BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ LINH
QUYỀN YÊU CẦU, KIẾN NGHỊ
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN KHI
KIỂM SÁT GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
ĐỊNH HƢỚNG ỨNG DỤNG
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
QUYỀN YÊU CẦU, KIẾN NGHỊ
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN KHI
KIỂM SÁT GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ
Chuyên ngành: Luật dân sự và Tố tụng dân sự
Định hƣớng ứng dụng
Mã số: 8380103
Người hướng dẫn khoa học: Ts. Nguyễn Văn Tiến
Học viên: Nguyễn Thị Linh
Lớp: Cao Học Luật, Bình Thuận Khóa 2
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đề tài “Quyền yêu cầu, kiến nghị của Viện kiểm sát nhân dân
khi kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự” là cơng trình nghiên cứu khoa học của cá
nhân tôi dưới sự hướng dẫn của Ts. Nguyễn Văn Tiến. Mọi số liệu, tài liệu sử dụng
trong luận văn được thu thập khách quan, trung thực, các thơng tin được trích dẫn
trong luận văn đều được ghi rõ nguồn gốc. Kết quả nghiên cứu của luận văn chưa
được công bố trong bất kỳ công trình khoa học khác.
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Linh
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TT
TỪ VIẾT TẮT
TỪ ĐƢỢC VIẾT TẮT
1
BLTTDS 2015
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
2
Giấy CNQSDĐ
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
3
KSV
Kiểm sát viên
4
LTCVKSND 2014
Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm
2014
QĐ 458/QĐ-VKSTC
Quy định về hướng dẫn hoạt động của
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa dân sự
sơ thẩm (Ban hành kèm theo Quyết định
số 458/QĐ-VKSTC ngày 04 tháng 10 năm
2019 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân tối cao)
6
Quy chế 364
Quy chế công tác kiểm sát giải quyết các
vụ, việc dân sự (Ban hành kèm theo Quyết
định số 364/QĐ-VKSTC ngày 02 tháng
10 năm 2017của Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao).
7
TAND
Tòa án nhân dân
8
TTDS
Tố tụng dân sự
9
TTLT số 02/2016/TTLTVKSNDTC-TANDTC
Thông tư liên tịch số 02/2016/TTLTVKSNDTC-TANDTC ngày 31/8/2016
của VKSNDTC và TANDTC quy định
việc phối hợp giữa Viện kiểm sát nhân
dân và Tòa án nhân dân trong việc thi
hành một số quy định của Bộ luật tố tụng
dân sự
10
UBND
Ủy ban nhân dân
11
VKS, VKSND
Viện kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân
5
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƢƠNG 1. QUYỀN YÊU CẦU CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN KHI
KIỂM SÁT GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ ................................................8
1.1. Căn cứ thực hiện quyền yêu cầu .....................................................................8
1.1.1. Quy định của pháp luật.................................................................................8
1.1.2. Thực tiễn áp dụng .......................................................................................10
1.1.3. Giải pháp, kiến nghị ...................................................................................17
1.2. Thời hạn thực hiện quyền yêu cầu ...............................................................18
1.2.1. Quy định của pháp luật...............................................................................18
1.2.2. Thực tiễn áp dụng .......................................................................................19
1.2.3. Giải pháp, kiến nghị ...................................................................................24
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ........................................................................................26
CHƢƠNG 2. QUYỀN KIẾN NGHỊ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN KHI
KIỂM SÁT GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ ..............................................27
2.1. Căn cứ thực hiện quyền kiến nghị ................................................................27
2.1.1. Quy định của pháp luật...............................................................................27
2.1.2. Thực tiễn áp dụng .......................................................................................29
2.1.3. Giải pháp, kiến nghị ...................................................................................36
2.2. Thời hạn trả lời, giải quyết kiến nghị...........................................................37
2.2.1. Quy định của pháp luật...............................................................................37
2.2.2. Thực tiễn áp dụng .......................................................................................38
2.2.3. Giải pháp, kiến nghị ...................................................................................41
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ........................................................................................43
KẾT LUẬN ..............................................................................................................44
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quyền yêu cầu, kiến nghị là những quyền năng, biện pháp pháp lý quan trọng
của Viện kiểm sát nhân dân khi thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp nói
chung, kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự nói riêng. Nhận thức rõ ý nghĩa, tầm
quan trọng của nhiệm vụ này, thời gian qua, ngành Kiểm sát nhân dân đã áp dụng
đồng bộ nhiều giải pháp, đề ra chỉ tiêu cụ thể để kịp thời phát hiện thiếu sót, vi
phạm của Tòa án, người tiến hành tố tụng, trong việc giải quyết các vụ án dân sự và
kịp thời yêu cầu, kiến nghị khắc phục những sai sót, góp phần nâng cao chất lượng
của việc xét xử các tranh chấp dân sự.
Tuy nhiên, pháp luật về quyền yêu cầu, kiến nghị của Viện kiểm sát nhân dân
khi kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự vẫn tồn tại một số hạn chế, bất cập, thiếu
sót trong thực tiễn áp dụng. Những hạn chế, bất cập này xuất phát từ sự chưa hoàn
thiện của pháp luật và do con người thực hiện.
Thứ nhất, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định Viện kiểm sát có quyền
thực hiện quyền u cầu nhưng khơng quy định trách nhiệm của Tịa án trong việc
thực hiện yêu cầu của Viện kiểm sát. Theo Thông tư liên tịch số 02/2016/TTLTVKSNDTC-TANDTC ngày 31/8/2016 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa
án nhân dân tối cao, quy định trách nhiệm của Tòa án khi thực hiện quyền yêu cầu
xác minh, thu thập chứng cứ của Viện kiểm sát: “Trường hợp việc xác minh, thu
thập chứng cứ theo yêu cầu của Kiểm sát viên là khơng thể thực hiện được hoặc
Tịa án xét thấy khơng cần thiết thì chậm nhất là đến ngày hết thời hạn mở phiên
tòa, phiên họp theo quyết định của Tịa án, Tịa án thơng báo cho Kiểm sát viên
bằng văn bản và nêu rõ lý do”. Tuy nhiên, thế nào là cần thiết và khơng cần thiết thì
chưa được hướng dẫn làm rõ. Trong thực tế, một số yêu cầu của Viện kiểm sát
không được thực hiện hoặc thực hiện khơng triệt để nhưng Tịa án khơng có văn bản
phản hồi ý kiến, không nêu lý do của việc không cần thiết thực hiện yêu cầu của
Viện kiểm sát. Điều này làm cho Kiểm sát viên bị động trong quá trình nghiên cứu
hồ sơ để đề xuất hướng giải quyết, báo cáo án và tham gia phiên tòa.
Thứ hai, thời hạn để Viện kiểm sát nghiên cứu hồ sơ và đề ra yêu cầu xác
minh, thu thập, chứng cứ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 chưa
phù hợp. Thời hạn 15 ngày, kể từ nhận được hồ sơ vụ án cùng quyết định đưa vụ án
2
ra xét xử, Viện kiểm sát nhân dân gặp nhiều khó khăn trong việc nghiên cứu hồ sơ
và thực hiện quyền yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ.
Thứ ba, hiện nay chưa có văn bản nào hướng dẫn cụ thể trường hợp nào là
“vi phạm nghiệm trọng”, trường hợp nào là “vi phạm ít nghiêm trọng” nên căn cứ
để Viện kiểm sát thực hiện quyền kiến nghị, kháng nghị không rõ ràng.
Thứ tư, pháp luật chưa quy định đầy đủ về thời hạn giải quyết, trả lời kiến
nghị khi Tòa án nhân dân nhận được kiến nghị của Viện kiểm sát nhân dân. Hiện
nay, Bộ luật Tố dân sự tụng năm 2015 chỉ quy định thời hạn giải quyết, trả lời kiến
nghị của Tòa án nhân dân trong một số trường hợp, các trường hợp khác chưa quy
định, cần phải hoàn thiện.
Từ những vướng mắc, hạn chế nêu trên, tác giả nhận thấy cần phải hoàn thiện
quy định của pháp luật về quyền yêu cầu, kiến nghị của Viện kiểm sát nhân dân
trong tố tụng dân sự, nên chọn đề tài “Quyền yêu cầu, kiến nghị của Viện kiểm sát
nhân dân khi kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự” để làm luận văn tốt nghiệp cho
khóa học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ phương diện khoa học, có một số cơng trình nghiên cứu liên quan đến
quyền yêu cầu, kiến nghị của Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm sát giải quyết các vụ
án dân sự như sau:
- Trường Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh (2018), Giáo trình Luật tố tụng dân sự
Việt Nam, Nhà xuất bản Hồng Đức. Trong Chương 4, Chương 6 và phần II của cơng
trình này, các tác giả nghiên cứu về toàn bộ các quy định của luật tố tụng dân sự trong
đó có quyền yêu cầu, kiến nghị của Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm sát giải quyết
các vụ án dân sự ở góc độ chung nhất và mang tính lý luận. Với định hướng là cơng
trình lý luận nên thực tiễn và chi tiết về quyền yêu cầu, kiến nghị của Viện kiểm sát
nhân dân khi kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự, cơng trình khơng nghiên cứu;
- Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2021), Sách tình huống Luật Tố tụng
dân sự (Bình luận bản án), Nhà xuất bản Hồng Đức. Trong cơng trình này, các tác giả
đã phân tích quy định của pháp luật về tố tụng dân sự với các bản án, quyết định cụ
thể của Tòa án nhân dân. Liên quan đến quyền yêu cầu, kiến nghị của Viện kiểm sát
nhân dân khi kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự, tác giả nhận thấy các bình luận tại
các chủ đề: Chủ đề 4, Chủ đề 5, Chủ đề 8, Chủ đề 9, Chủ đề 11, Chủ đề 13, Chủ đề
16, Chủ đề 19 và một số chủ đề khác. Với cơng trình nghiên cứu này, các tác giả đã
3
nghiên cứu những vấn đề cụ thể trong từng bản án, quyết định để so sánh giữa quy
định của pháp luật, thực tiễn thực hiện, pháp luật nước ngoài và đề xuất kiến nghị.
Tác giả dựa vào các bình luận này để lấy ý tưởng triển khai đề tài của mình;
- Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2016), Bình luận những điểm mới
trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 (Nguyễn Thị Hoài Phương chủ biên), Nhà
xuất bản Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam. Với cơng trình nghiên cứu này, các
tác giả đã nêu, phân tích những điểm mới của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 so
với Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, trong đó có liên quan đến nhiệm vụ, quyền
hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự. Đây là nguồn nhận thức để tác
giả triển khai đề tài;
- Nguyễn Quế Hảo (2016), “Hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong thủ
tục phúc thẩm dân sự”, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh. Cơng trình này
nghiên cứu hoạt động của Viện kiểm sát tại phiên tòa phúc thẩm dân sự thuộc nhiệm
vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và Viện kiểm sát nhân dân cấp
cao, nghiên cứu không sâu về quyền yêu cầu, kiến nghị của Viện kiểm sát nhân dân
khi kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự. Tuy nhiên, tác giả tham khảo được về quyền
hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự.
- Đặng Thanh Hoa (Chủ biên), Lưu Tiến Dũng (2020), Lý giải một số vấn đề
của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 từ thực tiễn xét xử, Nhà xuất bản Hồng Đức.
Trong cơng trình này, các nội dung nghiên cứu liên quan đến đề tài tác giả ở Vấn đề
1, Vấn đề 3, Vấn đề 6, Vấn đề 7 và Vấn đề 9. Với cách đặt vấn đề và nội dung lý
giải trong công trình, tác giả nhận diện được định hướng triển khai đề tài trong luận
văn của mình;
- Nguyễn Quang Đạt (2020), “Quyền yêu cầu của Viện kiểm sát nhân dân
trong kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính”, Tạp chí Kiểm sát, số 06, trang 1016. Nội dung bài viết đã nêu lên những khó khăn vướng mắc trong thực hiện các
quy định của pháp luật về quyền yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ, cung cấp hồ sơ
vụ án của Viện kiểm sát nhân dân và đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật
liên quan đến nội dung này. Đây là cơng trình mà tác giả nhận diện được một số
khó khăn khi kiểm sát việc giải quyết vụ án tại Tòa án nhân dân và vận dụng vào
kiến nghị trong luận văn.
- Nguyễn Quốc Hân, Nguyễn Thanh Mến (2019), “Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh Bình Phước nâng cao chất lượng kháng nghị phúc thẩm án dân sự, hành chính”,
4
Tạp chí Kiểm sát, số 10/05, trang 2-7. Từ thực tiễn công tác kiểm sát việc giải quyết
án dân sự, hơn nhân và gia đình, hành chính sơ thẩm tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Bình Phước, tác giả đã tổng hợp những dạng vi phạm phổ biến trong quá trình giải
quyết án của Tịa án cấp sơ thẩm, đồng thời đưa ra một số kinh nghiệm giải pháp để
nâng cao chất lượng kháng nghị phúc thẩm trong thời gian tới. Đây là cơng trình mà
tác giả nhận diện được một số khó khăn khi kiểm sát việc giải quyết vụ án tại Tịa
án nhân dân.
- Nguyễn Văn Nơng (2020), “Một số vấn đề rút ra từ thực tiễn kiểm sát hoạt
động tư pháp giai đoạn 2016-2020”, Tạp chí Kiểm sát, số 17, trang 3-10. Bài viết
nêu lên những kết quả đạt được của của ngành Kiểm sát nhân dân trong công tác
kiểm sát hoạt tư pháp theo pháp luật tố tụng dân sự, hành chính và rút ra một số vấn
đề từ thực tiễn trong giai đoạn 2016 – 2020 góp phần nâng cao chất lượng hiệu quả
cơng tác kiểm sát hoạt động tư pháp. Quan điểm của tác giả cơng trình là cơ sở để
tác giả vận dụng trong việc kiến nghị trong luận văn.
- Trần Công Phàn (2020), “Nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm sát,
giải quyết các vụ việc dân sự, vụ án hành chính của Viện kiểm sát nhân dân trong
giai đoạn mới”, Tạp chí Kiểm sát, số 15, trang 20-26. Bài viết nêu khái quát quy
định của pháp luật về chức năng nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân trong thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát cũng như hạn chế, tồn tại trong công
tác kiểm sát, giải quyết các vụ việc dân sự, vụ án hành chính và đưa ra một số giải
pháp khắc phục đối với công tác lãnh đạo, chỉ đạo, bố trí cán bộ trong Ngành. Từ
thực tiễn cơng tác của mình, tác giả chứng minh cụ thể hơn về phương thức thực
hiện nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân trong công tác kiểm sát, giải quyết các
vụ án dân sự;
- Hoàng Anh Tuyên, Nguyễn Thị Huyền Trang (2020), “Bàn về quyền kháng
nghị, kiến nghị và quyền yêu cầu trong công tác thực hành quyền cơng tố, kiểm sát
việc giải quyết vụ án hình sự”, Tạp chí Kiểm sát, số 03, trang 16-24. Bài viết nêu lên
cơ sở pháp lý về quyền kháng nghị, quyền kiến nghị và quyền yêu cầu trong công tác
thực hành quyền công tố, kiểm sát giải quyết vụ án hình sự; một số kết quả, vướng
mắc, tồn tại trong thực hiện quyền kháng nghị, quyền kiến nghị, quyền yêu cầu và đề
xuất giải pháp nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động này trong thời gian tới. Đây
cũng là cơng trình giúp tác giả định hướng hồn thiện pháp luật về quyền yêu cầu,
kiến nghị của Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự;
5
- Vũ Thị Hồng Vân (2018), “Một số vấn đề về quyền yêu cầu, quyền kiến
nghị của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự”, Tạp chí khoa học Kiểm sát,
số 06, trang 3-9. Bài viết tập trung nghiên cứu những vấn đề pháp lý, quy định của
pháp luật về quyền yêu cầu, kiến nghị của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân
sự thông qua việc phân tích những tiêu chí để nhận diện và phân biệt quyền yêu cầu
và kiến nghị. Tác giả tiếp tục triển khai cụ thể hơn về nội dung này trong luận văn
của mình và thực tiễn áp dụng.
Nhìn chung, mỗi cơng trình có một cách nhìn khác nhau về quyền của Viện
kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự nói chung, quyền yêu cầu, kiến nghị của
Viện kiểm sát nhân dân nói riêng. Các cơng trình này là nguồn tư liệu quan trọng,
cần thiết để tác giả triển khai đề tài. Trên cơ sở kế thừa nguồn nhận thức nói trên,
tác giả tiếp tục nghiên cứu quy định của pháp luật, thực tiễn áp dụng pháp luật về
quyền yêu cầu, kiến nghị của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự, từ đó chỉ
ra những nguyên nhân dẫn đến những hạn chế, bất cập để đề xuất một số kiến nghị
nhằm hoàn thiện pháp luật về quyền yêu cầu, kiến nghị của Viện kiểm sát nhân dân
khi kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở quy định của pháp luật, thực tiễn thực hiện quyền yêu cầu, kiến
nghị của Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự, vướng
mắc, bất cập, đề tài đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về quyền yêu
cầu, kiến nghị của Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được những mục đích trên nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là:
- Làm rõ thực trạng pháp luật về quyền yêu cầu, kiến nghị của Viện kiểm sát
nhân dân khi kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự;
- Chỉ ra hạn chế, vướng mắc khi thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị của Viện
kiểm sát nhân dân khi kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự. Trong đó, tập trung vào
việc đánh giá việc thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị của Viện kiểm sát nhân dân
tại địa bàn tỉnh Bình Thuận.
- Đánh giá nguyên nhân của thực tiễn thi hành quyền yêu cầu, kiến nghị của
Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự;
6
- Đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về quyền yêu cầu, kiến
nghị của Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là quy định của pháp luật về quyền yêu cầu, kiến nghị
của Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự. Các quy định
này được điều chỉnh trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Luật Tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành về các luật trên.
Thực tiễn thi hành, vướng mắc, bất cập khi thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị của
Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự cũng được khắc
họa để làm căn cứ kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Cơng trình chỉ nghiên cứu về quyền u cầu, kiến nghị của Viện kiểm sát
nhân dân khi kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự. Trọng tâm là ở cấp sơ thẩm.
Quyền yêu cầu, kiến nghị của Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm sát giải quyết việc
dân sự, cơng trình khơng nghiên cứu.
Về địa bàn, tác giả nghiên cứu quyền yêu cầu, kiến nghị của Viện kiểm sát
nhân dân khi kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự trong phạm vi thực tiễn thi hành
quyền yêu cầu, kiến nghị của Viện kiểm sát nhân dân ở hai cấp ngành Kiểm sát
nhân dân tại tỉnh Bình Thuận. Phạm vi nghiên cứu về thời gian: Thực tiễn thực hiện
quyền yêu cầu, kiến nghị của Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm sát giải quyết các vụ
án dân sự từ năm 2016 đến nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp phân tích: Phương pháp này được sử dụng trong hai chương
của luận văn để phân tích về quy định của pháp luật, thực tiễn áp dụng, kiến nghị về
quyền yêu cầu, kiến nghị của Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm sát giải quyết các vụ
án dân sự.
- Phương pháp phân tích luật viết: Phương pháp này được sử dụng trong hai
chương nhằm đánh giá những quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Luật
Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 và các văn bản hướng dẫn về quyền yêu
cầu, kiến nghị của Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự.
7
Trên cơ sở các quy phạm pháp luật, cơng trình chỉ ra những bất cập của luật và hạn
chế trong thực tiễn thực hiện.
- Phương pháp tổng hợp: Phương pháp được sử dụng trong hai chương nhằm
đánh giá tình hình thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật về quyền yêu cầu,
kiến nghị của Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự, trên
cơ sở đó đưa ra các nhận xét, bình luận. Phương pháp này còn được sử dụng trong
các kết luận.
- Phương pháp so sánh: Phương pháp này được sử dụng khi so sánh các quy
định của pháp luật về quyền yêu cầu, kiến nghị của Viện kiểm sát nhân dân khi
kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 với
Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 và với các văn bản hướng dẫn để
chỉ ra những bất cập, hạn chế.
6. Kết quả nghiên cứu và địa chỉ ứng dụng
Kết quả nghiên cứu của luận văn là tài liệu tham khảo trong công tác nghiên
cứu, học tập về quyền yêu cầu, kiến nghị của Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm sát
giải quyết các vụ án dân sự.
Kết quả nghiên cứu của luận văn là cơ sở để nâng cao nghiệp vụ công tác của
tác giả khi thực hiện nhiệm vụ theo quy định của pháp luật về quyền yêu cầu, kiến
nghị của Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự.
Thông qua kết quả nghiên cứu, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn
thiện pháp luật về quyền yêu cầu, kiến nghị của Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm
sát giải quyết các vụ án dân sự.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 2 chương:
Chương 1. Quyền yêu cầu của Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm sát giải quyết
các vụ án dân sự
Chương 2. Quyền kiến nghị của Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm sát giải
quyết các vụ án dân sự
8
CHƢƠNG 1
QUYỀN YÊU CẦU CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN KHI KIỂM SÁT
GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ
1.1. Căn cứ thực hiện quyền yêu cầu
1.1.1. Quy định của pháp luật
Điều 107 Hiến pháp năm 2013, Điều 2 LTCVKSND 2014, Điều 21 BLTTDS
2015, quy định về nhiệm vụ quyền hạn của VKSND. Theo các quy định trên,
VKSND có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm cho pháp luật
được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Với chức năng kiểm sát hoạt động tư
pháp nói chung, kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự nói riêng, VKSND đảm bảo
việc giải quyết các vụ án tại TAND kịp thời, đúng pháp luật và bản án, quyết định
đã có hiệu lực phải được thi hành nghiêm chỉnh.
Quyền yêu cầu khi kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự, là một trong những
phương thức kiểm sát hoạt động tư pháp và được thực hiện thường xuyên trong
quá trình kiểm sát TAND giải quyết các vụ án dân sự. Theo Từ điển Tiếng Việt,
quyền yêu cầu là “nêu ra điều gì với người nào đó, tỏ ý muốn người đó làm, vì đó
là việc thuộc nhiệm vụ, trách nhiệm hoặc quyền hạn, khả năng của người ấy”1. Là
“nêu lên một điều gì đó, tỏ ý muốn người ấy làm, biết rằng đó là việc thuộc nhiệm
vụ, trách nhiệm hoặc quyền hạn, khả năng của người ấy”2.
Dưới góc độ pháp lý, quyền yêu cầu là một trong ba quyền năng quan trọng
mà VKSND thực hiện chức năng, nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
TTDS nói chung và trong q trình kiểm sát các vụ án dân sự nói riêng. Theo quy
định tại điểm a, c khoản 3 Điều 4 LTCVKSND 2014, khi thực hiện chức năng kiểm
sát hoạt động tư pháp, VKSND có quyền: Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân thực
hiện hoạt động tư pháp đúng quy định của pháp luật; tự kiểm tra việc tiến hành hoạt
động tư pháp thuộc thẩm quyền và thông báo kết quả cho VKSND; cung cấp hồ sơ,
tài liệu để VKSND kiểm sát tính hợp pháp của hành vi quyết định trong hoạt động
tư pháp; yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức cá nhân có thẩm quyền khắc phục, xử
lý nghiêm minh vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp.
Trung tâm từ điển học (2014), Từ điển tiếng việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng, tr.1506.
Vũ Thị Hồng Vân (2018), “Một số vấn đề về quyền yêu cầu, quyền kiến nghị của VKSND trong tố tụng
dân sự”, Tạp chí khoa học Kiểm sát, số 06, tr.4.
1
2
9
Khoản 1 Điều 21 BLTTDS 2015 quy định: Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng
nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự
kịp thời, đúng pháp luật.
Trên cơ sở quy định của BLTTDS 2015, tại Chương III TTLT số 02/2016/TTLTVKSNDTC-TANDTC đã cụ thể hóa quyền yêu cầu của Viện trưởng và Kiểm sát viên
khi kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự, bao gồm:
a, Các quyền yêu cầu tại các khoản 3, 6 và 8 Điều 58, khoản 4 Điều 326,
điểm c khoản 1 Điều 254, Điều 255, Điều 258 BLTTDS;
b, Yêu cầu Tòa án chuyển hồ sơ vụ án theo các Điều 4, 5, 6 Thơng tư liên
tịch này.
c, u cầu Tịa án cho sao chụp bản sao đơn khởi kiện, đơn yêu cầu và tài
liệu, chứng cứ trong trường hợp trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu theo quy định tại
Điều 21 Thông tư liên tịch này.
d, Yêu cầu người gửi đơn sửa đổi, bổ sung đơn đề nghị xem xét bản án, quyết
định của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm theo
khoản 2 Điều 329, Điều 357 BLTTDS.
e, Yêu cầu Tòa án, cơ quan khác, tổ chức, cá nhân cung cấp hồ sơ, tài liệu về
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định tại Điều 515 BLTTDS và khoản 3
Điều 34 Thông tư liên tịch này.
Hướng dẫn hoạt động về Kiểm sát viên tham gia phiên tòa dân sự sơ thẩm,
Điều 5 QĐ 458/QĐ-VKSTC quy định: Trước phiên tòa, KSV có quyền u cầu Tịa
án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ (nếu cần thiết). Điều 13 QĐ 458/QĐ-VKSTC
quy định: VKS có quyền u cầu Tịa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ.
Từ những quy định trên, quyền yêu cầu của VKS trong TTDS là quyền pháp
định. Quyền yêu cầu của VKS, nhằm đảm bảo khi Tòa án, người tiến hành tố tụng
và các chủ thể tham gia tố tụng khác, thực hiện không đúng, không đầy đủ hoặc
chưa thực hiện hoặc không thực hiện quy định của pháp luật TTDS, VKS có quyền
yêu cầu các chủ thể trên phải thực hiện theo quy định của pháp luật để sửa chữa,
khắc phục những thiếu sót nhằm giải quyết vụ án dân sự đúng đắn, chính xác.
Thơng qua công tác kiểm sát, VKS đảm bảo cho hoạt động tố tụng phù hợp với quy
định của pháp luật, nâng cao hiệu của hoạt động xét xử tại TAND.
10
1.1.2. Thực tiễn áp dụng
Kết quả đạt được:
Trên cơ sở các quy định về quyền yêu cầu của VKS, trong quá trình kiểm sát
giải quyết các vụ án dân sự, về cơ bản, VKSND hai cấp tỉnh Bình Thuận đã thực
hiện quyền yêu cầu một cách kịp thời, có chất lượng, góp phần vào việc đảm bảo
các vụ án dân sự được giải quyết toàn diện, khách quan và đúng quy định của pháp
luật. Các yêu cầu mà VKS thực hiện trong quá trình kiểm sát đều tuân thủ về căn
cứ, hình thức, thời hạn. Phần lớn yêu cầu của VKS đều được Thẩm phán và Hội
đồng xét xử thống nhất quan điểm về nội dung yêu cầu.
Ví dụ 1: Trong quá trình kiểm sát vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa
nguyên đơn: Bà Trần Thị Đ, Nguyễn Thị T1, Nguyễn Thị T2, Nguyễn Thị T3,
Nguyễn Thị T4, Nguyễn Thị L và bị đơn Nguyễn Tấn Sỹ. Nhận thấy các tài liệu,
chứng cứ có trong hồ sơ vụ án chưa đầy đủ, nhiều mâu thuẫn, một số nội dung chưa
được làm rõ, VKSND huyện TL đã ban hành yêu cầu xác minh, thu thập chứng cứ
với các nội dung3:
Một, yêu cầu Tòa án tiến hành lấy lời khai của các đồng nguyên đơn vì
trong quá trình tố tụng, TAND huyện TL chưa tiến hành lấy lời khai, đồng thời
các đồng nguyên đơn cũng chưa có văn bản ủy quyền cho người khác tham gia tố
tụng thay mình.
Hai, trong hồ sơ thể hiện bà Trần Thị Thủy là vợ của ơng Nguyễn Văn Tường
và được Tịa án xác định là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Yêu
cầu Tòa án xác minh lại địa chỉ và lấy lời khai của bà Thủy, tiến hành các thủ tục tố
tụng để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bà Thủy.
Ba, xác minh làm rõ thời điểm ông Tường bị tuyên bố mất năng lực hành vi
dân sự thì ơng có tài sản gì khơng? nếu có tài sản do ai trơng coi, quản lý?.
Sau khi nhận được văn bản yêu cầu xác minh, thu thập chứng cứ của VKS,
TAND huyện TL đã tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ, có thơng báo khơng mở
phiên tòa và gửi đến VKSND huyện TL, với nội dung: “Nhận thấy, yêu cầu xác
minh, thu thập chứng cứ của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tánh Linh là có căn cứ,
cần phải thực hiện để đảm bảo việc xét xử vụ án được chính xác, khách quan. Do
đó, Tịa án nhân dân huyện Tánh Linh thông báo không mở phiên tòa sơ thẩm xét
xử vào lúc 7h30 ngày 27/4/2021 theo như đã ấn định trong quyết định đưa vụ án ra
3
Yêu cầu xác minh, thu thập chứng cứ số 152/YC-VKS-DS ngày 22/4/2021 của VKSND huyện Tánh Linh.
11
xét xử đã ban hành. Vụ án sẽ được mở lại xét xử khi Tòa án thu thập đầy đủ chứng
cứ theo yêu cầu của Viện kiểm sát”4. Sau khi xác minh, thu thập bổ sung tài liệu
chứng cứ, Tòa án đã xét xử và bản án đã có hiệu lực pháp luật.
Ví dụ 2: Kiểm sát việc giải quyết vụ án “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”
giữa nguyên đơn bà Trần Thị Tr và bị đơn bà Phạm Thị V. Nhận thấy các tài liệu,
chứng cứ có trong hồ sơ vụ án chưa đầy đủ, nhiều mâu thuẫn, VKSND huyện ĐL đã
có văn bản yêu cầu TAND huyện ĐL xác minh, thu thập chứng cứ với các nội dung5:
Một, giấy mượn tiền do đương sự cung cấp là bản phơ tơ vì vậy u cầu Thẩm
phán thu thập tài liệu chứng cứ theo đúng quy định tại Điều 93 BLTTDS 2015.
Hai, xác định hợp đồng vay có thỏa thuận lãi không, lãi suất cụ thể?
Ba, xác minh làm rõ tình trạng hơn nhân của bị đơn để xác định có hay khơng
nghĩa vụ liên đới của chồng bị đơn.
Sau khi nhận được văn bản yêu cầu, TAND huyện ĐL đã tiến hành xác minh,
thu thập chứng cứ theo yêu cầu của VKS, bổ sung vào hồ sơ vụ án và đưa vụ án ra
xét xử theo đúng quy định. Đến nay bản án của TAND huyện ĐL đã có hiệu lực
pháp luật.
Khó khăn, vướng mắc:
Bên cạnh những kết quả như trên, việc thực hiện quyền yêu cầu của VKSND
khi kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự gặp phải khó khăn vướng mắc như sau:
Theo quy định tại khoản 1 Điều 25 BLTTDS 2015, VKS kiểm sát việc tuân
theo pháp luật TTDS nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ án dân sự kịp thời,
đúng pháp luật. Theo đó, quyền u cầu Tịa án xác minh, thu thập chứng cứ là
một trong những biện pháp nghiệp vụ của VKS khi thực hiện chức năng kiểm sát
giải quyết vụ án dân sự. Theo quy định tại khoản 3 Điều 58 BLTTDS 2015, khi
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, KSV có quyền yêu cầu Tòa
án xác minh, thu thập chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án dân sự theo quy
định nhưng lại khơng quy định trách nhiệm của Tịa án trong việc thực hiện yêu
cầu của KSV.
Khoản 1 Điều 22 TTLT số 02/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC quy định:
“Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, nếu Kiểm sát viên thấy cần các minh,
thu thập thêm chứng cứ để bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời,
4
5
Thông báo không mở phiên tòa số 30/TB-TA ngày 22/4/2021 của TAND huyện Tánh Linh.
Yêu cầu xác minh, thu thập chứng cứ số 07/VKS-DS ngày 06/8/2020 của VKSND huyện Đức Linh.
12
đúng pháp luật thì Kiểm sát viên gửi văn bản yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập
chứng cứ theo quy định tại khoản 3 Điều 58 BLTTDS.”
Khoản 2 Điều 22 TTLT số 02/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC quy định:
“Trường hợp việc xác minh, thu thập chứng cứ theo yêu cầu của Kiểm sát viên là
khơng thể thực hiện được hoặc Tịa án xét thấy khơng cần thiết thì chậm nhất là đến
ngày hết thời hạn mở phiên tòa, phiên họp theo quyết định của Tịa án, Tịa án
thơng báo cho Kiểm sát viên bằng văn bản và nêu rõ lý do”.
Trong các quy định trên, tác giả nhận thấy:
Một, pháp luật chưa quy định rõ về trách nhiệm của Tòa án trong việc thực
hiện yêu cầu xác minh, thu thập chứng cứ.
Hai, việc xác định yêu cầu xác minh, thu thập chứng cứ cần thiết hay không
cần thiết chưa được định lượng cụ thể, chi tiết.
Ba, quan điểm giữa Tòa án và VKS khơng nhất qn về tính cần thiết trong
việc xác minh, thu thập chứng cứ.
Hệ quả của quy định này là:
Một, Tòa án (Thẩm phán và Hội đồng xét xử) cho rằng, u cầu của VKS là
khơng cần thiết;
Hai, việc Tịa án không thực hiện việc xác minh, thu thập chứng cứ là
chính xác;
Ba, VKS cho rằng việc Tịa án khơng thực hiện yêu cầu về xác minh, thu
thập chứng cứ là khơng đúng quy định của luật TTDS.
Bốn, Tịa án không thông báo kết quả chấp nhận hay không chấp nhận thực
hiện quyền yêu cầu xác minh, thu thập chứng cứ của vụ án.
Thông thường, để từ chối thực hiện yêu cầu của VKS, Thẩm phán và Hội
đồng xét xử cho rằng tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã đầy đủ, đảm bảo
cho việc giải quyết vụ án và không cần phải thu thập thêm. Do đó, u cầu của VKS
là khơng cần thiết. Một số vụ án, Tịa án khơng thơng báo kết quả thực hiện quyền
yêu cầu cho VKS dù hoạt động này quy định tại khoản 2 Điều 22 TTLT số
02/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC. Tại phiên tòa, dù KSV thấy cần thiết phải
xác minh, thu thập thêm chứng cứ nhưng Hội đồng xét xử không chấp nhận u
cầu. Vì vậy, VKS chỉ có thể xem xét, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm sau khi
Tòa án đã xét xử.
13
Ví dụ 3: Vụ án “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa” giữa nguyên đơn
bà Lâm Thị Đ, bị đơn ơng Nguyễn Quang H và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan ông Ao Công Tr6.
Nhận thấy lời khai của các bên đương sự cịn mâu thuẫn, tình tiết vụ án chưa
được làm rõ, cần phải xác minh, thu thập chứng cứ để giải quyết vụ án một cách
khách quan và tồn diện, VKSND huyện TL đã có văn bản yêu cầu TAND huyện
TL xác minh, thu thập chứng cứ. Nội dung yêu cầu: làm rõ thông tin về chủ tài
khoản đã gửi tiền vào tài khoản của nguyên đơn Lâm Thị Đ; thu thập giấy giao
nhận hàng hóa giữa nguyên đơn và bị đơn hoặc giữa nguyên đơn với Công ty
TNHH xuất nhập khẩu trái cây PH.
TAND huyện TL đã có văn bản trả lời với nội dung “Qua xem xét tồn bộ hồ
sơ vụ án, Tịa án nhân dân huyện Tánh Linh nhận thấy các tài liệu chứng cứ Tịa án
xác minh, thu thập trong q trình tố tụng đã đầy đủ. Vì vậy, yêu cầu xác minh, thu
thập chứng cứ của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tánh Linh theo các nội dung như
đã nêu trên là khơng cần thiết. Tịa án nhân dân huyện Tánh Linh tiếp tục đưa vụ án
ra xét xử theo thời gian, địa điểm đã được ấn định”7.
Tại bản án số 44/2019/DS-DT ngày 28/11/2019, TAND huyện TL quyết
định: chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lâm Thị Đ buộc ông Nguyễn Quang H
phải trả cho bà Lâm Thị Đ và ông Ao Công Tr số tiền 920.316.000 đồng. Sau khi
xét xử sơ thẩm, ngày 28/11/2019 bị đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. Tại bản
án phúc thẩm TAND tỉnh BT8 đã chấp nhận kháng cáo của bị đơn và tuyên hủy bản
án sơ thẩm.
Trong vụ án này, tác giả đồng tình với quan điểm của VKSND huyện TL khi
yêu cầu Tòa án huyện TL xác minh, thu thập chứng cứ để làm rõ thông tin của chủ
tài khoản ngân hàng đã chuyển tiền vào tài khoản của bà Đ, cũng như giấy tờ thể
hiện việc giao nhận hàng hóa giữa hai bên nhằm làm rõ bên mua hàng của bà Đ là
ông H hay Công ty TNHH xuất nhập khẩu trái cây PH. Bởi lẽ, trong hồ sơ, lời khai
của ông H và lời khai của người làm chứng (bà P) thể hiện: phủ nhận ông H là
người mua hàng của bà Đ; việc giao nhận mua bán giữa bà Đ và bên mua hàng ông
H đều không biết vì ơng chỉ giới thiệu đối tác cho bà Đ; ông H đồng ý ký xác nhận
nợ số tiền 920.316.000 đồng trong giấy xác nhận nợ mà bà Đ cung cấp cho Tòa án
6
Yêu cầu xác minh, thu thập chứng cứ số 433/YC-VKS-HN ngày 22/10/2019 của VKSND huyện Tánh Linh.
Công văn số 166/CV-TA ngày 06/11/2019 của TAND huyện Tánh Linh.
8
Bản án số 09/2020/DS-PT ngày 11/5/2020 của TAND tỉnh Bình Thuận.
7
14
là do tin tưởng bà Đ là bạn của mẹ nuôi ông là bà P và muốn giúp bà Đ có bằng
chứng với bên mua hàng là Cơng ty TNHH xuất nhập khẩu trái cây PH.
Việc Tòa án huyện TL cho rằng các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập đầy
đủ là chưa đánh giá đúng mức độ cần thiết của việc xác minh, thu thập tài liệu
chứng cứ. Do không xác minh, thu thập tài liệu chứng cứ, khơng làm rõ các tình tiết
của vụ án đã dẫn đến việc nhận định, xem xét giải quyết vụ án của Tịa án là khơng
tồn diện, xác định sai tư cách chủ thể tham gia tố tụng, bỏ sót người tham gia tố
tụng. Kết quả là cấp phúc thẩm hủy án để xét xử lại.
Ví dụ 4: Vụ án “Địi lại tài sản” giữa nguyên đơn ông Nguyễn Thanh H, bị đơn
ơng Nguyễn Khắc Ph và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Mai H và bà N9.
Căn cứ tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ và q trình xét hỏi tại phiên tịa cho
thấy: Năm 2017, nguyên đơn nhận chuyển nhượng của bị đơn diện tích đất
1.092,6m2 theo giấy CNQSDĐ. Hai bên đã hoàn thành giao nhận tiền và làm thủ tục
sang tên chuyển nhượng. Do bị đơn không thực hiện giao đất nên nguyên đơn khởi
kiện ra Tịa án. Q trình giải quyết, bị đơn đã giao nhà và đất cho nguyên đơn
nhưng thiếu 114m2 so với giấy CNQSDĐ nên nguyên đơn đã rút một phần yêu cầu
khởi kiện là đòi nhà và đất, giữ lại yêu cầu buộc bị đơn tiếp tục giao đất cho đủ diện
tích theo giấy chứng nhận. Các lời khai của bị đơn thể hiện ơng khơng biết diện tích
đất thực tế ít hơn diện tích trong giấy CNQSDĐ. Bà Mai H là chủ sử dụng đất liền
kề, đang sử dụng diện tích 114m2, trên đất có nhà và Mai H khơng đồng ý trả đất
cho ngun đơn vì đất này bà đã mua của mẹ bị đơn là bà N nhưng do chưa có tiền
nên chưa làm giấy tờ. Trình bày này của bà Mai H được bà N thừa nhận. Đại diện
UBND huyện HTB cho rằng thửa đất nguyên đơn chuyển nhượng bị thiếu là do vị
trí ranh giới khác với sổ được cấp, diện tích này nằm trong sổ được cấp cho nguyên
đơn và không được cấp cho bà Mai H.
Tại phiên tòa, nhận thấy các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và kết
quả xét hỏi tại phiên tịa khơng đủ căn cứ để giải quyết vụ án một cách toàn diện,
khách quan và đúng pháp luật, KSV đã đề nghị Hội đồng xét xử tạm ngừng phiên
tòa để xác minh, bổ sung thêm chứng cứ nhưng không được Hội đồng xét xử chấp
nhận. Hội đồng xét xử nhận định: khi bị đơn chuyển nhượng đất cho nguyên đơn
trên đất đã có nhà, do đó, hai bên đều có lỗi. Hội đồng xét xử buộc bị đơn trả lại số
9
Thông báo rút kinh nghiệm qua hội nghị trực tuyến số 637/TB-VKS ngày 14/6/2019 của VKSND tỉnh Bình
Thuận, tr. 9-11.
15
tiền tương đương với giá trị diện tích đất đang còn thiếu. Bản án phúc thẩm hủy bản
án án sơ thẩm để xét xử lại theo thủ tục chung.
Qua vụ án trên, tác giả nhận thấy:
Một, yêu cầu tạm ngừng phiên tòa để bổ sung thêm chứng cứ là đo đạc xác
định diện tích đất của bà Mai H có nhà và vị trí nhà của bà Mai H mà KSV đề ra là
cần thiết. Vì chỉ khi đo đạc thì mới có thể làm rõ diện tích đất bà Mai H đang sử
dụng có thuộc diện tích đất mà bị đơn đã chuyển nhượng cho nguyên đơn không.
Nếu thuộc diện tích đất mà bị đơn chuyển nhượng cho nguyên đơn thì diện tích là
bao nhiêu và ở vị trí nào? Có như vậy, vụ án mới giải quyết được triệt để.
Hai, yêu cầu của KSV trong vụ án này là cần thiết và phù hợp. Hội đồng xét
xử cho rằng diện tích đất cịn thiếu của ngun đơn là do bà Mai H đang sử dụng là
không khách quan, khơng có căn cứ, chưa đủ cơ sở để kết luận.
Ba, lẽ ra trong trường hợp này, Tòa án phải tạm ngừng phiên tòa để bổ sung
chứng cứ nhưng lại quyết định giải quyết vụ án nên vụ án phải xét xử sơ thẩm lại.
Ví dụ 5: Vụ án “Tranh chấp đất đai” giữa nguyên đơn ông Lê Ngọc Thắng và
bị đơn bà Vũ Thị Tuyết Trinh10.
Theo hồ sơ vụ án, bà Hoa là người đã chuyển nhượng lại diện tích đất đang
tranh chấp cho cha mẹ bị đơn nhưng Tịa án đã khơng lấy lời khai và đưa bà Hoa
vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. KSV đã
trực tiếp trao đổi, yêu cầu Thẩm phán lấy lời khai và đưa bà Hoa vào tham gia tố
tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng khơng nhận được ý
kiến phản hồi từ Thẩm phán. Tại phiên tòa, KSV tiếp tục yêu cầu cần có lời khai và
đưa bà Hoa vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan nhưng “Hội đồng xét xử nhận thấy việc đưa bà Hoa vào tham gia tố tụng là
không cần thiết nên tiếp tục xét xử theo quy định”11. Buộc bị đơn phải trả lại cho
nguyên đơn 303m2 đất.
Trong vụ án này, nội dung văn bản trả lời của UBND huyện HT đã xác định:
Trong tổng diện tích 303m2 đất đang tranh chấp có 250m2 đất nằm hoàn toàn trong
thửa đất số 270 thuộc Giấy CNQSD đất số CK 5 mang tên nguyên đơn và 53m2 đất ở
nông thôn thuộc thửa đất số 261 thuộc Giấy CNQSD đất số CK 3 mang nguyên đơn.
Hai giấy chứng nhận này do nguyên đơn tách ra từ giấy CNQSD do UBND huyện
10
11
Bản án số 14/2021/DS-ST ngày 12/5/2021 của TAND huyện Hàm Tân, tr 4.
TAND huyện Hàm Tân, tlđd (10).
16
HT cấp cho hộ bà Phan Thị Kim My; tại cơng văn trả lời của Phịng Tài ngun mơi
trường huyện HT, khẳng định việc cấp giấy CNQSD đất cho hộ bà Phan Thị Kim My
là đúng quy định của pháp luật đất đai. Tại biên bản ghi lời khai ngày 17/8/2020, ông
Hưng và bà My đều thừa nhận đã chuyển nhượng cho ngun đơn diện tích 4.160m2.
Như vậy, có đủ căn cứ để kết luận diện tích đang tranh chấp trước đây thuộc sở hữu
của bà Phan Thị Kim My. Năm 2017, gia đình nguyên đơn nhận chuyển nhượng lại
và làm thủ tục tách thửa nên diện tích đất đang tranh chấp nằm trong Giấy CNQSD
đất số CK 5 và Giấy CNQSD đất số CK 3 mang tên nguyên đơn. Việc cấp giấy
CNQSD đất nêu trên là đúng quy định của pháp luật và đủ cơ sở để bác bỏ lời khai
của bị đơn. Yêu cầu lấy lời khai và đưa bà Hoa vào tham gia tố tụng với tư cách
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan của đại diện VKSND huyện HT là không cần
thiết. Tuy nhiên, việc Thẩm phán khơng có ý kiến phản hồi cũng như không đưa ra lý
do không thực hiện yêu cầu của KSV là chưa đúng quy định. Tại phiên tòa, khi KSV
tiếp tục yêu cầu bổ sung người tham gia tố tụng nhưng không được Hội đồng xét xử
chấp nhận là sự phối hợp chưa tốt giữa hai cơ quan tiến hành tố tụng.
Từ phân tích trên, khơng phải u cầu nào của VKS cũng có căn cứ và cần
thiết cho kết quả giải quyết vụ án. Tuy nhiên, Tòa án căn cứ vào quy định là xét
thấy không cần thiết để từ chối yêu cầu của VKS mà không luận giải rõ cơ sở để
khơng chấp nhận là khơng có căn cứ.
Hiện nay, việc đánh giá yêu cầu xác minh, thu thập chứng cứ là cần thiết hay
không cần thiết, phần lớn phụ thuộc vào nhận định chủ quan của KSV và Thẩm
phán. Để đánh giá yêu cầu xác minh, thu thập chứng cứ cần thiết hay khơng thì
người tiến hành tố tụng cần nghiên cứu hồ sơ một cách toàn diện, đánh giá mối liên
hệ giữa các chứng cứ một cách đầy đủ, bao gồm các chứng cứ liên quan, chứng cứ
theo hướng củng cố, loại trừ thì mới có thể giải quyết vụ án triệt để. Hồ sơ vụ án
được coi là hồn chỉnh khi có đủ các chứng cứ, các chứng cứ này phải rõ ràng,
thuyết phục, làm sáng tỏ các tình tiết trong vụ án.
Nguyên nhân dẫn đến khó khăn, vướng mắc:
Thực tiễn thi hành quyền yêu cầu của VKSND khi kiểm sát giải quyết các vụ
án dân sự, theo tác giả, xuất phát từ các nguyên nhân sau:
Một, pháp luật TTDS chưa quy định rõ ràng trách nhiệm của Tòa án trong
việc thực hiện yêu cầu của VKS về xác minh, thu thập chứng cứ; chưa có tiêu chí để
phân biệt về tính cần thiết trong việc thực hiện yêu cầu của VKSND khi kiểm sát
giải quyết các vụ án dân sự.
17
Hai, chưa có chế tài đối với Thẩm phán, Hội đồng xét xử khi không thực hiện
yêu cầu xác minh, thu thập chứng cứ và không thông báo cho VKS.
Ba, một số KSV còn hạn chế về năng lực, kỹ năng kiểm sát hồ sơ vụ án dân
sự cũng như khả năng đánh giá chứng cứ, chủ quan khi tác nghiệp.
Bốn, một số Thẩm phán nghiệp vụ còn hạn chế, ngại thực hiện yêu cầu xác
minh, thu thập chứng cứ.
Năm, quan hệ phối hợp liên ngành giữa VKSND và TAND có lúc chưa chặt
chẽ, đều đặn. Đối với một số vụ án, quan điểm giữa hai cơ quan không thống nhất.
1.1.3. Giải pháp, kiến nghị
Từ thực tiễn thi hành về quyền yêu cầu của VKSND khi kiểm sát giải quyết
các vụ án dân sự, tác giả kiến nghị:
Thứ nhất, Điều 22 TTLT số 02/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC, cần phải
sửa đổi, bổ sung một số quy định về thực hiện yêu cầu xác minh, thu thập chứng cứ:
Một, khi KSV yêu cầu Thẩm phán, Hội đồng xét xử xác minh, thu thập
chứng cứ nhưng Thẩm phán, Hội đồng xét xử không thực hiện và bản án sơ thẩm bị
hủy vì lý do việc thu thập chứng cứ và chứng minh chưa được thực hiện đầy đủ mà
tại phiên tịa phúc thẩm khơng thể thực hiện bổ sung được thì Thẩm phán, Hội đồng
xét xử phải bị xử lý khi vi phạm từ lần thứ ba trở đi. Quy định này cũng áp dụng
cho KSV khi u cầu khơng đúng, khơng có căn cứ.
Hai, Thẩm phán, Hội đồng xét xử không thực hiện yêu cầu của KSV về xác
minh, thu thập chứng cứ vì thấy không cần thiết là: Chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã
đầy đủ; chứng cứ theo yêu cầu xác minh, thu thập có tính gián tiếp, bắc cầu và
khơng quan trọng để làm căn cứ giải quyết vụ án; lời khai, tài liệu do đương sự
cung cấp đã đủ cơ sở để giải quyết vụ án.
Ba, khi KSV yêu cầu Thẩm phán, Hội đồng xét xử, xác minh, thu thập chứng
cứ phải nêu rõ cơ sở của yêu cầu, nội dung yêu cầu và hậu quả của việc không thực
hiện yêu cầu.
Bốn, khi KSV yêu cầu Thẩm phán xác minh, thu thập chứng cứ mà Thẩm
phán nhận thấy không thể thực hiện được hoặc khơng cần thiết thì Thẩm phán phải
thông báo cho KSV bằng văn bản và nêu rõ lý do của việc không thể thực hiện được
hoặc không cần thiết. Nếu vẫn cịn có quan điểm khác nhau về xác minh, thu thập
chứng cứ thì Thẩm phán, KSV báo cáo với lãnh đạo cơ quan để có sự phối hợp giữa
hai ngành trong việc giải quyết vụ án dân sự.
18
Thứ hai, Điều 22 TTLT số 02/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC, cần phải
sửa đổi, bổ sung một số quy định về hình thức của văn bản yêu cầu xác minh, thu
thập chứng cứ.
Cụ thể: khi VKS yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ thì phải ban
hành quyết định. Quyết định có những nội dung chính như sau: vụ án được yêu cầu,
nội dung yêu cầu, lý do yêu cầu, thời gian trả lời kết quả việc thực hiện yêu cầu.
Thứ ba, TAND và VKSND, tăng cường trao đổi kinh nghiệm theo từng quý,
vụ việc cũng như tăng cường sửa đổi, bổ sung quy chế phối hợp giữa hai ngành,
thông tin, hỗ trợ trong việc kiểm sát và giải quyết các vụ án dân sự.
1.2. Thời hạn thực hiện quyền yêu cầu
1.2.1. Quy định của pháp luật
Theo quy định tại Điều 144 Bộ luật dân sự năm 2015: “Thời hạn là một
khoảng thời gian được xác định từ thời điểm này đến thời điểm khác”. Thời hạn
được ấn định rõ thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc. Thời hạn thực hiện quyền
yêu cầu của VKSND khi kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự là một khoảng thời
gian mà VKS được thực hiện các thao tác nghiệp vụ để thực hiện quyền yêu cầu đối
với Tòa án trong quá trình kiểm sát giải quyết vụ án dân sự nói chung và trước khi
Tịa án mở phiên tịa nói riêng.
Theo khoản 2 Điều 220 BLTTDS 2015, quyết định đưa vụ án ra xét xử phải
được gửi cho VKS cùng cấp trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết
định. Trường hợp VKS tham gia phiên tịa thì Tòa án phải gửi hồ sơ vụ án cùng
quyết định đưa vụ án ra xét xử cho VKS cùng cấp; trong thời hạn 15 ngày, kể từ
ngày nhận được hồ sơ, VKS phải nghiên cứu và trả lại hồ sơ cho Tòa án.
Theo Điều 13 Quy chế 364, khi kiểm sát việc xác minh, thu thập tài liệu,
chứng cứ, KSV, Kiểm tra viên kiểm sát về trình tự, thủ tục, về nguồn chứng cứ bảo
đảm tài liệu, chứng cứ được thu thập hợp pháp, khách quan, đầy đủ, làm cơ sở cho
việc giải quyết vụ án đúng pháp luật. Theo Điều 14 của Quy chế 364, trường hợp
xét thấy tài liệu, chứng cứ chưa bảo đảm cho việc giải quyết vụ án thì KSV, Kiểm
tra viên báo cáo lãnh đạo VKS để kịp thời yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập tài
liệu, chứng cứ bổ sung theo quy định tại khoản 3 Điều 58 BLTTDS và hướng dẫn
tại Điều 22 TTLT số 02/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC.
Khoản 1 Điều 22 TTLT số 02/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC quy định:
Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, nếu KSV xét thấy cần xác minh, thu thập
19
thêm chứng cứ để bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp
luật thì KSV gửi văn bản yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ theo quy định
tại khoản 3 Điều 58 BLTTDS.
Khoản 2 Điều 22 TTLT số 02/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC quy định:
Trước khi mở phiên tòa, phiên họp, KSV gửi văn bản yêu cầu Tòa án xác minh, thu
thập chứng cứ cho Tòa án đang giải quyết vụ việc dân sự.
Quyền yêu cầu xác minh, thu thập chứng cứ của VKSND chủ yếu tập trung
vào giai đoạn sau khi Tịa án có quyết định đưa vụ án ra xét xử và chuyển hồ sơ cho
VKS nghiên cứu tham gia phiên tịa. Trước đó, khi chưa nhận được hồ sơ vụ án,
nên việc kiểm sát về xác minh, thu thập chứng cứ của Tòa án hầu như là khơng thể.
Do đó, việc xác định có cần thiết u cầu Tịa án xác minh, thu thập chứng cứ hay
khơng là khơng có cơ sở. Chỉ khi nhận được hồ sơ vụ án, KSV mới nắm được đầy
đủ tình tiết, nội dung vụ án; kiểm tra, đánh giá tài liệu, chứng cứ để giải quyết vụ
án, KSV mới đánh giá được kết quả của hoạt động này.
Với quy định về thời hạn nghiên cứu, trả lại hồ sơ cho Tòa án như trên, tác
giả nhận thấy:
Một, chỉ khi đại diện VKS tham gia phiên tịa thì Tòa án mới gửi hồ sơ vụ án
cùng quyết định đưa vụ án ra xét xử cho VKS.
Hai, với quy định VKS chỉ được nghiên cứu hồ sơ 15 ngày (bao gồm cả ngày
nghỉ) đã gây khó khăn cho KSV khi thực hiện công tác kiểm sát, nghiên cứu hồ sơ
vụ án và thực hiện quyền yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ.
Ba, pháp luật không quy định trách nhiệm của Tịa án khi khơng thực hiện
đúng quy định về thời hạn chuyển hồ sơ vụ án cho VKS nghiên cứu.
Bốn, với thời hạn chuẩn bị cho phiên tịa ở cấp sơ thẩm thơng thường là 01
tháng tính cả thời gian VKS nghiên cứu hồ sơ vụ án, nên Tịa án và VKS có khó
khăn trong việc đánh giá về xác minh, thu thập chứng cứ, nhất là những vụ án cần
thu thập tài liệu từ cơ quan chức năng liên quan hoặc phải ủy thác.
1.2.2. Thực tiễn áp dụng
Kết quả đạt được:
Trên cơ sở quy định của pháp luật, trong thời gian qua, ngành Kiểm sát tại
địa phương đã có nhiều biện pháp để nâng cao chất lượng công tác khi kiểm sát giải
quyết các vụ án dân sự. KSV chủ động trong việc nghiên cứu hồ sơ vụ án, kiểm tra,
đánh giá khách quan, toàn diện tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, qua đó kịp
20
thời phát hiện những trường hợp Tòa án chưa thu thập đầy đủ, tài liệu, chứng cứ
bảo đảm cho việc giải quyết vụ án để thực hiện quyền yêu cầu Tòa án xác minh, thu
thập chứng cứ. Giúp cho việc giải quyết vụ án của Tòa án được khách quan, tồn
diện và đúng pháp luật.
Ví dụ 6: Vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất, tranh chấp hủy quyết định cá
biệt, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn Công Ty ĐN và bị
đơn ông Nguyễn V, do TAND tỉnh BT chuyển đến ngày 09/7/201912.
Đây là vụ án phức tạp, có nhiều quan hệ tranh chấp trong cùng một vụ án
nhưng với sự chủ động và kinh nghiệm, kỹ năng nghiên cứu hồ sơ toàn diện mà
KSV đã kịp thời nhận thấy trong hồ sơ, các tài liệu chứng cứ chưa đủ để giải quyết
vụ án và khơng thể làm rõ hết tại phiên tịa sơ thẩm và đã có văn bản u cầu Tịa
án xác minh, thu thập chứng cứ13. Kết quả, TAND tỉnh BT đã chấp nhận và thực
hiện theo yêu cầu của KSV.
Khó khăn, vướng mắc:
Thời hạn thực hiện quyền yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ, yêu
cầu Tòa án thực hiện đúng các hoạt động tố tụng quy định qua thực tiễn áp dụng,
tác giả nhận thấy có những bất cập như sau:
Thứ nhất, thời hạn nghiên cứu hồ sơ vụ án của VKS là quá ngắn so với nhiệm
vụ mà VKS phải thực hiện.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 220 BLTTDS 2015, trong thời hạn 15 ngày,
kể từ ngày nhận được hồ sơ, VKS phải nghiên cứu và trả lại hồ sơ cho Tòa án.
Theo quy định tại Điều 12, khoản 2 và khoản 4 Điều 19 Quy chế 364, sau khi
nhận được hồ sơ vụ án, KSV phải thực hiện nhiều thao tác nghiệp vụ như: lập hồ sơ
kiểm sát; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong q trình giải quyết vụ án của Tịa
án và những người tham gia tố tụng; xem xét yêu cầu khởi kiện, các điều kiện khởi
kiện, thẩm quyền giải quyết vụ án của Tòa án; kiểm tra, đánh giá khách quan toàn
diện tài liệu chứng cứ; việc xác minh thu thập tài liệu chứng cứ để lập hồ sơ của
Tòa án; xây dựng báo cáo lãnh đạo Viện về đường lối giải quyết vụ án; dự thảo đề
cương xét hỏi và văn bản phát biểu khi tham gia phiên tòa.
Mặc dù pháp luật quy định VKS có 15 ngày nghiên cứu một hồ sơ vụ án
nhưng trong thực tiễn, KSV phải giải quyết cùng lúc nhiều hồ sơ vụ án, do đó, KSV
12
13
Quyết định tạm ngừng phiên tịa số 36/2019/QĐST-DS ngày 21/11/2019 của TAND tỉnh Bình Thuận.
Yêu cầu xác minh, thu thập chứng cứ số 18/YC-VKS-DS ngày 12/7/2019 của VKSND tỉnh Bình Thuận.