Tải bản đầy đủ (.doc) (152 trang)

LUẬN văn nâng cao hiệu quả công tác vận động quần chúng tín đồ công giáo ở kon tum hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (450.94 KB, 152 trang )

1

LUẬN VĂN- Nâng cao hiệu quả công tác vận động quần
chúng tín đồ Cơng giáo ở Kon Tum hiện nay"

Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài.
Kon Tum là một tỉnh vùng cao biên giới nằm ở cực bắc Tây
Nguyên. Đây khơng chỉ là một vị trí quan trọng về kinh tế, quốc
phòng và an ninh mà còn là một địa bàn phức tạp về tôn giáo. ở
Kon Tum, bên cạnh tín ngưỡng - tơn giáo bản địa cổ truyền, cịn
có một số tơn giáo được ngoại nhập vào những thời điểm, hồn
cảnh lịch sử khác nhau. Đạo Cơng giáo là một trong những tôn
giáo như thế.
Sự thâm nhập đạo Công giáo vào địa bàn tỉnh Kon Tum bắt
đầu từ những năm giữa thế kỷ trước (1842), tồn tại và phát triển
cho đến nay. Từ khi thành lập giáo phận Kon Tum đến nay đã trải
qua 152 năm (1848 - 2000), trước sau vẫn là một giáo phận truyền
giáo gắn bó chặt chẽ với Vatican, Tịa thánh Vatican cho rằng đây
vẫn còn là một miền truyền giáo và giao cho hội truyền giáo thừa
sai Paris cai quản. Giáo hội Công giáo vẫn tìm mọi cách để phát
triển đạo lên vùng cao nguyên Kon Tum.


2

Ngày nay, trong quá trình thực hiện chiến lược "Diễn biến
hồ bình", các thế lực phản động đã triệt để sử dụng vấn đề tôn
giáo như một phương thức, một ngòi nổ để thúc đẩy sự sụp đổ về
thể chế chính trị ở các nước XHCN. Chúng cấu kết với bọn cầm


đầu giáo hội ở Trung tâm Toà thánh Vatican, chỉ đạo, điều khiển
các giáo sỹ cao cấp trong các nước XHCN lơi kéo quần chúng tín
đồ, biến họ thành lực lượng đối trọng ngay trong lịng các nước
đó, tạo nên mâu thuẫn xã hội bên trong và tách họ ra khỏi sự lãnh
đạo của Đảng Cộng Sản. Địa bàn tỉnh Kon Tum nằm trong phạm
vi mà các thế lực phản động thực hiện chiến lược đó.
Đạo Cơng giáo ở Kon Tum là một tơn giáo lớn nhất trong
tỉnh, có số giáo dân chiếm hơn 70% tổng số đồng bào theo đạo
trong tỉnh. Suốt hai cuộc kháng chiến, đông đảo quần chúng tín
đồ Cơng giáo u nước đã đi theo cách mạng, theo Đảng và đã
góp phần vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Trong thời kỳ
xây dựng đất nước hiện nay, quần chúng tín đồ Cơng giáo vẫn là
lực lượng có vai trị to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an tồn xã hội trong địa
bàn dân cư. Đồng thời họ cũng đang là đối tượng mà các thế lực
thù địch ln triệt để tìm cách lợi dụng, thực hiện chiến lược
"Diễn biến hồ bình" để chống phá công cuộc xây dựng CNXH ở
nước ta. Do vậy cơng tác vận động quần chúng tín đồ theo đạo
Công giáo ở Kon Tum là một công tác vô cùng quan trọng, nó tác


3

động sâu sắc đến quá trình phát triển phong trào cách mạng của
quần chúng tại địa phương.
Trong những năm qua, thực hiện Nghị quyết 24 của Bộ
Chính trị về "Tăng cường cơng tác tơn giáo trong tình hình mới"
và thực hiện Nghị định 69/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (nay là
Chính phủ), cơng tác vận động quần chúng tín đồ tơn giáo nói
chung, quần chúng tín đồ theo đạo Cơng giáo ở Kon Tum nói

riêng, bước đầu đã có những chuyển biến. Song vẫn cịn nhiều
thiếu sót, nhận thức về quan điểm, nguyên tắc và chủ trương đổi
mới của Đảng và Nhà nước về vấn đề tôn giáo trong một bộ phận
cán bộ, đảng viên còn nhiều điều bất cập; đặc biệt là cách nhìn
nhận và đánh giá chưa thật khách quan, nặng về nhìn nhận q
khứ chính trị của đạo Công giáo, mà không thấy được nỗi khổ
cực của đại bộ phận quần chúng tín đồ theo đạo trong q trình
đấu tranh với sự du nhập của đạo Cơng giáo, khơng đánh giá và
nhìn nhận đúng mức những cống hiến và hy sinh lớn lao của đại
bộ phận giáo dân đối với sự nghiệp cách mạng qua suốt hai cuộc
kháng chiến. Chính từ đó đã nảy sinh những cách làm, những
phương pháp xử lý thiếu tế nhị (có thể nói là thơ bạo), trong q
trình vận động quần chúng tín đồ, gây nên tâm lý hoang mang, lo
sợ trong quần chúng tín đồ, dẫn đến cách biệt, thậm chí có những
trường hợp gây thái độ đối lập trong quần chúng tín đồ; đồng thời
ở một số nơi cịn tồn tại khuynh hướng hữu khuynh, thiếu cương


4

quyết và nhạy bén trong việc đấu tranh với kẻ thù lợi dụng tôn
giáo để phá hoại cách mạng.
Do vậy, nâng cao hiệu quả cơng tác vận động quần chúng
tín đồ Công giáo ở Kon Tum, phát huy những mặt tích cực, hạn
chế những mặt tiêu cực của nó; xây dựng niềm tin vào sự nghiệp
đổi mới, huy động được đông đảo quần chúng giáo dân vào sự
nghiệp "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh", qua đó thể hiện được ước nguyện sống "Tốt đời, đẹp đạo"
của đông đảo quần chúng giáo dân ở Kon Tum là vấn đề bức xúc
hiện nay.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Đổi mới công tác đối với đạo Công giáo nói chung và đổi
mới cơng tác vận động quần chúng tín đồ Cơng giáo nói riêng
đang là một trong những yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, nhất là
sau khi có Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị. Xung quanh vấn đề
này đã có nhiều cơng trình nghiên cứu của nhiều tác giả như:
Nguyễn Văn Long, luận án tiến sỹ triết học "Vận dụng quan điểm
khoa học về tôn giáo trong công tác đối với thiên chúa giáo hiện
nay ở Việt Nam"(1999); Lê Văn Phụ, luận văn thạc sỹ "Công tác
tư tưởng của tổ chức cơ sở Đảng đối với quần chúng theo đạo
Thiên chúa" (1993).
ở khu vực Thủ Đức - Thành phố Hồ Chí Minh có tác giả Lê
Tăng, luận văn thạc sỹ "Giải quyết vấn đề Thiên chúa giáo ở


5

huyện Thủ Đức - thành phố Hồ Chí Minh trong cơng cuộc đổi
mới" (1993).
ở khu vực Miền Bắc có tác giả Hồng Mạnh Đồn, luận văn
thạc sỹ "Cơng tác vận động quần chúng theo đạo Thiên chúa ở
miền Bắc nước ta hiện nay" (1993).
ở Kon Tum có tác giả Võ Sáu, luận văn tốt nghiệp cử nhân
chính trị "Đấu tranh chống các thế lực thù địch lợi dụng đạo Công
giáo ở tỉnh Kon Tum nhằm đảm bảo ổn định chính trị, an ninh
Quốc phịng ở địa phương" (1998).
Nhìn chung các cơng trình nghiên cứu đó đã đề cập đến
cơng tác đối với đạo Cơng giáo trên nhiều góc độ, nhiều mặt;
mang tính tổng quát trên phạm vi cả nước, hay từng khu vực.
Riêng "Nâng cao hiệu quả công tác vận động quần chúng tín đồ

Cơng giáo ở Kon Tum hiện nay" vẫn chưa có một cơng trình
nghiên cứu nào đề cập đến một cách trực diện, có hệ thống.
Nghiên cứu cơng tác vận động quần chúng tín đồ Cơng giáo
ở Kon Tum là vấn đề hết sức phức tạp, khó khăn: Tư liệu quá ít
ỏi, tản mạn, thời gian tiếp cận thực tế có hạn. Hơn nữa trên thực tế
chưa có một tài liệu nào của tỉnh bàn về lĩnh vực này một cách có
hệ thống. Nhưng với mong muốn có thể góp được chút ít những
hiểu biết cịn hạn chế của mình vào cơng tác quan trọng này của
địa phương, tôi đã chọn đề tài "Nâng cao hiệu quả công tác vận


6

động quần chúng tín đồ Cơng giáo ở Kon Tum hiện nay" để viết
luận văn thạc sỹ.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận
văn.
- Mục đích:
Mục đích của luận văn là trên cơ sở làm rõ đặc điểm tình
hình quần chúng tín đồ Cơng giáo ở Kon Tum, đánh giá đúng
thực trạng công tác vận động quần chúng tín đồ Cơng giáo ở Kon
Tum trong những năm đổi mới vừa qua, đề xuất những phương
hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác vận động
quần chúng tín đồ Cơng giáo ở Kon Tum hiện nay.
- Nhiệm vụ:
Để đạt được mục đích đó, luận văn có các nhiệm vụ cụ thể
sau đây:
Một là, làm rõ đặc điểm tình hình quần chúng tín đồ Cơng
giáo ở Kon Tum hiện nay.
Hai là, phân tích thực trạng cơng tác vận động quần chúng

tín đồ Cơng giáo ở Kon Tum từ khi đổi mới đến nay.
Ba là, đề xuất những phương hướng và giải pháp chủ yếu để
nâng cao hiệu quả cơng tác vận động quần chúng tín đồ Công
giáo ở Kon Tum trong thời gian tới.


7

- Phạm vi nghiên cứu:
Công tác tôn giáo bao gồm nhiều mặt..., ở những địa bàn,
thời điểm và với các tơn giáo có sự khác nhau. Luận văn này chỉ
giới hạn trong việc nghiên cứu công tác vận động quần chúng tín
đồ Cơng giáo ở địa bàn tỉnh Kon Tum; luận văn lấy mốc thời gian
từ khi nước ta bắt đầu công cuộc đổi mới đến nay (từ khi thực
hiện Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị về "Tăng cường cơng tác tơn
giáo trong tình hình mới").
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
- Luận văn dựa trên cơ sở lý luận, phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo và các
quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước ta về công tác tôn giáo. Đồng thời có kế thừa những kết quả
của các cơng trình nghiên cứu liên quan để làm rõ những vấn đề
mà mục đích và nhiệm vụ của luận văn đặt ra.
- Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn thực hiện theo các phương pháp kết hợp lơgic với
lịch sử, kết hợp phân tích với tổng hợp, phương pháp so sánh, trong
đó coi trọng phương pháp tổng kết thực tiễn...
5. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn.



8

- Bước đầu phát hiện một số vấn đề cấp bách đang đặt ra
trong công tác vận động quần chúng tín đồ Cơng giáo ở Kon Tum
hiện nay.
- Nêu phương hướng và những giải pháp chủ yếu có tính
khả thi, góp phần đổi mới cơng tác vận động quần chúng tín đồ
Cơng giáo ở Kon Tum hiện nay có hiệu quả hơn.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn.
- Luận văn góp phần cung cấp cơ sở khoa học giúp cho việc
thực hiện công tác vận động quần chúng tín đồ Cơng giáo ở tỉnh
Kon Tum hiện nay có hiệu quả hơn.
- Ngồi ra luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong
nghiên cứu giảng dạy, học tập ở trường chính trị tỉnh Kon Tum về
những vấn đề có liên quan.
7. Kết cấu của ln văn.
Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham
khảo. Nội dung chính của luận văn được kết cấu thành 2 chương
4 tiết.


9

Chương 1
Tình hình quần chúng tín đồ Cơng giáo
và cơng tác vận động quần chúng tín đồ Cơng giáo ở Kon
Tum

1.1. Đạo Cơng giáo và đặc điểm tình hình quần chúng
tín đồ Cơng giáo ở Kon Tum

1.1.1. Vài nét về đặc điểm tỉnh Kon Tum
Đặc điểm tự nhiên - chính trị - kinh tế - xã hội


10

Kon Tum là một tỉnh nằm ở cực bắc Tây Nguyên, với diện
tích tự nhiên là 13.000 km2; phần lớn là rừng núi và cao nguyên,
địa hình hiểm trở, vùng cao đất, dốc, đồi núi bị chia cắt mạnh.
Phía bắc giáp tỉnh Quảng Nam; phía nam giáp tỉnh Gia Lai; phía
đơng giáp tỉnh Quảng Ngãi; phía tây giáp tỉnh Ătêp, Sê Kơng
(Lào); phía đơng bắc giáp tỉnh Ratanakili (Cămpuchia). Tỉnh Kon
Tum có khoảng 650 km đường ranh giới, trong đó đường biên
giới quốc gia chiếm 275 km. Nằm trên địa bàn chiến lược Tây
Nguyên, nơi có điểm tựa của ngã ba Đông Dương, gắn chặt với
các đặc trưng về địa lý, tự nhiên tạo cho tỉnh Kon Tum có tầm
quan trọng chiến lược về chính trị, kinh tế, quốc phịng và an
ninh.
Tỉnh Kon Tum có 6 huyện và một thị xã với 79 xã, phường,
thị trấn; trong đó có 56 xã, phường có đạo. Số dân khoảng hơn
300.000 người. Người Kinh chiếm gần 46% dân số, phân bố chủ
yếu ở trung tâm các huyện, thị; các dân tộc thiểu số bản địa và
mật độ dân tộc khác di cư đến (Mường, Tày, Nùng...) chiếm 54%.
Cộng đồng các dân tộc thiểu số hầu hết ở vùng ven thị xã, các
huyện vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới.
Do điều kiện địa lý tự nhiên, địa bàn cư trú nên vùng dân
tộc thiểu số mang những nét riêng của miền núi và Tây Nguyên.
Hoạt động kinh tế của các tộc người tỉnh Kon Tum bao
gồm những hoạt động kinh tế sản xuất, kinh tế khai thác tự nhiên,



11

nhưng nhìn trên tổng thể thì hầu hết các cư dân ở đây đều lấy kinh
tế nông nghiệp làm phương thức sinh sống chính. Do đó, khi nói
đến các đặc điểm của hoạt động kinh tế người ta thường bắt đầu
từ hoạt động nông nghiệp.
Canh tác nương rẫy: Các dân tộc ở Kon Tum đã tiến sâu
vào giai đoạn nông nghiệp trồng trọt. Trong nền kinh tế truyền
thống, rẫy có vị trí quan trọng hàng đầu, là nguồn sống chủ yếu
của con người. Tại khoảnh rừng đã chọn, trên cơ sở xem xét độ
dốc, đất đai và đã tiến hành các nghi thức tôn giáo xin phép thần
linh suôn sẻ, việc đầu tiên là đốn cây, phát cỏ, khai quang mặt
bằng. Khi sắp đến thời vụ gieo trồng, người ta chỉ dọn rẫy, rồi có
thể dùng cây vót nhọn chọc hốc để tra hạt giống. Sau đó, rẫy được
rào giậu, trông coi. Cuối cùng là đến kỳ thu hoạch với đặc điểm
nổi bật là dùng đôi tay trần tuốt lấy thóc. Ngồi ra, trên rẫy cịn
trồng nhiều thứ khác để đáp ứng nhu cầu của cuộc sống nặng tính
tự cung tự cấp, nhưng cây lúa giữ vị trí chủ đạo, năng suất lao
động thấp, đời sống gặp nhiều khó khăn. Một bộ phận khá lớn của
dân cư, gồm 9.241 hộ, 47.849 nhân khẩu còn du canh du cư, hay
đã định cư chưa định canh.
Canh tác ruộng nước: Tuy không phổ biến nhưng nó có
mặt trong nền kinh tế của đồng bào khá lâu. Người dân thường
làm ruộng theo kiểu "dao canh thủy nậu". Tại các thửa ruộng
ngân nước, cả tập thể người hoặc cả đàn trâu quần đất thay vì việc


12


cuốc hay cày bừa, rồi dùng cuốc hoặc bàn trang để san mặt ruộng.
Người Xơ Đăng, Rơ Mâm tuy còn dùng kỹ thuật canh tác khá sơ
khai nhưng lại biết đắp đập, khơi mương, bắt mảng lấy nước về
làm ruộng. Sau mùa tuốt lúa hay xét trên bình diện chung của
tỉnh, ruộng nước chỉ là một bộ phận nhỏ trong nền kinh tế cổ
truyền của đồng bào các dân tộc tỉnh Kon Tum.
Kinh tế hái lượm: Có tầm quan trọng đáng kể để cung cấp,
bổ sung thức ăn cho người dân một cách thường xuyên. Thường
ngày theo mùa, người dân có thể hái các loại rau, măng, nấm...
Vào lúc giáp hạt hoặc mùa màng thất thu thì rừng cịn là một
ngn lương thực cần kíp: các loại cây thân củ, rễ, quả... có thể
giúp đồng bào chống đói. Hái lượm có ý nghĩa kinh tế nổi bật
trong các sinh hoạt kinh tế khai thác tự nhiên nơi đây. Công việc
này chủ yếu do phụ nữ và các em bé gái đảm trách. Trong khi đó,
việc săn bắn hầu như thuộc riêng về nam giới. Săn bắn vừa đem
lại thực phẩm, lại có tác dụng rèn luyện tinh thần thượng võ
nhưng cũng vơ cùng cần thiết vì lý do bảo vệ mùa màng. Cùng
với hái lượm, săn bắn, trong lĩnh vực kinh tế chiếm đoạt tự nhiên
thì đánh bắt cá cũng góp phần tăng thêm thực phẩm cho người
dân.
Chăn ni: Cũng là một hoạt động có tầm quan trọng đáng
chú ý. Trâu bị được ni thả rong ngồi trời, sống ở rừng chiều
tối kéo nhau về làng. Còn gà, lợn được đồng bào nuôi theo lối nửa


13

thả rong, chúng tự lang thang kiếm ăn, nhưng vẫn được chủ cho
ăn vào ban đêm. Có thể nói, về phương diện thực phẩm, việc chăn
nuôi các con vật kể trên có hai mục đích: để cúng và để ăn, nhưng

chỉ ăn sau khi cúng, chứ người dân không giết thịt chúng nhằm
cải thiện bữa ăn. Đó là nếp truyền thống của người Tây Ngun.
Ngồi ra, ở Kon Tum cịn có nghề đan lát, làm mộc, dệt
vải, rèn, làm gốm... nhưng đó chỉ là các hoạt động nhằm đáp ứng
nhu cầu cuộc sống của bản thân từng gia đình và chưa xuất hiện dù chỉ một làng, những người chuyên làm nghề thủ cơng để kiếm
sống, mặc dù có nơi sản phẩm của họ có phần trở thành hàng hóa.
Chợ không phải là địa điểm quan hệ giao lưu hàng hóa trong xã
hội truyền thống, mà việc đó thường diễn ra tại nhà. Với họ khơng
có sự khác biệt giữa cái đem bán và cái mình dùng. Họ khơng có
tư duy của người sản xuất hàng hóa trong thương trường. Hơn
nữa, những thứ trở thành hàng hóa được họ làm ra khơng nhằm
mục đích hàng hóa đơn thuần, mà ở đó cịn ẩn chứa cả lịng tự
trọng, tình hữu hảo trong quan hệ với người mua và người sử
dụng.
ở Tây Nguyên nói chung, Kon Tum nói riêng, đến những
năm 30 của thế kỷ 20, xã hội truyền thống vẫn còn chế độ thị tộc,
bộ lạc. Quan hệ xã hội bó hẹp trong phạm vi buôn, làng. Đứng
đầu buôn làng là các thủ lĩnh dân tộc, có năng lực giao tiếp xã hội,
có tri thức và có tiềm năng kinh tế. Hơn nhân và gia đình tùy theo


14

dân tộc mà tổ chức gia đình có khác nhau hoặc theo mẫu hệ (Gia
Rai); hoặc theo song hệ (Xơ Đăng, Giẻ Triêng); hoặc theo phụ hệ
(Ba Na).
Do trình độ phát triển kinh tế, xã hội còn thấp nên vai trị
của người có địa vị, có uy tín trong xã hội truyền thống rất quan
trọng, như thủ lĩnh dân tộc, vua lửa (hỏa xá), vua nước (thủy xá),
thầy cúng, trí thức dân tộc... Vua lửa, vua nước, thầy cúng khơng

có quyền lực trong bộ máy cai trị, nhưng họ nắm dân thông qua
thần quyền, tục quyền. Đây cũng là đặc điểm quan trọng mà các
giáo Công giáo Pháp, Mỹ rất chú ý lợi dụng, tranh thủ để nắm
dân, để tuyên truyền, phát triển đạo.
Trong vùng dân tộc thiểu số còn tồn tại nhiều phong tục,
tập quán lạc hậu... Do đời sống kinh tế khó khăn, phương tiện sản
xuất thơ sơ, sản xuất phụ thuộc hồn tồn vào thiên nhiên, do
trình độ dân trí thấp, nên quần chúng rất tin vào Giàng (Thần). Họ
luôn luôn trông chờ vào sự giúp đỡ, che chở của Giàng hay những
lực lượng siêu nhiên khác. Cũng chính vì vậy, họ chỉ quan tâm
những vấn đề thiết thực đối với cuộc sống hàng ngày của họ,
mang lại lợi ích cụ thể, trước mắt họ. Họ chỉ tin, nghe theo những
gì họ có thể nhìn thấy, sờ thấy. Mặt khác, do sống xen kẽ với
người Kinh, một dân tộc có đời sống và dân trí cao hơn, thì đồng
bào dân tộc thiểu số lại ln có tư tưởng mặc cảm, tâm lý tự ti. Và
nói chung, đồng bào dân tộc thiểu số ở đây sống chân thật, chất


15

phác đơn giản và dễ hiểu. Đối với người dân tộc thiểu số, tệ ăn
cắp, lấy vợ lấy chồng cùng dòng họ sẽ bị già làng phạt nặng, như
phạt trâu, bò, heo, gà, rượu, chiêng...
Trong dân tộc Xơ Đăng, Ba Na và Gia Rai mỗi làng đều
xây dựng một nhà rông, biểu hiện sự mạnh mẽ, vững chắc, dùng
cho thanh niên sinh hoạt và nghỉ ngơi, hay là nơi tụ tập để già
làng giải quyết các vấn đề nảy sinh trong làng.
Đặc điểm về dân tộc
Theo dấu tích di chỉ khảo cổ học, những yếu tố văn hóa cổ
xưa cịn lại trong lòng đất và đời sống của cư dân, các nhà khoa

học đều xác định rằng ở Tây Nguyên từ ngàn xưa đã có người
nguyên thủy sinh sống. Lớp cư dân bản địa đầu tiên giả định là
giống người tóc quăn, vóc dáng lùn, da đen thuộc chủng tộc
Ơxtraoit, đến nay chỉ cịn lại những vết tích nhân chủng ở cộng
đồng dân tộc thiểu số bản địa hiện đang sinh sống trên địa bàn
tỉnh Kon Tum, gồm: Xơ Đăng, Ba Na, Giẻ Triêng, Gia Rai, Brâu,
Rơ Mâm...
Dân tộc Xơ Đăng có các nhóm địa phương gồm: Xơ teng
(H'đang), Tơdră, Rơ Mâm, Hà lăng, Cà dong, Châu, Ta trẻ; dân số
trên 67.369 người (chiếm 25,2% dân số tồn tỉnh), có mặt hầu hết
khắp các huyện, thị trong tỉnh.


16

Dân tộc Ba Na có các nhóm khác nhau như: Gơlar, Tôlô,
Giơlãng, Rơngao, Kram, Roh, Con kđê, Klacông, Kpăngcông,
Bơnâm; dân số trên 30.863 người (chiếm 11,5% dân số trong
tỉnh), sống tập trung chủ yếu ở thị xã Kon Tum và huyện
Konplong.
Dân tộc Giẻ Triêng cũng có nhiều nhóm địa phương như:
Đgích, Tareh, Giang grẩy, Triêng, Tren, Tarieng, Ve, Lave, Catang
cư trú chủ yếu ở huyện Đăkglei và phía bắc huyện Ngọc Hồi
(cũng có một bộ phận nhỏ sống ở Lào), dân số hiện nay có
khoảng 22.713 người (chiếm 8,5% dân số trong tỉnh).
Dân tộc Gia Rai với nhiều nhóm địa phương như: Gơ rai,
Tơ bua, Chơ rai, Hơ ban, H'đrung, Chor, A rap... cư trú chủ yếu ở
huyện Sa Thầy và thị xã Kon Tum; dân số trên 13.895 người
(chiếm 5,2% dân số toàn tỉnh).
Dân tộc Brâu, Rơ Mâm là hai dân tộc có dân số ít, Brâu:

240 người, Rơ Mâm: 277 người. Hiện nay người Rơ Mâm định
cư ở làng Le xã Mô Rây huyện Sa Thầy; người Brâu định cư ở
làng Đăk Mề, xã Bờ Y, huyện Ngọc Hồi. Đây là hai dân tộc đang
có nguy cơ tuyệt chủng, cần đến sự quan tâm, giúp đỡ của cộng
đồng xã hội.
Dân tộc Kinh là thành phần dân cư lên cư trú tại Kon Tum
vào khoảng giữa thế kỷ 19, lập nên các làng: Phương Nghĩa
(1882), Phương Qúy (1887), Phương Hòa (1892), Trung Lương


17

(1914), Phụng Sơn (1924), Ngô Thạnh (1925), Ngô Trang (1925),
Phước Cần (1927), Lương Khế (1927)... Đến nay, theo thống kê,
người Kinh chiếm gần 46% dân số so với các dân tộc khác trong
tỉnh. Họ cư trú hầu hết ở thị xã, thị trấn, ven các trục đường giao
thông, các khu vực nơng trường, kinh tế mới.
Nhìn chung các dân tộc ở Kon Tum có mối quan hệ đồn
kết gắn bó, có tinh thần yêu nước và truyền thống cách mạng, có
nhiều đóng góp to lớn cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng đất
nước trước đây và cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa hiện nay. Nhiều làng, xã là căn cứ cách mạng từ những
năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và chốn Mỹ. Kon Tum
cũng là nơi có nhiều cán bộ, trí thức, anh hùng rất nổi tiếng là
người dân tộc thiểu số.
Đặc điểm về tín ngưỡng - tơn giáo
Đối với người dân ở Kon Tum, tuy đời sống vật chất còn
nghèo nàn, lạc hậu, nhưng đời sống tinh thần phong phú, đa dạng,
luôn làm cho con người sống tràn ngập trong bầu khơng khí lễ hội
như để tiếp thêm sức mạnh, giúp họ tự tin, vững vàng hơn trong

cuộc sống.
Tất cả dân tộc đều thống nhất một điểm bao trùm và chi
phối quan trọng trong nhiều hoạt động của cá nhân cũng như cộng
đồng, đó là tín ngưỡng vạn vật hữu linh. Hiểu theo đó, thế giới có
nhiều siêu nhiên ẩn tàng vơ hình trong các khách thể vật chất ở


18

khắp nơi xung quanh con người và cả trong bản thân của mỗi
người. Xuất phát từ những tín niệm đó, các thần linh lại chi phối
một cách sâu sắc, huyền bí đối với cuộc sống của họ. Những lễ
thức tơn giáo gắn liền với hầu hết các lĩnh vực hoạt động nhằm
ngăn ngừa tai họa, rủi ro, cầu xin sự tốt lành may mắn. Điểm
chung nhất của người dân là trong cúng bái bao giờ cũng có việc
hiến sinh, dân đồ ăn thức uống tế thần và lời khấn cầu mong sự
tốt đẹp cho cuộc sống trần thế, nhờ trời phù hộ cho con cháu khỏe
mạnh, sinh sôi.
Xã hội thần thánh của người Tây Nguyên rất phong phú, đa
dạng. Theo tác giả Đỗ Hữu Nghiêm thì có hai loại: Thượng đẳng
thần và Hạ đẳng thần

(1)

. Trong linh giới, ngoài các thần cịn có

ma quỷ, trong các lồi ma quỷ thì người ta sợ nhất là Ma Lai. Mai
Lai được hình dung giống người quỷ sống chung lẫn với người,
đêm đêm lần mị đi tìm ăn xác chết, hút máu, hút ruột người. Xưa
kia Ma Lai cũng là người nhưng ăn phải thịt người nên trở thành

ma. Người ta xa lánh những người bị tình nghi là Ma Lai. Khi
phát hiện ai là Ma Lai người ta sẽ giết luôn người đó hoặc cả gia
đình họ để trừ tuyệt căn.
Người dân ở đây có nhiều kiêng cữ, họ tin rằng trong mối
liên hệ bí ẩn với các thần linh, một thành viên dân làng có thể ảnh
(1)

Thượng đẳng thần gồm: Bok Kơi Doi: Nam tạo hóa, Vua của vạn vận; La Kon Keh:
Nữ tạo hóa, vợ của Nam tạo hóa; Bok Glaik: Thần sấm sét; Lá Pom: Là một nữ thần
con của Thần Tạo hóa; Yang Sơri: Thần Lúa; Yang Dak: Thần nước; Yang Kong: Thần
núi. Hạ đẳng thần gồm: Kok Kla: Thần Cọp; Rơix: Thần Voi; Két Drơik: Thần Cóc bảo
vệ mùa màng; Yang Xatok: Thần Ché; Yang Long: Thần Cây...


19

hưởng tới cả cộng đồng. Theo cách quan niệm của họ, ai đó vi
phạm tập tục sẽ khiến thần linh nổi giận trừng phạt buôn làng.
Muốn khỏi những tai họa đó, người dân thường tổ chức các hình
thức cầu đảo khi thấy tình thế "có vấn đề". Họ rất coi trọng điềm
báo thể hiện qua giấc mơ, tiếng thú, hướng bay của chim hoặc
một số hình thức nào đó.
ở người dân tộc, khái niệm Giàng được dùng phổ biến để
chỉ đa số các siêu nhiên mà trong tiếng Kinh thường gọi là Thần.
Có loại thần thiện phù hộ, đem lại lợi ích cho con người, có loại
thần ác ln gây tai họa. Người dân tộc đều tin có tinh linh trong
mỗi người đang sống, giống như "hồn", "vía" ở người Kinh. Khi
chết đi, hồn biến hóa khác nhau theo tín ngưỡng của từng dân tộc.
Người Brâu cho rằng "hồn" ở đỉnh đầu, sau khi người chết thì hóa
ra may gây tai họa cho người sống. Người Giẻ Triêng gọi hồn là

phol, cho rằng phol ẩn náu trong lỗ tai, sau khi người chết đi thì
phol biến thành chim teh hay chim king cang bay về với tổ tiên ở
vùng Giằng bên Quảng Nam. Người Ba Na tin mỗi người có 3
hồn, hồn chính ở xốy đầu, cịn hai hồn phụ ở trán và thân thể;
hồn người chết hóa ra ma (atâu) và qua 8 lần biến hóa, bắt đầu từ
thành hổ, thành mèo rừng, thành chồn, cheo, chuột, chuột không
đuôi, sương mù và tan vào thiên nhiên. Thế giới người chết được
người dân mường tượng mô phỏng cuộc sống của chính họ,
nhưng có sự trái ngược, đối lập nhất định giữa đàng người và


20

đàng ma, nếu bên này là đêm thì bên kia là ngày. Vì vậy, cả cộng
đồng phải thực hiện những lễ thức tôn giáo và kiêng cữ nhất định,
với sự ảo vọng nhận được sự bình yên, tránh được rủi ro, hiểm
họa. Đó là dịp để cúng quải, hiến tế của tập thể, định kỳ và không
định kỳ do buôn làng tổ chức. Trước các thần, dù để tạ ơn hay tạ
lỗi, dù hứa hẹn hay xin điều gì, khi ấy lời cầu khấn phát ra với tư
cách cộng đồng và cả cộng đồng đang trông chờ chung sự linh
nghiệm ở những gì sẽ đến trong cuộc sống của bn làng mình.
Việc cúng bái theo truyền thống đến nay vẫn là gánh nặng
đối với đồng bào dân tộc thiểu số, vốn đời sống đã hết sức khó
khăn, thiếu thốn; nhưng nó cũng khơng giải quyết được vấn đề họ
mong muốn. Cùng với những tác động của thời đại, khi giao lưu
được mở rộng, trình độ dân trí được nâng lên, các tín ngưỡng tơn
giáo cổ truyền bắt đầu lung lay, mất dần sự thuyết phục, và tất
nhiên nó phải nhường chỗ cho những tín ngưỡng tơn giáo hợp
thời hơn.
Tín ngưỡng cổ truyền hình thành và duy trì trong cộng

đồng các dân tộc thiểu số một cách giải thích về thế giới bên
ngoài, đồng thời là một chỗ dựa về tinh thần trong cuộc sống có
nhiều bất trắc và trở lực từ thiên nhiên và con người. Thông qua
các lễ hội tôn giáo cổ truyền mà liên kết cộng đồng, gắn bó cá
nhân với gia đình và cộng đồng. Bên cạnh đó, các lễ nghi như tục
chia của cho người chết, lễ tạ thần linh giúp cho mùa màng bội


21

thu... xét về mặt đạo đức, nó giáo dục cho các thành viên trong
cộng đồng ý thức về quan hệ tương thân tương ái, ăn quả nhớ
người trồng cây...
Giữa thế kỷ 19, Cơng giáo được truyền lên Tây Ngun,
trong đó có Kon Tum. Tuy nhiên, Cơng giáo đã gặp những trở lực
và xung đột từ phía tín ngưỡng cổ truyền, vì nó cấm việc thờ cúng
Giàng, cúng ma; bắt phải bỏ thờ đa thần, chỉ được thờ một mình
Chúa Giêsu. Tuy nhiên trải qua năm tháng, Công giáo đã đứng
vững, ăn sâu, bám rễ chắc chắn ở Tây Nguyên và Kon Tum. Một
bộ phận khá đông đồng bào dân tộc thiểu số đã từ bỏ thờ cúng đa
thần chuyển sang Công giáo, thờ cúng một thần.
Cho đến nay, Kon Tum có 94.075 tín đồ Cơng giáo, trong
đó 73.566 tín đồ Công giáo là đồng bào dân tộc thiểu số, 2 Giám
mục, 19 Linh mục, 88 nữ tu, 519 giáo phu, câu biện.
Đạo Tin Lành truyền lên Kon Tum năm 1960. Đến nay có
9.430 tín đồ, chủ yếu là đồng bào dân tộc, chức sắc tự phong có
72 người, 24 hội thánh, 25 ban chấp sự.
Đạo Phật đến Kon Tum vào những năm 1930 cùng với sự
có mặt của đạo Cơng giáo, hiện nay có 19.301 tín đồ, gồm 20 Đại
đức, 11 Sadi, 17 chùa.

Ngồi ra, cịn có đạo Cao Đài, với số tín đồ ít (557 tín đồ),
trình độ chức sắc có hạn, phần lớn tín đồ là nơng dân nghèo, nên


22

hoạt động có mức độ. Cơ sở thờ tự 1, ban cai quản họ đạo 1 ban 4
người, ban đại diện 1 ban 2 người.
Có thể thấy rằng, tín ngưỡng tơn giáo ở Kon Tum khá phức
tạp, có sự xen lẫn tín ngưỡng cổ truyền với tơn giáo ngoại nhập,
có tơn giáo được hoạt động cơng khai, có đủ tư cách pháp nhân;
có tơn giáo bị cấm hoạt động, chưa được công nhận tư cách pháp
nhân... Nhưng điểm chung của các tơn giáo này là đang tìm mọi
cách để phục hồi, phát triển, thu hút tín đồ, đào tạo chức sắc, xây
dựng, sửa chữa nơi thờ tự... Thực tế cho thấy những tôn giáo phát
triển được ở Kon Tum đều phải tự hạn chế tính chất cực đoan của
nó và phải hòa đồng, phải chấp nhận chung sống (ở một mức độ
nào đó) với tín ngưỡng cổ truyền của cư dân bản địa.
1.1.2. Q trình đạo Cơng giáo thâm nhập, phát triển
trên địa bàn tỉnh Kon Tum
- Trước ngày 30/4/1975
Vào giữa thế kỷ XIX đời vua Thiệu Trị, triều đình nhà
Nguyễn đã ra những sắc chỉ gắt gao cấm đạo Thiên Chúa hoạt
động và tổ chức đàn áp, bắt bớ dữ dội ở những vùng duyên hải
Trung Bộ, nhưng những nhà truyền Giáo hội Thừa sai Paris đã
nhìn thấy "ở địa phận đàng trong có một miền truyền giáo mới,
nơi các dân tộc thượng lưu trú, vùng rừng núi ở giữa sông Mê
Kông và biển Đông". Sự nghiệp truyền giáo lên vùng cao nguyên



23

Trường Sơn được bắt đầu và Kon Tum trở thành miền đất thánh
đầu tiên trên cao nguyên.
Có thể khái quát lịch sử q trình xâm nhập, phát triển
của đạo Cơng giáo ở Kon Tum qua các mốc lịch sử và thời kỳ
sau:
Thời kỳ truyền giáo và gây cơ sở đầu tiên (1842 - 1870):
Năm 1842, Giám mục Stephan Cuénot, đại diện tổng tòa,
quản nhiệm địa phận Đàng Trong ở Quy Nhơn - tỉnh Bình Định,
đã cử hai linh mục người Pháp tìm đường lên vùng thượng Tây
Nguyên truyền giáo nhưng việc chưa thành thì đã bị nhóm lái
bn người Việt bắt nộp cho triều đình Huế, sau đó vài ba chuyến
xâm nhập khác lên Tây Nguyên cũng bất thành.
Sau nhiều lần thất bại, Cuénot đã nhận ra rằng trong giai
đoạn mà nhà Nguyễn đang truy bắt những người theo đạo Kitơ,
thì một Thừa sai người Âu tìm đường xâm nhập lên vùng cao
ngun là liều lĩnh và khó thành cơng. Vì vậy cần phải có một
người Việt nào đó đi thám thính trước, xem xét các nơi thường có
các thương gia qua lại và thu thập các tin tức về các bộ lạc người
thượng, ngoài tầm lui tới của các thương nhân người Kinh, chính
ở đó mới có thể thiết lập được cơ sở truyền giáo đầu tiên. Với
những ý đồ đó, năm 1848, Giám mục Cnot đã tìm được một tu
sĩ là Nguyễn Do người Hoài Ân - tỉnh Bình Định (thường gọi là
thấy Sáu Do) và giao nhiệm vụ lên Tây Nguyên tìm đường truyền


24

giáo. Nguyễn Do với một vài lái buôn người Kinh đã tìm được

một con đường độc đạo, bí mật lên vùng cao nguyên và nghiên
cứu được phong tục tập quán, ngôn ngữ của người thượng, ở Kon
Tum đã đáp ứng được ý đồ của linh mục Pháp ở Đàng Trong chỉ
đạo.
Năm 1850 đã đánh dấu những bước chân đầu tiên của các
nhà truyền giáo Pháp trên đất Tây Nguyên. Đó là hai linh mục
Combé và Fontaine. Với sự dẫn dắt của Nguyễn Do, các cha cố
dòng Thừa sai Paris đã trụ lại được gần một làng dân tộc người
Ba Na, nơi đây là một thung lũng rộng mênh mơng có một con
sống lớn chạy qua, với nhiều hồ lớn nhỏ và được gọi theo tiếng
dân tộc là Kon Tum.
Để thực hiện được ý đồ đen tối, mặc dù sống trong một
mơi trường hết sức khó khăn, phức tạp, họ vừa đấu tranh với đói
rét, bệnh tật, vừa tìm mọi cách để tạo thiện cảm với dân chúng tại
chỗ, các nhà truyền giáo Pháp đã bằng các thủ đoạn gian ngoan,
khôn khéo của mình, từng bước đẩy lùi tín ngưỡng cổ truyền đa
thần, để xây dựng miền Kitô giáo trong từng người, từng bộ phận
dân tộc. Ngày 01/01/852 một đứa trẻ người dân tộc thiểu số Kon
Tum đầu tiên được làm phép rửa tội một cách vội vã, khơng chính
thức trong lúc hấp hối và ngày 16/10/1953 hai cậu bé Ngui và Pat
(dân tộc Xơ Đăng) đã lãnh nhận phép rửa tội do Linh mục thừa
sai Dou Risboure (Cố Ân) thực hiện. Đây là hai tín đồ Thiên Chúa


25

giáo đầu tiên trên đất Tây Nguyên chính thức được rửa tội, đánh
dấu sự thành công bước đầu của các nhà truyền giáo thừa sai
Pháp.
Tuy nhiên việc truyền giáo của các vị thừa sai gặp rất nhiều

trở lực. Vì tơn giáo mới đã xung đột với tín ngưỡng cổ truyền,
như Công giáo cấm thờ cúng trời, cúng ma, gỡ bỏ đầu trâu, máng
nước, bỏ tín ngưỡng đa thần, mà chỉ tôn thờ đức Chúa Giêsu. Từ
những việc mâu thuẫn trên đã gây sự đối đầu giữa các cư dân bản
địa và các vị truyền giáo, dẫn đến việc giáo sĩ Combé bị giết tại
làng Kon Kơ Xâm đông nam thị xã Kon Tum khoảng 15 km và
các cuộc tấn công bằng vũ lực của người Xơ Đăng chống lại các
nhà truyền giáo đã lan rộng. Cùng thời gian này trong vùng có
dịch đậu mùa gây nhiều cản trở nên cơng việc truyền giáo tạm
chững lại. Trước tình hình đó buộc chính quyền Pháp phải khẩn
trương thay đổi phương pháp truyền giáo ở đây, và nó được thể
hiện rõ: Trong những năm 60 (thế kỷ XIX), sau khi Hiệp ước
Nhâm Tuất (1882) được ký giữa Pháp và triều đình nhà Nguyễn,
về việc bãi bỏ các sắc chỉ cấm đạo Thiên Chúa ở Việt Nam, các
nhà truyền giáo thuộc Hội Thừa sai Paris được sự trợ giúp của
"Chính quốc" đã đẩy mạnh công cuộc truyền bá đức tin. Vượt qua
những khoảng cách về ngơn ngữ, về thói quen tâm lý và dân tộc,
những cản trở từ các tộc người bản địa, các nhà truyền giáo đã
phát triển được khoảng 800 giáo dân là người dân tộc thiểu số, và


×