Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Quan điểm của chủ nghĩa mác lênin về vấn đề tôn giáo ảnh hưởng của phật giáo trong đời sống xã hội ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.25 KB, 22 trang )

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

Học phần: CNXHKH( PLT09A)

ĐỀ TÀI: Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về
vấn đề tôn giáo. Ảnh hưởng của Phật giáo trong đời
sống xã hội ở Việt Nam hiện nay. Ý nghĩa của khẩu
hiệu: Đạo pháp- dân tộc- Chủ nghĩa xã hội của giáo hội
phật giáo Việt Nam.

Giảng viên hướng dẫn : NGUYỄN THẾ HÙNG
Sinh viên thực hiện

: LÊ HÀ PHƯƠNG

Lớp

: CDDH21-NHA

Mã sinh viên

: 18G401058


Hà nội, ngày…..tháng…..năm 2022


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...................................................................................................................2
1. Tính cấp thiết của đề tài.........................................................................................2


2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu........................................................................3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.........................................................................3
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu............................................................3
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài..................................................................3
NỘI DUNG...............................................................................................................4
Phần 1. Phần lý luận..................................................................................................4
1.1.
Phân tích lý luận chung về vấn đề tôn giáo và nguyên tắc giải quyết
vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên CNXH.......................................................4
1.2. Chính sách tơn giáo của Đảng, Nhà nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở
Việt Nam....................................................................................................................8
PHẦN 2. PHẦN LIÊN HỆ THỰC TẾ VÀ LIÊN HỆ BẢN THÂN........................11
2.1. Liên hệ với thực trạng phật giáo ở Việt Nam hiện nay: Mặt tích cực và hạn chế
của phật giáo VN.....................................................................................................11
2.2. Ý nghĩa khẩu hiệu của Giáo hội phật giáo Việt Nam: đạo Pháp- dân tộc- Chủ
nghĩa xã hội.............................................................................................................15
2.3. Nhận thức của cá nhân về vấn đề tôn giáo.......................................................17
KẾT LUẬN.............................................................................................................18
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................19

1


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tơn giáo đang là một trong những vấn đề quan trọng mà từ trước đến nay,
Đảng và Nhà nước ta luôn luôn dành một sự quan tâm đặc biệt.
Nước ta với đặc điểm là một nước có nhiều dân tộc sinh sống, chính vì đặc
điểm này, vấn đề tơn giáo cũng trở nên phức tạp và nhạy cảm hơn. Hơn nữa, vấn
đề tôn giáo lại mang tính quốc tế. Bởi vậy mà địi hỏi Đảng và Nhà nước phải thực

hiện vấn đề một cách khéo léo.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất coi trọng vấn đề tơn giáo. Người đã
coi đồn kết tôn giáo là một trong những vấn đề quan trọng nằm trong chiến lược
đại đoàn kết dân tộc. Người đã từng nói: "Tồn thể đồng bào ta, khơng chia Lương
giáo, đồn kết chặt chẽ, quyết lịng kháng chiến để giữ gìn non sơng, Tổ quốc, và
cũng để giữ gìn tín ngưỡng tự do" [1, tr. 216].
Trong thời đại ngày nay, việc chủ nghĩa đế quốc đang đẩy nhanh, đẩy mạnh
"Diễn biến hịa bình" thì việc quan tâm, giải quyết vấn đề tôn giáo trở nên vô cùng
cần thiết. Để đánh đổ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đơng Âu, trước đây, trong âm
mưu của mình, chủ nghĩa đế quốc đã sử dụng rất hiệu quả vũ khí tôn giáo để chia
rẽ các nước xã hội chủ nghĩa rồi tiến đến làm sụp đổ cả hệ thống xã hội chủ nghĩa
ở Đơng Âu. Chính vì vậy, để giữ vững chủ nghĩa xã hội, chúng ta không được lơ là
mất cảnh giác đối với thủ đoạn này của chủ nghĩa đế quốc.
Ngày nay, xung đột sắc tộc và xung đột tơn giáo đang là những điểm nóng của
thế giới hiện đại. Nhiều quốc gia đã lâm vào khủng hoảng chính trị- xã hội triền
miên dẫn đến khơng thể phát triển được đất nước mà vẫn chưa thể thoát khỏi tình
trạng đó vì đã khơng làm tốt cơng tác tơn giáo. Đó là bài học để Đảng và Nhà nước
ta quan tâm và làm thật tốt công tác tôn giáo.

2


Chính vì tính cấp thiết như vậy nên chúng tơi chọn vấn đề “Quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề tôn giáo. Ảnh hưởng của Phật giáo trong đời
sống xã hội ở Việt Nam hiện nay. Ý nghĩa của khẩu hiệu: Đạo pháp- dân tộcChủ nghĩa xã hội của giáo hội phật giáo Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của đề tài là làm rõ Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn
đề tôn giáo. Ảnh hưởng của Phật giáo trong đời sống xã hội ở Việt Nam hiện nay.
Ý nghĩa của khẩu hiệu: Đạo pháp- dân tộc- Chủ nghĩa xã hội của giáo hội phật giáo
Việt Nam.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề tôn giáo.
Ảnh hưởng của Phật giáo trong đời sống xã hội ở Việt Nam hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu
+ Phạm vi về không gian: Việt Nam
+ Phạm vi thời gian: Giai đoạn hiện nay
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin về vấn đề tôn giáo.
Phương pháp nghiên cứu: đề tài sử dụng phương pháp luận biện chứng duy vật với
các phương pháp như: thống nhất lơgic và lịch sử, phân tích, tổng hợp, khái quát
hóa và hệ thống hóa.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Ý nghĩa lý luận: đề tài giải quyết được vấn đề lý về tôn giáo.
Ý nghĩa thực tiễn: Qua đề tài giúp ta thấy rõ được vấn đề Ảnh hưởng của Phật giáo
trong đời sống xã hội ở Việt Nam hiện nay. Ý nghĩa của khẩu hiệu: Đạo pháp- dân
tộc- Chủ nghĩa xã hội của giáo hội phật giáo Việt Nam.
3


NỘI DUNG
Phần 1. Phần lý luận
1.1.

Phân tích lý luận chung về vấn đề tôn giáo và nguyên tắc giải quyết vấn

đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
Trong Từ điển tiếng Việt, tôn giáo được định nghĩa như sau:
1. Hình thái ý thức xã hội gồm những quan niệm dựa trên cơ sở tin và sùng
bái những lực lượng siêu tự nhiên, cho rằng có những lực lượng siêu tự nhiên
quyết định số phận con người, con người phải phục tùng và tôn thờ;

2. Hệ thống những quan niệm tín ngưỡng, sùng bái một hay những vị thần
linh nào đó và những hình thức lễ nghi thể hiện sự sùng bái ấy.
Tín ngưỡng đựợc định nghĩa là “tin theo một tơn giáo nào đó”.
Về bản chất, tơn giáo là hình thái ý thức xã hội, phản ánh hư ảo thực tại xã hội
bằng những lực lượng siêu nhiên, về hình thức biểu hiện, tơn giáo bao gồm hệ
thống các quan niệm tín ngưỡng (giáo lí), các quy định về hình thức lễ nghi (giáo
luật) và những cơ sở vật chất để thực hiện các nghi lễ tôn giáo.
Mặt khác, tôn giáo cũng đang đáp ứng phần nào nhu cầu tinh thần của quần
chúng, phản ánh khát vọng của những người bị áp bức về một xã hội tự do, bình
đẳng, bác ái. Vì vậy, nhiều người trong các thành phần xã hội khác nhau tin theo.
- Tính chất chính trị: Tính chính trị của tơn giáo chỉ xuất hiện khi xã hội đã
phân chia giai cấp, có sự khác nhau về lợi ích và các giai cấp bóc lột thống tri lợi
dụng tôn giáo phục vụ cho mục đích của mình. Những cuộc chiến tranh tơn giáo
trong lịch sử và hiện tại đều xuất phát từ những ý đồ của những thế lực khác nhau
4


trong xã hội, lợi dụng tôn giáo để thực hiện mục tiêu chính trị của mình. Trong xã
hội xã hội chủ nghĩa, tơn giáo độc lập với chính trị. Nhà nước quy định và bảo đảm
thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo bao gồm quyền tự do theo hoặc khơng
theo một tín ngưỡng, tơn giáo nào, bảo đảm cho sinh hoạt tơn giáo mang tính chất
tơn giáo thuần t, khơng gắn với chính trị.
- Tính chất duy tâm: Tôn giáo phản ánh hư ảo thế giới thực tại bằng các lực
lượng siêu nhiên vào đầu óc con người, giải thích một cách duy tâm, thần bí những
hiện tượng tự nhiên và xã hội diễn ra trong đời sống. Vì vây, tơn giáo mang tính
chất duy tâm, nhiều tín điều khơng được giải thích trên cơ sở khoa học. Trong lịch
sử, tôn giáo đã nhiều lần sử dụng quyền lực của mình để đàn áp các nhà khoa học,
phủ nhận thành tựu khoa học. Ngày nay, một mặt, một số tổ chức và chức sắc tôn
giáo triệt để tận dụng những thành tựu của khoa học để phát triển tơn giáo; mặt
khác, họ tìm cách giải thích sai lệch những tiến bộ khoa học, kĩ thuật, gieo rắc

trong các tín đồ những định mệnh khơng thể cưỡng lại... Tính chất duy tâm của tơn
giáo đã kìm hãm sự phát triển và tiến bộ xã hội trong chừng mực nhất định.
Ví dụ: Trong đạo Hồi, khó thấy ranh giới giữa đạo và đời, giữa cái thiêng và
cái tục. Tin tưởng tuyệt đối, tôn sùng thánh Allah và sứ giả Muhammad là hai tín
điều quan trọng vào bậc nhất của giáo lí đạo Hồi.
Trang chủ Tư vấn Pháp luật Tư vấn luật hành chính
Tơn giáo là gì ? đất tơn giáo là gì ? Quản lý nhà nước về tơn giáo
Lê Minh Trường 05/04/2021 Tư vấn luật hành chính 0
Tơn giáo là hình thái ý thức xã hội, phản ánh hư ảo thực tại xã hội bằng những
lực lượng siêu tự nhiên, về hình thức biểu hiện, tơn giáo bao gồm hệ thống các
quan niệm tín ngưỡng (giáo lí), các quy định về hình thức lễ nghi (giáo luật) và
những cơ sở vật chất để thực hiện các nghi lễ tôn giáo.
Quy định về tôn giáo
1. Khái niệm quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo
5


2. Các nguyên tắc Quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo
3. Nội dung quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo
3.1 Công nhận tổ chức tôn giáo
3.2 Quản lý hoạt động tôn giáo
4. Quản lý đối với việc cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới cơng trình tôn giáo
5. Phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử chức danh tôn giáo
Đất tôn giáo là đất được Nhà nước giao cho các cơ sở tôn giáo sử dụng dùng
vào việc thờ cúng, lễ bái của các nhà thờ, nhà chùa, thánh thất, thánh đường, tu
viện, trường đào tạo tôn giáo, trụ sở của tổ chức tôn giáo và các cơ sở tôn giáo
khác được Nhà nước cho phép hoạt động trên cơ sở đất do Nhà nước giao không
thu tiền sử dụng đất hoặc công nhận quyền sử dụng đất.
Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương căn cứ vào chính sách
tơn giáo của Nhà nước và quỹ đất của địa phương, quyết định diện tích đất giao

cho các cơ sở tơn giáo.
1. Khái niệm quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo

Trong Từ điển tiếng Việt, tôn giáo được định nghĩa như sau:
1. Hình thái ý thức xã hội gồm những quan niệm dựa trên cơ sở tin và sùng
bái những lực lượng siêu tự nhiên, cho rằng có những lực lượng siêu tự nhiên
quyết định số phận con người, con người phải phục tùng và tôn thờ;
2. Hệ thống những quan niệm tín ngưỡng, sùng bái một hay những vị thần
linh nào đó và những hình thức lễ nghi thể hiện sự sùng bái ấy.
6


Tín ngưỡng đựợc định nghĩa là “tin theo một tơn giáo nào đó”.
Về bản chất, tơn giáo là hình thái ý thức xã hội, phản ánh hư ảo thực tại xã hội
bằng những lực lượng siêu nhiên, về hình thức biểu hiện, tôn giáo bao gồm hệ
thống các quan niệm tín ngưỡng (giáo lí), các quy định về hình thức lễ nghi (giáo
luật) và những cơ sở vật chất để thực hiện các nghi lễ tôn giáo.
Mặt khác, tôn giáo cũng đang đáp ứng phần nào nhu cầu tinh thần của quần
chúng, phản ánh khát vọng của những người bị áp bức về một xã hội tự do, bình
đẳng, bác ái. Vì vậy, nhiều người trong các thành phần xã hội khác nhau tin theo.
- Tính chất chính trị: Tính chính trị của tơn giáo chỉ xuất hiện khi xã hội đã
phân chia giai cấp, có sự khác nhau về lợi ích và các giai cấp bóc lột thống tri lợi
dụng tơn giáo phục vụ cho mục đích của mình. Những cuộc chiến tranh tôn giáo
trong lịch sử và hiện tại đều xuất phát từ những ý đồ của những thế lực khác nhau
trong xã hội, lợi dụng tôn giáo để thực hiện mục tiêu chính trị của mình. Trong xã
hội xã hội chủ nghĩa, tôn giáo độc lập với chính trị. Nhà nước quy định và bảo đảm
thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo bao gồm quyền tự do theo hoặc khơng
theo một tín ngưỡng, tơn giáo nào, bảo đảm cho sinh hoạt tơn giáo mang tính chất
tơn giáo thuần t, khơng gắn với chính trị.
- Tính chất duy tâm: Tôn giáo phản ánh hư ảo thế giới thực tại bằng các lực

lượng siêu nhiên vào đầu óc con người, giải thích một cách duy tâm, thần bí những
hiện tượng tự nhiên và xã hội diễn ra trong đời sống. Vì vây, tơn giáo mang tính
chất duy tâm, nhiều tín điều khơng được giải thích trên cơ sở khoa học. Trong lịch
sử, tôn giáo đã nhiều lần sử dụng quyền lực của mình để đàn áp các nhà khoa học,
phủ nhận thành tựu khoa học. Ngày nay, một mặt, một số tổ chức và chức sắc tôn
giáo triệt để tận dụng những thành tựu của khoa học để phát triển tơn giáo; mặt
khác, họ tìm cách giải thích sai lệch những tiến bộ khoa học, kĩ thuật, gieo rắc
7


trong các tín đồ những định mệnh khơng thể cưỡng lại... Tính chất duy tâm của tơn
giáo đã kìm hãm sự phát triển và tiến bộ xã hội trong chừng mực nhất định.
Ví dụ: Trong đạo Hồi, khó thấy ranh giới giữa đạo và đời, giữa cái thiêng và
cái tục. Tin tưởng tuyệt đối, tôn sùng thánh Allah và sứ giả Muhammad là hai tín
điều quan trọng vào bậc nhất của giáo lí đạo Hồi.
- Đạo Phật: Tơn giáo ra đời ở Ấn Độ thế kỉ VI trước công nguyên do Thích ca
mâu ni sáng lập. Phật giáo có hệ thống triết học rất phát triển gồm cả thế giới quan
và nhân sinh quan, trong đó đề cao vai trị của con người, thiên về một triết lí sống,
một phương pháp rèn luyện nhân cách hướng thiện. Phật giáo không có tổ chức
chặt chẽ, khơng có giáo quyền, khơng thống nhất về cách tu hành. Đạo Phật có hai
phái là Tiểu thừa và Đại thừa, mỗi phái lại chia làm nhiều tông. Người theo đạo
Phật gồm hai loại là người xuất gia tu hành và người tu tại gia.
Việt Nam là nước đa tôn giáo, phần lớn dân cư chịu ảnh hưởng của Nho giáo
và Phật giáo. Các tôn giáo lớn ở Việt Nam là Công giáo, Tin lành, Phật giáo, Hồi
giáo, Cao đài và Phật giáo Hoà hảo; các tơn giáo này có hơn 15 triệu tín đồ. Các
tơn giáo có nguồn gốc xuất hiện khác nhau và số lượng tín đồ khác nhau. Cơng
giáo (với hơn 5 triệu tín đồ), Tin lành (với hơn 4 trăm nghìn tín đồ), Phật giáo (với
hơn 7 triệu tín đồ), Hồi giáo (với hơn 90 nghìn tín đồ) được du nhập từ bên ngồi
vào trong từng thời kì lịch sử và với những phương thức khác nhau. Trong khi đó,
Cao đài (với hơn 1 triệu tín đồ) và Phật giáo Hồ hảo (với hơn 1 triệu tín đồ) là

những tơn giáo mới xuất hiện ở Việt Nam. Các tôn giáo đều thiết lập những mối
quan hệ quốc tế nhất định và chứng tác động qua lại lẫn nhau chủ yếu thông qua
những mối quan hê đó.

8


1.2. Chính sách tơn giáo của Đảng, Nhà nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH
ở Việt Nam.
Đã từ lâu, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm đến các hoạt động tôn
giáo và ban hành những chủ trương, chính sách nhằm tạo điều kiện cho các tơn
giáo hoạt động đúng tơn chỉ mục đích và Hiến pháp, pháp luật. Quan điểm nhất
quán của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam là tôn trọng và bảo đảm
quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo, quyền theo hoặc khơng theo tơn giáo của người
dân, bảo đảm sự bình đẳng, khơng phân biệt đối xử vì lý do tơn giáo, tín ngưỡng,
bảo hộ hoạt động của các tổ chức tôn giáo bằng pháp luật. Những quan điểm nhất
quán này đã được ghi nhận trong Hiến pháp, kể từ Hiến pháp năm 1946 đến Hiến
pháp 2013.
1. Trong các văn kiện của Đảng ln nhất qn quan điểm: Tín ngưỡng, tơn
giáo là một nhu cầu tinh thần của một bộ phận Nhân dân đang và sẽ tồn tại cùng
dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở nước ta. Đồng bào
các tôn giáo là một bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực hiện nhất
qn chính sách tơn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc khơng
theo một tơn giáo nào, quyền sinh hoạt tơn giáo bình thường theo đúng pháp luật.
Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam
(bổ sung, phát triển 2011) - một văn kiện có giá trị pháp lý cao nhất của Đảng
Cộng sản Việt Nam cũng ghi rõ: “Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng,
tơn giáo và khơng tín ngưỡng, tơn giáo của Nhân dân theo quy định của pháp luật.
Đấu tranh và xử lý nghiêm đối với mọi hành động vi phạm tự do tín ngưỡng, tơn

giáo và lợi dụng tín ngưỡng tơn giáo làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và Nhân
dân”.
9


Trong các văn bản riêng về tơn giáo, tín ngưỡng có thể xem Nghị định số
69/NĐ-HĐBT ngày 21/3/1991 của Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam "Quy định về các hoạt động tôn giáo" là văn bản mở đầu. Ngày
4/6/1993, Chính phủ ban hành Nghị định số 37-CP quy định nhiệm vụ, quyền hạn
và tổ chức bộ máy của Ban Tơn giáo của Chính phủ, cơ quan có chức năng quản lý
Nhà nước về hoạt động tơn giáo trong phạm vi cả nước. Sau đó, một loạt văn bản
khác đã được ban hành như: Nghị định 26/1999/NĐ-CP ngày 19/4/1999 của Chính
phủ về các hoạt động tơn giáo, Quyết định số 125/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính
phủ, ngày 18/6/2003 về việc phê duyệt chương trình hành động của Chính phủ
thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 (Khố IX) về cơng tác tơn giáo…
Ngày 16/10/1990, Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VI ban hành
Nghị quyết số 24/NQ-TW về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới.
Đây được coi là dấu mốc mở đầu cho bước ngoặt phát triển nhận thức về tôn giáo
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nghị quyết này có hai luận điểm mang "tính đột
phá" là: Tín ngưỡng tơn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận Nhân dân và tơn
giáo có những giá trị văn hóa, đạo đức phù hợp với chế độ mới. Ngày 12/3/2004,
Đảng Cộng sản Việt Nam ban hành Nghị quyết số 25-NQ/TW về công tác tôn giáo.
Đến nay, Nghị quyết này vẫn được xem là “kim chỉ nam” cho công tác tôn giáo và
đời sống tôn giáo ở Việt Nam. Nghị quyết 25-NQ/TW khẳng định những chủ
trương nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với tơn giáo. Nghị quyết khẳng
định tín ngưỡng và tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận Nhân dân, đang
và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng CNXH ở Việt Nam. Đồng bào
các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết dân tộc. Đảng và Nhà nước Việt Nam
thực hiện nhất qn chính sách tơn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo
hoặc khơng theo tơn giáo nào, quyền sinh hoạt tơn giáo bình thường theo đúng

pháp luật được bảo đảm. Các tôn giáo hoạt động trong khn khổ pháp luật, bình
đẳng trước pháp luật. Mọi tín đồ đều có quyền tự do hành đạo tại gia đình và cơ sở
10


thờ tự hợp pháp theo quy định của pháp luật. Các tổ chức tôn giáo được Nhà nước
thừa nhận được hoạt động theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ. Việc mở
trường đào tạo chức sắc, nhà tu hành, xuất bản kinh sắc và giữ gìn, sửa chữa, xây
dựng cơ sở thờ tự tơn giáo của mình theo đúng quy định của pháp luật được tạo
điều kiện thuận lợi. Nghị quyết cũng chỉ rõ việc theo đạo, truyền đạo cũng như mọi
hoạt động tôn giáo khác đều phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; không được lợi
dụng tôn giáo tuyên truyền tà đạo, hoạt động mê tín dị đoan, không được ép buộc
người dân theo đạo. Nghiêm cấm các tổ chức truyền đạo và các cách thức truyền
đạo trái phép, vi phạm các quy định của Hiến pháp và pháp luật v.v…

PHẦN 2. PHẦN LIÊN HỆ THỰC TẾ VÀ LIÊN HỆ BẢN THÂN
2.1. Liên hệ với thực trạng phật giáo ở Việt Nam hiện nay: Mặt tích cực và
hạn chế của phật giáo VN
Hiện nay, Phật giáo Việt Nam có q trình phát triển mạnh mẽ trong cơng
cuộc đổi mới đất nước, góp phần tạo nên nền văn hóa hiện đại đậm đà bản sắc dân
tộc[5]. Tuy nhiên, trong sự biến đổi của nó, Phật giáo đã một phần nào đó đánh mất
bản thân mình, khi mà xuất hiện nhiều dạng biến tướng, các trường phái tự phát
hình thành. Có vẻ như mang trong mình tinh hoa của Phật giáo nhưng thực chất là
một dạng biến tướng của sự phân hóa Phật giáo. Bởi vì:
Sự xuất hiện nhiều trường phái, ngồi ba tơng phái chính của Phật giáo ở Việt
Nam là Thiền Tông, Tịnh Độ Tông và Mật Tơng thì cịn những dạng Phật – Thần
quyền, Bùa, Ngải,…
Sự lạm dụng tôn giáo – Phật giáo hiện nay là tiêu cực hóa của tơn giáo, khi
mà nó đã phát triển cực thịnh và trở nên phổ biến trên khắp mọi phương diện từ
giáo pháp, giáo lý đã dễ dàng và mạnh mẽ đưa vào đời sống văn hóa xã hội.

11


Hiện nay, trên các phương tiện thông tin đại chúng, nhất là mạng Internet thực
trạng sử dụng Phật giáo để truyền bá càng trở nên khó kiểm sốt hơn bao giờ hết.
Trước hết, chúng ta không thể không công nhận những lợi ích to lớn mà nó mang
đến: giúp việc hoẳng dương Phật pháp càng trở nên dễ dàng; việc học tập, tìm hiểu
hoặc tu tập được rút ngắn lại trong việc tìm kiếm phương pháp.
Tuy nhiên có những điểm cần xem xét trong bối cảnh Phật giáo Việt Nam
hiện nay:
Thứ nhất, các tài liệu, giáo lý – pháp được truyền tải mà người tiếp cận khó
kiểm chứng được sự đúng – sai; kinh nghiệm trong việc chọn lọc cái phù hợp với
bản thân rất ít, hơn nữa các giáo lý cịn bị xun tạc theo mục đích của các trường
phái; tổ chức; cá nhân nào đó hoặc để tạo nên một biệt phái lơi kéo những người có
lịng tin vào Đức Phật, chính người tham gia đó họ bị tình trạng “tung hỏa mù” và
bị “đánh lận con đen”. Về mặt tâm lý, ta thấy được một nhu cầu tinh thần về Phật
giáo rất lớn để giải quyết các vấn đề, nhu cầu nương tựa hoặc hướng đến những cái
tốt đẹp, trong cái vơ vàn đó đã bị sự lợi dụng theo mơ hình cung – cầu của hàng
hóa. Tóm lại, việc các tài liệu, thơng tin, giáo lý hay những sách về Phật giáo hiện
nay bị lạm dụng trên phương diện truyền bá tư tưởng, khi mà sự xuất hiện nhiều lý
luận khác nhau với sự ra đời nhiều trường phái của sự áp dụng một cách vô tội vạ
giáo lý để tạo ra trường phái giải thoát mới.
Thứ hai, có những “bậc thầy” Phật giáo có thể giải quyết được các vấn đề này
nọ của con người – hiện trạng phổ biến trên mạng xã hội hiện nay. Các hiện tượng
lớn lối, muốn làm thầy thiên hạ của một số người mang danh Phật giáo có mặt
khắp nơi. Có thể nói, một mặt đó là điểm tích cực mặt khác là sự “thuyết pháp
không đúng thời điểm” dẫn đến tình trạng bị tầm thường hóa. Bởi khi thuyết pháp
khơng đúng người, đúng lúc thì hậu quả cịn tệ hại hơn là không thuyết pháp.

12



Thực tế không phải là ai cũng muốn nghe pháp, hay họ có sự lựa chọn người
giảng bài đó theo tâm lý là phải là người đức độ, có uy tín lớn được mọi người tin
theo, v.v…
Thứ ba, Phật giáo hiện nay bị xem như hàng hóa trong sự đan xen giữa tơn
giáo với tín ngưỡng, văn hóa bản địa Việt Nam nói chung và vùng miền nói riêng,
tạo nên những màu sắc khác nhau, nổi bật là sự mê tín – dị đoan đã có từ trước đến
nay. Phân tích: một mặt hiện tượng này xuất hiện lâu đời của phong tục, tập quán
cùng tín ngưỡng bản địa. Tuy nhiên. thời đại hàng hóa, tơn giáo cũng trở thành một
loại hàng hóa – tức sự bn thần bán thánh của Phật giáo Việt Nam hiện nay đã bị
lạm dụng. Diễn tiến quá trình này xuất phát: trước hết, Việt Nam là một nước
truyền thống nông nghiệp lúa nước truyền thống, thông qua quan sát hiện tượng
thiên nhiên – mưa nắng, sấm sét để làm nông nghiệp. Việc quan sát của người nông
dân đã tạo nên hệ thống các vị thần trong dân gian, và những kinh nghiệm thể hiện
sâu sắc trong các câu vè, ca dao, tục ngữ của người Việt Nam. Do tính thật thà,
chất phác nên hệ thống các vị thần xuất hiện theo đúng những gì họ quan sát, nên
đã tạo nên những bức tượng, hình điêu khắc, vẽ lại các hình ảnh đó hoặc những
người giỏi, có cơng với đất nước đều thành Thánh thần – khác với Thánh của Phật
giáo là người đã “ngộ đạo” và có chữ “vạn”. Đồng thời, việc có các vị thần đó tạo
nên một tín ngưỡng tơn thờ thần thánh, tơn thờ bởi vì đó là sự linh thiêng đồng thời
họ cũng lại sợ chính sự linh thiêng đó.
Ngày nay, sự thờ cúng các vị thần cũng được thờ chung với các tượng Phật
trong các chùa chiền, một số vị thần được tô tạc, vẽ lại giống như các vị Phật, Bồ
Tát. Sau cùng vì sự tiếp xúc văn hóa với Trung Quốc trong q trình đơ hộ và tiếp
xúc nên Phật giáo có sự giao thoa các yếu tố, một số loại tâm linh được đưa vào
đời sống – tâm linh Phật giáo như lễ Vu Lan báo hiếu là cái phổ biến nhất.
Tóm lại, những yếu tố nội – ngoại đã tạo nên Phật giáo Việt Nam với nhiều
màu sắc.
13



Mặt tâm linh là một nhu cầu rất cần thiết của người Việt, mỗi dịp lễ; nhất là
Tết thì dường như có sự xóa nhịa ranh giới của tơn giáo với tín ngưỡng, trong đó
Phật giáo khó nhận diện khi mà bị biến hóa thành các hình thức mê tín – dị đoan.
Điển hình là việc cúng – đốt vàng mã cho người chết ở dưới địa ngục để năm mới
họ có quần áo mới, đồ dùng mới. Thái độ của Phật giáo trong nước đã phủ nhận
triệt để tư tưởng này thông qua xác nhận việc đốt vàng mã không phải của Phật
giáo[6]. Trên phương diện tâm linh Phật giáo việc những hình ảnh người chết mặc
quần áo rách rưới phản ánh trạng thái tâm linh yếu kém của người chết, bằng việc
hồi hướng công đức tu hành cho họ thì họ sẽ được mặc đồ mới. Ngồi ra, một số
hình thức “đàn pháp” của Phật giáo cũng bị lạm dụng như: Đàn pháp Địa Tạng,
cầu siêu và giải oan,… hay đúng hơn là chỉ được tổ chức để thỏa mãn tâm lý của
người sống hơn là những người chết, vì khơng phải ai cũng “đủ sức” – trình độ tâm
linh thực hiện; gây tốn kém tiền bạc và thời gian. Vì vậy, có thể khẳng định việc
mê tín,lạm dụng Phật giáo hiện nay là một thực trạng phổ biến.
Mê tín – dị đoan trong sự lạm dụng Phật giáo là một chuyện nhức nhối, mà
người dân không biết được rằng, tất cả mọi việc đều là do Nhân – quả; hoặc phước
báu của họ đã bị giảm sút; không coi trọng sự thay đổi của bản thân về tính cách,
về việc làm thiện,… mà lại tìm đến bám víu, đổ lỗi – đổ thừa cho tâm linh, cho tơn
giáo. Lợi dụng sự thiếu hiểu biết đó, thì một số tổ chức Phật giáo đã đánh lừa
những ‘con chiên” để phục vụ nhu cầu của tổ chức, cá nhân.
Thứ tư, sự xuất hiện nhiều trường phái khoác màu áo Phật giáo ra đời trong
bối cảnh nở rộ mạnh mẽ văn hóa, tơn giáo hiện nay. Sự phân nhánh này được khái
quát theo những hướng sau đây:
Khuynh hướng thần – thánh hóa: Nhiều trường phái mang tính cách Phật giáo
đã có từ lâu như Thần Quyền, Võ Bùa, Bùa, Ngải, Phù Thủy,… Các phái này có sử
dụng dấu hiệu Phật giáo để mà phát triển như là hình ảnh ngài A – Di – Đà Phật
14



hoặc chữ Vạn,…. Có thể nói rằng, những pháp mơn này có tính chất tức thời,
nhanh chóng nên được nhiều người tu theo, tùy vào mỗi người tu tập và mục đích
sử dụng họ phân chia thành Tốt và Xấu – không phải là Chánh và Tà – khái niệm
Phật giáo bị hiểu lầm từ trước đến nay; Theo Phật giáo Chánh là tu hành hướng về
Niết Bàn, còn Tà là là Nghiêng, những người đang tu để hướng về cái Niết Bàn.
Các pháp môn này phát triển cực kỳ nhanh, họ coi đó là một phần của Phật giáo và
được mọi người tin theo.
Khuynh hướng phân chia nội bộ: Phật giáo được chia thành ba tơng phái
chính là: Tịnh Độ, Thiền và Mật, đó là sự phân chia theo phương pháp tu hành;
hoặc phân chia Tiểu Thừa và Đại Thừa theo tính phổ quát về khả năng truyền tải
giáo lý, giáo pháp; về mặt kinh sách thì Đại thừa luôn chê và phê phán Tiểu Thừa
và sự phân biệt này bị hiểu sai: thứ nhất, do mục đích thương mại – bán kinh sách;
thứ hai do họ hiểu sai quan niệm; thực chất sự phân chia Đại hay Tiểu thừa là dựa
trên khả năng mà người tu hành sau khi đã xong (tu xong) họ có thể truyền (chỉ)
cho được bao nhiêu đông đảo quần chúng (Đại thừa), hoặc là họ không chỉ được ai
hết hoặc chỉ vài người (Tiểu thừa). Sự phân chia này tạo nên làn sóng phân biệt của
những cuộc bàn cãi, tranh luận, đổ thừa trên tất cả phương diện Phật giáo từ trước
đến nay.
Trên phương diện thống nhất quan điểm Phật giáo mà nói, dù đi trên con nào
thì đều sẽ đi đến được Niết Bàn nếu tu hành thật sự, và sự phân biệt này chỉ được
nhận xét tùy vào mục đích tu tập cho cá nhân hoặc cho mọi người.
Khuynh hướng biến tấu Phật giáo: sự “chế biến” giáo pháp theo hướng mới
ngày càng được nhân rộng khắp nơi, tuy nhiều cái đạt được các thành tựu lớn trong
việc áp dụng giáo pháp cho phù hợp với đặc trưng vùng miền, tôn giáo – tín
ngưỡng bản địa đã được cơng nhận. Nhưng nay mỗi người đi một nẻo mỗi phái đi
một đường, phái thì kết hợp giáo lý của Phật giáo hịa chung với Tam giáo, hoặc
với tín ngưỡng để tạo thành hệ thống mới, tuy có cái hay là gom góp được tinh túy
15



mỗi tôn giáo nhưng Phật giáo bị gom trong nồi “thập cẩm” tôn giáo, Ở đây, phải
xét thêm trường hợp những người có trình độ tâm linh Phật giáo rất cao có thể viết
kinh, tạo ra kinh sách mới. Nhưng chủ yếu vẫn là sự phân tích lý luận, nghiên cứu
lý thuyết – tri thức rút ra từ tri thức để tạo thành tri thức mới.
Không những vậy, mà sự phát triển khoa học Phật giáo với những đối tượng
nghiên cứu riêng của nó đã được phân tích bằng khoa học hiện đại ngày nay. Các
hiện tượng Phật giáo được hầu hết các học giả – người viết sách lý luận trên sự
phân tích khoa học dựa với những hiện tượng vật lý – hóa học, vũ trụ học.
2.2. Ý nghĩa khẩu hiệu của Giáo hội phật giáo Việt Nam: đạo Pháp- dân tộcChủ nghĩa xã hội.
Phát huy trí tuệ tập thể, giữ vững kỷ cương, giới luật và nêu cao tinh thần
đồn kết, hịa hợp trong xây dựng, phát triển Giáo hội vững mạnh trong hội nhập
quốc tế, kiên định lý tưởng: Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa Xã hội.
Đổi mới sáng tạo trong sự nghiệp hoằng dương chính pháp, trong phương
thức hướng dẫn Phật tử. Định hướng pháp môn tu tập phù hợp với xã hội hiện đại,
với mọi tầng lớp trong xã hội và xiển dương đạo đức học Phật giáo góp phần xây
dựng và làm đẹp nền đạo đức xã hội.
Nâng cao công tác quản lý chất lượng đào tạo, đổi mới phương pháp giảng
dạy và tu học tại các cơ sở đào tạo Tăng, Ni của GHPGVN.
Giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa Phật giáo Việt Nam đảm bảo có sự tiếp nối
giữa truyền thống và hiện đại góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc trong thời đại hội nhập quốc tế.
Mở rộng hoạt động đối ngoại đa phương theo định hướng ngoại giao văn hóa,
ngoại giao nhân dân. Chủ động, tích cực trong quan hệ đối ngoại với các tổ chức

16


Phật giáo và tổ chức tôn giáo thế giới. Kết nối chặt chẽ với các Hội Phật tử Việt
Nam ở nước ngồi.

Đẩy mạnh cơng tác nghiên cứu Phật học và nâng cao chất lượng học thuật
Phật giáo. Tập trung nghiên cứu có định hướng, khẳng định và làm nổi bật tinh
hoa, bản sắc của Phật giáo Việt Nam.
Tăng cường công tác giám sát, kiểm soát các hoạt động phật sự, quản lý tự
viện, sinh hoạt của Tăng, Ni theo đúng Hiến chương GHPGVN và pháp luật Nhà
nước.
Đẩy mạnh truyền thông Phật giáo như một kênh hoằng pháp và chuyển tải các
hoạt động Phật sự vào đời sống xã hội nhằm nêu cao giá trị từ bi, trí tuệ của đạo
Phật, hình ảnh tốt đẹp của Tăng Ni, Phật tử, của tổ chức GHPGVN các cấp trong
sự nghiệp phụng đạo, yêu nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội Chủ
nghĩa.
Định hướng tự chủ tài chính trong các hoạt động Phật sự của Giáo hội qua
việc xây dựng mơ hình kinh tế Phật giáo ở những lĩnh vực hợp lý. Khuyến khích
phát triển kinh tế tự túc của các cơ sở tự viện. Kêu gọi Tăng Ni, Phật tử tích cực
tham gia cơng tác từ thiện xã hội, hưởng ứng phong trào xóa đói giảm nghèo, chăm
lo cơng tác an sinh xã hội cho cộng đồng xã hội.
2.3. Nhận thức của cá nhân về vấn đề tôn giáo
Tôn giáo, nhất là thần học Kito giáo, thì vẫn tồn tại nguyên tắc nhập môn thần
học: tin để mà hiểu. Trong khí đó, thực tế cuộc sống lại địi hỏi một thái độ khác,
đó là muốn tin thì phải hiểu biết. Đây là câu chuyện vô cùng phức tạp trong những
biến chuyển của thần học Kito giáo ở thế kỷ XX, mà có thể đến nay cũng chưa có
giải quyết được.
Có những tơn giáo thì chủ trương hiểu - biết theo lý trí chứ khơng tin, nhất là
những giáo điều của các tôn giáo khác. Nhưng cuối cùng, người ta vẫn thường đòi

17


hỏi phải tuyệt đối tin vào những điều mà các giáo chủ, sư phụ, các đấng bậc cao
minh truyền dạy.


KẾT LUẬN
Chính sách tự do tơn giáo, tự do tín ngưỡng đã giúp đồng bào tôn giáo được
tự do hoạt động tơn giáo và tín ngưỡng trong phạm vi pháp luật. Khơng những thế,
Đảng và Nhà nước cịn tạo nhiều điều kiện để những người theo tơn giáo có thể dễ
dàng tổ chức những hoạt động tơn giáo. Qua đó, Đảng đã thực sự thể hiện sự chăm
lo của mình đối với nhân dân cả về vật chất và tinh thần. Cùng với đó, chủ trương
đồn kết các tơn giáo với nhau trong cả nước cũng phát huy tác dụng và hiệu quả
thiết thực.

18


Chính sách phát triển kinh tế ở những vùng có đồng bào tôn giáo sinh sống
một mặt đáp ứng được nhu cầu của họ, mặt khác cũng góp phần rút ngắn khoảng
cách kinh tế giữa các vùng, các miền, thúc đẩy kinh tế đất nước phát triển.
Chủ trương kết hợp giải quyết vấn đề dân chủ với vấn đề tôn giáo là vơ cùng
sáng suốt. Qua đó, củng cố khối đại đồn kết dân tộc thêm vững chắc. Khơng hề có
sự kỳ thị giữa những người khơng theo tơn giáo và những người có tơn giáo. Cùng
với đó, Đảng cịn chủ trương mở rộng đối ngoại trong tơn giáo. Chính sách này đã
đáp ứng được nhu cầu giao lưu, học hỏi lẫn nhau giữa các tôn giáo của các dân tộc
trên thế giới. Qua đó cho thế giới hiểu hơn về chính sách của Đảng và Nhà nước
Việt Nam đối với vấn đề tôn giáo cũng như vấn đề dân chủ. Qua đó, Đảng có được
niềm tin trong nhân dân, uy tín đối với bạn bè quốc tế.
Vấn đề tơn giáo luôn là một vấn đề nhạy cảm mà các thế lực phản động ln
lấy đó để bơi nhọ và cơng kích Chính phủ ta. Nhưng với những chủ trương và
chính sách vừa kiên quyết, vừa mềm dẻo, khéo léo, ta đã thành công trong việc
chống lại sự phá hoại khối đại đồn kết dân tộc của kẻ thù. Khơng những thế, Đảng
còn thức tỉnh được những người trước đây lầm đường lạc lối nay trở lại với con
đường chính nghĩa của cách mạng dân tộc.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. V.I. Lênin (1958), Tác phẩm Mác - Ăngghen - Chủ nghĩa Mác, Nxb Sự thật, Hà
Nội.
3.

Hiến pháp Việt Nam (năm 1946, 1959, 1980 và 1992) (1995), Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.
4.

Văn kiện Đảng tồn tập (2002), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19


5. G. W. F. Hêghen, Triết học pháp quyền, Nxb Suhrkamp, Phrăngphuốc a. M.,
2016, tr. 298 (tiếng Đức).
6. Tạp chí triết học, Cao Thu Hằng, Giá trị đạo đức truyền thống và những yêu cầu
đạo đức đối với nhân cách con người Việt Nam hiện nay.
7. Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Huyên (chủ biên), Giá trị truyền thống
trước những thách thức của tồn cầu hóa, NXB CTQG, Hà Nội, 2012.

20



×