MỤC LỤC
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
2
VẤN ĐỀ 1: ĐỐI TƯỢNG DÙNG ĐỂ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGHĨA
VỤ
Bản án số 208/2010/DS-PT ngày 09/3/2010 về việc tranh chấp hợp đồng dịch vụ
vay tiền của Tòa án nhân dân TP.HCM
Nguyên đơn là ông Phạm Bá Minh
Bị đơn là bà Bùi Thị Khen và ơng Nguyễn Khắc Thảo
Ơng Phạm Bá Minh là chủ doanh nghiệp cầm đồ Bá Minh. Vào ngày
14/09/2007, bà Bùi Thị Khen và ông Nguyễn Khắc Thảo thế chấp cho ông Minh
một giấy sử dụng sạp D2-9 tại chợ Tân Hương để vay 60.000.000đ, thời hạn vay là
6 tháng, lãi suất 3%/1 tháng. Khi hết thời hạn hợp đồng, ơng Thảo bà Khen khơng
thanh tốn được nên đã kéo dài số nợ trên. Cho đến nay thì mới thanh tốn được
tiền lãi của 22 tháng là 29.600.000đ, cịn nợ 10.000.000đ tiền lãi. Sau đó các đương
sự đã thống nhất thỏa thuận về số nợ là 60.000.000 đồng và nguyên đơn yêu cầu trả
ngay, còn bị đơn yêu cầu trả trong 12 tháng. Tuy nhiên Tòa xét thấy lãi suất trên là
không phù hợp với lãi suất do Nhà nước quy định, nên Tịa tun buộc ơng Thảo, bà
Khen trả cho ông Minh với lãi suất nhà nước cho phép tại thời điểm giao dịch và lãi
suất quá hạn. Yêu cầu ông Minh phải trả cho nguyên đơn bản chính giấy chứng
nhận sạp D2-9.
Tóm tắt Quyết định số 02/2014/QĐ-UBTP ngày 28/02/2014 của Tòa án nhân
dân tỉnh Tiền Giang về “V/v Tranh chấp hợp đồng cầm cố có quyền sử dụng
đất”
Ngun đơn: ơng Ơn và bà Xanh
Bị đơn: ông Rành
Năm 1995, vợ chồng bị đơn với ông Rành thỏa thuận về việc thục đất, có lập
giấy chứng nhận “Giấy thục đất làm ruộng”. Cả hai bên đều thừa nhận đây là cầm
cố đất. Viện trưởng Viện kiểm sát xét thấy theo thỏa thuận này thì vợ chồng bị đơn
là người có tài sản là quyền sử dụng đất hợp pháp, ơng Rành có tài sản là 30 chỉ
vàng. Xét về bản chất cần phải hiểu và xem xét giao dịch trên tương tự như giao
dịch cầm cố và phải được pháp luật thừa nhận thì mới khách quan. Về phía Tịa án,
3
Tịa đồng tình với quan điểm của Viện kiểm sát, và cho rằng cần áp dụng các quy
định về cầm cố tài sản để giải quyết mới đảm bảo quyền lợi các bên. Do đó, Tịa
chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát.
Tóm tắt Bản án số 04/2010/DSPT ngày 13/01/2010 của Tòa án nhân dân tỉnh
Vĩnh Long
Nguyên đơn là bà Vương Kim Long, bị đơn là bà Phạm Thị Ngọc Hồng.
Bà Hồng vay của bà Long 360 triệu đồng tiền gốc chưa tính lãi. Khi vay bà
Hồng có thế chấp 01 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) do ơng
Bính đứng tên và 02 GCNQSDĐ do ơng Chấp đứng tên. Do bà Hồng chưa trả nợ
nên bà Long khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bà Hồng, ông Chấp và người thừa kế
của ông Bính liên đới trả nợ cho bà, đồng thời xử lý tài sản thế chấp. Tại phiên tòa
phúc thẩm, Tòa án nhận định rằng pháp luật chưa cho phép thế chấp quyền sử dụng
đất giữa các cá nhân với nhau. Do đó Tịa u cầu bà Long hồn trả lại 3
GCNQSDĐ cho ơng Chấp và các người thừa kế của ơng Bính, cũng như bà Hồng
phải trả nợ cho bà Long.
Câu 1.1. Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 liên quan đến tài
sản có thể dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
Về tài sản dùng để bảo đảm, BLDS 2015 có nhiều thay đổi so với BLDS 2005.
Căn cứ tại Điều 295 BLDS 2015:
1. Tài sản bảo đảm phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm, trừ
trường hợp cầm giữ tài sản, bảo lưu quyền sở hữu.
2. Tài sản bảo đảm có thể được mơ tả chung, nhưng phải xác định được.
3. Tài sản bảo đảm có thể là tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành
trong tương lai.
4. Giá trị của tài sản bảo đảm có thể lớn hơn, bằng hoặc nhỏ hơn giá trị
nghĩa vụ được bảo đảm.
Thứ nhất, ở BLDS 2015 có 1 điều luật, trong khi đó ở BLDS 2005 có tới 3 điều
luật về tài sản bảo đảm là Điều 320 về Vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, Điều
4
321 về Tiền, giấy tờ có giá dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự và Điều 322
về Quyền tài sản dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Việc quy định của
BLDS 2005 là theo hướng liệt kê, do vậy BLDS 2005 “dường như cũng chỉ là sự
lặp lại các loại tài sản theo quy định tại Điều 163 của Bộ luật.” 1 Vì vậy, BLDS
2015 đã khắc phục được điểm này đối với Bộ luật 2005.
Thứ hai, về phần Biện pháp bảo đảm, BLDS 2005 có quy định rõ tại khoản 2
Điều 320. Tuy nhiên ở BLDS 2015 đã bỏ đi quy định này, khơng làm rõ thế nào là
tài sản hiện có hay tài sản hình thành trong tương lai. Cách xây dựng này được đánh
giá là rất thuyết phục, việc thay đổi nhằm tránh sự khó hiểu và rườm rà, vì đã có
quy định này trong phần Tài sản thuộc những vấn đề chung của BLDS (Điều 108,
BLDS 2015).2
Thứ ba, vấn đề sở hữu tài sản bảo đảm cũng được đặt ra trong quá trình sửa đổi.
Quy định tại BLDS 2015 đã bỏ đi quy định “được phép giao dịch” và chỉ quy định
“trừ trường hợp cầm giữ tài sản, bảo lưu quyền sở hữu”. Việc bỏ đi quy định này
không phải là cho phép sử dụng tài sản không được phép giao dịch để đảm bảo mà
là ở các quy định chung đã có hướng giải quyết.
Cuối cùng, BLDS cũng bổ sung thêm quy định về giá trị của tài sản đảm bảo tại
khoản 4 Điều 295 BLDS 2015. Quy định này tránh được thực tế, đơi khi có người
u cầu giá trị tài sản đảm bảo phải lớn hơn giá trị nghĩa vụ.
Câu 1.2. Đoạn nào của Bản án số 208 cho thấy bên vay dùng giấy chứng nhận
sạp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả tiền vay?
Đoạn của Bản án số 208 cho thấy ben vay dùng giấy chứng nhận sạp để bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ trả tiền vay
Qua lời khai của ông Minh: “Vào ngày 14/9/2007 bà Bùi Thị Khen và ơng
Nguyễn Khắc Thảo có thế chấp cho ông một giấy sử dụng sạp D2-9 tại chợ Tân
Hương để vay 60.000.000 đồng.”
1 Đỗ Văn Đại (2016), Bình luận khoa học Những điểm mới của Bộ luật Dân sự 2015, Nxb. Hồng Đức – Hội
Luật gia Việt Nam, tr. 346.
2 Đỗ Văn Đại (2016), Bình luận khoa học Những điểm mới của Bộ luật Dân sự 2015, Nxb. Hồng Đức – Hội
Luật gia Việt Nam, tr. 347.
5
Qua lời khai của bà Khen và ơng Thảo: “Có thế chấp một giấy tờ sạp D2-9 tại
chợ Tân hương để vay 60.000.000 triệu đồng.”
Qua phần xét thấy của Tòa án
Xét sạp thịt heo do bà Khen đứng tên và cầm cố, nhưng giấy chứng nhận
sạp D2-9 tại chợ Tân Hương là giấy đăng ký sử dụng sạp, không phải
quyền sở hữu, nên giấy chứng nhận trên không đủ cơ sở pháp lý để bà
Khen thi hành án trả tiền cho ơng Minh.
Câu 1.3. Giấy chứng nhận sạp có là tài sản khơng? Vì sao?
Theo nhóm, giấy chứng nhận sạp không là tài sản. Cụ thể, căn cứ theo khoản 1
Điều 105 BLDS 2015 quy định về tài sản: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và
quyền tài sản.”
Đồng thời khoản 9 Điều 3 Nghị định 11/2012/NĐ-CP quy định về giấy tờ có giá:
“Giấy tờ có giá bao gồm cổ phiếu, trái phiếu, hối phiếu, kỳ phiếu, tín phiếu, chứng
chỉ tiền gửi, séc, chứng chỉ quỹ, giấy tờ có giá khác theo quy định của pháp luật, trị
giá được thành tiền và được phép giao dịch.”
Giấy chứng nhận sạp chỉ được xem như giấy đăng kí sử dụng sạp của bà Khen
khi bà buôn bán tại chợ Tân Hương. Bà Khen khơng có quyền sở hữu đối với sạp,
bà chỉ có thể sử dụng chứ khơng thể đem đi thế chấp vay tiền. Do đó, giấy chứng
nhận sạp chỉ là văn bản chứa đựng thông tin về quyền sử dụng sạp và là văn bản
chứng quyền, không thể xem là tài sản theo quy định của BLDS.
Câu 1.4. Việc dùng giấy chứng nhận sạp để bảo đảm nghĩa vụ dân sự có được
Tịa án chấp nhận khơng? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
Việc dùng giấy chứng nhận sạp để bảo đảm nghĩa vụ dân sự khơng được Tịa án
chấp nhận.
Đoạn của bản án cho câu trả lời:
Xét sạp thịt heo do bà Khen đứng tên và cầm cố, nhưng giấy chứng nhận
sạp D2-9 tại chợ Tân Hương là giấy đăng ký sử dụng sạp, không phải
6
quyền sở hữu nên giấy chứng nhận trên không đủ cơ sở pháp lý để bà
Khen thi hành án trả tiền cho ông Minh.
Câu 1.5. Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết và cơ sở pháp lý của Tòa án
đối với việc dùng giấy chứng nhận sạp để bảo đảm nghĩa vụ.
Tòa án xét thấy: “Sạp thịt heo do bà Khen đứng tên và cầm cố, nhưng giấy
chứng nhận sạp D2-9 tại chợ Tân Hương là giấy đăng ký sử dụng sạp, không phải
quyền sở hữu, nên giấy chứng nhận trên không đủ cơ sở pháp lý để bà Khen thi
hành án trả tiền cho ông Minh”.
Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 320 BLDS 2005 về Vật đảm bảo thực
hiện nghĩa vụ dân sự: “Vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự phải thuộc quyền sở
hữu của bên bảo đảm và được phép giao dịch”. Vậy hướng giải quyết của Tòa án
theo quy định của BLDS 2005 là hợp lý; theo đó thì tài sản cầm cố nếu không thuộc
quyền sở hữu của bà Khen thì bà Khen chỉ có quyền sử dụng chứ khơng có quyền
định đoạt nó trong giao dịch cầm cố sạp để trả nợ.
Còn nếu xét theo quy định tại khoản 1 Điều 295 BLDS 2015 thì: “Tài sản bảo
đảm phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm, trừ trường hợp cầm giữ tài sản,
bảo lưu quyền sở hữu”. Trong trường hợp này, giấy chứng nhận sạp không là đối
tượng cầm giữ; do đó hướng giải quyết của Tịa án là hợp lý khi không công nhận
việc dùng giấy chứng nhận sạp để bảo đảm nghĩa vụ.
Câu 1.6. Đoạn nào của Quyết định số 02 cho thấy các bên đã dùng quyền sử
dụng đất để cầm cố?
Trong Quyết định số 02, ở phần xét thấy cho thấy các bên đã sử dụng quyền sử
dụng đất để cầm cố: “Ngày 30/8/1995 vợ chồng ơng Võ Văn Ơn và Lê Thị Xanh
cùng ông Nguyễn Văn Rành thỏa thuận việc thục đất. Hai bên có lập “giấy thục đất
làm ruộng” với nội dung giống như việc cầm cố tài sản.”
Theo lời khai của nguyên đơn và bị đơn đều thừa nhận là cầm cố đất (BL số
08,09,10,19,20)
Theo thỏa thuận này thì ơng Ôn, bà Xanh là người có tài sản là quyền sử
dụng đất hợp pháp, ơng Rành có tài sản là 30 chỉ vàng. Thực hiện giao
dịch thì ơng Ơn, bà Xanh giao quyền sử dụng đất cho ông Rành canh
7
tác, đổi lại ơng Rành phải đưa cho ơng Ơn, bà Xanh 30 chỉ vàng 24k để
sử dụng, hai bên thỏa thuận nếu q 03 năm mà ơng Ơn, bà Xanh khơng
chuộc lại đất bằng vàng thì ơng Rành có quyền canh tác số ruộng đất
này vĩnh viễn
Câu 1.7. Văn bản hiện hành có cho phép dùng quyền sử dụng đất để cầm cố
không? Nêu cơ sở văn bản khi trả lời?
Văn bản hiện hành cho phép dùng quyền sử dụng đất để cầm cố.
Cơ sở pháp lý:
Theo Điều 309 BLDS 2015: “Cầm cố tài sản là việc một bên (sau đây gọi là
bên cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia (sau đây gọi là
bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.” Bên cạnh đó tại khoản 1 Điều
105 BLDS 2015 quy định: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản” và
Điều 115 BLDS 2015 “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm
quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các
quyền tài sản khác” mà Điều 107 BLDS 2015 có quy định bất động sản bao gồm:
a) Đất đai;
b) Nhà, cơng trình xây dựng gắn liền với đất đai;
c) Tài sản khác gắn liền với đất đai, nhà, cơng trình xây dựng;
d) Tài sản khác theo quy định của pháp luật.
Như vậy, BLDS 2015 cho phép dùng quyền sử dụng đất để cầm cố.
Câu 1.8. Trong Quyết định trên, Tịa án có chấp nhận cho phép dùng quyền sử
dụng đất để cầm cố không? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?
Trong Quyết định trên, Tòa án chấp nhận cho phép dùng quyền sử dụng đất để
cầm cố.
Trong Quyết định, đoạn cho câu trả lời là: “Xét việc giao dịch thục đất nêu trên
là tương tự với giao dịch cầm cố tài sản, do đó phải áp dụng nguyên tắc tương tự
để giải quyết. Về nội dung thì giao dịch thục đất nêu trên phù hợp với quy định về
8
cầm cố tài sản của Bộ luật dân sự (tại Điều 326, 327), do đó cần áp dụng các quy
định về cầm cố tài sản của Bộ luật dân sự để giải quyết mới bảo đảm quyền lợi hợp
pháp của các bên giao dịch”.
Câu 1.9. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án trong Quyết
định số 02.
Hướng giải quyết trên là phù hợp với thực tế giao dịch cầm cố quyền sử dụng
đất tại Việt Nam. Theo quy định tại Điều 309 BLDS 2015: “Cầm cố tài sản là việc
một bên (sau đây gọi là bên cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình
cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ”. Hơn
thế nữa, theo quy định tại khoản 2 Điều 310 BLDS 2015: “Trường hợp bất động
sản là đối tượng của cầm cố….”. Với quy định này, BLDS 2015 đã mở ra khả năng
quyền sử dụng đất được dùng để thế chấp.
Luật Đất đai năm 2013 cũng quy định: “Người sử dụng đất được thực hiện các
quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế
chấp, góp vốn quyền sử dụng đất”. Tuy nhiên, pháp luật khơng có quy định cấm
việc dùng tài sản là quyền sử dụng đất vào giao dịch cầm cố tài sản.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 105 BLDS 2015: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ
có giá và quyền tài sản” và Điều 115 BLDS 2015: “Quyền tài sản là quyền trị giá
được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ,
quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác”. Thì quyền sử dụng đất là tài sản
dưới dạng quyền tài sản. Xét thấy, đất đai thuộc quyền sở hữu của toàn dân, nhà
nước đứng ra quản lý và sử dụng 3. Chỉ với quyền sử dụng đất của người có quyền
sử dụng đất đai thì khơng đáp ứng được điều kiện về tài sản bảo đảm được quy định
tại khoản 1 Điều 295 BLDS 2015: "”Tài sản bảo đảm phải thuộc quyền sở hữu của
bên bảo đảm”. Tuy nhiên, việc Tòa án giải quyết như trên là hợp lý, bởi lẽ, BLDS
2015 và LĐD 2013 khơng có quy định cấm và các bên có thể thực hiện giao dịch
khơng trái với quy định của pháp luật, trái đạo đức xã hội. Việc Tòa án công nhận
hợp đồng trên là giải quyết triệt để được ý chí mà các bên mong muốn khi tham gia
vào giao dịch cầm cố, quyền, lợi ích và lỗi của các bên trong thỏa thuận.
3 Điều 197 BLDS 2015.
9
Câu 1.10. Đoạn nào của Bản án số 04 cho thấy người nhận thế chấp quyền sử
dụng đất là cá nhân.
Đoạn văn bản trong Bản án số 04:
Bà Phạm Thị Ngọc Hồng trình bày: “Tơi đưa Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho bà Long vay 50.000.000 đồng của Ngân hàng đầu tư và phát triển tỉnh Vĩnh
Long, chứ tôi khơng có thế chấp để vay tiền của bà Long.”
Tịa án xét thấy
Pháp luật chưa cho phép thế chấp quyền sử dụng đất giữa các cá nhân
với nhau. Do vậy, việc bà Phạm Thị Ngọc Hồng giao các Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cho bà Vương Kim Long để vay tiền là không
đúng quy định của pháp luật, nên bị coi là vô hiệu theo quy định tại Điều
128 của Bộ luật dân sự.
Câu 1.11. Có quy định nào cho phép cá nhân nhận quyền thế chấp quyền sử
dụng đất để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ không? Nếu có, nêu cơ sở văn bản
Thứ nhất, Bộ luật Dân sự 2015 khơng có quy định về việc cho phép cá nhân
nhận quyền thế chấp quyền sử dụng đất để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ. Tuy nhiên,
BLDS có quy định về thế chấp tại Điều 317 như sau: “Thế chấp tài sản là việc một
bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ và khơng giao tài sản cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế
chấp).” Đồng thời, tại khoản 3 Điều 318 có quy định: “Trường hợp thế chấp quyền
sử dụng đất mà tài sản gắn liền với đất thuộc sở hữu của bên thế chấp thì tài sản
gắn liền với đất cũng thuộc tài sản thế chấp, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”
Bên cạnh đó, pháp luật dân sự cho phép các bên được tự do thỏa thuận về việc xác
lập, thay đổi, chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự, trong đó có quyền được dùng
tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên kia
trong giao dịch dân sự.4 Như vậy, nếu xét trên tinh thần BLDS 2015 thì Bộ luật này
cho phép cá nhân nhận quyền thế chấp quyền sử dụng đất để đảm bảo thực hiện
nghĩa vụ.
4 Công ty Luật TNHH Everest, “Thế chấp quyền sử dụng đất cho cá nhân”, 18/10/2020.
10
Thứ hai, trong Luật Đất đai 2013 tại điểm g khoản 1 Điều 179 thì hộ gia đình, cá
nhân sử dụng đất nông nghiệp được Nhà nước giao trong hạn mức; đất được Nhà
nước giao có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất trả tiền thuê đất một lần cho cả thời
gian thuê, được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất; đất nhận chuyển đổi, nhận
chuyển nhượng, nhận tặng cho, nhận thừa kế thì có quyền: “Thế chấp quyền sử
dụng đất tại tổ chức tín dụng được phép hoạt động tại Việt Nam, tại tổ chức kinh tế
khác hoặc cá nhân theo quy định của pháp luật”.
Như vậy, các quy định của pháp luật hiện hành đều cho phép cá nhân, tổ chức
nhận thế chấp quyền sử dụng đất
Câu 1.12. Đoạn nào của Bản án số 04 cho thấy Tịa án khơng chấp nhận cho cá
nhân nhận quyền sử dụng đất để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ?
Theo quy định tại khoản 1 Điều 106 và điểm d khoản 2 Điều 110 của
Luật đất đai quy định người sử dụng đất được thế chấp, bảo lãnh bằng
quyền sử dụng đất tại tổ chức tín dụng được phép hoạt động tại Việt
Nam để vay vốn. Pháp luật chưa cho phép thế chấp quyền sử dụng đất
giữa các cá nhân với nhau. Do vậy, việc bà Phạm Thị Ngọc Hồng giao
các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Vương Kim Long để vay
tiền là không đúng quy định của pháp luật, nên bị coi là vô hiệu theo quy
định tại Điều 128 của Bộ luật dân sự
Câu 1.13. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án.
Hướng giải quyết trên của Tòa án là hợp lý.
Căn cứ theo khoản 1 Điều 342 BLDS 2005 quy định: “Thế chấp tài sản là việc
một bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp)
và khơng chuyển giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp.”
Việc thế chấp trong bản án 04 dùng để bảo đảm cho nghĩa vụ trả tiền mà bà Hồng
vay của ông Long. Do vậy, không thể áp dụng quy định khoản 7 Điều 113 Luật đất
đai 2003 (Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất khơng phải là đất thuê được thế chấp
quyền sử dụng đất tại tổ chức tín dụng được cho phép hoạt động tại Việt Nam, tại tổ
chức kinh tế hoặc cá nhân để vay vốn sản xuất, kinh doanh) để điều chỉnh.
11
Như vậy việc Tòa án tuyên giao dịch dân dự trên bị vô hiệu là đúng và trong bản
án trên, việc bà Hồng giao các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Long để
vay tiền là không phù hợp với quy định của pháp luật.
12
VẤN ĐỀ 2: ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM
Tóm tắt Bản án số 90/2019/KDTM-PT ngày 16/8/2019 của Toà án nhân dân TP.
Hà Nội về vụ việc tranh chấp hợp đồng tín dụng
Ngun đơn: Ngân hàng N
Bị đơn: Cơng ty TNHH Xây dựng và Thương mại V
Ngân hàng N và Công ty V đã ký hợp đồng tín dụng với nhau ngày 21/05/2010.
Đến ngày 21/05/2012, Ngân hàng tiếp tục ký Hợp đồng hạn mức tín dụng với số
tiền nhận nợ cao nhất cho Cơng ty. Trong q trình thực hiện hợp đồng ký ngày
21/05/2010, ngân hàng đã giải ngân 1 lần cho Công ty V và đối với Hợp đồng ký
ngày 21/05/2012 Ngân hàng chưa giải ngân mới mà chỉ theo dõi đối với phần dư nợ
chuyển sang từ hợp đồng ký ngày 21/05/2010.
Ông Q và bà V đã ký Hợp đồng cho mượn tài sản với Công ty V với mục đích
cho mượn tài sản để thế chấp vay vốn tại Ngân hàng phục vụ hoạt động kinh doanh
của Công ty V. Sau đó, ơng D đã cầm sổ đỏ của ông bà đi làm thủ tục vay vốn mà
không cho ông bà biết cho đến khi ông bà được Ngân hàng thơng báo. Nay ơng bà
đề nghị Tịa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu do bị lừa dối. Buộc Ngân hàng trả lại
Giấy chứng nhận quyền sử dụng nhà và đất cho ông bà. Và Ngân hàng yêu cầu
Cơng ty V phải thanh tốn trả nợ gốc, lãi, lãi chậm phát sinh từ Hợp đồng tín dụng.
Sau hai lần vắng mặt tại phiên tòa phúc thẩm, Tòa án đình chỉ xét xử kháng cáo
của ơng Q và bà V, yêu cầu Công ty TNHH xây dựng và thương mại V phải thanh
toán trả nợ gốc, lãi và lãi chậm trả phát sinh từ Hợp đồng tín dụng hạn mức.
Câu 2.1. Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về đăng ký giao dịch bảo
đảm.
Điều 298 BLDS 2015 đã quy định về việc đăng ký biện pháp bảo đảm trên cơ sở
của Điều 323 BLDS 2005 và có sự sửa đổi bổ sung. Cụ thể:
Thứ nhất, BLDS 2005 đề cập đến vấn đề đăng ký giao dịch bảo đảm cịn BLDS
2015 thì quy định đăng ký biện pháp bảo đảm. Bản chất của hai thuật ngữ này là
khác nhau; giao dịch bảo đảm là giao dịch dân sự do các bên thỏa thuận hoặc pháp
13
luật quy định về việc thực hiện biện pháp bảo đảm; do đó, việc sử dụng thuật ngữ
đăng ký biện pháp bảo đảm sẽ phù hợp hơn.
Thứ hai, Điều 298 BLDS 2015 còn quy định: “Việc đăng ký là điều kiện để giao
dịch bảo đảm có hiệu lực chỉ trong trường hợp luật có quy định”. Việc sử dụng từ
luật thay thế cho cụm từ pháp luật đã thể hiện sự thay đổi trong tư duy lập pháp,
phù hợp với quy định của Hiến pháp và các quy định khác có liên quan. Bởi lẽ, chỉ
khi luật có quy định đăng ký là điều kiện có hiệu lực của biện pháp bảo đảm thì các
bên mới phải tuân thủ quy định đó (như quy định trong Luật Đất đai về thế chấp
quyền sử dụng đất, trong Luật Hàng không dân dụng về thế chấp tàu bay, trong Bộ
luật Hàng hải về thế chấp tàu biển) và văn bản dưới luật không thể áp đặt những
trường hợp phải đăng ký biện pháp bảo đảm.
Thứ ba, tại đoạn 2 khoản 1 Điều này có sự kế thừa quy định trong BLDS 2005
và chỉ thay từ pháp luật bằng từ luật. Tuy nhiên, nội hàm của quy định này là chưa
rõ ràng vì BLDS chỉ sử dụng từ hiệu lực. Ở đây chúng ta chưa rõ đó là hiệu lực đối
kháng với người thứ ba hay là điều kiện có hiệu lực thơng thường. Tuy nhiên, chúng
ta nên xét theo hướng đây chỉ là điều kiện có hiệu lực đối kháng với người thứ ba vì
đối với thế chấp cũng như cầm cố tài sản, các nhà lập pháp năm 2015 đã tách bạch
vấn đề hiệu lực của biện pháp bảo đảm trong mối quan hệ giữa các bên trong biện
pháp bảo đảm và hiệu lực của biện pháp bảo đảm trong mối quan hệ đối với người
thứ ba thông qua nắm giữ tài sản bảo đảm hay đăng ký biện pháp bảo đảm5.
Câu 2.2. Hợp đồng thế chấp số 07/9/2009 có thuộc trường hợp phải đăng ký
khơng? Vì sao?
Hợp đồng thế chấp số 07/9/2009 thuộc trường hợp phải đăng kí vì theo khoản 1
Điều 4 Nghị định số 102/2017/NĐ-CP những biện pháp đảm bảo là giấy tờ thế chấp
tài sản là nhà đất thì phải được đăng ký.
Câu 2.3. Hợp đồng thế chấp số 07/9/2009 đã được đăng ký phù hợp với quy định
không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
Hợp đồng thế chấp số 07/9/2009 đã được đăng ký phù hợp với quy định.
5 Đỗ Văn Đại (2016), Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật dân sự 2015, Nxb. Hồng Đức – Hội
Luật gia Việt Nam, tr. 354-355.
14
Trong bản án có đoạn:
Như vậy, ơng Q bà V đã xác nhận chữ ký của mình tại hợp đồng thế
chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của bên thứ ba ngày
07/9/2009. Tòa án sơ thẩm với nhận định hợp đồng thế chấp các bên có
ký nhưng đơn yêu cầu đăng ký thế chấp ngày 30/9/2009 thì khơng phải
chữ ký của bên thế chấp nên chưa phát sinh hiệu lực là khơng đúng. Bởi
vì, tại thời điểm làm thủ tục đăng ký thế chấp ngày 30/9/2009 thì Thơng
tư số 05/2005/TTLB-BTP-BTNMT ngày 16/6/2005 đang có hiệu lực, tại
Điều 4 về người yêu cầu đăng ký có quy định “người yêu cầu đăng ký là
một bên trong các bên hoặc các bên ký hợp đồng thế chấp, Bảo
lãnh” chỉ đến ngày 01/3/2010 thì mới có Thơng tư số 06/2010/TTLBBTP-BTNMT và tại Điều 1 mà Thông tư số 06 mới có quy định là khi
đăng ký thế chấp mới (lần đầu) thì các bên phải ký cịn đăng ký thay đổi,
bổ sung thì chỉ cần một bên. Như vậy, tại thời điểm ngày 30/9/2009 chỉ
cần một bên là bên thế chấp hoặc bên nhận thế chấp, bảo lãnh ký là
được. Mà theo đơn yêu cầu đăng ký thế chấp ngày 30/9/2009 thì bên
nhận thế chấp là Ngân hàng có ký đóng dấu vào đơn này nên Đơn đăng
ký vẫn đúng quy định và phát sinh hiệu lực. Mà khi đăng ký hợp lệ thì
chỉ phát sinh quyền ưu tiên xử lý tài sản thế chấp chứ không phải sẽ vô
hiệu hợp đồng thế chấp do chưa đăng ký giao dịch đảm bảo như phía
gia đình ơng Q bà V đề nghị (Điều 323 Bộ luật dân sự năm 2005).
Câu 2.4. Theo Tịa án, nếu khơng được đăng ký, hợp đồng thế chấp số 07/9/2009
có vơ hiệu khơng? Vì sao?
Theo Tịa án, nếu khơng được đăng ký, thì hợp đồng thế chấp số 07/9/2009
khơng vơ hiệu.
Vì sau khi các bên ký hợp đồng thì cơng chứng viên thực hiện việc cơng chứng
theo đúng trình tự. Bên thế chấp, bên nhận thế chấp và bên vay ghi nhận rõ việc bên
thế chấp và bên vay ký tên trước mặt công chứng viên, khi ký kết hợp đồng thì ơng
Q và bà V đã xuất trình đầy đủ chứng minh nhân dân, hộ khẩu, giấy chứng nhận
quyền sở hữu nhà ở và sở hữu đất. Hợp đồng thế chấp ghi ngày 07/9/2009 được ký
và đóng dấu bởi người có thẩm quyền của Ngân hàng. Ngồi ra, biên bản định giá
có đầy đủ chữ ký của bên thế chấp, bên khách hàng vay. Văn phịng cơng chứng đã
15
thực hiện đúng pháp luật công chứng và nội dung văn bản công chứng không trái
với quy định của pháp luật, không vi phạm Điều 122 BLDS 2005 nên không thể tự
vô hiệu.
Mặt khác, đơn đăng ký thế chấp vẫn đúng quy định của pháp luật và phát sinh
hiệu lực. Mà khi đăng ký hợp lệ thì chỉ phát sinh quyền ưu tiên xử lý tài sản thế
chấp chứ không phải sẽ vô hiệu hợp đồng thế chấp do chưa đăng ký giao dịch đảm
bảo.
Câu 2.5: Hướng của Tòa án như trong câu hỏi trên có thuyết phục khơng? Vì
sao?
Hướng xử lí trên của Hội đồng thẩm phán là hợp lý. Nhưng hướng giải thích để
giải quyết vấn đề này của Hội đồng thẩm phán là chưa thuyết phục, vì nếu tài sản để
bảo đảm trong Hợp đồng số 03.00148/HĐTC không đồng thời là tài sản bảo đảm
theo Hợp đồng số 02.00034/HĐTC thì liệu Hội đồng thẩm phán có cơng nhận hiệu
lực của hợp đồng số 03.00148/HĐTC không? Thiết nghĩ, để cơng nhận hiệu lực
Hợp đồng số 03.00148/HĐTC Tịa án cần phải đưa thêm căn cứ khác.
Đó là, về bản chất thì mục đích chính của đăng ký là cơng khai thơng tin biện
pháp bảo đảm với người ngồi, từ đó làm hiệu lực đối kháng với người thứ ba. Còn
giữa các bên, họ đã ký kết hợp đồng về tài sản này nên các bên hiển nhiên biết về
giao dịch của họ. Nên dù khơng đăng ký thì vẫn có sự ràng buộc giữa các bên. Mặc
khác trong vụ này cũng không xuất hiện bên thứ ba, nên việc xác định quyền ưu
tiên đối 15 với tài sản bảo đảm cũng khơng được đặt ra. Do đó, sự cơng nhận hiệu
lực của hợp đồng trong trường hợp này để bảo đảm quyền lợi đối với bên có quyền
là vơ cùng cần thiết.
Hơn nữa, theo khoản 3 Điều 325 BLDS 2005 thì người có quyền có biện pháp
bảo đảm khơng được đăng ký vẫn được thanh toán theo thứ tự xác lập giao dịch bảo
đảm. Điều này cho thấy các nhà lập pháp đã ngầm ghi nhận giá trị pháp lí của biện
pháp bảo đảm khơng được đăng kí .
BLDS 2005 khơng quy định việc cho 2 bên có thỏa thuận khác là một thiếu sót.
Tuy nhiên, bản án này được xem là án lệ để giải quyết các vụ án tương tự khi các
bên không đăng ký các biện pháp bảo đảm mà tự thỏa thuận theo sự tự nguyện của
2 bên nếu các điều lệ đó khơng trái với quy định của pháp luật.
16
Trong bản án này Hội đồng thẩm phán của Tòa án nhân dân tối cao đã chấp nhận
hợp đồng thế chấp có hiệu lực vì chúng được ký tên sự tự nguyện của 2 bên. Vì thế
khi cơng ty Ngọc Quang khơng thanh tốn nợ, thì Viettinbank có quyền xử lý tài sản
thế chấp theo Hợp đồng thế chấp và quy định của pháp luật.
Tuy nhiên hướng giải quyết này lại không thỏa đáng lắm nếu trường hợp công ty
Ngọc Quang có thêm một hay nhiều khoản nợ khác với cá nhân hay pháp nhân
khác. Biện pháp bảo đảm phải đăng ký để giúp giải quyết thứ tự ưu tiên thanh toán
khi xảy ra tranh chấp. Hiệu lực bảo đăng ký cịn có hiệu lực đối với người thứ ba
nhằm không xảy ra hợp đồng vô hiệu
17
VẤN ĐỀ 3: ĐẶT CỌC
Tóm tắt Quyết định số 49/2018/KDTM-GĐT ngày 18/10/2018 của TAND cấp
cao tại TP.HCM.
Nguyên đơn là CTCP TV-TM-DV Địa ốc Hoàng Quân khởi kiện bị đơn là Công
ty TNHH Thương mại và Xây dựng Sơn Long Thuận về việc Tranh chấp đòi lại tiền
đặt cọc từ việc hủy hợp đồng mua bán cổ phần. Ngày 20/02/2008, Công ty Ninh
Thuận ký kết Biên bản thỏa thuận bán cho Cơng ty Hồng Qn cổ phần thuộc sở
hữu của SCIC tại Công ty Ninh Thuận với tổng giá trị là 3.919.200.000 đồng; Cơng
ty Hồng Qn đặt cọc trước 1 tỷ đồng. Ngày 22/02/2008, Cơng ty Hồng Qn đã
chuyển số tiền đặt cọc vào tài khoản của Ngân hàng theo ủy nhiệm chi. Tuy nhiên,
Ngân hàng đã căn cứ vào hợp đồng tín dụng có điều khoản thỏa thuận cho phép
Ngân hàng được quyền trích tài khoản của Cơng ty Ninh Thuận để cấn trừ số công
nợ quá hạn. Tại ủy nhiệm chi ngày 22/02/2008, Cơng ty Hồng Qn khi chuyển
tiền vào tài khoản Công ty Ninh Thuận đã ghi rõ nội dung là tiền đặt cọc mua cổ
phần.
Tòa án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc phía Ngân
hàng có nghĩa vụ hồn trả cho Cơng ty Hồng Qn 1 tỷ đồng. Tịa án phúc thẩm
giữ nguyên Bản án sơ thẩm. Viện trưởng VKS nhân dân cấp cao tại TPHCM ra
quyết định kháng nghị đối với Bản án phúc thẩm nêu trên; tuy nhiên kháng nghị này
không được chấp thuận.
Câu 3.1. Khác biệt cơ bản giữa đặt cọc và cầm cố, đặt cọc và thế chấp
Khác biệt giữa đặt cọc và cầm cố:
• Khái niệm đặt cọc: Điều 328 BLDS 2015
• Khái niệm cầm cố: Điều 309 BLDS 2015
Đặt cọc
Là việc bên đặt cọc giao cho bên nhận
đặt cọc một khoản tiền, kim khí quý, đá
quý hoặc vật có giá trị khác trong một
thời hạn để đảm bảo giao kết hoặc thực
hiện hợp đồng. (khoản 1 Điều 328)
Cầm cố
Là việc bên cầm cố giao tài sản thuộc
quyền sở hữu của mình cho bên nhận cầm
cố để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. (Điều
309)
Tài sản dùng để đảm bảo đặt cọc là “tiền, kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị
18
khác” trong khi đó tài sản dùng để cầm cố pháp luật không giới hạn về loại tài sản
được sử dụng dùng để bảo đảm (có thể là động sản hay bất động sản).
Đặt cọc được dùng để “đảm bảo giao kết hoặc thực hiện hợp đồng” còn cầm cố chỉ
được sử dụng để “đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự”.
Việc xử lý tài sản đặt cọc khơng cần phải qua bán đấu giá, trong khi đó việc xử lý
tài sản cầm cố phải tiến hành theo thủ tục bán đấu giá nếu khơng có thỏa thuận khác. 6
Khái biệt giữa đặt cọc và thế chấp:
• Khái niệm đặt cọc: Điều 328 BLDS 2015
• Khái niệm thế chấp: Điều 317 BLDS 2015
Đặt cọc
Là việc bên đặt cọc giao cho bên nhận đặt
cọc một khoản tiền, kim khí quý, đá quý
hoặc vật có giá trị khác trong một thời hạn
để đảm bảo giao kết hoặc thực hiện hợp
đồng. (khoản 1 Điều 328)
Bên đặt cọc là bên dùng tiền hoặc tiền
hoặc vật có tài sản khác của mình giao
cho bên kia giữ một thời gian nhất định để
đảm bảo giao kết và thực hiện hợp đồng
và bên nhận đặt cọc là bên nhận tiền hoặc
tài sản khác (Điều 328)
Tiền, vật có giá trị hoặc các vật thơng
thường khác mà bên đặt cọc giao cho bên
nhận đặt cọc
Thế chấp
Là việc của bên thế chấp dùng tài sản
thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ và khơng giao tài sản cho
bên nhận thế chấp. (Điều 317)
Bên thế chấp, bên nhận thế chấp và có
thể có thêm bên thứ ba giữ tài sản thế
chấp (khoản 2 Điều 317)
Động sản, bất động sản.
Tài sản được hình thành trong tương lai.
Tài sản đang cho thuê cũng như hoa lợi,
lợi tức thu được từ việc cho thuê tài sản
(nếu pháp luật có quy định và các bên
thỏa thuận.)
Tài sản thế chấp được bảo hiểm thì
khoản tiền bảo hiểm cũng có thể được
thế chấp. (Điều 318)
6 Đại học Luật TPHCM (2017), Giáo trình về Hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Đỗ Văn
Đại, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr. 301
19
Không cần lập bằng văn bản nhưng phải
nêu rõ số tiền, vật giao cho bên nhận đặt
cọc
Phải lập thành văn bản trong trường hợp
pháp luật quy định thì văn bản bảo lãnh
phải được công chứng, chứng thực (đăng
ký giao dịch bảo đảm).
Câu 3.2. Thay đổi giữa BLDS 2015 và BLDS 2015 về đặt cọc
Đối với đặt cọc, Điều 358 BLDS 2005 theo hướng: “Việc đặt cọc phải lập thành
văn bản”. Tuy nhiên, BLDS 2005 khơng nói rõ u cầu văn bản là yêu cầu về việc
chứng cứ của đặt cọc hay là yêu cầu để đặt cọc có hiệu lực. 7 Nhưng xét thực tế xét
xử, hầu hết các Tòa đều theo hướng yêu cầu để đặt cọc có hiệu lực. Từ đó dẫn đến
một bất cập là những thỏa thuận đặt cọc tuy không được lập thành văn bản
nhưng chứng minh được bằng sự thừa nhận của các bên và bằng việc chuyển
khoản vẫn bị vô hiệu. Trước bất cập trên cùng với xu hướng không đặt nặng vấn đề
hình thức của giao dịch như hiện nay, BLDS đã quyết định bỏ quy định về hình thức
đặt cọc.
Câu 3.3. Theo BLDS, khi nào bên đặt cọc mất cọc, bên nhận cọc bị phạt cọc?
Theo Điều 328 BLDS 2015 quy định về đặt cọc:
1. Đặt cọc là việc một bên (sau đây gọi là bên đặt cọc) giao cho bên kia
(sau đây gọi là bên nhận đặt cọc) một khoản tiền hoặc kim khí q, đá
q hoặc vật có giá trị khác (sau đây gọi chung là tài sản đặt cọc) trong
một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng.
2. Trường hợp hợp đồng được giao kết, thực hiện thì tài sản đặt cọc
được trả lại cho bên đặt cọc hoặc được trừ để thực hiện nghĩa vụ trả
tiền; nếu bên đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì tài sản
đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc; nếu bên nhận đặt cọc từ chối việc
giao kết, thực hiện hợp đồng thì phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc
và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp có
thỏa thuận khác.
7 Đỗ Văn Đại (2016), Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật dân sự năm 2015, Nxb. Hồng Đức –
Hội Luật gia Việt Nam, tr. 382.
20
Căn cứ theo khoản 2 Điều 328 của BLDS 2015, bên đặt cọc sẽ bị mất cọc khi từ
chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Khi đó tài
sản đặt cọc sẽ thuộc về bên nhận cọc.
Bên nhận cọc sẽ bị phạt cọc khi từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng trừ
trường hợp có thỏa thuận khác. Khi đó bên nhận cọc phải trả lại cho bên đặt cọc tài
sản đặt cọc, đồng thời trả một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc đó.
Câu 3.4. Nếu hợp đồng được đặt cọc khơng được giao kết, thực hiện vì lý do
khách quan, bên nhận cọc có nghĩa vụ trả lại tài sản đặt cọc cho bên đặt cọc
khơng? Vì sao?
Nếu hợp đồng dược đặt cọc không được giao kết, thực hiện vì lý do khách quan,
bên nhận cọc có nghĩa vụ trả lại tài sản đặt cọc cho bên đặt cọc và không bị phạt
cọc. Căn cứ vào điểm d khoản 1 của Nghị quyết 01/2003/NQ-HĐTP: “Trong các
trường hợp được hướng dẫn tại các điểm a và c mục 1 này, nếu cả hai bên cùng có
lỗi hoặc trong trường hợp có sự kiện bất khả kháng hoặc có trở ngại khách quan thì
khơng phạt cọc.”
Câu 3.5. Theo Quyết định được bình luận, bên đặt cọc đã chuyển tài sản đặt cọc
cho bên nhận đặt cọc như thế nào?
Bên đặt cọc đã chuyển tài sản đặt cọc cho bên nhận đặt cọc bằng hình thức
chuyển khoản, cụ thể là: “[…] Cơng ty Hồng Qn đặt cọc trước 1.000.000.000
đồng. Ngày 22/02/2008, Cơng ty Hồng Qn đã chuyển số tiền đặt cọc và tài
khoản của Công ty Ninh Thuận mở tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt
Nam – chi nhánh Ninh Thuận theo ủy nhiệm chi ngày 22/02/2008”.
Câu 3.6. Theo Toà giám đốc thẩm trong Quyết định được bình luận, tài sản đặt
cọc cịn thuộc sở hữu của bên đặt cọc khơng? Vì sao?
Theo Tịa giám đốc thẩm trong Quyết định được bình luận, thì trong trường hợp
này tài sản được đặt cọc vẫn còn thuộc sở hữu của bên đặt cọc, chưa thuộc quyền sở
hữu của bên nhận đặt cọc.
Tại khoản 1 Điều 328 BLDS 2015: “Đặt cọc là việc một bên (sau đây gọi là bên
đặt cọc) giao cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận đặt cọc) một khoản tiền hoặc
kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác (sau đây gọi chung là tài sản đặt cọc)
21
trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng”. Vì vậy, số tiền
1.000.000.000 đồng đặt cọc chưa thuộc quyền sở hữu của Công ty cổ phần du lịch
Ninh Thuận.
Và theo khoản 2 Điều này: “Trường hợp hợp đồng được giao kết, thực hiện thì
tài sản đặt cọc được trả lại cho bên đặt cọc hoặc được trừ để thực hiện nghĩa vụ trả
tiền”. Tuy nhiên hợp đồng mua bán cổ phần giữa công ty cổ phần du lịch Ninh
thuận và công ty cổ phần TV-TM-DV Hồng Qn khơng diễn ra thành cơng, vì
vậy phải chuyển trả số tiền cọc lại cho công ty cổ phần TV-TM-DV Hoàng Quân.
Câu 3.7. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Toà giám đốc thẩm
liên quan đến quyền sở hữu tài sản đặt cọc.
Hướng giải quyết trên của Toà giám đốc thẩm liên quan đến quyền sở hữu tài
sản đặt cọc là hồn tồn hợp lý.
Vì căn cứ theo khoản 1 điều 328 BLDS 2015 quy định: “Đặt cọc là việc một
bên (sau đây gọi là bên đặt cọc) giao cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận đặt cọc)
một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác (sau đây gọi
chung là tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện
hợp đồng.”
Vậy nên dù bên nhận đặt cọc chiếm hữu tài sản thì nó vẫn thuộc quyền sở hữu
của bên đặt cọc chứ không thuộc quyền sở hữu của bên nhận đặt cọc nếu hợp đồng
được diễn ra. Cùng với đó Tồ án sơ thẩm và phúc thẩm chưa xác minh, là rõ lý do
bà Hạnh chậm trễ hoàn tất thủ tục để được sang tên quyền sở hữu là lỗi chủ quan
của bà Hạnh hay là lỗi khách quan của bên thi hành án Dân sự chậm trễ trong việc
chuyển tên quyền sở hữu cho bà Hạnh để xử lý rõ ràng, khách quan hơn.
22
VẤN ĐỀ 4: BẢO LÃNH
Tóm tắt Quyết định số 02/2013/KDTM-GĐT ngày 08/1/2013 của Hội đồng
thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao:
Nguyên đơn: Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương ký Hợp đồng tín dụng
Bị đơn: là bà Tỉnh, chủ Doanh nghiệp tư nhân Đại Lộc Tân vay 900.000.000
đồng; với tài sản bảo đảm cho khoản vay là quyền sử dụng đất do vợ chồng ông
Miễn và bà Cà đem thế chấp cho Qũy tín dụng.
Sau khi vay tiền, bà Tỉnh chỉ mới trả được 270.000.000 đồng tiền gốc. Ngày
27/11/2007, Quỹ tín dụng khởi kiện u cầu Tịa án buộc bà Tỉnh phải trả tiền gốc
lẫn lãi, nếu không trả được thì buộc người bảo lãnh có trách nhiệm với số nợ. Hội
đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã yêu cầu xác minh hiệu lực của hợp
đồng thế chấp quyền sử dụng đất nêu trên, nếu hợp đồng đó có hiệu lực thì quan hệ
giữa ơng Miễn, bà Cà với Quỹ tín dụng là quan hệ bảo lãnh, nghĩa là ơng bà có
nghĩa vụ trả nợ thay cho bà Tỉnh nêu bà Tỉnh không nợ hoặc trả khơng đủ cho Quỹ
tín dụng.
Tóm tắt Quyết định số 968/2011/DS-GĐT ngày 27/12/2011 của Tòa dân sự Tòa
án nhân dân tối cao về “V/v Tranh chấp hợp đồng bảo lãnh”
Bà Nhung cho bà Mát vay tiền và có giấy bảo lãnh của ơng Ân và bà Thắng, sau
đó bà Mát trả được 8 tháng rồi không trả tiếp tiền gốc và lãi nên bà Nhung khởi
kiện. Tòa sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của bà Nhung, cho rằng bà Mát và bà Thắng
cùng có nghĩa vụ liên đới chịu trách nhiệm trả tiền cho bà Nhung. Toà sơ thẩm xác
định bà Mát và bà Thắng cùng có nghĩa vụ liên đới chịu trách nhiệm trả nợ cho bà
Nhung. Do đó, bà Nhung lại làm đơn khởi kiện yêu cầu bà Thắng phải trả tiền thay
cho bà Mát. Tòa Giám đốc thẩm xét thấy: Trước hết cần xác định bà Mát phải là
người thực hiện nghĩa vụ dân sự của mình đối với bà Nhung. Nếu bà Mát khơng có
khả năng thực hiện hoặc chỉ có thể thực hiện được một phần thì phần khơng thực
hiện được bà Thắng và ơng Ân mới phải có trách nhiệm thực hiện thay. TANDTC
huỷ bản án dân sự sơ thẩm và phúc thẩm, giao hồ sơ cho TAND huyện Trảng Bom,
tỉnh Đồng Nai xét xử lại.
23
Câu 4.1. Những đặc trưng của bảo lãnh
Khái niệm: Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết
với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho
bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn thực hiện
nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện không
đúng nghĩa vụ. (khoản 1 Điều 335 BLDS 2015)
Đặc trưng:
Chủ thể của bảo lãnh gồm ba bên: bên bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh và bên được
bảo lãnh. Bên được bảo lãnh luôn là bên có nghĩa vụ trong quan hệ nghĩa vụ được
bảo đảm thực hiện bằng biện pháp bảo lãnh đó. Họ có thể biết hoặc không biết về
việc xác lập quan hệ bảo lãnh để đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa vụ của mình
nhưng đều phải hồn trả cho bên bảo lãnh các lợi ích mà bên đó đã thực hiện thay
mình.
Đối tượng của bảo lãnh: Tài sản hoặc cơng việc. Đối tượng của bảo lãnh là các
cam kết của người bảo lãnh và người nhận bảo lãnh, tuy nhiên để thực hiện được
cam kết đó thì người bảo lãnh phải có tài sản, cơng việc phù hợp để đáp lại lợi ích
của bên nhận bảo lãnh. Lợi ích mà các chủ thể hướng đến là lợi ích vật chất nên
người bảo lãnh phải bằng tài sản hoặc bằng việc thực hiện công việc thay cho bên
được bảo lãnh và người bảo lãnh phải có khả năng thực hiện được cơng việc đó.
Phạm vi bảo lãnh: Điều 336 BLDS 2015 cho biết:
1. Bên bảo lãnh phải cam kết bảo lãnh một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ
cho bên được bảo lãnh.
2. Nghĩa vụ bảo lãnh bao gồm cả tiền lãi trên nợ gốc, tiền phạt, tiền bồi
thường thiệt hại, lãi trên số tiền chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận
khác.
3. Các bên thỏa thuận sử dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản để đảm
bảo thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
24
4. Trường hợp nghĩa vụ bảo lãnh và nghĩa vụ phát sinh trong tương lại
thì phạm vi bảo lãnh khơng bao gồm nghĩa vụ phát sinh sau khi người
bảo lãnh chết hoặc pháp nhân bảo lãnh chấm dứt tồn tại.
Như vậy, nghĩa vụ có thể được bảo đảm một phần hoặc toàn bộ theo thỏa thuận
hoặc theo quy định của pháp luật, nếu khơng có thỏa thuận và pháp luật khơng có
quy định khác thì nghĩa vụ coi như được bảo đảm tồn bộ.
Chế định bảo lãnh ln làm phát sinh hai mối quan hệ:
Mối quan hệ giữa bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh, quy định tại Điều 339
BLDS 2015. Theo đó, điều luật này tập trung chủ yếu vào việc bảo vệ quyền lợi của
bên bảo lãnh.
Mối quan hệ giữa bên bảo lãnh và bên được bảo lãnh, quy định tại Điều 337 và
340 BLDS 2015.
Thù lao: Điều 337 BLDS 2015: “Bên bảo lãnh được hưởng thù lao nếu bên bảo
lãnh và bên được bảo lãnh có thỏa thuận.”
Câu 4.2 Những thay đổi giữa BLDS 2015 và BLDS 2005 về bảo lãnh.
Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về vấn đề bảo lãnh là:
Thứ nhất, về khái niệm bảo lãnh: BLDS 2015 đã định nghĩa bảo lãnh là “Bảo
lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền
(sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ
(sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà
bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.” Phần in
đậm trên là điểm được bổ sung ở BLDS 2015, bổ sung này chỉ mang tính kĩ thuật để
điều luật rõ nghĩa hơn, chứ không thay đổi về nghĩa của điều luật.
Thứ hai, về phạm vi bảo lãnh có những điểm mới được bổ sung sau đây:
• Đầu tiên là quy định thêm về phạm vi bảo lãnh bao gồm cả “lãi trên số
tiền chậm trả” được quy định tại khoản 2 Điều 336 BLDS 20158.
8 Nghĩa vụ bảo lãnh bao gồm cả tiền lãi trên nợ gốc, tiền phạt, tiền bồi thường thiệt hại, lãi trên số tiền chậm
trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
25
• Tiếp theo, về hướng trách nhiệm bảo lãnh của người bảo lãnh khi người
này chết. BLDS 2015 đã có một quy định mới, được đánh giá là trung
hòa và phù hợp với thực tiễn, đó là khi người bảo lãnh chết thì nghĩa vụ
bảo lãnh kết thúc từ thời điểm chết.
Thứ ba, về bảo đảm nghĩa vụ bảo lãnh, so với BLDS 2005 thì BLDS 2015 đã
quy định mới về nghĩa vụ bảo đảm, cụ thể theo quy định tại khoản 3 Điều 336
BLDS 2015: “Các bên có thể thỏa thuận sử dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản
để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh”.
Thứ tư, quan hệ giữa bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh, được bảo lãnh được
quy điịnh tại Điều 340 BLDS 2015: “Bên bảo lãnh có quyền yêu cầu bên được bảo
lãnh thực hiện nghĩa vụ đối với mình trong phạm vi nghĩa vụ bảo lãnh đã thực hiện,
trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Quy định mới này giúp người đọc hiểu chính
xác quyền của bên bảo lãnh đối với bên được bảo lãnh, bởi lẽ theo quy định cũ tại
Điều 367 BLDS 2005 thì có quy định khiến người độc hiểu là người bảo lãnh chỉ
được quyền yêu cầu bên được bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đối với mình khi mình đã
thực hiện xong tồn bộ nghĩa vụ.
Thứ năm, miễn việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, Điều 341 BLDS 2015 có sự
thay đổi tại khoản 1 và bổ sung khoản 3. Cụ thể, theo quy định tại khoản 1 Điều 341
BLDS 2015: “Trường hợp bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh mà bên
nhận bảo lãnh miễn việc thực hiện nghĩa vụ cho bên bảo lãnh thì bên được bảo
lãnh khơng phải thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận bảo lãnh, trừ trường hợp có
thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định khác”, mặt khác, BLDS 2005 có quy định:
“Trong trường hợp bên nhận bảo lãnh miễn việc thực hiện nghĩa vụ cho bên bảo
lãnh thì bên được bảo lãnh vẫn phải thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận bảo lãnh,
trừ trường hợp có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định phải liên đới thực hiện
nghĩa vụ bảo lãnh”. BLDS 2015 đã có sự thay đổi lớn về nội dung ở điểm này, khi
công nhận quyền miễn trừ thực hiện nghĩa vụ của bên được bảo lãnh khi bên nhận
bảo lãnh miễn việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh cho người bảo lãnh.
Thứ sáu, về trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ của người bảo lãnh được quy định
tại Điều 342 BLDS 2015 và Điều 369 BLDS 2005. Về sự thay đổi, thì BLDS 2015
có cách tiếp cạnh rõ ràng và phù hợp hơn. Ngoài ra, quy định tại khoản 2 Điều 342