LUẬN VĂN:
Quy luật QHSX phù hợp với trình
độ phát triển của LLSX
Lời nói đầu
Triết học Mác- Lênin ra đời vào những năm 40 của thế kỉ 19, nó ra đời do
những đòi hỏi của thực tiễn xã hội và là quá trình phát triển hợp quy luật của tư
tưởng: triết học và nhận thức khoa học của nhân loại. Nhờ có những quan điểm, triết
học và dựa vào những quy luật kinh tế mà xã hội ngày càng phát triển. Chúng ta đã
thu được những thành công nhất định trong công cuộc xây dựng XHCN bởi vì chúng
ta biết áp dụng một cách sáng tạo đúng đắn các quy luật kinh tế vào thực tiễn xã hội
đất nước mình.
Ngày nay, để đưa đất nước ta tiến lên công nghiệp hoá, hiện đại hoá và xây
dựng XHCN là mục tiêu quan trọng, nó đòi hỏi phải có sự nỗ lực của cả dân tộc và sự
hợp tác giúp đỡ của quốc tế mới mong đưa công cuộc đổi mới đất nước thành
công.Nhưng khi thực hiện đường lối chính sách đề ra chúng ta gặp không ít khó khăn
do chưa hiểu rõ về những vấn đề cần giải quyết trước mắt và chưa có đầy đủ những
điều kiện cũng như lực lượng để thực hiện đường lối chính sách đã đề ra. Đất nước
muốn phát triển được trước hết phải có LLSX phát triển cùng với nó kéo theo QHSX
phát triển vì thế trong những năm gần đây chúng ta đã chú trọng hơn đến việc phát
triển trình độ LLSX và QHSX nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế của đất nước.
Theo quan điểm lý luận của triết học Mác- Lênin, LLSX và QHSX là hai mặt
của phương thức sản xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau mà tác động biện chứng
lẫn nhau hình thành quy luật phổ biến của toàn bộ lịch sử loài người- quy luật về sự
phù hợp của QHSX với tính chất và trình độ của LLSX. Trong quá trình vận dụng
quy luật này chúng ta đã gặp không ít những khó khăn do nhiều nguyên nhân khác
nhau vì thế việc vận dụng quy luật này không hề đơn giản, do đó chúng ta phải
nghiên cứu thật kĩ quy luật này. Vì vậy vận dụng quy luật này như thế nào cho phù
hợp với tình hình đất nước ta hiện nay đang là một vấn đề cần được quan tâm.
Là nhà kinh tế trong tương lai cần phải có kiến thức, sự hiểu biết về kinh tế, vì
thế em đã chọn đề tài “Quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của
LLSX”.
vấN đề I: Khái quát chung về sự phù hợp
của qhsx với llsx.
I. Khái niệm về QHSX và LLSX.
QHSX và LLSX được hình thành như thế nào, tại sao lại gọi là QHSX và
LLSX, nguyên nhân động lực phát triển của xã hội làgì?
Các nhà triết học và xã hội học duy tâm giải thích nguyên nhân, động lực phát
triển của xã hội từ ý thức tư tưởng của con người hay từ một lực lượng siêu tự nhiên
nào đó. Ngay cả các nhà triết học duy vật trước Mác cũng giải thích một cách duy
tâm về sự phát triển của xã hội. Ngày nay nhiều nhà xã hội học tư sản giải thích theo
quan điểm kĩ thuật. Họ không nói đến các quan hệ kinh tế-xã hội- nguồn gốc sản sinh
và thay thế các chế độ xã hội khác nhau trong lịch sử. Mặc dù là người nối tiếp những
người đi trước nhưng Mác lại có một tư tưởng hoàn toàn khác, Ăng-ghen viết: “ Mác
là người đầu tiên đã phát hiện ra quy luật phát triển của lịch sử loài người, nghĩa là
tìm ra cái sự thật đơn giản là trước hết con người cần phải ăn, uống, ở, mặc, trước khi
có thể lo đến chuyện làm chính trị, khoa học, nghệ thuật tôn giáo…’’
(1)
Mác đã tìm
thấy nguyên nhân phát triển của lịch sử ngay trong đời sống vật chất của con người.
Để đáp ứng nhu thiết yếu đó, con người thì phải tiến hành lao động sản xuất mà muốn
vậy thì phải chế tạo công cụ lao động phục vụ cho quá trình sản xuất. Nhưng sản xuất
không chỉ tác động vào tự nhiên mà còn phải có mối quan hệ nhất định với nhau và
chỉ có trong phạm vi những mối liên hệ và sự tác động của con người vào sản xuất.
Những mối quan hệ này chính là QHSX mà trước đây Mác chưa khái niệm về nó.
Con người tồn tại và phát triển là do có sự phát triển của LLSX và QHSX của con
người.
Dựa trên cơ sở này Mác đã vận dụng chủ nghĩa duy vật vào việc phân tích mối
quan hệ giữa LLSX và QHSX, Mác đã phát hiện ra mối quan hệ giữa sự phát triển
của LLSX với sự thay đổi của QHSX.
1. Lực lượng sản xuất.
LLSX là thể thống nhất hữu cơ giữa TLSX ( trước hết là công cụ sản xuất) và
con người với kinh nghiệm, kĩ năng, tri thức lao động của họ.
LLSX biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên nghĩa là trong quá
trình thực hiện sản xuất con người chinh phục giới tự nhiên bằng các hoạt động thực
tiễn của mình.
LLSX do con người tạo ra nhưng mang tính khách quan, nó là sản phẩm của
sự kết hợp giữa lao động sống và lao động quá khứ.
LLSX là tiêu chí quan trọng nhất để chỉ ra những nấc thang của sự tiến bộ xã
hội vì các chế độ kinh tế khác nhau ở chỗ nó sản xuất bằng cách nào, với công cụ lao
động nào.
LLSX bao gồm hai yếu tố cấu thành đó là tư liệu sản xuất và người lao động
. Tư liệu sản xuất do xã hội tạo ra, trước hết là công cụ lao động.Người lao
động với những kinh nghiệm sản xuất, thói quen lao động biết sử dụng công cụ sản
xuất để tạo ra của cải vật chất.
Tư liệu sản xuất bao gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động.
+Tư liệu lao động : có công cụ lao động và những phương tiện lao động khác
phục vụ trong quá trình sản xuất như những phương tiện vận chuyển, bảo quản sản
phẩm …
+Tư liệu lao động là vật thể hay phức hợp vật thể mà con người đặt giữa mình
với đối tượng lao động, chúng dẫn truyền tích cực sự tác động của con người vào đối
tượng lao động.
+Trong tư liệu lao động, công cụ là yếu tố quan trọng nhất.Trong quá trình sản
xuất, công cụ lao động luôn luôn được cải tiến. Nó là yếu tố động nhất và cách mạng
nhất trong lực lượng sản xuất.
+Trình độ phát triển của tư liệu lao động mà chủ yếu là công cụ lao động là
thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của loài người, là cơ sở xác định trình độ phát
triển của sản xuất, là tiêu chuẩn để phân biệt sự khác nhau giữa các thời đại kinh tế.
+ Đối tượng lao động không phải là toàn bộ giới tự nhiên mà chỉ có bộ phận
nào của giới tự nhiên đưọc đưa vào sản xuất, được con người sử dụng. Con người
không chỉ tìm trong giới tự nhiên những đối tượng lao động có sẵn, mà còn sáng tạo
ra bản thân đối tượng lao động. Sự phát triển của sản xuất có liên quan với việc đưa
những đối tượng ngày càng mới hơn vào quá trình sản xuất.Điều này hoàn toàn có
tính quy luật, bởi chính những vật liệu mới mở rộng khả năng sản xuất của con người.
Người lao động: đó chính là người lao động với kinh nghiệm kĩ năng, tri thức
lao động của họ.
Các yếu tố trong LLSX không thể tách rời nhau mà có quan hệ hữu cơ với
nhau trong đó con người giữ vị trí hàng đầu, thiếu con người thì không có sản xuất vì
sản xuất do con người thực hiện.
Chính con người với trí tuệ và kinh nghiệm của mình đã chế tạo ra tư liệu lao
động và sử dụng nó để thực hiện sản xuất. Tư liệu lao động dù có ý nghĩa lớn lao đến
đâu, nhưng nếu tách khỏi người lao động thì cũng không thể phát huy được tác dụng,
không thể trở thành lực lượng sản xuất của xã hội. Lênin viết: “ lực lượng sản xuất
hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động”.
(2)
Giữa các yếu tố của lực lượng sản xuất có sự tác động biện chứng.
Sự hoạt động của tư liệu lao động phụ thuộc vào trí thông minh, sự hiểu biết,
kinh nghiệm của con người, đồng thời, bản thân những phẩm chất của con người,
những kinh nghiệm và thói quen của họ đều phụ thưộc vào tư liệu sản xuất hiện có,
phụ thuộc vào chỗ họ sử dụng những tư liệu lao động nào. Không có nền đại công
nghiệp thì không thể có người công nhân hiện đại. Sự phụ thuộc về trình độ, kinh
nghiệm, thói quen của người sản xuất vào kĩ thuật sản xuất là một trong những biểu
hiện sự phụ thuộc của nhân tố chủ quan vào nhân tố khách quan, nhân tố con người
sản xuất vào nhân tố vật chất của sản xuất.
Ngày nay với cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã tạo ra bước nhảy vọt
lớn trong LLSX, khoa học kĩ thuật giữ một vai trò quan trọng trong LLSX. Thực
chất của cuộc cách mạng đó là ở chỗ mở ra kỉ nguyên mới của sản xuất tự động hoá
với việc phát triển và ứng dụng khoa học kĩ thuật vào sản xuất, làm tăng năng suất lao
động. Khoa học là nguyên nhân của những thay đổi to lớn trong kĩ thuật sản xuất,nó
tạo ra những ngành sản xuất mới đưa đến phương pháp công nghệ mới làm tăng hiệu
quả cao trong sản xuất, phát hiện và đề ra hàng loạt các phương pháp khai thác nguồn
năng lượng mới, tạo ra các công cụ mới, hiện đại. Tri thức khoa học được vật chất
hoá, được kết tinh vào mọi nhân tố của LLSX, từ đối tượng lao động, tư liệu lao
động, kĩ thuật, phương pháp công nghệ đến tri thức của người lao động. Khoa học
công nghệ không thể thiếu dược trong LLSX.
2. Quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất là những quan hệ cơ bản giữa con người với con người trong
quá trình sản xuất, thể hiện quan hệ về mặt sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ
trong tổ chức quản lý sản xuất, quan hệ về mặt phân phối sản phẩm.
Quan hệ sản xuất mang tính khách quan, nó được hình thành trong quá trình
phát triển lịch sử-quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản quyết định tất cả các quan hệ xã
hội khác của con người, quyết định tính chất của kiến trúc thượng tầng, quyết định
nhu cầu nền sản xuất xã hội.
Quan hệ sản xuất là tiêu chí quan trọng để phân biệt hình thái kinh tế xã hội
này với hình thái kinh tế xã hội khác.
Quan hệ sản xuất tiêu biểu cho bản chất kinh tế của một phương thức sản xuất
xã hội nhất định.
Quan hệ sản xuất bao gồm những mặt cơ bản sau đây:
+ Quan hệ giữa người với người đối với việc sở hữu về tư liệu sản xuất.
+ Quan hệ giữa người với người đối với việc tổ chức quản lý.
+ Quan hệ giữa người với người đối với việc phân phối sản phẩm lao động.
Ba mặt nói trên có quan hệ hữu cơ với nhau, trong đó quan hệ thứ nhất có vai
trò quyết định đối với tất cả những quan hệ khác. Bản chất của bất kì QHSX nào cũng
đều phụ thuộc vào vấn đề những tư liệu sản xuất chủ yếu trong xã hội được giải quyết
như thế nào.
QHSX biểu thị mối quan hệ giữa con người với con người và con người với tự
nhiên. Sở dĩ quá trình sản xuất xã hội có thể diễn ra một cách bình thường chính là vì
quan hệ giữa con người với con người tồn tại thống nhất với mối quan hệ giữa con
người với tự nhiên.
Trong tác phẩm “ Lao động làm thuê và tư bản” Mác viết :“ trong sản xuất
người ta không chỉ quan hệ với giới tự nhiên, người ta không thể sản xuất được nếu
không kết hợp nhau theo một theo một cách nào đó để hoạt động chung và trao đổi
hoạt động với nhau. Muốn sản xuất được người ta phải có mối liên hệ và quan hệ nhất
định với nhau và quan hệ của họ với giới tự nhiên tức là việc sản xuất”.
(3 )
Tuy QHSX
là do con người tạo ra song nó lại tuân theo những quy luật tất yếu khách quan của sự
vận động của đời sống xã hội.
QHSX là hình thức xã hội của LLSX và là cơ sở sâu xa của đời sống tinh thần
xã hội. Ba mặt quan hệ trên trong quá trình sản xuất xã hội luôn gắn bó với nhau, tạo
thành một hệ thống mang tính ổn định tương đối so với sự vận động không ngừng của
LLSX. Các QHSX của một phương thức sản xuất là một hệ thống bao gồm các mối
quan hệ phong phú, đa dạng biểu hiện dưới nhiều hình thức và quan hệ sở hữu đối với
tư liệu sản xuất là đặc trưng cơ bản của phương thức sản xuất
II.Quy luật về sự phù hợp giữa QHSX với tính chất và trình độ phát triển của
LLSX.
Thế nào là sự phù hợp của QHSX với tính chất và trình độ của LLSX? Sự phù
hợp được quan niệm là LLSX có tính chất và trình độ như thế nào thì QHSX có tính
chất tương ứng đó là “sự thống nhất biện chứng chứa đựng mâu thuẫn”, sự phù hợp
không phải là một công thức cụ thể, không phải là sự “trùng khít” giữa hai yếu tố.
Tiêu chí của sự phù hợp được biểu hiện thông qua sự tác động biện chứng giữa LLSX
và QHSX mà năng xuất lao động tăng, LLSX phát triển, đồng thời đảm bảo những điều kiện
về xã hội và môi trường.
1. Tính chất và trình độ của LLSX.
Tính chất của LLSX là tính chất của quá trình sản xuất ra sản phẩm. Quá trình
này phụ thuộc tính chất của tư liệu sản xuất và lao động. LLSX có tính cá nhân thể
hiện tính chất của tư liệu sản xuất là sử dụng công cụ thủ công và tính chất của lao
động là riêng lẻ. Khi máy móc, thiết bị, công cụ lao động hiện đại ra đời, làm ra một
sản phẩm cần sự hợp tác của nhiều người, mỗi người làm một bộ phận công việc
mới hoàn thành sản phẩm, nên LLSX mang tính chất xã hội hoá.
Trình độ của LLSX là trình độ phát triển của công cụ lao động, của kĩ thuật,
trình độ kinh nghiệm, kĩ năng của người lao động, quy mô sản xuất, trình độ phân
công lao động xã hội… trong đó trình độ phân công lao động thể hiện rõ nhất trình độ
của LLSX. Sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX là một tất yếu
trong quá trình sản xuất, để thúc đẩy sản xuất phát triển.
2.Vai trò của LLSX đối với QHSX.
Trong quá trình sản xuất, để lao động bớt nặng nhọc và hiệu quả hơn, con
người luôn tìm cách cải tiến, hoàn thiện công cụ lao động và chế tạo những công cụ
lao động mới, tinh xảo hơn.
LLSX trở thành yếu tố hoạt động nhất và cách mạng nhất, còn QHSX là yếu
tố tương đối ổn định, có khuynh hướng lạc hậu hơn sự phát triển của lực lượng sản
xuất.
LLSX là nội dung của phương thức sản xuất còn QHSX là hình thức xã hội.
Trong quan hệ giữa nội dung và hình thức thì nội dung quyết định hình thức, hình
thức phụ thuộc vào nội dung, hình thức tác động trở lại đối với việc phát triển của nội
dung, do đó LLSX quyết định đối với QHSX. Cùng với sự phát triển của LLSX,
QHSX cũng hình thành và biến đổi cho phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX.
Cùng với sự phát triển của LLSX, QHSX cũng hình thành và biến đổi cho phù
hợp với tính chất và trình độ của LLSX. Sự phù hợp đó là động lực làm cho LLSX
phát triển mạnh mẽ. Nhưng LLSX luôn phát triển còn QHSX có xu hướng tương đối
ổn định. Khi LLSX đã phát triển lên một trình độ mới, QHSX không còn phù hợp với
nó nữa, trở thành chướng ngại đối với sự phát triển của nó, sẽ nảy sinh mâu thuẫn gay
gắt giữa hai mặt của phương thức sản xuất. Sự phát triển khách quan đó tất yếu dẫn
đến việc xoá bỏ QHSX cũ, thay bằng một kiểu QHSX mới phù hợp với tính chất và
trình độ của LLSX, cũng có nghĩa là sự ra đời của phương thcs sản xuất mới, mở
đường cho LLSX phát triển. Trong xã hội có giai cấp, mâu thuẫn giữa LLSX mới và
QHSX lỗi thời là cơ sở khách quan của cuộc đấu tranh giai cấp, đồng thời cũng là tiền
đề tất yếu của cuộc cách mạng xã hội.
Mác viết: “ Do có được những LLSX mới loài người thay đổi phương thức sản
xuất của mình. Cái cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay
chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản chủ nghĩa’’.
(4)
Quy luật về sự phù hợp của QHSX với tính chất và trình độ của LLSX là quy
luật cơ bản của sự phát triển xã hội loài người. Sự tác động của nó trong lịch sử làm
cho xã hội chuyển từ hình thái kinh tế – xã hội thấp lên hình thái kinh tế – xã hội khác
cao hơn.
3. Sự tác động trở lại của QHSX đối với LLSX
Sự hình thành, biến đổi, phát triển của QHSX phụ thuộc vào tính chất và trình
độ của LLSX. LLSX có vai trò quyết định QHSX nhưng QHSX là một hình thức xã
hội mà LLSX dựa vào nó để phát triển, thể hiện ở hai điểm sau đây:
+ Nếu QHSX phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX thì nó sẽ
trở thành động lực cơ bản thúc đẩy mở đường, tạo ra những điều kiện thúc đẩy LLSX
phát triển.
+ Nếu QHSX lỗi thời không còn phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX,
bộc lộ mâu thuẫn gay gắt với LLSX thì nó trở thành“ xiềng xích trói buộc’’ kìm hãm
sự phát triển của LLSX.
Sở dĩ QHSX có thể tác động mạnh mẽ trở lại đối với LLSX (thúc đẩy hoặc
kìm hãm) vì nó quy định mục đích sản xuất của xã hội, quy định hệ thống tổ chức
quản lí sản xuất và quản lí xã hội, quy định phương thức phân phối sản phẩm lao
động, nó tạo ra những điều kiện kích thích hoặc hạn chế việc cải tiến công cụ lao
động, áp dụng khoa học kĩ thuật vào sản xuất, hợp tác và phân công lao động…
Như vậy có thể nói, sự liên hệ tác động qua lại biện chứng giữa LLSX và
QHSX trong một phương thức sản xuất đã hình thành nên quy luật phổ biến của toàn
bộ lịch sử xã hội loài người: quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ của
LLSX. Quy luật này chi phối toàn bộ lịch sử nhân loại, nó làm cho lịch sử là một
dòng chảy liên tục nhưng mang tính gián đoạn.
III. Sự tồn tại và phát triển của quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ
phát triển của LLSX trong lịch sử.
Trong xã hội bao giờ cũng tồn tại những qui luật chung, sự tồn tại và phát triển
của những qui luật ấy gắn liền với sự phát triển của xã hội. Có thể nói qui luật QHSX
phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX là một quy luật chung nhất của
xã hội.
Vào thời kì đầu lịch sử, thời kì công xã nguyên thuỷ thì LLSX thấp kém cả về
lượng và chất. Trình độ hiểu biết của con người còn thấp, công cụ lao động thô sơ,
trong quá trình sinh sống con người luôn tìm cách để tăng năng suất lao động. Họ đã
không ngừng chế tạo ra công cụ lao động mới tiến bộ hơn trước, dần dần LLSX phát
triển hơn dẫn đến QHSX cộng đồng trước kia bị phá vỡ và dần xuất hiện QHSX tư
nhân. Khi đó chế độ công xã nguyên thuỷ đã chuyển sang một hình thái khác đó là
chế độ chiếm hữu nô lệ, do xuất hiện công cụ lao động hiện đại hơn và quan hệ tư
nhân dẫn đến chủ nô bóc lột người nô lệ lao động bằng cách đưa vào quá trình sản
xuất hàng loạt công cụ tinh xảo hơn. Khi đó nô lệ lao động bị bóc lột hết sức dã man
và họ lầm tưởng là do những công cụ lao động tinh xảo đó, nên họ đã tiến hành các
cuộc khởi nghĩa phá huỷ các công cụ lao động.
Khi chế độ chiếm hữu nô lệ tan rã thì chế độ phong kiến ra đời, vào cuối thời
kì phong kiến xuất hiện các công trường thủ công dẫn đến LLSX mâu thuẫn với
QHSX, chế độ tư bản chạy theo giá trị thặng dư, bóc lột người lao động quá sức, cho
nên họ đã đấu tranh để chống lại chủ nghĩa tư bản, do đó QHSX tư bản chủ nghĩa tất
yếu sẽ bị thay thế bằng QHSX mới tiến bộ hơn với xu thế phát triển của LLSX và đó
là QHSX xã hội chủ nghĩa. QHSX xã hội chủ nghĩa hình thành 1mở ra kỉ nguyên mới
định hướng cho sự vận động, phát triển của xã hội.
vấN đề II : Vận dụng quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ
phát triển của LLSX vào công cuộc đổi mới kinh tế nước ta.
I. Qúa trình vận dụng quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ phát triển
của LLSX trong công cuộc đổi mới nền kinh tế đất nước.
Quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX là quy
luật vận động, phát triển của xã hội qua sự thay thế kế tếp nhau của phương thức sản
xuất. Nhưng không phải bất cứ nước nào cũng nhất thiết phải tuần tự trải qua tất cả
các phương thức sản xuất mà loài người đã biết đến. Thực tế lịch sử của nhân loại cho
thấy, tuỳ theo điều kiện lịch sử cụ thể, một số nước có thể bỏ qua một hoặc một số
phương thức sản xuất để tiến lên phương thức sản xuất cao hơn. Đó chính là sự biểu
hiện của quy luật chung trong điều kiện cụ thể của mỗi nước. Quy luật chung chi
phối xu hướng vận động phát triển của tất cả các nước; còn hình thức bước đi cụ thể
lại tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của mỗi nước.
Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một xã hội vốn là thuộc địa nửa phong
kiến, LLSX rất thấp. Bản thân đặc điểm quá độ lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là bỏ
qua chế độ tư bản đã nói lên rằng, đất nước ta chưa có tiền đề về cơ sở vật chất – kĩ
thuật cho chủ nghĩa xã hội do chủ nghĩa tư bản tạo ra. Đối với các nước đã qua chế độ
tư bản hoặc chủ nghĩa tư bản phát triển ở mức trung bình cũng không thể thiết lập
ngay lập tức chế độ công hữu trong toàn bộ đời sống kinh tế. Nước ta, với nền kinh tế
lạc hậu, điểm xuất phát lại thấp, lại càng không thể xây dựng nhanh chóng chế độ
công hữu mà phải trải qua một thời kì lịch sử lâu dài, qua nhiều nấc trung gian, quá
độ. Chính vì không nhận thức rõ mối quan hệ biện chứng giữa LLSXvà QHSX mà
trước đây có lúc chúng ta đã chủ quan, duy ý chí trong việc thiết lập chế độ công hữu.
Điều đó làm ảnh hưởng đến sự phát triển LLSX, phát triển kinh tế.
Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát rất thấp, điều đó không
có nghĩa là chúng ta chưa có cơ sở và không cần xây dựng chế độ công hữu ở trình độ
và phạm vi nào đó của nền kinh tế. Dưới sự lãnh đạo của Đảng của giai cấp công
nhân và sự quản lí nhà nước của dân, do dân, vì dân, những cơ sở kinh tế công hữu
được từng bước tạo ra. Điều đó là cần thiết, bởi lẽ nếu không có những cơ sở kinh tế
này thì không có sức mạnh vật chất để điều tiết và hướng dẫn nền kinh tế phát triển
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, không thể thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh và lâu
bền của nền kinh tế. Vấn đề đặt ra là việc thiết lập chế độ công hữu phải hợp lí, phù
hợp với trình độ phát triển của LLSX xã hội trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Muốn thiết lập chế độ công hữu phải phảt triển mạnh mẽ LLSX, phải xã hội hoá sản
xuất trong thực tế. Do vậy không thể chủ quan nôn nóng xoá bỏ nhanh các hình thức
sở hữu khác, mà phải thiết lập từng bước QHSX xã hội chủ nghĩa từ thấp lên cao, phù
hợp với trạng thái của LLSX. Đây chính là sự vận dụng quy luật QHSX phù hợp với
tính chất và trình độ của LLSX vào điều kiện cụ thể ở Việt nam.
Trong quá trình vận dụng quy luật đó, chúng ta còn có những hạn chế: ở nước
ta sau hoà bình lập lại ở miền Bắc (1954) và cả nước thống nhất(1975) chúng ta đã
tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Vào buổi đầu do nhiều
nguyên nhân khách quan và chủ quan, chúng ta đã xây dựng chủ nghĩa xã hội theo
mô hình kế hoạch hoá tập trung. Trong điều kiện chiến tranh mô hình đó đã đóng vai
trò tích cực, nhưng trong điều kiện hoà bình, mô hình đó dần bộc lộ những hạn chế
của nó và đã dẫn đến khủng hoảng nghiêm trọng về kinh tế – xã hội.
Trong những giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới nền kinh tế của đất nước do
những nhận thức rõ về mối quan hệ biện chứng giữa QHSX và LLSX, chúng ta đã
khuyến khích, vận động nông dân gia nhập vào hợp tác xã, mở rộng các nông trường
quốc doanh, các nhà máy xí nghiệp lớn nhưng trình độ của LLSX còn thấp kém.Với
thực tế đó đã đưa nền kinh tế không những đi xuống mà còn rơi vào tình trạng bế tắc
hơn. Do chúng ta đưa QHSX lên mức quá cao, không phù hợp với trình độ của
LLSX, vì thế chúng ta đã ra sức xây dựng LLSX bằng cách đưa nhiều máy móc vào
cơ sở sản xuất nông nghiệp mới hình thành, còn yếu nhằm xây dựng mô hình công -
nông nghiệp trên địa bàn cấp huyện mà không tính đến trình độ quản lí tổ chức, sử
dụng của nông dân.
Nền kinh tế nông nghiệp nước ta còn lạc hậu nhưng không vì thế mà chúng ta
đẩy mạnh việc phát triển kinh tế với một độ quá nhanh mà chưa quan tâm đến thực tế
của LLSX ở nưóc ta mà ngược lại ta chỉ cải tạo xã hội chủ nghĩa, phát triển nền kinh
tế quốc doanh, công nghiệp nặng là mục tiêu lâu dài phải tiến tới chứ không coi như
một tất yếu trực tiếp phải cải tạo ngay.
Bên cạnh đó còn nhiều thành phần kinh tế khác có khả năng góp phần làm cho
sản xuất phát triển, nhưng chúng ta đã xoá bỏ tiểu thương trong hệ thống thương
nghiệp quốc doanh và hợp tác xã mua bán của ta chưa đủ khả năng thay thế, gây sự trì
trệ trong lưu thông hàng hoá ảnh hưởng đến phát triển kinh tế của đất nước.
Đứng trước tình hình đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng
sản Việt Nam đã đưa ra đường lối đổi mới đất nước. Đổi mới không phải là thay đổi
mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà là nhận thức cho đúng mục tiêu, và con đường tiến lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Qua các kì đại hội Đảng toàn quốc, Đảng Cộng sản việt nam đã đề ra những
phương hướng để phát triển nền kinh tế nhưng trong quá trình thực hiện chúng ta đã
gặp rất nhiều khó khăn và thách thức mà nguyên nhân là do chưa có đủ lực lượng và
điều kiện cũng như chưa hiểu rõ về quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của LLSX.
QHSX và LLSX có mối quan hệ biện chứng với nhau, LLSX quyết định
QHSX nhưng QHSX lại tác động trở lại LLSX.Vì vậy việc vận dụng quy luật này sao
cho hợp lí với tình hình đất nước là một vấn đề quan trọng và cần được quan tâm.
II. Thực trạng nguồn lực của LLSX ở nước ta hiện nay và phương hướng vận
dụng quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX vào công cuộc
đổi mới của nền kinh tế đất nước.
Để nhìn nhận đánh giá một đất nước người ta thường đánh giá thông qua LLSX
ở đất nước ấy. Một nước phát triển là một nước có LLSX phát triển cao, vì thế trong
công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa thì việc phát triển LLSX và xây dựng QHSX
mới là nhiệm vụ quan trọng và cần thiết đối với nước ta hiện nay.
1. Thực trạng nguồn lực của LLSX ở nước ta hiện nay.
Nền kinh tế nước ta đi lên từ một nền nông nghiệp lạc hậu, LLSX ở trình độ
thấp kém, nền công nghiệp hoá, hiện đại hoá còn gặp rất nhiều khó khăn. Nước ta có
nguồn lao động dồi dào do đó là một nguồn lực rất quan trọng của đất nước. Nhưng
việc đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ cho người dân, người lao động còn có phần
hạn chế.
Hiện nay LLSX đang là một vấn đề được quan tâm của Đảng và nhà nước. Nước ta
vẫn còn tồn tại tình trạng thất nghiệp do trình độ phát triển của LLSX còn thấp chỉ
phù hợp với lao động giản đơn mang tính chất thủ công vì thế không đáp ứng đựơc
yêu cầu của quá trình công nghiệp, hoá hiện đại hoá. Nguồn lực kế cận của nước ta
hiện nay cũng đang là một vấn đề đáng quan tâm. Tỉ lệ sinh viên ra trường chưa tìm
được việc làm đúng ngành nghề đào tạo còn cao, bên cạnh đó chế độ đãi ngộ của nhà
nước đối với các sinh viên giỏi còn chưa hợp lí, do vậy dẫn đến tình trạng chảy máu
chất xám. Mặt khác việc giáo dục và đào tạo chưa hợp lí, tỉ lệ sinh viên vào các
trường đại học cao hơn vào các trường trung học chuyên nghiệp và dạy nghề do đó
thiếu hẳn một đội ngũ công nhân kĩ thuật viên lành nghề làm việc trong các nhà máy
xí nghiệp.
2. Phương hướng phát triển của LLSX.
+ Nâng cao trình độ hiểu biết cho người dân, đặc biệt là người nông dân, tầng
lớp lao động thủ công và nhiều tầng lớp lao động khác trong xã hội.
+Đầu tư phát triển các trung tâm dạy nghề để thu hút học viên, đào tạo cho họ
có một ngành nghề ổn định, phù hợp với sản xuất.
+Đổi mới phương pháp học tập cho học sinh, sinh viên, không chỉ tiếp thu
kiến thức trên sách vở mà còn phải tự học tập tích luỹ kiến thức kinh nghiệm
trong thực tế.
3. Xây dựng QHSX mới phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất là quy luật chung nhất của xã hội. Sự tác động của quy luật này đã
đưa xã hội loài người trải qua các phương thức sản xuất: công xã nguyên thuỷ, chiếm
hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa, phương thức cộng sản tương lai.
Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất là quy luật vận động, phát triển của xã hội qua sự thay thế kế tiếp
nhau từ thấp lên cao của các phương thức sản xuất.
Trong quá trình phát triển kinh tế ở nước ta, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã định
ra đường lối chuyển từ mô hình kế hoạch hoá tập trung sang xây dựng kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Xây dựng kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là phù
hợp với đặc điểm phát triển của lực lượng sản xuấtcủa nước ta trong điều kiện hiên
nay. Nó cho phép khai thác tốt nhất các năng lực sản xuất trong nước, thúc đẩy quá
trình phân công lao động trong nước và gắn phân công lao động trong nước với quốc
tế và khu vực, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh chóng. Trong các thành
phần kinh tế, Đảng Cộng Sản Việt Nam khẳng định kinh tế Nhà nước đóng vai trò
chủ đạo, những thành tựu kinh tế trong hơn mười năm qua đã chứng minh tính đúng
đắn của đường lối đó.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng Sản Việt Nam nhận
định: “Nước ta chuyển sang thời kì phát triển mới, thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá
hiện đại hoá… Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xây dựng nước ta thành
một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lí. Quan
hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất…’’
(5)
Đảng ta còn khẳng định: “Nền công nghiệp hoá, hiện đại hoá tạo nên lực lượng
sản xuất cần thiết cho chế độ xã hội mới, thì việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần chính là để xây dựng hệ thống quan hệ sản xuất phù hợp…’’.
(6)
Như đồng chí Tổng bí thư Đỗ Mười khẳng định:“ Mở ra nền kinh tế nhiều
thành phần đã khơi dậy tiềm năng của sản xuất, năng lực sáng tạo chủ động của các
chủ thể lao động trong sản xuất kinh doanh thúc đẩy sản xuất phát triển, góp phần giải
phóng, phát triển LLSX đưa đến những thành tựu to lớn có ý nghĩa quan trọng’’.
(7)
Do đó phương hướng trước mắt và lâu dài của nhà nước ta là tiếp tục thực hiện
chính sách này và khuyến khích mọi doanh nghiệp và cá nhân trong nước khai thác
tiềm năng, ra sức đầu tư phát triển, đồng thời trong quá trình thực hiện chính sách này
phải chủ động sáng tạo vận dụng quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ của
LLSX một cách hợp lí và có hiệu quả.
Nền kinh tế nhiều thành phần mà Đảng ta chủ trương là nền kinh tế phát triển
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, do đó phải chăm lo đổi mới và phát triển kinh tế
nhà nước và kinh tế hợp tác, làm cho kinh tế nhà nước thực sự làm ăn có hiệu quả,
phát huy tốt vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể phấn đấu trở thành nền tảng của
nền kinh tế quốc dân…’’
(8)
Kết luận
Để phù hợp với tiến trình phát triển của nền kinh tế, QHSX tư bản chủ nghĩa
đã dần bị thay thế bởi QHSX mới tiến bộ hơn, phù hợp hơn với xu thế phát triển của
LLSX.
Và để vận dụng quy luật QHSX phù hợp với tính chất trình độ phát triển của
LLSX. Đảng và nhà nước đã đề ra những phương hướng, biện pháp nhằm phát triển
LLSX và xây dựng QHSX mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa.Trên thực tế, kinh
nghiệm từ sự vận dụng quy luật này trong những giai đoạn đầu của công cuộc cải tổ
nền kinh tế nước ta đã tránh được sai lầm và trên thực tế chúng ta bước đầu đã vận
dụng quy luật này một cách thành công tuy chưa thật hoàn thiện song đã góp phần
vào việc phát triển nền kinh tế đất nước.
Có thể nói quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của
LLSX là quy luật phổ biến của mọi hình thái kinh tế xã hội vạch ra tính chất phụ
thuộc khách quan của QHSX vào sự phát triển của LLSX và sự tác động trở lại của
QHSX đối với LLSX.
QHSX và LLSX có mối quan hệ biện chứng với nhau, vì vậy khi nghiên cứu
quy luật này thì ta phải chú ý dến tất cả các vấn đề liên quan đến nó. Qua sự phân tích
trên có thể hiểu thêm phần nào về quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ
của LLSX và có biện pháp phù hợp vận dụng sáng tạo và hợp lí quy luật này vào việc
phát triển kinh tế của đất nước.
Tài liệu tham khảo.
1. Giáo trình triết học Mác- Lênin,NXB Giáo dục2001.
2. Triết học Mác- Lênin tập hai, NXB Giáo dục 2001.
3. Tạp chí cộng sản số 4 và 5 năm 1997.
4. Tạp chí triết học số 4-1990.
5. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần VI của Đảng.
6. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần VIII của Đảng.
7. Nguồn nhân lực trong chiến lược kinh tế xã hội của nước ta đến năm 2000.
8. Giáo trình Kinh tế chính trị Mác-Lênin. NXB chính trị quốc gia.
Một số trích dẫn trong tiểu luận:
(1). C.Mác - Ăng-ghen Tuyển tập NXB Sự thật Hà Nội 1971 tr198 ( tr3 của tiểu luận).
(2).V.I. Lê-nin: Toàn tập NXB Tiến bộ M. 1977- tr 130 (tr 5 của tiểu luận)
(3). Tác phẩm “Lao động làm thuê và tư bản” (tr 6 của tiểu luận)
(4). C.Mác – Lênin toàn tập(tr 8 của tiểu luận).
(5). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần 8. NXB chính trị quốc gia-1996 (tr 13 của tiểu
luận).
(6). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần 8. NXB chính trị quốc gia-1996 (tr 13 của tiểu
luận).
(7). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần 8. NXB chính trị quốc gia-1996 (tr 13 của tiểu
luận).
(8). Triết học Mác- Lênin- NXB Giáo dục năm 2001 tr 41 (tr 13 của tiểu luận).
Mục lục
A: Lời nói đầu.
B: Nội dung.
Vấn đề I: Khái quát chung về quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ
phát triển của LLSX.
I. Khái niệm LLSX QHSX .
1. LLSX.
2. QHSX.
II. Quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX.
1. Tính chất và trình độ của LLSX.
2. LLSX quyết định QHSX.
3. QHSX tác động trở lại LLSX.
III. Sự tồn tại và phát triển của quy luật QHSX phù hợp với tính chất và
trình độ của LLSX trong lịch sử.
Vấn đề II: Vận dụng quy luật vào công cuộc cải tổ nền kinh tế trong những giai
đoạn đầu.
I. Quá trình việc vận dụng quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình
độ của LLSX vào công cuộc đổi mới nền kinh tế đất nước.
II. Thực trạng nguồn lực của LLSX, phương hướng biện pháp vận dụng
quy luật này một cách hợp lý.
1. Thực trạng nguồn lực của LLSX.
2. Phương hướng phát triển của LLSX.
3. Phương hướng xây dựng QHSX mới phù hợp với tính chất và trình
độ của LLSX theo định hướng XHCN.
C. Kết luận.