho
mục đích học tập, nghiên cứu, hồn thiện và áp dụng pháp luật. Bởi lẽ, luận văn đã
hệ thống, phân tích làm rõ được những vấn đề cịn hạn chế về mặt lý luận, quy định
pháp luật của BPNC tạm hỗn xuất cảnh trong TTHS. Các kiến nghị hồn thiện có
giá trị tham khảo đối với cơ quan có nhiệm vụ xây dựng pháp luật và các cơ quan
thực thi pháp luật trong việc áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh nhưng vẫn đảm
bảo quyền con người, quyền cơng dân. Vì vậy, kết quả nghiên cứu của luận văn góp
phần phục vụ cho cơng tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật
TTHS. Bên cạnh đó, luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho những nhà nghiên

cứu khi nghiên cứu các vấn đề có liên quan và có giá trị tham khảo đối với các cán
bộ làm công tác thực tiễn (Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, …) cũng như
các giảng viên, sinh viên chuyên ngành luật.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn được bố cục thành 03 chương:
Chƣơng 1. Những vấn đề lý luận về biện pháp tạm hỗn xuất cảnh trong tố
tụng hình sự.
Chƣơng 2. Quy định của pháp luật về biện pháp tạm hoãn xuất cảnh trong tố
tụng hình sự.
Chƣơng 3. Thực tiễn áp dụng biện pháp tạm hỗn xuất cảnh trong tố tụng
hình sự, giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật và bảo đảm thực hiện.


10

CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP TẠM HỖN XUẤT CẢNH
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm và đặc điểm của biện pháp tạm hoãn xuất cảnh trong tố
tụng hình sự
1.1.1. Khái niệm biện pháp tạm hỗn xuất cảnh trong tố tụng hình sự
Biện pháp tạm hỗn xuất cảnh là một BPNC mới được ghi nhận tại Điều 124
BLTTHS năm 2015. Việc bổ sung biện pháp này nhằm đáp ứng yêu cầu phát hiện,
ngăn chặn và xử lý kịp thời tội phạm, phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn đấu tranh
phòng, chống tội phạm hiện nay.
Trước khi đi vào tìm hiểu khái niệm tạm hỗn xuất cảnh trong TTHS, tác giả
sẽ trình bày khái niệm của BPNC. Qua nghiên cứu, tác giả nhận thấy đến thời điểm
hiện tại chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào chính thức ghi nhận khái niệm
chung về các BPNC. Tuy nhiên, tác giả đồng tình với khái niệm về BPNC được

trình bày trong Giáo trình Luật TTHS Việt Nam của Trường Đại học Luật Tp. Hồ
Chí Minh năm 2018, cụ thể như sau: “Biện pháp ngăn chặn là những biện pháp
cưỡng chế do pháp luật tố tụng hình sự quy định và được áp dụng đối với bị can, bị
cáo hoặc người chưa bị khởi tố hình sự nhằm kịp thời ngăn chặn hành vi nguy hiểm
cho xã hội của họ, ngăn chặn họ tiếp tục phạm tội, hoặc có những hành động gây
khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự”. 3 Khái niệm này
dựa trên quá trình nghiên cứu sự hình thành và phát triển, kết hợp với việc phân tích
tính chất, mục đích, căn cứ, đối tượng áp dụng của BPNC.
Tạm hỗn xuất cảnh là một biện pháp khơng chỉ có trong TTHS mà cịn xuất
hiện trong thi hành án hình sự, thi hành án dân sự, kinh doanh thương mại, hành
chính… Thuật ngữ “tạm hỗn xuất cảnh” được giải thích tại khoản 3 Điều 3 Thơng
tư số 21/2011/TT-BCA ngày 25/4/2011 của Bộ Cơng an (Thơng tư số 21/2011/TTBCA),4 đó là: “Việc cơ quan, người có thẩm quyền quyết định tạm dừng xuất cảnh
có thời hạn đối với người nước ngoài, người Việt Nam mang hộ chiếu nước ngoài
đang cư trú ở Việt Nam”. Theo như giải thích này thì tạm hoãn xuất cảnh chỉ áp

3

Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2018), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Hồng Đức,
tr. 279 .
4
Quy định về trình tự, thủ tục thực hiện các quyết định chưa cho nhập cảnh, chưa được xuất cảnh, tạm hoãn
xuất cảnh.


11

dụng đối với người nước ngoài, người Việt Nam mang hộ chiếu nước ngoài đang cư
trú ở Việt Nam. Đối với cơng dân Việt Nam thì có thể bị áp dụng biện pháp “chưa
được xuất cảnh”, được hiểu là: “Việc cơ quan, người có thẩm quyền quyết định
khơng cho phép cơng dân Việt Nam xuất cảnh”.5 Về bản chất thì hai khái niệm này

khá giống nhau, nhưng có thể cơ quan lập pháp dùng hai tên gọi để phân biệt đối
tượng áp dụng của chúng.
Khái niệm “tạm hoãn xuất cảnh” sau đó được giải thích lại theo Luật Nhập
cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam năm 2014 (sửa
đổi, bổ sung năm 2019). Theo đó thì: “Tạm hỗn xuất cảnh là việc người có thẩm
quyền của Việt Nam quyết định tạm dừng xuất cảnh có thời hạn đối với người nước
ngồi đang cư trú tại Việt Nam”.6 Tiếp đến, Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của cơng
dân Việt Nam năm 2019 giải thích như sau: “Tạm hỗn xuất cảnh là việc dừng,
khơng được xuất cảnh có thời hạn đối với cơng dân Việt Nam”.7 Như vậy theo hai
văn bản quy phạm pháp luật này thì tạm hỗn xuất cảnh nhìn chung là biện pháp
tước bỏ quyền ra khỏi lãnh thổ Việt Nam, được áp dụng đối với cả người nước
ngồi và cơng dân Việt Nam.
Với tính chất là BPNC trong TTHS, khái niệm tạm hỗn xuất cảnh đã được
ghi nhận trong Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam của một số cơ sở đào tạo
luật, cụ thể như sau:
Giáo trình của Trường Đại học luật Hà Nội trình bày: “Tạm hỗn xuất cảnh là
biện pháp ngăn chặn áp dụng với bị can, bị cáo hoặc người chưa bị khởi tố về hình
sự khi có căn cứ xác định việc xuất cảnh của họ có dấu hiệu bỏ trốn”.8 Khái niệm
này khá đơn giản nhưng cũng đã phản ánh được một số nội dung cơ bản như đối
tượng và căn cứ áp dụng của BPNC này. Tương tự, tạm hỗn xuất cảnh trong giáo
trình của Trường Đại học luật thành phố Hồ Chí Minh được hiểu là: “Biện pháp
ngăn chặn trong tố tụng hình sự do cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng đối với
người chưa bị khởi tố về hình sự, bị can, bị cáo khi có căn cứ xác định việc xuất
cảnh của họ có dấu hiệu bỏ trốn”.9 Khái niệm này bổ sung thêm thẩm quyền áp
dụng và thay đổi thứ tự trình bày về đối tượng áp dụng so với khái niệm trong giáo
5

Khoản 2 Điều 3 Thông tư số 21/2011/TT-BCA.
Khoản 7 Điều 3 Luật nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam năm 2014
(sửa đổi, bổ sung năm 2019).

7
Khoản 7 Điều 3 Luật xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam năm 2019.
8
Trường Đại học luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, NXB. Cơng an nhân dân, tr.
264.
9
Trường Đại học luật thành phố Hồ Chí Minh (2018), tlđd (3), tr. 335-336.
6


12

trình của Trường Đại học luật Hà Nội. Tuy nhiên, điểm thiếu sót của cả hai khái
niệm trên là khơng đề cập hay giải thích nghĩa của cụm từ “tạm hỗn xuất cảnh” và
mục đích áp dụng của BPNC này.
Cùng với đó, khi đưa ra khái niệm về BPNC tạm hoãn xuất cảnh, Khoa luật
trường Đại học quốc gia Hà Nội trình bày như sau: “Tạm hỗn xuất cảnh là biện
pháp ngăn chặn mà ở đó cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng quyết
định tạm dừng xuất cảnh có thời hạn đối với người bị tố giác, người bị kiến nghị
khởi tố mà qua kiểm tra, xác minh có đủ căn cứ xác định người đó bị nghi thực hiện
tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ
và bị can, bị cáo”.10 Khái niệm này có điểm tiến bộ khi giải thích tạm hỗn xuất
cảnh là tạm dừng xuất cảnh có thời hạn. Tuy nhiên, cách trình bày lại khá dài dịng
do trích dẫn ngun văn quy định tại khoản 1 Điều 124 BLTTHS năm 2015 mà
khơng có sự chắt lọc, chỉnh sửa cho phù hợp với đặc điểm của một khái niệm trong
khoa học pháp lý. Hơn nữa, việc sử dụng thuật ngữ “Cơ quan, người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng” là khơng chính xác. Bởi vì cơ quan, người được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra mặc dù có thẩm quyền tiến hành tố tụng nhưng
theo quy định tại khoản 2 Điều 124 BLTTHS năm 2015 thì người và cơ quan này
khơng được quy định là chủ thể có thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất

cảnh11.
Trên cơ sở nghiên cứu, tiếp thu những ưu điểm và khắc phục hạn chế trong
các khái niệm nêu trên, kết hợp với quy định tại Điều 124 BLTTHS năm 2015, tác
giả đưa ra khái niệm như sau: “Tạm hoãn xuất cảnh là một biện pháp ngăn chặn
trong tố tụng hình sự được áp dụng bởi người có thẩm quyền theo trình tự, thủ tục
nhằm tạm dừng có thời hạn việc xuất cảnh đối với người bị tố giác, người bị kiến
nghị khởi tố, bị can, bị cáo khi có đủ căn cứ do luật định để đảm bảo cho việc khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án”. Khái niệm này mang tính bao quát và
đầy đủ hơn so với các khái niệm hiện có. Bởi lẽ, nó giải thích nghĩa của cụm từ tạm
hoãn xuất cảnh, nêu rõ thẩm quyền, đối tượng, căn cứ, thời hạn và mục đích áp
dụng BPNC tạm hoãn xuất cảnh trong TTHS.

10

Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội (2019), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, NXB. Đại học quốc
gia Hà Nội, tr. 284.
11
Lê Huỳnh Tấn Duy, Trần Thị Hà (2020), “Tạm hỗn xuất cảnh trong tố tụng hình sự Việt Nam”, Tạp chí
Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, số 4, tr. 3-5.


13

1.1.2. Đặc điểm của biện pháp tạm hoãn xuất cảnh trong tố tụng hình sự
Nghiên cứu quy định của pháp luật TTHS, các văn bản quy phạm pháp luật
khác có liên quan cho thấy tạm hoãn xuất cảnh trong TTHS là một BPNC mang đầy
đủ những đặc điểm của BPNC nói chung. Đồng thời BPNC này cịn có những đặc
điểm mang tính đặc thù riêng, đó là:
Thứ nhất, tạm hỗn xuất cảnh là một biện pháp mang tính cưỡng chế trong
TTHS, thể hiện qua việc tác động trực tiếp đến một số quyền con người, quyền cơ

bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013.
Về vấn đề quy định các trường hợp tạm hỗn xuất cảnh, Ơng Võ Trọng Việt –
Chủ nhiệm Uỷ ban Quốc phòng – An ninh cho rằng: “Đây là nội dung có liên quan
trực tiếp đến việc hạn chế quyền con người, quyền cơng dân, liên quan đến quốc
phịng, an ninh, sức khoẻ cộng đồng”.12 Vì vậy khi xây dựng quy định về BPNC
tạm hoãn xuất cảnh, cơ quan lập pháp phải cân nhắc thận trọng các trường hợp cần
phải áp dụng, thời hạn áp dụng phù hợp với các đối tượng và yêu cầu của các hoạt
động tố tụng để tránh xâm phạm quyền con người nhưng vẫn phải đảm bảo điều
kiện giải quyết kịp thời vụ án hình sự.
Trên thực tế thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự được phép áp dụng những biện pháp phù hợp, cần thiết theo
quy định của BLTTHS năm 2015 và điều này dẫn đến hạn chế một số quyền cơ bản
của công dân như quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền lựa chọn nơi cư trú,
quyền tự do đi lại,... Với tính chất là một BPNC trong TTHS tạm hoãn xuất cảnh
cũng làm hạn chế một số quyền cơ bản của đối tượng bị áp dụng. Người bị tạm
hoãn xuất cảnh tuy vẫn được tại ngoại và không bị cưỡng chế nghiêm khắc như tạm
giữ, tạm giam nhưng vẫn phải chịu sự ràng buộc nhất định về mặt pháp lý. Sự ràng
buộc này thể hiện ở khía cạnh người bị áp dụng sẽ không thể xuất cảnh ra khỏi lãnh
thổ Việt Nam trừ các trường hợp như: Được sự cho phép của cơ quan có thẩm
quyền, thời hạn áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh kết thúc theo quy định của
pháp luật, được giải toả quyết định tạm hoãn xuất cảnh, được huỷ hoặc thay thế
bằng BPNC khác. Trong thời hạn bị áp dụng BPNC này nếu người bị áp dụng cố
tình vi phạm, khơng tn thủ theo quyết định tạm hỗn xuất cảnh, điển hình như
trốn đi nước ngồi thì sẽ bị áp dụng các biện pháp nghiêm khắc khác như: Dẫn độ,
12

Ngọc Thành, “Tạm hoãn xuất cảnh để ngăn người vi phạm bỏ trốn” (15/7/2019). Nguồn VOV.VN
(truy cập
ngày 15/02/2020).



14

truy nã,… Đồng thời đối tượng bị áp dụng cũng phải chịu sự giám sát của cơ quan
có thẩm quyền. Nhìn chung, tạm hỗn xuất cảnh là BPNC hạn chế quyền lựa chọn
nơi cư trú, quyền tự do đi lại của người bị áp dụng.
Thứ hai, tạm hoãn xuất cảnh là biện pháp do cơ quan tiến hành tố tụng áp
dụng mang tính lựa chọn và theo một trình tự, thủ tục luật định.
Cơ quan có thẩm quyền áp dụng BPNC này gồm có: Cơ quan điều tra, VKS,
Tịa án13 các cơ quan này được Nhà nước, pháp luật cho phép và chỉ được áp dụng
biện pháp tạm hoãn xuất cảnh trong những trường hợp cần thiết, dựa trên những căn
cứ luật định. Do đó, trước khi tiến hành các hoạt động tố tụng, người có thẩm quyền
phải xem xét khách quan, bao quát, đầy đủ dựa trên các điều kiện, căn cứ áp dụng
để quyết định có nên áp dụng BPNC tạm hỗn xuất cảnh hay khơng. Khi xuất hiện
các căn cứ theo quy định của pháp luật, cơ quan tiến hành tố tụng sẽ ra quyết định
tạm hoãn xuất cảnh nhằm giúp quá trình giải quyết vụ án hình sự đạt hiệu quả cao
nhưng vẫn đảm bảo tính hợp lý và hợp pháp. Bởi lẽ, không phải trong mọi trường
hợp khi áp dụng BPNC có tính chất nghiêm khắc càng cao thì sẽ mang lại hiệu quả
tốt. Vì việc lựa chọn BPNC cụ thể nào phải dựa trên tính chất, mức độ nguy hiểm
của hành vi, nhân thân của người bị buộc tội và một số yếu tố khác. Hơn nữa, nếu
áp dụng BPNC không đúng, không phù hợp sẽ ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp
pháp của đối tượng bị áp dụng cũng như ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án.
Đồng thời, người ra quyết định khơng phù hợp cũng có thể phải chịu trách nhiệm
trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Do đó, BPNC tạm hỗn xuất cảnh
khơng bắt buộc phải áp dụng trong tất cả các vụ án hình sự mà có tính lựa chọn.
Thứ ba, đối tượng áp dụng của biện pháp tạm hoãn xuất cảnh khá rộng, bao
gồm:
Một là, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố về một tội phạm được
quy định trong BLHS năm 2015. Đây là những người chưa bị cơ quan có thẩm
quyền ra quyết định khởi tố hình sự.

Hai là, bị can (người hoặc pháp nhân đã bị khởi tố về hình sự) 14 hoặc bị cáo
(người hoặc pháp nhân đã bị Toà án quyết định đưa ra xét xử).15 Quyền và nghĩa vụ
của bị can, bị cáo là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp
luật của pháp nhân theo quy định của BLTTHS năm 2015.
13

Khoản 1 Điều 34 BLTTHS năm 2015.
Khoản 1 Điều 60 BLTTHS năm 2015.
15
Khoản 1 Điều 61 BLTTHS năm 2015.
14


15

Thứ tư, hậu quả pháp lý là tạm dừng việc xuất cảnh có thời hạn đối với người
bị áp dụng. Tính cưỡng chế của tạm hỗn xuất cảnh thể hiện ở việc hạn chế quyền
tự do đi lại, đây là một quyền cơ bản của công dân được ghi nhận tại Điều 23 Hiến
pháp năm 2013. Là một BPNC trong TTHS biện pháp tạm hoãn xuất cảnh mang
đặc điểm như một biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú với phạm vi rộng hơn. Bởi lẽ,
trong thời hạn tạm hoãn xuất cảnh đối tượng bị áp dụng BPNC này sẽ bị hạn chế
quyền lựa chọn nơi cư trú. Cụ thể là người bị tạm hỗn xuất cảnh chỉ có thể đi lại
trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam mà không thể ra nước ngoài trong một khoảng
thời gian nhất định. Mặc dù không nghiêm khắc như tạm giữ, tạm giam (những
BPNC mang tính tước tự do) nhưng tạm hỗn xuất cảnh có thể làm ảnh hưởng đến
việc lao động, học tập và sinh sống của người bị áp dụng, đặc biệt là người nước
ngồi vì họ khơng thể quay lại nước mà họ mang quốc tịch trong một khoảng thời
gian nhất định16.
Như vậy, tạm hỗn xuất cảnh ngồi mang đầy đủ những đặc điểm của BPNC
nói chung cịn có những đặc điểm riêng, cụ thể như: Có tính cưỡng chế, việc áp

dụng mang tính lựa chọn, đối tượng áp dụng rộng bao gồm những người chưa và đã
bị khởi tố về hình sự, do những người có thẩm quyền áp dụng theo trình tự, thủ tục
trong thời hạn luật định và hậu quả pháp lý là làm hạn chế một số quyền con người,
quyền cơ bản của công dân theo quy định của pháp luật.
1.2. Mục đích và ý nghĩa của biện pháp tạm hỗn xuất cảnh trong tố tụng
hình sự
1.2.1. Mục đích của biện pháp tạm hỗn xuất cảnh trong tố tụng hình sự
Mục đích áp dụng BPNC nói chung trong TTHS là những lợi ích nhất định mà
người có thẩm quyền áp dụng mong muốn đạt được nhằm tạo điều kiện thuận lợi
cho quá trình giải quyết vụ án hình sự17. Với đặc điểm là một BPNC, việc áp dụng
biện pháp tạm hoãn xuất cảnh hướng đến những mục đích sau:
Thứ nhất, để kịp thời ngăn chặn người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, bị
can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án
hoặc sẽ tiếp tục phạm tội. Cụ thể là ngăn chặn ngay khơng để cho những người
tham gia tố tụng này có cơ hội, điều kiện bỏ trốn hoặc tiêu huỷ chứng cứ. Vì vậy, để
phục vụ cho việc chứng minh tội phạm, bảo đảm cho các hoạt động tố tụng của cơ
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng được thực hiện một cách thuận lợi, nhanh
16
17

Lê Huỳnh Tấn Duy, Trần Thị Hà (2020), tlđd (11), tr.5.
Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2018), tlđd (3), tr. 282.


16

chóng, đúng thời hạn và tuân thủ quy định của pháp luật thì việc áp dụng BPNC
tạm hỗn xuất cảnh là điều rất cần thiết. Tuy nhiên, người có thẩm quyền sẽ dựa vào
mức độ có thể gây ra gây khó khăn của từng đối tượng để đưa ra quyết định tạm
hoãn xuất cảnh cho phù hợp.

Nghiên cứu thực tiễn áp dụng BPNC nói chung trong đó có BPNC tạm hỗn
xuất cảnh cho thấy, những người có thẩm quyền thường sẽ căn cứ trên một số yếu
tố sau đây trước khi quyết định áp dụng BPNC tạm hoãn xuất cảnh: Tính chất, mức
độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi; nhân thân người bị buộc tội; tình trạng cư trú;
sự ràng buộc của gia đình, tổ chức, nghề nghiệp; những biểu hiện cụ thể của người
bị buộc tội;… 18 Hơn nữa, để xác định người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố,
bị can, bị cáo có thể sẽ gây khó khăn, cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử hay
khơng thì người có thẩm quyền phải dựa trên những căn cứ khách quan và xuất phát
từ yêu cầu của hoạt động tố tụng, không được chủ quan, phiến diện, áp đặt suy đoán
tuỳ tiện lên người bị nghi thực hiện phạm, người bị buộc tội. Cùng với đó, khi các
cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng BPNC tạm hoãn xuất cảnh dựa trên cơ sở các căn
cứ, điều kiện, trình tự và thủ tục theo đúng quy định của pháp luật sẽ góp phần giúp
mục đích của BPNC được thực hiện có hiệu quả trong thực tiễn.
Thứ hai, để đảm bảo thi hành án. Nhằm đạt được hiệu quả cao trong hoạt động
đấu tranh phịng, chống tội phạm cũng như kịp thời khơi phục quyền, lợi ích hợp
pháp của cá nhân, tổ chức bị tội phạm xâm phạm. Để tiến hành và hoàn thành được
mục đích trên thì các bản án, quyết định của Tồ án phải được thực thi một cách
nhanh chóng, đầy đủ, chính xác và kịp thời trên thực tế thơng qua hoạt động thi
hành án. Theo đó, thi hành án hình sự là việc tổ chức thực hiện các bản án hoặc
quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án.19 Tuy nhiên, việc này liên quan đến
quyền, nghĩa vụ của người chấp hành án nên việc thực hiện phải đảm bảo tuân thủ
theo quy định của pháp luật. Theo quy định của pháp luật, từ khi bản án có hiệu lực
pháp luật đến thời điểm thi hành án cần phải mất một khoảng thời gian để tiến hành
các thủ tục cần thiết. Do vậy nếu có căn cứ cho rằng người bị kết án sẽ bỏ trốn thì
Tịa án có thể áp dụng BPNC tạm hỗn xuất cảnh để bảo đảm cho hoạt động thi
hành án hình sự.

18
19


Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2018), tlđd (3), tr. 283.
Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2018), tlđd (3), tr. 284.


17

1.2.2. Ý nghĩa của biện pháp tạm hoãn xuất cảnh trong tố tụng hình sự
Hiện nay với xu hướng tồn cầu hóa, kinh tế tồn thế giới ngày càng phát
triển, các đối tượng như người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, bị can, bị cáo
có nhiều điều kiện để bỏ trốn sang nước ngoài nhằm trốn tránh sự trừng phạt của
pháp luật. Từ đó có thể dẫn đến việc vụ án không được giải quyết kịp thời và như
vậy không đảm bảo việc bảo vệ, khôi phục quyền lợi cho chủ thể bị tội phạm xâm
hại. Bởi lẽ, khi những người này đã xuất cảnh ra nước ngồi đặc biệt là đến những
nước khơng có quy định về dẫn độ, thì sẽ gây ra nhiều khó khăn cho các cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc thu thập chứng cứ, chứng minh tội phạm.
Vì vậy, việc bổ sung tạm hoãn xuất cảnh là một BPNC trong BLTTHS năm 2015 có
ý nghĩa quan trọng cả về phương diện lập pháp cũng như phương diện áp dụng pháp
luật, góp phần vào cơng tác đấu tranh phịng, chống tội phạm. Điều này được thể
hiện qua các nội dung sau:
Thứ nhất, về phương diện lập pháp. Trước khi BPNC này được ghi nhận trong
BLTTHS năm 2015, nếu xét thấy cần áp dụng BPNC tạm hỗn xuất cảnh thì cơ
quan, người có thẩm quyền phải căn cứ vào các văn bản quy phạm pháp luật như:
Nghị định 136/2007/NĐ-CP ngày 17/8/2007 về xuất cảnh, nhập cảnh của công dân
Việt Nam (Nghị định 136/2007/NĐ-CP); Thông tư số 21/2011/TT-BCA; Luật Nhập
cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam năm 2014 (sửa
đổi, bổ sung năm 2019),... Tuy nhiên, TTHS là một ngành luật độc lập có phạm vi
điều chỉnh, đối tượng điều chỉnh riêng đặc thù nhưng khi cơ quan tiến hành tố tụng
xét thấy cần áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh nhằm ngăn chặn những người bị
nghi thực hiện tội phạm hay người bị buộc tội lại không thể căn cứ vào quy định tại
BLTTHS, mà phải dựa vào quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật khác thì

đây thật sự là một điểm hạn chế lớn. Hơn nữa, BLTTHS phải là văn bản được các
cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng ưu tiên áp dụng trong quá trình giải quyết
vụ án hình sự.
Như tác giả đã trình bày thì các văn bản quy phạm pháp luật nêu trên quy định
tạm hoãn xuất cảnh được áp dụng đối với bị can, bị cáo, người có nghĩa vụ liên
quan trong vụ án hình sự. Theo quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật này thì
biện pháp tạm hỗn xuất cảnh không thể được áp dụng đối với người bị tố giác,
người bị kiến nghị khởi tố. Do đó, việc bổ sung BPNC này trong BLTTHS năm
2015 góp phần hồn thiện chế định BPNC nói riêng và biện pháp cưỡng chế nói
chung. Sự xuất hiện của biện pháp tạm hỗn xuất cảnh đã làm cho hệ thống BPNC


18

trong TTHS nước ta trở nên đa dạng và đầy đủ hơn, cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng cũng có thêm một lựa chọn phù hợp để áp dụng cho các đối tượng cụ
thể nhằm đáp ứng yêu cầu kịp thời ngăn chặn các đối tượng có những hành vi gây
ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án. Theo đó pháp luật TTHS cũng được hồn
thiện hơn so với trước đây.
Thứ hai, về phương diện áp dụng pháp luật thì tạm hỗn xuất cảnh góp phần
tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho quá trình giải quyết vụ án hình sự so với trước
đây. Bởi vì, để giải quyết nguồn tin về tội phạm hay một vụ án các cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng phải thực hiện nhiều hoạt động tố tụng khác nhau. Q trình
chứng minh tội phạm có sự tham gia của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng và
người tham gia tố tụng. Tuy nhiên, trên thực tế phần lớn người tham gia tố tụng mà
đặc biệt là bị can, bị cáo thường trốn tránh, khơng tích cực hợp tác với cơ quan có
thẩm quyền, gây cản trở cho hoạt động tố tụng. Vì vậy để kịp thời ngăn chặn những
hành vi này, đảm bảo cho các hoạt động TTHS được tiến hành một cách thuận lợi
BLTTHS năm 2015 cho phép áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh từ rất sớm,
ngay từ thời điểm giải quyết nguồn tin về tội phạm (thuộc giai đoạn khởi tố vụ án

hình sự).
Đồng thời áp dụng xuyên suốt trong các giai đoạn tiếp theo bao gồm: Điều
tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Điều này giúp ngăn ngừa việc người bị tố giác,
người bị kiến nghị khởi tố, bị can, bị cáo bỏ trốn sang nước ngồi. Qua đó, người có
thẩm quyền khơng gặp nhiều khó khăn trong việc tiến hành các hoạt động tố tụng
(đặc biệt là hoạt động cần sự có mặt của các đối tượng này để lấy lời khai, hỏi cung,
đối chất, nhận dạng, thực nghiệm điều tra,…) nhằm thu thập chứng cứ chứng minh
tội phạm và buộc người phạm tội chịu trách nhiệm hình sự.
Từ thời điểm có hiệu lực đến nay BPNC tạm hỗn xuất cảnh đã góp phần hiệu
quả trong việc xử lý tội phạm, thể hiện thái độ nghiêm khắc của Nhà nước đối với
người có hành vi phạm tội xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của các cá
nhân, cơ quan, tổ chức trên lãnh thổ Việt Nam.
Thứ ba, BPNC tạm hỗn xuất cảnh góp phần hạn chế sự xâm phạm đến các
quyền cơ bản của cơng dân. Bởi vì tạm hoãn xuất cảnh là việc tạm dừng xuất cảnh
đối với đối tượng bị áp dụng trong một thời gian nhất định, nó khơng phải là hình
phạt và khơng nhằm mục đích trừng trị người bị áp dụng.
Việc quyết định áp dụng biện pháp này là kết quả dựa trên sự cân nhắc, so
sánh, lựa chọn và căn cứ vào yêu cầu của quá trình giải quyết vụ án hình sự. Hơn


19

nữa so với tạm giữ, tạm giam thì tạm hỗn xuất cảnh là biện pháp có tính nghiêm
khắc thấp hơn, hạn chế thấp nhất sự tước bỏ tạm thời một số quyền cơ bản của cơng
dân. Từ đó biện pháp này góp phần bảo vệ đối tượng bị áp dụng, hạn chế sự xâm
phạm một cách tùy tiện, trái pháp luật đến các quyền của người tham gia tố tụng.
1.3. Cơ sở của việc quy định biện pháp tạm hoãn xuất cảnh trong tố tụng
hình sự
Cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý
Để thực hiện được nhiệm vụ: “Bảo đảm phát hiện chính xác và xử lý cơng

minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, không để lọt
tội phạm, không làm oan người vô tội; góp phần bảo vệ cơng lý, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, giáo dục mọi người ý thức
tuân theo pháp luật, đấu tranh phịng ngừa và chống tội phạm.”20
BLTTHS năm 2015 phải có những quy định phù hợp với thực tiễn và có tính
dự báo để điều chỉnh, xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật nhưng không xâm
phạm bất hợp pháp đến quyền con người. Vì vậy cơ sở để xây dựng các quy định
của BLTTHS phải tuân thủ theo quy định của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Cơ quan lập pháp bổ sung quy định về BPNC tạm hoãn xuất cảnh
vào BLTTHS năm 2015 dựa trên những cơ sở sau:
Điều 23 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Cơng dân có quyền tự do đi lại và cư
trú ở trong nước, có quyền ra nước ngồi và từ nước ngoài về nước”. Đây là một
trong các quyền con người, quyền cơ bản của công dân cần phải được tôn trọng, bảo
vệ và bảo đảm. Tiếp đến, khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 nhấn mạnh:
“Quyền con người, quyền cơng dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật
trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phịng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã
hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Quy định mang tính nguyên tắc này
là cơ sở để BLTTHS năm 2015 ghi nhận chế định BPNC, biện pháp cưỡng chế.
Người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, bị can, bị cáo là người bị nghi
thực hiện tội phạm, người bị buộc tội nên pháp luật TTHS cho phép hạn chế quyền
con người, quyền công dân của các đối tượng này nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho
quá trình thu thập chứng cứ, chứng minh tội phạm. Qua đó góp phần giải quyết
nhanh chóng vụ án hình sự, bảo vệ pháp chế, khơi phục và bảo vệ quyền, lợi ích
20

Điều 2 BLTTHS năm 2015



×