Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn của đảng và nhân dân ta”.hãy phân tích cơ sở khách quan và chứng minh luận điểm đó của đảng ta trong quá trình cách mạng việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.04 KB, 8 trang )

BÀI THU HOẠCH CHÍNH TRỊ LỚP ĐẢNG VIÊN MỚI
Nội dung đề bài: “ Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa
chọn duy nhất đúng đắn của Đảng và nhân dân ta”.Hãy phân tích cơ sở
khách quan và chứng minh luận điểm đó của Đảng ta trong quá trình cách
mạng Việt Nam.
Bài làm:
Trong nhiều văn kiện của Đảng ta, vấn đề độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội luôn được khẳng định một cách mạnh mẽ và dứt khoát. Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã nêu rõ :
"Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là bài học
xuyên suốt quá trình cách mạng của nước ta. Độc lập dân tộc là điều kiện
tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo
đảm vững chắc cho độc lập dân tộc". Và tại Đại hội IX của Đảng lần này, khi
tổng kết những bài học chủ yếu của 15 năm đổi mới, Báo cáo Chính trị đã chỉ rõ
bài học thứ nhất là: "Trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư
tưởng Hồ Chí Minh".
Nhìn ra bên ngoài và nhìn lại lịch sử Việt Nam trong thế kỷ XX vừa qua,
chúng ta càng thấy rằng sự lựa chọn của Đảng ta, của nhân dân ta là hoàn toàn
chính xác, hợp với quy luật, hợp lòng dân.
Vậy cơ sở khách quan của hệ giá trị, quan điểm ,tư tưởng ấy là ở đâu?
Là người con của Tổ quốc Việt Nam, chúng ta biết rằng,dân tộc ta có
truyền thống yêu nước, anh dũng bất khuất, đã từng chiến thắng nhiều đế quốc
phong kiến hung hãn. Từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, phong trào yêu
nước đã dấy lên hết sức mạnh mẽ. Liên tiếp nổ ra các cuộc nổi dậy trên khắp
1
mọi miền đất nước thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân, các bậc sĩ phu, kể cả
một bộ phận quan lại phong kiến. Các phong trào Cần Vương, khởi nghĩa Yên
Thế; các phong trào Duy Tân, Đông Du, khởi nghĩa Yên Bái và hàng chục cuộc
đấu tranh khác nữa đều bị thực dân Pháp thẳng tay đàn áp và thất bại. Điều đó
chứng tỏ rằng, vẫn là nhân dân giàu lòng yêu nước, có truyền thống chống giặc


ngoại xâm, sẵn sàng ủng hộ và tham gia các phong trào yêu nước; còn các bậc sĩ
phu, các nhà lãnh đạo các phong trào chống thực dân Pháp đều có thừa trí dũng,
không thiếu quyết tâm nhưng họ, cả giai cấp phong kiến và đại diện cho chế độ
phong kiến, cả giai cấp tư sản và đại diện cho thế lực tư sản khi đó đều không
giải quyết được vấn đề độc lập dân tộc ở nước ta.
Trong bối cảnh đó, chưa bao giờ như lúc bấy giờ, độc lập dân tộc càng trở
nên là yêu cầu cơ bản, khách quan của xã hội Việt Nam - xã hội thuộc địa, nửa
phong kiến. Công cuộc giải phóng dân tộc Việt Nam khi ấy ở trong "tình hình
đen tối như không có đường ra". Bằng con đường nào và giai cấp nào có khả
năng gánh vác sứ mệnh trọng đại đó ?
Nhưng rồi chính lịch sử lại có lời giải đáp. Chủ nghĩa Mác ra đời đã vạch
ra cái tất yếu từng bị che lấp bởi màn sương mù trong lịch sử. Chủ nghĩa Mác
khẳng định : chủ nghĩa tư bản nhất định bị thay thế bằng một chế độ tốt đẹp hơn
- chế độ cộng sản chủ nghĩa không có người bóc lột người và người đào huyệt
chôn chủ nghĩa tư bản chính là giai cấp công nhân - sản phẩm của nền đại công
nghiệp tư bản chủ nghĩa. Đó là một tiếng sét trong lòng chủ nghĩa tư bản ở vào
thời thịnh trị, sau khi nó chiến thắng các chế độ chuyên chế phong kiến, và đã
bành trướng ra khắp thế giới. Các nước tư bản phát triển khi ấy đang trở thành
"trung tâm vũ trụ", chi phối và làm mưa làm gió mọi mặt đời sống xã hội loài
người.
Nhưng chính thời điểm mà chủ nghĩa tư bản tưởng như đang cực thịnh ấy, thì
Cách mạng Tháng Mười Nga 1917 đã nổ ra. Sự đột phá Tháng Mười mở đầu
2
cho một xu thế phát triển mới của lịch sử thế giới.Nêú trước Cách mạng Tháng
Mười, chế độ tư bản chủ nghĩa phát triển đến mức người ta rêu rao như một
"định mệnh", như một "trật tự vĩnh hằng", thì sau Tháng Mười - 1917, không ai
không thấy, cái "then" hãm thế giới ấy đã bị bẻ gẫy, điều định mệnh ấy thành ảo
tưởng, cái trật tự ấy bị lật nhào, tạo ra phản ứng dây chuyền của hàng loạt cuộc
đấu tranh giải phóng có quy mô to lớn và chiều sâu cách mạng chưa từng thấy
trong lịch sử nhân loại.

Rõ ràng, tới những năm 20 của thế kỷ XX với những biến động to lớn và
sâu sắc, đặc biệt với Cách mạng Tháng Mười Nga "rung chuyển thế giới", đã
làm cho tính chất thời đại thay đổi, giai cấp trung tâm của thời đại thay đổi, vai
trò lãnh đạo cách mạng cũng thay đổi; vì vậy con đường để giải quyết mâu
thuẫn của xã hội, lực lượng cách mạng và phương pháp cách mạng cũng thay
đổi.
Toàn bộ tình hình đó của thế giới, bằng nhiều con đường, dội vào và
thấm sâu trong mảnh đất Việt Nam - nơi mà chính "sự tàn bạo của chủ nghĩa tư
bản đã chuẩn bị đất rồi; chủ nghĩa cộng sản chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt
của công cuộc giải phóng nữa thôi". Hơn ai hết, chính Nguyễn Ái Quốc là người
gieo hạt, gây mầm cách mạng Việt Nam. Người đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến
với chủ nghĩa xã hội. Ở Người, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, bản lĩnh và tố
chất đặc biệt Việt Nam đã "bắt gặp" chủ nghĩa Mác - Lê-nin, nói như Cố Thủ
tướng Phạm Văn Đồng - một cuộc gặp gỡ đẹp như cùng hẹn trước - đã chung
đúc nên tư tưởng Hồ Chí Minh. Với kỳ công của Nguyễn Ái Quốc, chủ nghĩa
Mác - Lê-nin kết hợp với phong trào yêu nước và phong trào công nhân Việt
Nam chuyển hóa thành một tất yếu đưa đến một sự kiện trọng đại : năm 1930,
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Sự kiện này là mốc son đánh dấu sự kết hợp
các nhân tố dân tộc và giai cấp, quốc gia và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội trong bản chất của Đảng. Vừa ra đời, Đảng tuyên bố : "Chủ trương
tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản".
3
Lời tuyên bố ấy cũng đồng nghĩa với lời bác bỏ thẳng thừng chế độ phong kiến
và chế độ tư bản chủ nghĩa; và nhìn rộng hơn, cũng bác bỏ bất cứ một thứ chủ
nghĩa nào khác, bất cứ một con đường nào khác. Một cách tự nhiên là, ngay sau
lời tuyên bố ấy của Đảng, chủ nghĩa xã hội không chỉ là mục tiêu lựa chọn mà
đã thực sự thúc đẩy lịch sử dân tộc Việt Nam chuyển mình, là con đường dân
tộc Việt Nam đã và đang đi từ đó dọc thế kỷ XX, và tiếp tục đi cho tới đích cuối
cùng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản
mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế

giới khỏi ách nô lệ; chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho
mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc có một xã hội tốt lành gắn
liền với tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no; bảo đảm việc làm cho mọi
người, tất cả vì niềm vui, hòa bình, hạnh phúc của con người. Rõ ràng, sự lựa
chọn mục tiêu độc lập dân tộc gắn chặt với chủ nghĩa xã hội của Đảng và nhân
dân ta, xét về lôgíc là một tất yếu khách quan; xét về lịch sử, là hoàn toàn phù
hợp với sự vận động của cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại;
xét về nhu cầu, là hoàn toàn xuất phát từ điều kiện cụ thể của một nước thuộc
địa, nửa phong kiến và nguyện vọng cháy bỏng của nhân dân Việt Nam; và xét
về mặt xã hội, đó là một hệ giá trị cơ bản nhất quyết định sự phát triển của đất
nước Việt Nam ta hôm nay và mai sau.
Có thể khẳng định như vậy bởi vì việc giải quyết vấn đề độc lập dân tộc
theo ý thức hệ phong kiến và tư sản, trong khuôn khổ của chế độ phong kiến và
chế độ tư bản chủ nghĩa không tránh khỏi những mâu thuẫn và những hạn chế
bắt nguồn từ bản chất kinh tế và chính trị các chế độ ấy - những hình thái kinh tế
- xã hội dựa trên các quan hệ tư hữu về tư liệu sản xuất và các quan hệ đối kháng
giai cấp.
Vượt qua những mâu thuẫn và những hạn chế trong việc giải quyết vấn đề
độc lập dân tộc theo lập trường phong kiến và tư sản chỉ có thể là con đường gắn
liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, tức là giải quyết độc lập dân tộc theo
4
lập trường của giai cấp công nhân, của chủ nghĩa xã hội khoa học. Đó là : Độc
lập dân tộc thực sự phải là độc lập về chính trị, kinh tế, văn hóa, đối ngoại. Độc
lập dân tộc thực sự đòi hỏi phải xóa bỏ tình trạng áp bức bóc lột và nô dịch của
dân tộc này đối với dân tộc khác về kinh tế, chính trị và tinh thần. Do đó, độc
lập gắn liền với tự do và bình đẳng, công việc nội bộ quốc gia - dân tộc phải do
quốc gia - dân tộc đó giải quyết không có sự can thiệp từ bên ngoài.
Bản chất của chủ nghĩa xã hội là thực hiện triệt để giải phóng giai cấp,
giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Chủ nghĩa xã hội sẽ
xóa bỏ căn nguyên kinh tế sâu xa của tình trạng người bóc lột người do chế độ

chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất sinh ra. Nhờ đó, nó xóa bỏ cơ sở kinh tế
sinh ra ách áp bức con người về chính trị và sự nô dịch con người về tinh thần, ý
thức và tư tưởng.
Chủ nghĩa xã hội thực hiện độc lập dân tộc để mở đường đưa dân tộc tới
sự phát triển phồn vinh về kinh tế, sự phát triển phong phú đa dạng về văn hóa,
tinh thần, sự thực hiện đầy đủ nhất quyền lực của nhân dân. Chỉ với chủ nghĩa
xã hội, độc lập dân tộc mới đạt tới chân giá trị của nó ở chỗ nó hướng tới phục
vụ lợi ích và quyền lực của mọi người lao động, làm cho mọi thành viên của
cộng đồng dân tộc trở thành người chủ thực sự có cuộc sống vật chất ngày càng
đầy đủ và cuộc sống tinh thần ngày càng phong phú. Chính điều đó làm cho nền
tảng của sự độc lập tự chủ càng thêm vững chắc, khả năng bảo vệ nền độc lập
dân tộc càng đầy đủ và mạnh mẽ.
Sự phát triển thực chất và bền vững của độc lập dân tộc được đo bằng
những khả năng và điều kiện bảo đảm cho dân tộc thoát khỏi tình cảnh nô lệ,
phụ thuộc, bị áp bức bóc lột và nô dịch. Nó cũng bảo đảm cho dân tộc vượt qua
tình trạng đói nghèo, lạc hậu và tụt hậu trong tương quan với các dân tộc khác
trong thế giới và ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn để đạt tới sự bình đẳng
5
trong các mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cộng đồng dân tộc
này với cộng đồng dân tộc khác.
Toàn bộ khả năng và điều kiện bảo đảm đó chỉ có thể được tìm thấy và
giải quyết bằng con đường phát triển chủ nghĩa xã hội.Độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội trở thành hệ giá trị phát triển của Việt Nam, dưới ngọn cờ của
Đảng, trong thời đại ngày nay. Đó cũng chính là cái lôgíc phát triển lịch sử của
dân tộc Việt Nam, hơn 78 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, đã làm nên
cốt cách Việt Nam, bản lĩnh Việt Nam và vị thế Việt Nam trước thế giới.
Hay nói theo cách khác, tiến trình cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng
là một minh chứng cụ thể , rõ ràng, xác đáng cho hệ giá trị ấy.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội diễn ra trong suốt quá trình
cách mạng, ở mỗi giai đoạn của cách mạng; thống nhất ở mục tiêu trước mắt

cũng như lâu dài. Bởi vì, đối với một dân tộc đã phải trải qua một ngàn năm đô
hộ của phong kiến phương Bắc và gần một trăm năm dưới gót sắt của chủ nghĩa
thực dân thì khát vọng cao nhất và trực tiếp nhất là giành độc lập dân tộc, giải
phóng dân tộc. Nhưng để có độc lập thực sự cho dân tộc phải đi lên chủ nghĩa xã
hội. Vì vậy, độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Nhận thức và hành động theo sự lựa chọn và theo hệ giá trị đó, Đảng ta đã
lãnh đạo thành công cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 lịch sử và việc thành lập
Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, một điển hình trong các dân tộc thuộc
địa. Đây là kết quả tổng hợp của các phong trào cách mạng diễn ra liên tục trong
15 năm sau ngày thành lập Đảng, từ cao trào Xô viết Nghệ-Tĩnh, cuộc vận động
dân chủ 1936-1939 đến phong trào giải phóng dân tộc 1939-1945, Cách mạng
Tháng Tám đã xóa bỏ chế độ thuộc địa nửa phong kiến ở nước ta, mở ra một kỷ
nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
6
Tiếp đó, tiến hành thắng lợi hai cuộc trường kì kháng chiến oanh liệt để
giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, đánh thắng chủ nghĩa thực dân cũ và mới,
hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, thực hiện thống nhất Tổ quốc,
đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, góp phần quan trọng vào công cuộc đấu
tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội.
Qua hơn nửa thế kỷ giành và giữ độc lập dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt 15 năm đổi mới, với hệ giá trị đó, Đảng Cộng
sản Việt Nam đã xứng đáng tiêu biểu cho bản lĩnh Việt Nam trong việc giữ
vững định hướng xã hội chủ nghĩa, đã tỏ rõ tính độc lập tự chủ trong mọi đường
lối, chính sách đối nội và đối ngoại, đưa đời sống nhân dân lên ngày một cao
hơn, đưa đất nước và dân tộc lên vị thế mới trong khu vực và thế giới .
Có thể nói, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chính
trị đặc sắc, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt và bao trùm trong di sản tư tưởng Hồ Chí
Minh. Tư tưởng đặc sắc ấy thể hiện nhất quán mục tiêu của con đường cách
mạng mà Người đã lựa chọn, nó vừa đáp ứng được yêu cầu bức xúc của dân tộc

và khát vọng của quần chúng nhân dân giành lấy độc lập, tự do, ấm no và hạnh
phúc, giải phóng cuộc đời lầm than, đói khổ dưới ách thống trị tàn bạo của chủ
nghĩa thực dân, đế quốc và bè lũ tay sai. Tư tưởng ấy đã đưa dân tộc ta đến độc
lập, tự do, nước nhà Bắc – Nam thống nhất và ngày nay, đó là nguồn sức mạnh
trong sự nghiệp xây dựng một xã hội Việt Nam mới xã hội chủ nghĩa: dân giàu,
nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, với Việt Nam không chỉ là mục tiêu,
là nhu cầu, là cương lĩnh hành động, là ngọn cờ hiệu triệu, mà còn là động lực,
là niềm tin sắt son của dân tộc Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Như thế,
đối với Việt Nam ta, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội là sự gắn kết hai
7
sức mạnh thành một sức bật mới; là cội nguồn thắng lợi của cách mạng Việt
Nam trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
Thế kỷ XXI mở đầu thiên niên kỷ thứ ba của một thế giới đầy biến động,
cũng đồng thời mở ra một kỷ nguyên hội nhập, đua tranh gay gắt của cộng đồng
quốc tế. Dù thời cuộc biến đổi xoay vần ra sao, dù phải đối mặt với xu thế toàn
cầu hóa, với tất cả mặt tích cực và tiêu cực, bất trắc; dù cho ai đó bị lóa mắt bởi
những bộ áo cánh sặc sỡ của chủ nghĩa tư bản thì hệ giá trị ấy - độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, trong ý thức và trong hành động vẫn là mục tiêu, tư tưởng,
là quốc bảo phù hợp với xu thế thời đại. Mãi mãi giương cao ngọn cờ độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, bước vào thế kỷ XXI, dưới sự lãnh đạo của Đảng,
nhân dân ta tiếp tục giành thêm nhiều thắng lợi to lớn hơn nữa trong sự nghiệp
đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh, đưa đất nước ta sánh vai cùng các cường quốc năm châu.
HẾT
8

×