Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

khu di tích lịch sử đền và

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 24 trang )

Khu di tích lịch sử Đền Và
1. Đền Và
Đền Và rêu phong cổ kính và uy nghi toạ lạc trên một ngọn đồi thấp, hình con rùa
hướng về phía mặt trời mọc, trong rừng lim cổ thụ, thuộc thôn Vân Gia, xã Trung
Hưng, (nay là phường Trung Hưng), thị xã Sơn Tây, Hà Nội, đã được công nhận là
“Di tích lịch sử văn hóa” cấp quốc gia năm 1964.
Lịch sử
Đền Và là nơi phụng thờ đức Thánh Tản Viên (Sơn Tinh), đứng đầu trong Tứ Bất tử
và là "Thượng đẳng tối linh thần", "Đệ nhất phúc thần", "Nam thiên thần tổ" "là người
anh hùng văn hóa sáng tạo trong tư duy nông nghiệp, người anh hùng trị thuỷ, chống
giặc, biểu tượng của khối đoàn kết bộ tộc, khi chết Tản Viên là phúc thần trừ tai họa
cho dân".
Theo truyền thuyết, đức Thánh Tản Viên sau khi giúp dân chống giặc ngoại xâm, khai
sơn, trị thủy, vào một ngày xuân đẹp trời (14/1), Ngài từ núi Tản du ngoạn đến đồi Và,
xã Trung Hưng, thấy đây là một thắng địa, phong thủy hữu tình, hội tụ khí thiêng đất
trời, Ngài liền lập hành cung, gọi là Đông cung.
Theo bia "Vân Gia đông trấn cung ký" dựng ở đầu hồi nhà tiền tế, lập năm Tự Đức
thứ 36 (năm 1883), Đền Và đã có từ thời đất Việt thuộc ách đô hộ của nhà Đường, lúc
đó Đền là khu thờ nhỏ nhưng rất linh ứng. Đền được trùng tu mở rộng quy mô như
ngày nay là vào năm Minh Mạng thứ 12 (năm 1831).
Kiến trúc và bài trí
Đền Và nằm giữa đồi Và, có diện tích khoảng 17.500m2, xung quanh có nhiều cây lim
cổ thụ. Theo thuyết phong thủy, khu đồi có hình dáng con rùa (Kim Quy) đang bơi về
phía mặt trời mọc.

1
Khu vực kiến trúc của đền rộng khoảng 2.000m2, được bao quanh bằng tường đá ong
cao 2m15. Tường được xây hai lớp, theo cách thức thượng thu hạ thách, chính giữ lèn
đất. Kiến trúc của đền có hai dãy nhà 5 gian, thông gian giữa bằng “ống muống” tạo
thành hình chữ “công’ theo kiểu “nội công ngoại quốc”, các đầu đao cong mềm mại.
Nghi môn - cổng chính của đền, hướng về núi Tản Viên (Ba Vì) gồm ba gian dựng


trên nền cao, gian giữa cao 4m80, hai gian bên cao 2m15. Nghi môn có ba hàng cột gỗ
đặt trên tảng kê bằng đá ong (cột cái cao 4m95, cột quân 3m80). Đây là một nghi môn
khá hiếm gặp trong kiến trúc truyền thống Việt Nam. Tiếp đến là gác trống, gác
chuông được dựng hai bên và ngay sát nghi môn và kiến trúc tương tự nhau với kiểu
chồng diêm 8 mái.
Nhà tiền tế và hậu cung: nhà tiền tế hình chữ "nhất", kiến trúc theo lối 5 gian 2 chái
chồng rường, giá chiêng; hệ thống cột cái, cột quân bào nhẵn kiểu "thượng thu hạ
thách" đặt lên tảng kê chân cột bằng đá. Trên cột là một hệ thống hoành phi, câu đối cổ
được chạm khắc tinh xảo. Hậu cung hình chữ "công", tòa ngoài kết cấu 3 gian 2 chái
lớn (dài 14m10, rộng 8m90).
Hậu cung đặt một khám thờ cao hơn 3m sơn son thếp vàng được chạm trổ cầu kỳ
mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XVII. Trong cùng là bài vị của Đức Quốc Mẫu (bà
Đinh Thị Điên, thân mẫu đức Thánh Tản Viên mà dân gian gọi chệch đi là Bà Đen).
Tiếp đến là 3 bài vị của Tam vị Đức Thánh Tản (gồm đức Thánh Tản Viên và hai
người em con chú là Thánh Cao Sơn và Thánh Quý Minh). Trước khám thờ có hương
án bày long ngai bài vị của ba vị, phía trên khám treo bức đại tự "Thượng đẳng tối linh
thần" niên đại Tự Đức Quý Mùi (năm 1883).

Toà ngoài của hậu cung có 4 pho tượng kích thước như người thật đứng nhìn vào
nhau, tay cầm vũ khí và khoác áo bào đỏ gọi là "Tứ Thánh" trấn ở bốn cung quanh núi
Ba Vì. Ngoài hiên nhà có hai pho tượng quan văn, quan võ ngồi hướng vào nhau.

Hiện vật

2
Đền Và đang lưu giữ 5 bản thần tích "Tản Viên Sơn Thánh"; 18 đạo “sắc phong” của
các đời vua, trong đó có 17 bản chính có dấu ấn; 47 đôi câu đối được chạm khắc, viết
trên vách cột, trên gỗ và 18 bức hoành phi viết trên gỗ hoặc đá.
Nơi đây còn có 2 bia đá, 3 chuông đồng, 4 tấm biển gỗ. Trên những hiện vật đó khắc
ghi thời gian xây dựng, tu sửa, ca ngợi cảnh quan, uy linh của đức Thánh Tản Viên với

nhiều nét trang trí có giá trị mỹ thuật cao vừa thể hiện nét văn hóa tâm linh.

Các lễ hội Đền Và

Hàng năm, lễ hội Đền Và được tổ chức vào mùa xuân, diễn ra từ ngày 13 đến ngày 15
tháng giêng âm lịch và mùa thu từ ngày 14 đến ngày 15 tháng chín âm lịch.
Lễ hội Đền Và mùa xuân với nghi lễ trung tâm là rước long ngai bài vị "Tam vị Đức
Thánh Tản" từ Đền Và qua sông Hồng sang tả ngạn ở Đền Dội (xã Vĩnh Linh, huyện
Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc) là nơi theo truyền thuyết Thánh Tản Viên đã tắm để tế lễ,
nên diễn lại sự tích này rồi quay trở lại Đền Và. Cứ vào các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu
thì hội rằm tháng Giêng được tổ chức lớn hơn gọi là hội chính.
Lễ hội Đền Và mùa thu với nghi thức chính là đánh bắt cá ở sông Tích để chọn ra 99
con cá trắng to chế biến thành các món tế Thánh. Ngoài phần lễ trang nghiêm còn có
phần hội với các trò chơi dân gian như đánh cờ người, đánh vật, chơi gà chọi, cùng các
tiết mục văn nghệ với các bài dân ca mang đậm nét đắc trưng văn hóa xứ Đoài./.
2. Chùa Mía
Lịch sử
Theo truyền thuyết, chùa này do bà Nguyễn Thị Rong, vợ chúa Trịnh Tráng (1623-
1657), được gọi là Bà Chúa Mía, cho xây dựng. Thực ra chùa đã có từ trước đó. Tấm
bia dưới gác chuông năm Vĩnh Tộ thứ 3 (1621) nói về việc lập chùa. Theo tấm bia
khắc năm Đức Long thứ 6 (1634) ở trong chùa thì chùa được trùng tu năm 1632, do
các cung tần phủ chúa là Nguyễn Thị Ngọc Rệu, Nguyễn Thị Ngọc Thạch và phu nhân
Ngô Thị Ngọc Loan. Lần sửa này khá lớn, làm quy mô chùa rộng hơn trước nhiều.
3
Chùa Mía toạ lạc nơi miền đất 2 vua Đường Lâm, Sơn Tây, Hà Nội; từ lâu chùa Mía
không chỉ được biết đến là nơi thể hiện tín ngưỡng Phật giáo của người dân khắp nơi
trong cả nước. Ngôi chùa này còn được mọi người biết đến là ngôi chùa có nhiều
tượng Phật cổ, nghệ thuật nhất Việt Nam và gìn giữ nhiều hiện vật quý báu mang giá
trị lớn về nghệ thuật và lịch sử.
Từ chợ Mía , bước qua cổng Tam quan để vào chùa mọi người mới cảm thấy như bước

vào một thế giới khác, trái ngược hoàn toàn với cảnh xô bồ, tấp nập ngoài kia. Mảnh
sân trước chùa có những cây đa cổ thụ tạo cho không chỉ đem lại cho chùa 1 không
gian mát mẻ, thoáng đãng mà còn khoác lên chùa chiếc áo trầm mặc, cổ kính và linh
thiêng.
Phía trong ngôi chùa cổ là khu nội điện gồm tiền đường, đại hùng, bảo điện, thượng
điện được sắp xếp theo cấu trúc “Nội công ngoại quốc” trông rất bề thế. Dãy hành lang
sắp xếp theo hình chữ “Mục” khiến ban thờ này nối tiếp ban thờ kia. Những người vào
tham quan sẽ không phải quay lưng vào bất cứ ban thờ nào.
Trụ trì Thích Cẩn Thẩn, người có nhiều năm gắn bó với chùa Mía cho biết chùa còn
có tên là Sùng Nghiêm Tự. Chùa được xây dựng từ thời xa xưa, nhưng có thời kỳ
không ai chăm sóc nên bị hoang phế, điêu tàn. Mãi đến năm 1632, cung phi Ngô Thị
Ngọc Diệu, 1 phi tần của chúa Trịnh Tráng mới kêu gọi thiện nam, tín nữ các làng
Đông Sàng, Mông Phụ, Cam Toàn…cùng nhau tôn tạo lại chùa. Cũng vì các làng đó
thuộc tổng Mía, cũng là quê hương của cung phi Ngô Thị Ngọc Diệu cho nên để tỏ
lòng mến mộ, người ta đã lấy tên chùa là chùa Mía. Mọi người còn xây dựng thêm một
đến thờ riêng để thờ Bà chúa Mía.


Tượng phật trong Chùa
Kiến trúc và mĩ thuật
4
Điều đặc biệt khiến chùa Mía khác những ngôi chùa bình thường không chỉ bởi tuổi
đời của chùa mà còn ở số lượng tượng phật nghệ thuật khổng lồ ở đây. Chùa có đến
287 pho tượng lớn nhỏ, hầu hết những bức tượng đều có từ khi thành lập chùa. Mỗi
bức tượng là 1 câu chuyện ca ngợi những đức tính tốt đẹp của con người, dân tộc Việt
Nam.
Trong 287 bức tượng đó là 6 pho tượng đồng, 106 pho tượng gỗ và 174 pho tượng làm
bằng đất nung được sơn son thếp vàng. Tất cả những bức tượng đều mang giá trị lớn
về nghệ thuật. Đặc biệt có bức tượng “Thích Ca nhập niết bàn” là một bức tượng thuộc
loại quý hiếm, ít thấy trong các chùa ở miền Bắc cũng như cả nước.

Ngoài tượng “Thích ca nhập niết bàn”, chùa còn có bộ 8 pho tượng “Bát Bộ Kim
Cương” được làm hoàn toàn bằng đất luyện. Mỗi bức tượng miêu tả tư thế của 1 vị võ
tướng đang ở trong tư thế chuẩn bị chiến đấu trừ tà và bảo vệ pháp luật. Miêu tả ngoại
hình, tinh thần của những người đầy khí phách, tinh thần thượng võ một cách đầy sống
động, đường nét nên bộ tượng “Bát Bộ Kim Cương” đã được coi là điển hình nghệ
thuật của tượng Phật.


Hàng tượng La Hán trong Chùa
Dọc theo các dãy hành lang còn có nhiều bức tượng nghệ thuật đặc sắc khác. Có thể kể
đến là tượng “Phật Tuyết Sơn”, tượng “Quan Âm Tống Tử”…Tất cả các bức tượng
dưới bàn tay nghệ nhân chạm khắc một cách mềm mại, trau chuốt đều diễn tả được
một cách sống động tính cách của từng nhân vật. Gây ấn tượng lớn đối với khách tham
quan.

Không chỉ có nhiều pho tượng Phật nghệ thuật, chùa Mía còn mang theo suốt quá trình
lịch sử những hiện vật giá trị.
5
Tầng trên Tam quan là chiếc chuông lớn đúc từ năm Cảnh Hưng thứ 6( 1745) và 1
chiếc khánh đồng đúc năm Thiệu Trị thứ 6 (1846). Tiếp đến là tòa tháp “Cửu Phẩm
Liên Hoa”,cao 13m. Tòa tháp này được xây dựng để thờ vọng Xá lị đức phật. Bên
cạnh đó, ngọn tháp cũng được những người xây dựng gửi gắm ước muốn được gìn
giữ, phát triển nét văn hóa của làng quê.

6

Tượng Phật Tuyết Sơn
Điều đặc biệt nhất là trong chùa còn có một tấm bia đá rất đẹp, cao 1,6m; rộng 1,2m và
được đặt trên lưng một con rùa. Tấm bia đá được khắc năm 1634, nói về việc trùng tu
chùa năm 1632. Tại tấm bia đá này cũng lưu trữ nhiều tài liệu quý báu mang giá trị

lịch sử lớn lao của ngôi chùa.
Với kiến trúc độc đáo và những tác phẩm điêu khắc có giá trị, chùa Mía đã được bộ
Văn hóa - thể thao và du lịch xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia.

Du lịch và lễ hội
Về chùa Mía vào dịp không có lễ hội, không thấy được cách tổ chức nghi lễ mang đậm
nét văn hóa của con người miền Bắc. Không gặp được những người vẫn nhiệt tình kể
vanh vách những câu chuyện truyền thuyết, văn hóa và tín ngưỡng. Nhưng về đây,
dưới sự trầm mặc, uy nghi và đầy cổ kính của chùa Mía, chúng tôi không phải mang
nhiều nuối tiếc với những gì đã được chiêm ngưỡng ở ngôi chùa mang đậm bản sắc
văn hóa này.
7
3. Đình Mông Phụ
Đến Đường Lâm, chúng ta sẽ được chiêm ngưỡng 16 di tích kiến trúc gồm đình, đền,
chùa, miếu, nhà thờ họ, lăng mộ… Ngoài ra, chúng ta còn có cơ hội đến thăm hàng
trăm ngôi nhà cổ hiện nay vẫn còn được bảo tồn gần như nguyên vẹn. Trong quần thể
kiến trúc cổ đó, đáng chú ý nhất là đình làng Mông Phụ. Đình Mông Phụ là một trong
tám di tích lịch sử văn hoá ở Đường Lâm được bộ Thông tin và Truyền thông xếp vào
loại đặc biệt.
Lịchsử và kiến trúc

Nằm ngay tại trung tâm của làng Mông Phụ, đình được xây dựng năm 1684
(Niên hiệu Vĩnh Tộ đời vua Lê Hy Tông), là ngôi đình đặc trưng cho ngôi đình Việt
truyền thống. Đình xây dựng xếp thành hai chữ: Trước cửa là chữ Môn, sau hậu cung
là chữ Nhị. Đến thời Tự Đức năm thứ 12 đình được tu sửa lại. Ngôi đình được xây
dựng mang đậm dấu ấn của lối kiến trúc Việt - Mường. Nhưng ở đây vẫn có một nét
độc đáo riêng. Nền sân đình thấp hơn mặt bằng xung quanh. Khi mưa xuống nước từ
xung quanh dồn lại đây và chảy theo hai lối thoát nước dọc hai bên đình tạo thành hình
hai râu rồng vừa thực vừa ảo. Đây là một ý tưởng rất lãng mạn của các kiến trúc sư
cổ. Trước đình là một cái sân rộng, đây là nơi diễn ra các trò khi làng vào hội. Không

chỉ thế, sân còn là một ngã sáu khổng lồ, xoè ra như những cánh hoa rồi quy tụ mọi
đường vào làng về trung tâm. Điều đặc biệt là nếu đi từ đình tới bất cứ xóm nào cũng
không hề quay lưng vào đình.
Đình ngoài có năm gian, hai chái làm theo kiểu nhà sàn; kết cấu bên trong theo lối
chồng dường, giá chiêng. Các bức cuốn thư đều trang trí hình rồng. Hai bên đốc trạm
hai bức xuân thuỷ (Tùng, Trúc, Cúc, Mai). Có thể nói đây là một bông hoa trong nghệ
thuật kiến trúc. Những nét chạm trổ tài hoa có một không hai ấy được lưu giữ trên
những bức trạm cuốn thư, tinh vi trong từng nét đục, song cũng cực kỳ tinh tế trong
quy hoạch tổng thể.
8
Làng Mông Phụ là một quần cư hình thành từ lâu đời, dân cư đông đúc, nhà cửa
san sát kề nhau. Công việc dựng nhà hoàn toàn nhờ một thứ vật liệu địa phương độc
đáo và rất đẹp - đá ong. Đá ong có ở mọi nơi, có chỗ sâu vài ba mét, có chỗ lưỡi đá lộ
thiên trồi hẳn lên. Khác với đá vùng Thạch Thất, Quốc Oai, Sơn Đông, Cổ Đông dá
ong ở Đường Lâm sau khi khai thác ở lò về kích thước to lớn, hình thức thô nhám
hoàn toàn không gia công lại mà cứ thế xếp chồng lên thành tường thành nhà. Có nhìn
mới ngỡ ngàng thấy cái đẹp ấy quả là vô song, cái đẹp ấy bổ sung vào nội hàm cụm từ
""làng Việt cổ"". Xa quê lâu ngày mà sao nhung nhớ quá cái màu thổ hoàng của tường
đá ong rực lên trong nắng chiều xứ Đoài
Sẽ thiếu sót nếu viết về không gian văn hoá vùng đất này mà không nhắc đến tên tuổi
một số bậc ""Quốc sĩ"" như cụ Thám hoa Giang Văn Minh, quan Thượng thư Bộ Hình
triều Nguyễn - Nguyễn Khắc Nguyên hay cụ Tuần phủ Phan Kế Tiến, là thân phụ cụ
Phan Kế Toại và còn nhiều bậc học rộng tài cao song không may mắn trên con
đường khoa cử. Nói thế là để tạm giới thiệu về tính hiếu học của vùng đất này. Kết
thúc xin dẫn ra đôi câu đối trong từ đường cụ Thám hoa Giang Văn Minh.
Lễ nghĩa bách niên Mông phụ ấp
Phong thanh thiên cổ Thám hoa môn.
Xin tạm dịch: Lễ nghĩa trăm năm là làng Mông Phụ, tiếng thơm nghìn thuở cửa cụ
Thám hoa này
9

Du lịch và lế hội
Ngày nay, ngoài việc đón khách đến thăm quan thì đình làng Mông Phụ vẫn là nơi
sinh hoạt chung của làng. Hàng năm, vào khoảng thời gian từ ngày mồng một đến
mồng mười tháng giêng dân làng Mông Phụ mở lễ hội (chính hội vào ngày mồng chín)
để cầu cho mưa gió thuận hoà, mùa màng bội thu và đời sống của nhân dân được no
ấm, hạnh phúc. Ngoài ra, nơi đây cũng là địa điểm diễn ra tục “lấy lửa” vào chính lúc
Giao thừa với quan niệm đem lại sự sung túc, may mắn cho dân trong làng. Như vậy
không gian ngôi đình này là nơi diễn ra các hoạt động văn hoá đầy ý nghĩa. Những
họat động này vừa giữ được những nét văn hoá truyền thống của địa phương lại vừa
khuyến khích, giáo dục niềm tự hào, yêu mến mảnh đất văn hoá, mảnh đất hai Vua
này.
4. Làng cổ Đường Lâm
Làng cổ Đường Lâm thuộc thị xã Sơn Tây, TP Hà Nội, được Nhà nước xếp
hạng di tích quốc gia năm 2005 và là làng cổ đầu tiên của cả nước được xếp hạng di
tích. Xã Đường Lâm gồm 9 thôn là Mông Phụ, Cam Lâm, Cam Thịnh, Đoài Giáp,
Đông Sàng, Hà Tân, Hưng Thịnh, Phụ Khang và Văn Miếu.
Giá trị văn hóa và kiến trúc
Đường Lâm là một làng Việt cổ bảo tồn được hệ thống các kiến trúc truyền thống như:
Cổng làng, nhà ở, đình, đền chùa, đường đi, giếng nước… Tại đây có các chuông
đồng, khánh đá, đồ gốm sứ, các bức chạm và các bia đá cổ lớn. Làng Đường Lâm có
tới 21 đồi gò, 18 rộc sâu và có sông Tích nước xanh trong uốn lượn quanh làng.
Đường Lâm xưa là đất 2 vua – 2 vị anh hùng dân tộc là Phùng Hưng, Ngô Quyền; là
quê hương của nhà ngoại giao lỗi lạc Giang Văn Minh và nhiều nhân vật nổi tiếng
10
khác trong lịch sử như Phan Kế Toại, Kiều Oánh Mậu… Tại nhà truyền thống xã
Đường Lâm còn lưu giữ nhiều hiện vật quí như rìu đá, di chỉ đồ đá mới, cọc gỗ Bạch
Đằng. Gần đó còn có những rộc sâu, tương truyền xưa là hồ sen, nơi Ngô Quyền
thường cùng bạn bè thuở nhỏ chơi trò thủy chiến.
Về di sản văn hóa phi vật thể, Đường Lâm bảo lưu được các lễ hội, phong tục tôn vinh
các vị anh hùng dân tộc, lưu giữ được trên 2.000 trang văn bản Hán Nôm ghi chép

thần phả của các làng, gia phả các dòng họ, gia đình, các tác phẩm văn học, văn hóa, y
học, cùng với các bia ký, hoành phi, câu đối, văn tự trên các bản khắc gỗ ở các di tích,
các truyền thuyết, cổ tích, tục ngữ, ca dao, dân ca.
Làng cổ Đường Lâm là tài sản tinh thần vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi
của bản sắc dân tộc và là cơ sở để sáng tạo những giá trị văn hóa mới và giao lưu văn
hóa.
Việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể ở Đường Lâm tập trung vào các
lĩnh vực: Bảo tồn môi trường sinh thái, cảnh quan thiên nhiên; bảo tồn không gian làng
cổ; bảo tồn không gian nhà cổ; bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể gắn bó mật thiết với
di sản văn hóa vật thể đặc biệt là các di tích tôn giáo, tín ngưỡng; bảo tồn văn hóa ẩm
thực Đường Lâm và phong tục tập quán.
Xã Đường Lâm nằm trong vùng chân núi Ba Vì, gần các con sông Hồng, sông Đà,
sông Tích, sông Đáy. Khu Đường Lâm ngày nay vẫn mang cảnh quan của vùng trung
du, vùng bán sơn địa, làng xóm tụ cư bố trí quanh đồi gò và ven sông. Nhiều địa danh
còn in dấu của những đồi gò và cánh rừng xưa.
11
Làng cổ Đường Lâm là tập hợp các làng Việt cổ truyền vùng trung du Bắc Bộ, trọng
tâm bảo tồn là làng Mông Phụ. Làng Mông Phụ có các ngõ khá rộng và thường lát
gạch ở phần giữa, 2 bên là tường hậu của các nhà dân xây bằng đá ong, đất hay gạch
chạy dọc theo nên khi đi trên đường ta chỉ thấy 2 bức tường và các mái nhà lô xô xen
nhau. Mỗi xóm ở làng Mông Phụ đều có một giếng nước mang tên của xóm. Các
giếng xóm Hè, xóm Giang xưa kia nổi tiếng là giếng có nước ngon và đã đi vào ca
dao, tục ngữ Việt Nam:
“Nước giếng Hè, chè Cam Lâm Nước giếng Giang, khoai lang đồng Bường”.
Một số giếng đá ong chỉ xây phần cổ giếng còn lòng giếng là đá ong nguyên khối.
Tương truyền, 2 giếng nước ở 2 bên đình Mông Phụ là 2 mắt của con rồng chột, một
giếng nước trong và một giếng nước hơi đục gọi là giếng Sữa. Làng cổ ở Đường Lâm
có chợ Mía nổi tiếng trong vùng. Chợ được họp trước cửa Tam quan của chùa Mía.
Chùa Mía là một ngôi chùa khá cổ mang nhiều dấu ấn chung của các cư dân Đông
Nam Á.

Không gian nhà cổ ở Đường Lâm với hàng trăm ngôi nhà trên dưới 200 năm. Bố cục
kiến trúc trong khuôn viên thường kết cấu theo kiểu chữ nhất, chữ nhị, chữ đinh và
chữ môn. Kết cấu kiến trúc từ năm hàng chân cột đến bốn hàng chân hay quá giang
trốn một cột, nhà ba hàng chân hay quá giang trốn hai cột, nhà hai hàng chân hay quá
giang trốn ba cột, nhà một hàng chân.
12
Đường Lâm còn bảo lưu được một tập hợp thư tịch khá phong phú gồm: Thần tích,
thần sắc, gia phả… ghi chép công lao, sự tích của nhân vật thờ cúng trong di tích, về
quá trình xây dựng, tu bổ tôn tạo với sự hưng công, đóng góp của dòng họ, dân làng và
của những người thiện tâm trong tổng, trong huyện, những di vật, những đồ tự khí có
giá trị về mặt lịch sử, mỹ thuật tạo hình và điêu khắc. Đường Lâm có 21 di vật ở niên
đại tạo tác khác nhau qua nhiều thời kỳ, cổ nhất là tấm bia Phụng tự bi ký ở Cam Lâm,
khắc năm Hồng Đức 4 (1473) ghi nhớ về việc thờ cúng Phùng Hưng, tấm bia Sùng
Nghiêm tự bi ký ở chùa Mía khắc năm Đức Long 6 (1634) ghi việc trùng tu chùa vào
năm 1632… Hay bản gia phả họ Giang được biên soạn năm Tự Đức 8 (1854) gồm 56
trang chữ Hán, ghi đầy đủ lời tựa, tên hiệu, công việc, ngày mất… của các thế hệ thuộc
nhiều chi phái trong dòng họ khá cụ thể.
Nét độc đáo của làng cổ Đường Lâm đọng lại trong mỗi du khách là khi dừng chân
tại đình làng họ đều cảm thấy một cảnh quan rất lạ, rất đẹp và rất Việt nữa. Khung
cảnh xung quanh đã gây sự chú ý cho mọi người đó là những viên gạch đá ong.
Đá ong vốn là loại gạch chắc chắn, có tính bền cao và những cái tưởng chừng như
sần sùi kia lại chính như là nét hoa văn trang trí hết sức tinh tế góp phần tôn thêm tính
thẩm mỹ cho ngôi chùa. Gạch đá ong được dùng để xây đình, chùa nhằm mục đích
vừa tạo nên tính bền vững, kiên cố cho các ngôi công trình luôn hiên ngang trước mọi
thiên tai và chống chọi với bất kỳ kẻ thù xâm lược nào. Những ngôi nhà cổ đã được
xây bằng gạch đá ong hiện nay vẫn rất chắc chắn tuy nó đã trải qua thời gian rất dài
gần 400 năm.
Gạch đá ong không chỉ có mặt ở mọi công trình xây dựng của làng Đường Lâm mà
nó còn được làm nền đường đi và vây xung quanh các gốc cây ở khu di tích thờ hai vị
vua là Ngô Quyền và Phùng Hưng.

13
Như vậy, có thể thấy gạch đá ong đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình xây
dựng của làng để làng mãi trở thành làng Việt cổ ở Việt Nam, là nơi lưu giữ nhiều ấn
tượng cho du khách trong nước và khách nước ngoài.
Mặc dù hiện nay có nhiều vật liệu hiện đại hơn cho việc xây dựng nhưng vẫn
không thể thay thế được những viên gạch đá ong đẹp mắt kia. Và những ngôi nhà cao
tầng trông rất sang trọng mọc lên xung quanh cũng không che khuất được hay gây sự
quan tâm hơn so với những ngôi nhà cổ bé thấp nhưng hiên ngang. Điều đáng mừng là
dòng điện cao áp đã về tới ngôi làng cổ Đường Lâm, nó càng làm tăng vẻ đẹp cổ kính
của những ngôi nhà cổ được ốp gạch đá ong và báo hiệu một tin mừng rằng Đường
Lâm luôn tồn tại và phát triển.
Đường Lâm còn nổi tiếng với một số sản phẩm như: Gạo Rí, gà Mía. Khách đến
thăm nhà trong bữa ăn hàng ngày được thưởng thức món nước chấm dùng tương, uống
nước chè tươi và ăn thịt gà Mía.
Sinh tụ trên một vùng đất có bề dày truyền thống lịch sử, các thế hệ cư dân Đường
Lâm đã tạo dựng được cho mình những truyền thống văn hóa quý báu, truyền thống đó
mang những đặc trưng chung của văn hóa vùng, miền và những sắc thái riêng được tạo
bởi chính những con người Đường Lâm sinh sống trong không gian, điều kiện sinh tồn
cụ thể. Trong bối cảnh hiện nay, việc gìn giữ, bảo tồn và phát huy văn hóa phi vật thể
ở làng cổ Đường Lâm là cần thiết không chỉ cho hôm nay mà còn cho tương lai
Những ngôi nhà cổ Đường Lâm

Trải qua bao thăng trầm, Đường Lâm vẫn lưu giữ hình ảnh của một ngôi làng cổ Việt
Nam với cổng làng, cây đa, giếng nước, ao sen. Qua hai cánh cổng làng đã bạc màu
sương gió, nằm dưới bóng một cây đa khổng lồ đã 300 năm tuổi, là những ngõ xóm,
đường làng, mái ngói, tường đá ong và các công trình kiến trúc cổ xưa trong một
không gian sinh hoạt cộng đồng mang đậm bản sắc của một làng thuần nông và dấu ấn
của một nền văn minh lúa nước.
Nét đặc sắc của làng cổ Đường Lâm là những ngôi nhà gỗ với tường xây bằng đá ong,
nằm trong những khuôn viên có tường bao cũng bằng đá ong và những đường làng lát

gạch nghiêng chạy giữa những bức tường đá ong
14
Lịch sử và kiến trúc

Đường Lâm có 956 ngôi nhà truyền thống trong đó các làng Đông Sàng, Mông Phụ và
Cam Thịnh lần lượt có 441, 350 và 165 nhà. Có nhiều ngôi nhà được xây dựng từ năm
1649, 1703, 1850 Căn nhà lâu đời nhất có tuổi thọ hơn 400 năm, còn lưu giữ được
bài văn cúng tế bằng chữ nho được viết bằng mực tàu trên một tấm ván.
Các chi tiết làm nên" linh hồn" của nhà cổ như tường đá ong, cổng đá ong, lối đi lát
gạch nghiêng, bậu cửa cao và gian thờ tổ tiên.
Cổng nhà hình quai giỏ, mềm mại về đường nét và vững chắc nhờ vật liệu đá ong.
Những nhà quan lại thường có vòng cửa mặt hồ phù, phía trên đắp hình long, ly, quy,
phượng hay lưỡng long chầu nguyệt. Mỗi ngôi nhà là một đồ gia bảo, là lịch sử, văn
hoá và cũng là nơi thờ tự thiêng liêng của mỗi dòng họ.
Những khuôn cửa bức bàn già nua, khi thường kẽo kẹt khép lại thế giới riêng, mỗi khi
có việc lại được ngả ra làm bàn.
Các ngôi nhà trong làng đều có kiểu nội tự, ngoại khách, sân nhà thấp hơn mặt đường,
vào những ngày mưa, nước từ ngoài dồn vào trong sân (tụ thủy sinh tài) rồi mới chảy
thoát ra đường cống. Các đường ngõ trong làng đều là ngõ cụt để đề phòng trộm cướp,
và mỗi ngôi nhà đều có cửa bí mật và đường tắt ra sân đình. Do khai thác tốt độ dốc,
lại không có nhiều nghề phụ nên đường ngõ ở Đường Lâm rất sạch sẽ phong quang.
Cái riêng nhất là kiến trúc làng: những ngả đường hình xương cá gồm một trục đường
chính với rất nhiều ngõ nhỏ thông với nhau, người làng đi đằng nào cũng về đến nhà/
trộm chạy đằng nào rồi cũng bị bắt (vì khi có động, tráng đinh cả làng ùa ra, ngay lập
tức gặp nhau ở một chỗ.
Như chúng ta đã biết các công trình kiến trúc cổ của Sơn Tây đều được xây dựng bằng
đá ong.Đá ong là vật liệu có sẵn tại địa phương do quá trình latêrit hoá tạo nên. Ngày
xưa Quang Dũng viết: "Đất đá ong khô nhiều ngấn lệ ". Quốc Oai, Thạch Thất cũng
có rất nhiều đá ong. Ở đồng bằng sông Hồng, các nhà khoa học đã chứng minh rằng có
hai vỉa đá ong lớn nằm ở Hà Tây và Bắc Ninh, mà Đường Lâm chỉ là một góc rất bé

của một vỉa. đá ong khi chưa thành khuôn gạch thì mềm dẻo nhưng đẽo lên rồi càng để
càng cứng.
Không thể xoá được hình ảnh của làng chừng nào từng viên đá ong còn được dựng
nhà. Từ xưa đến nay, đá ong ở đây vẫn là thứ sẵn có nhưng nó lại là vật liệu quý để
xây dựng nên các công trình trong làng. Đặc tính của loại đá này là càng để lâu càng
15
tốt, khi xây không tốn nhiều công trát, song vẫn đảm bảo cho khối tường dày, đủ làm
mát nhà khi trời nóng, đủ sưởi ấm nhà khi trời lạnh. Người làng Mông Phụ kể rằng:
"Từ thời cụ tổ đã có đá ong, loại đá này phải đào từ dưới lòng đất lên. Mỗi lần đào rất
khó vì mỗi viên thường to khoảng 15-40 cm". Tuổi tác càng khiến cho đá săn chắc,
cứng cáp Vòm cửa đá ong, một kiến trúc độc đáo của những ngôi nhà cổ Đường
Lâm.
.
Con đường quốc lộ nằm cách Đường Lâm chỉ vài trăm mét nhưng khi đặt chân đến
đây ta như rẽ vào một không gian khác, thời gian khác. Không có rêu phong của thời
gian, không có bụi bặm của xi măng cốt thép, chỉ có sự trong lành, thanh tịnh, của đất,
của đá ong, của những ngôi nhà năm gian, hai trái. Nét xưa còn nguyên đó, nhưng
dường như thời gian vừa là nơi lưu giữ dấu xưa vừa là nơi tàn phá những giá trị hiếm
hoi ấy. Hoà bình, chiến tranh rồi lại hoà bình, bom đạn hoả hoạn, thiên tai, những ngôi
nhà trùng mình xuống gánh gánh nặng của thời gian. Sự tàn phá của thời gian thật
nghê gớm nhưng sự tàn phá của con người còn đáng sợ hơn nhiều lần.
16
Ngõ làng Đường Lâm. Ảnh: Hà Thành
Năm 2004 Đường Lâm đã có hai gia đình phá bỏ nhà cổ để xây nhà mới. Ngôi nhà của
gia đình anh Phạm Văn Xuyên ở ngay cạnh đình làng Mông Phụ, địa thế rất đẹp nhưng
gia đình anh đã quyết định phá dỡ để xây nhà hai tầng. Bà cụ Hà Thị Vin bán nước
ngồi ở đình làng Mông Phụ mấy chục năm nay chép miệng: “Ai cũng nói nhà cổ là
quý là đẹp đấy nhưng kinh tế dư giả một chút là người ta sẵn sàng phá bỏ để xây nhà
mái bằng tiện nghi hơn”. Thực tế không phải hơn 400 hộ gia đình ở Đường Lâm, gia
đình nào cũng hiểu hết được giá trị quý báu của ngôi nhà mình đang sống. Khi được

hỏi về vấn đề người dân phá bỏ nhà cổ, chị Vọng cán bộ văn hoá xã trả lời: “Công văn
các cấp gửi về xã làm việc về vấn đề bảo tồn, tu tạo làng Việt cổ thì có nhiều nhưng
công văn hướng dẫn người dân có trách nhiệm gìn giữ ngôi nhà cổ của mình thì chưa
hề có. Vậy nên mạnh ai người ấy làm, xã chẳng có biện pháp gì can thiệp ngoài động
viên, thuyết phục bà con”.
17
Những ngôi nhà thời gian còn sót lại. Ảnh: Hà Thành
Rất may lối tư duy đó chỉ nằm trong bộ phận ít người, vẫn còn rất nhiều người tâm
huyết với nhà cổ, chỉ có điều lực bất tòng tâm. Hiện nay để trùng tu một ngôi nhà cổ
tốn khoảng 200 triệu, số tiền đó là quá sức với đại đa số người dân.
Ông giáo Vĩnh, người thuộc đời thứ 6 của họ Hà đang sống trong ngôi nhà cổ gần 200
tuổi tâm sự: nhà của mình nhưng có biết đích xác là bao nhiêu tuổi đâu, chỉ khi có một
cô ở Cục văn hoá Di sản Nhật Bản về làng khảo cứu, dùng máy móc hiện đại, phóng to
các chi tiết, tôi đọc được niên đại của ngôi nhà mừng chảy cả nước mắt. Ông giáo
Vĩnh chỉ cho tôi xem những thanh xà ngang trên ngôi nhà đã bị mọt nặng. Ông giáo cứ
trăn trở mãi một điều, 40 năm nữa ngôi nhà không được trùng tu sẽ hỏng hẳn, không
có cách gì cứu vãn. Bao năm chiến tranh, hoả hoạn còn không để mất ngôi nhà nay
thời bình mà để nó “ra đi” thì uổng quá.
Cổng vào làng Đường Lâm - Ảnh Lại Thu Giang
18
Trong ngôi nhà cổ đã có rất nhiều những người con thành danh, họ công tác ở tất cả
các nghành nghề khác nhau trong xã hội, người làm công an, người làm giáo viên,
người viết văn… Mỗi người một công việc, xong ngôi nhà cổ chở che, cùng họ khôn
lớn, trưởng thành để rồi có đi đến chân trời góc biển họ vẫn không thể nào quên.
Dường như những ngôi nhà cổ có một sức mạnh vô hình nào đó, để những người con
xa quê lấy đó là bến đỗ bình yên sau những chuyến đi xa. Anh Hà Nguyên Huyến, một
nhà văn, chủ một ngôi nhà cổ vào loại đẹp nhất ở Đường Lâm, công tác ở Hà Nội
nhưng anh vẫn cùng vợ con sinh sống ở quê với mong muốn con cái mình cũng sẽ từ
đây mà được thành danh.
Hầu hết những ngôi nhà ở Đường Lâm tuổi đời đã quá cao, ngôi nhà cổ nhất của gia

đình anh Nguyễn Văn Hùng ở thôn Mông Phụ đã hơn 400 tuổi, nếu không thì cũng
đều đã trên 100 tuổi. Tình trạng xuống cấp thì ai cũng biết. Chỉ có điều để có một
chiến dịch trùng tu, tôn tạo, nâng cấp đồng bộ thì khó. Khi chúng tôi đến thăm Đường
Lâm, chủ nhân của những ngôi nhà cổ, không phải ai cũng còn giữ được niềm tin:
Ngôi nhà là một vật báu, được thừa hưởng nó là một may mắn, hồng phúc. Đối với
người nông dân thì việc xây một ngôi nhà to hơn, kiên cố hơn mới là có hiếu với tổ
tiên.
5. Đình Tây Đằng
Lịch sử
Nằm cách Hà Nội khoảng 50km về phía Tây, đình Tây Đằng (huyện Ba Vì, Hà Nội)
được biết đến là một trong số những ngôi đình cổ nhất Việt Nam với gần 500 năm
tuổi.
Đây là một công trình kiến trúc độc đáo hình chữ
Nhất, vật liệu xây dựng ban đầu hoàn toàn bằng gỗ mít,
trong quá trình tu bổ sau này có dùng một số gỗ lim
Trường Sơn - loại gỗ hứng nhiều nắng, gió biển tạo nên
thớ xoắn rất chắc chắn.
Đình Tây Đằng được dựng vào khoảng đầu thế kỷ XVI,
nhưng hiện nay tại đình vẫn còn lại một số hoa văn từ thế
kỷ XI - XIII, nên có giả thiết đình Tây Đằng có thể được
xây dựng từ trước thế kỷ XVI. Đình có 48 cột lớn nhỏ, trước kia hoàn toàn làm bằng
gỗ mít - loại gỗ hàng trăm năm không bị tiêu tâm (rỗng lõi), cột cái lớn nhất có đường
kính đến 80cm. Nếu như các ngôi đình khác đều có bứng ván hoặc xây tường xung
quanh thì đình Tây Đằng chỉ có hệ thống cột chống dàn mái (sức chịu lực tương đương
móng một căn nhà 7 tầng) tạo nên một không gian thoáng đãng, tràn đầy ánh sáng làm
nổi bật những hoa văn độc đáo, giá trị trong đình.
19
Đình Tây Đằng, Quảng Oai
Kiến trúc và mĩ thuật
Đình là một kiến trúc cổ xây dựng trên mặt bằng hình chữ nhật gồm 3 gian và 2

chái dựng kiểu chồng rường. Bộ khung gồm 48 cột gỗ lớn nhỏ đỡ lấy bộ mái xoè rộng
lan xuống thấp với những đầu đao vút cong gắn hình long, ly, quy, phượng tạo ra vẻ
bề thế vững chắc nhưng thanh thoát, vươn cao không nặng nề. Giá trị nghệ thuật của
đình Tây Đằng thể hiện ở các tác phẩm chạm khắc tinh tế với đề tài, bố cục phong phú
từ các đề tài truyền thống như tứ linh, hoa lá cho đến các đề tài về cuộc sống như
nông dân cày ruộng, tiều phu đốn củi, mẹ gánh con, và các trò chơi dân gian khác
20
Họa tiết trên các vì kèo đình Tây Đằng
Thăm Tây Đằng, du khách có thể bị thu hút, mê hoặc bởi hàng chục, trăm hình thái
rồng được chạm khắc và đục đẽo thành tượng tròn, đặt ở các ván bưng, bức cốn, giữ
vai trò đầu dư, con sơn.
Chưa một ngôi đình, đền nào khác có một sự thiên biến văn hóa hình rồng đến thế.
Thân rồng gầy rộc, con ngươi mắt vượt ra ngoài quỹ đạo, miệng há rộng mà không
phát thành âm. Nó nhìn như xói vào cõi lòng
Đến ngôi đình 500 năm tuổi này, du khách còn bắt gặp một thủ pháp bài trí hiếm thấy
trong di sản kiến trúc Việt Nam: một dải trang trí gồm tượng các tiên nữ cười ở dạnh
con sơn, được kết nối bằng riềm hoa văn đặt cài dưới mái. Các tiên nữ thổi sáo, tiêu,
gảy đàn đáy, đàn nguyệt… Hình hoa sen, đặc biệt hình hoa cúc cùng các mô típ hoa
văn xoáy tròn, chạm trên các bảy hiên, đường nét rất tinh túy. Ngôi đình làng, vốn
nghèo và hẻo lánh, nhưng tạo sự vương vấn sang trọng, quý phái.
21
Đình Tây Đằng, nguồn cội bạc phơ
Ảnh: Tư liệu
22
Nét độc đáo nhất của đình Tây Đằng được thể hiện qua các bức chạm khắc mang đậm
nét văn hoá dân gian trên từng cấu kiện kiến trúc, đề tài thiên về hoạt động của con
người trong làng xã Việt Nam thế kỷ XVI như bơi thuyền, gánh con, đốn củi, múa hát
và tuyệt nhiên không chịu ảnh hưởng của lối chạm khắc hoa văn nước ngoài, thể hiện
tư duy, trí tuệ của người Việt cổ về cuộc sống, lao động sản xuất của nhân dân lao
động

Các bức chạm khắc mô tả sống động một quy trình khép kín cuộc sống của người Việt
cổ, từ thủa sơ khai với hoạt động săn bắt, hái lượm, thuần hoá động vật hoang dã (hình
tượng voi đi cày) đến cảnh đấu tranh chống giặc giã, sau đó đất nước thanh bình (hình
ảnh người chồng ngồi chải tóc cho vợ dưới gốc cau), trai tráng luyện tập võ nghệ, nhân
dân nô nức trong lễ hội đua thuyền đến cảnh cha mẹ, ông bà xum vầy, thầy đồ dạy học
biểu tượng cho sự chăm lo tới thế hệ sau
Các kiến trúc chạm khắc trong đình Tây Đằng hiện diện đủ các vùng văn hoá trên
khắp đất nước, từ một gia đình Bắc bộ ấm cúng bên gốc cau đến người phụ nữ Nùng
chơi đàn tính ở vùng cao miền Bắc hay lễ hội đua thuyền ở miền Nam. Sự tài tình của
các bậc tiền nhân chính là ở chỗ toàn bộ hơn 1.300 chi tiết chạm khắc gỗ trong đình
không hề trùng nhau một chi tiết nào và được bố trí rất hài hòa, không mang tính đối
xứng như các chi tiết kiến trúc ở những ngôi đình khác
Với những giá trị kiến trúc chạm khắc đặc sắc, độc đáo, đình Tây Đằng được ví như
một bảo tàng nghệ thuật dân gian của thế kỷ XVI. Ngoài giá trị về mặt kiến trúc, đình
Tây Đằng còn là nơi thờ Tản Viên Sơn thánh (Sơn Tinh), một nhân vật anh hùng theo
truyền thuyết đã chế ngự được thiên nhiên, được dân chúng suy tôn là bậc thánh và
Thánh Gióng cùng vị Thần Nông. Hàng năm có rất nhiều người dân trên cả nước và du
khách quốc tế lui tới viếng thăm, tìm hiểu, nghiên cứu về những giá trị lịch sử, văn hoá
của đình.
23
Kết Luận
Có thể nói Sơn Tây là một mảnh đất giàu giá trị văn hóa và lịch sử và có nhiều tiềm
năng lợi thế về phát triển du lịch, với hệ thống các khu di tích, lịch sử văn hoá dày đặc,
nhiều đền chùa, danh lam thắng cảnh, làng nghề nổi tiếng có thể khai thác “du lịch
sinh thái, du lịch tham quan di tích lịch sử văn hoá lễ hội, du lịch làng nghề”.
Kết thúc chuyến đi thăm mảnh đất Sơn Tây, đọng lại trong mỗi chúng tôi là cảm giác
chung về thiên nhiên,cảnh vật và con người nơi đây rất đỗi hiền hòa, mộc mạc và yên
bình. Bên cạnh đó, chuyến đi này đã giúp tôi hiểu biết về nguồn gốc và giá trị văn hóa
của đình, làng, chùa; những ngôi nhà cổ với bức tường đá ong dặc sắc. Và một điều dễ
nhận thấy là du lịch Sơn Tây đang dần từng bước khởi sắc, thu hút ngày càng đông

khách du lịch đến với địa bàn.

Nguồn thông tin tham khảo:
-wikipedia.org.vn
-google.com.vn
-tourdulich.com
24

×