Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

THẢO LUẬN DÂN SỰ 2 BUỔI THỨ NĂM: TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ, VI PHẠM HỢP ĐỒNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.17 KB, 26 trang )

MỤC LỤC
VẤN ĐỀ 1: BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO KHÔNG THỰC HIỆN ĐÚNG
HỢP ĐỒNG GÂY RA
Câu 1.1. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng theo
pháp luật Việt Nam? Nêu rõ những thay đổi trong BLDS 2015 so với BLDS 2005
về Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng......................2
Câu 1.2. Trong tình huống trên, có việc xâm phạm tới yếu tố nhân thân của bà
Nguyễn không? Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bà Nguyễn
đã hội đủ chưa? Vì sao?.............................................................................................3
Câu 1.3. Theo quy định hiện hành, những thiệt hại vật chất nào do vi phạm hợp
đồng gây ra được bồi thường? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.................................3
Câu 1.4. BLDS có cho phép yêu cầu bồi thường tổn thất về tinh thần phát sinh do vi
phạm hợp đồng không? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời...........................................4
Câu 1.5. Theo quy định hiện hành, bà Nguyễn có được bồi thường tổn thất về tinh
thần khơng? Vì sao? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời................................................5
VẤN ĐỀ 2: PHẠT VI PHẠM HỢP ĐỒNG
Câu 2.1. Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về phạt vi phạm hợp đồng. 7
Câu 2.2. Điểm giống giữa đặt cọc và phạt vi phạm hợp đồng...................................8
Câu 2.3. Khoản tiền trả trước 30% được Tòa án xác định là tiền đặt cọc hay là nội
dung của vi phạm hợp đồng?.....................................................................................9
Câu 2.4 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án liên quan đến khoản
tiền trả trước 30%......................................................................................................9
Câu 2.5. Trong Quyết định của Trọng tài, mức phạt vi phạm hợp đồng được giới
hạn như thế nào?......................................................................................................10
Câu 2.6. So với văn bản, mức giới hạn phạt vi phạm trong Quyết định có thuyết
phục khơng? Vì sao?...............................................................................................10
Câu 2.7. Trong pháp luật dân sự và pháp luật thương mại, phạt vi phạm hợp đồng có
được kết hợp với bồi thường thiệt hại khơng nếu các bên khơng có thỏa thuận về
vấn đế này? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời................................................................11



Câu 2.8. Trong quyết định Trọng tài, phạt vi phạm hợp đồng có được kết hợp với
bồi thường thiệt hại không? Đoạn nào của quyết định cho câu trả lời?...................12
Câu 2.9. Điểm giống và khác nhau giữa phạt vi phạm hợp đồng và bồi thường thiệt
hại do không thực hiện đúng hợp đồng...................................................................12
Câu 2.10. Theo văn bản, khoản tiền do kết hợp vi phạm khoản tiền do kết hợp phạt
vi phạm với bồi thường thiệt hại có bị giới hạn khơng ? Vì sao ?...........................13
Câu 2.11. Trong quyết định Trọng tài, khoản tiền do kết hợp phạt vi phạm và bồi
thường thiệt hại có bị giới hạn khơng? Suy nghĩ của anh chị về giải pháp trong
Quyết định về vấn đề này........................................................................................14
Câu 2.12. Suy nghĩ của anh/chị về khả năng Tòa án được quyền giảm mức phạt vi
phạm hợp đồng trong pháp luật Việt Nam...............................................................14
VẤN ĐỀ 3: SỰ KIỆN BẤT KHẢ KHÁNG
Câu 3.1. Những điều kiện để một sự kiện được coi là bất khả kháng? Và cho biết
các bên có thể thỏa thuận với nhau về trường hợp có sự kiện bất khả kháng không?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời...................................................................................16
Câu 3.2. Những hệ quả pháp lý trong trường hợp hợp đồng không thể thực hiện
được do sự kiện bất khả kháng trong BLDS và Luật thương mại sửa đổi...............16
Câu 3.3. Số hàng trên có bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng khơng? Phân tích các
điều kiện hình thành sự kiện bất khả kháng trong tình huống trên..........................17
Câu 3.4. Nếu hàng bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng, anh Văn có phải bồi
thường cho anh Bình về việc hàng bị hư hỏng khơng? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
................................................................................................................................ 17
Câu 3.5. Nếu hàng bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng và anh Văn thỏa thuận bồi
thường cho anh Bình giá trị hàng bị hư hỏng thì anh Văn có được u cầu Cơng ty
bảo hiểm thanh tốn khoản tiền này khơng? Tìm câu trả lời nhìn từ góc độ văn bản
và thực tiễn xét xử...................................................................................................18
VẤN ĐỀ 4: TÌM KIẾM BẢN ÁN LIÊN QUAN ĐẾN CHẬM THỰC HIỆN
NGHĨA VỤ THANH TOÁN



3

VẤN ĐỀ 1: BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO KHÔNG THỰC HIỆN
ĐÚNG HỢP ĐỒNG GÂY RA
Tóm tắt bản án số 121/2011/KDTM-PT ngày 26/12/2011 của Tịa án nhân dân
TP. Hồ Chí Minh về vụ việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán”.
Nguyên đơn: Công ty TNHH Sản xuất Thương mại Dịch vụ Tân Việt
Bị đơn: Công ty TNHH Tường Long
Công ty Tân Việt và Cơng ty Tường Long có ký hợp đồng và phụ lục để mua vải
thành phẩm, ngay sau khi ký Cơng ty Tân Việt đã thanh tốn trước 30% đơn hàng
(tiền cọc), 40% giá trị đơn hàng sẽ được thanh tốn ngay sau khi bên bị đơn giao
hàng hồn tất, và thống nhất 30% cịn lại sẽ thanh tốn trong vịng 30 ngày kể từ
ngày thanh tốn cuối cùng. Sau đó, phía cơng ty Tường Long có cơng văn gửi cho
ngun đơn u cầu tăng giá hàng vì lí do giá nguyên liệu tăng, Tuy nhiên, công ty
Tân Việt không đồng ý việc tăng giá này. Hai bên không đồng ý tiếp tục hợp đồng,
và bị đơn đã vi phạm tự ý hủy hợp đồng do lí do khách quan, nên nguyên đơn yêu
cầu bị đơn chịu phạt 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm. Tại phiên tòa sơ
thẩm, Tòa chỉ chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn, không chấp nhận phần
yêu cầu về việc địi bị đơn thanh tốn số tiền phạt cọc nên phía cơng ty Tân Việt đã
kháng cáo.
Tại phiên tịa phúc thẩm, Tòa án đã nhận định rằng đặt cọc là việc đảm bảo cho
việc thực hiện đợt giao hàng lần thứ nhất của hợp đồng là chưa chính xác. Trong
trường hợp này giá trị toàn bộ hợp đồng mà phía nguyên đơn đã giao trước cho bị
đơn 30% tổng giá trị toàn bộ hợp đồng theo thỏa thuận. Và Tịa đã chỉ ra rằng tuy
phía bị đơn có vi phạm hợp đồng nhưng việc nguyên đơn áp dụng điều luật khơng
phù hợp nên HĐXX khơng có cơ sở để chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên
đơn. Quyết định khong chấp nhận yêu cầu kháng cáo của công ty Tân Việt và giữ
lại bản án sơ thẩm.



4

Câu 1.1. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng theo
pháp luật Việt Nam? Nêu rõ những thay đổi trong BLDS 2015 so với BLDS 2005
về Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng.
Theo khoản 1 Điều 351 BLDS 2015 quy định về Trách nhiệm dân sự do vi phạm
nghĩa vụ: “Bên có nghĩa vụ mà vi phạm nghĩa vụ thì phải chịu trách nhiệm dân sự
đối với bên có quyền.”
Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng theo pháp luật
Việt Nam được hiểu nếu một bên không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa
vụ đã cam kết thì phải chịu trách nhiệm đối với bên kia, tức là bên vi phạm phải tiếp
tục thực hiện nghĩa vụ, hoặc có thể bị áp dụng các hình thức trách nhiệm như bồi
thường thiệt hại nếu có thiệt hại xảy ra. 1 Trong Pháp luật Việt Nam, các căn cứ phát
sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng:
 Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ (Điều 351 BLDS 2015)
 Trách nhiệm dân sự do vi phạm do không thực hiện nghĩa vụ giao vật
(Điều 356 BLDS 2015)
 Trách nhiệm dân sự do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền (ĐIều 357 BLDS
2015)
 Trách nhiệm dân sự do không thực hiện nghĩa vụ phải thực hiện hoặc
không thực hiện một công việc (Điều 358 BLDS 2015)
 Trách nhiệm dân sự do chậm tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ (Điều 359
BLDS 2015)
 Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ (Điều 360 BLDS
2015)
Những thay đổi của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về Căn cứ phát sinh trách
nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng:
BLDS 2005 có những quy định chung về hợp đồng (Điều 388 và tiếp theo)
nhưng không có quy định về bồi thường thiệt hại trong phần này. Tại Điều 307
BLDS 2005 có tiêu đề là “trách nhiệm bồi thường thiệt hại” nhưng nội dung của

điều luật này chỉ đề cập đến thiệt hại mà không cho biết để có trách nhiệm bồi

1 Lê Thị Diễm Phương, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng
Đức –Hội Luật gia Việt Nam, tr.327.


5

thường thiệt hại thì phải hội đủ điều kiện nào. Và ở BLDS 2015 đã làm rõ hơn với
Điều 360 về Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ.
Câu 1.2. Trong tình huống trên, có việc xâm phạm tới yếu tố nhân thân của bà
Nguyễn không? Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bà
Nguyễn đã hội đủ chưa? Vì sao?
Trong tình huống trên, không xâm phạm tới yếu tố nhân thân của bà Nguyễn.
Mặc dù việc phẫu thuật của ông Lại làm cho núm vú phải của bà bị mất, là có vi
phạm hợp đồng. Nhưng việc phẫu thuật đó sự đồng ý tự nguyện của bà Nguyễn, nên
không thể coi là hành vi của ông Lại đã xâm phạm đến sức khỏe của bà.
Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bà Nguyễn đã hội đủ.
Thứ nhất, ông Lại đã vi phạm hợp đồng giữa ông và bà Nguyễn ở điều “không
được đụng đến núm vú”. Tuy nhiên, vụ việc cũng đã cho thấy, ông đã ảnh hưởng
đến núm vụ phải của bà. Như vậy, ơng Lại có vi phạm hợp đồng.
Thứ hai, đã có thiệt hại xảy ra trên thực tế, đó là bà Nguyễn đã mất núm vú phải.
Thứ ba, ơng Lại là người phụ trách chính của ca phẫu thuật ngực của bà Nguyễn
và trong hợp đồng cũng ghi rõ là không được đụng đến núm vú phải khi phẫu thuật.
Do đó, chính hành vi khơng thực hiện đúng hợp đồng của ông đã gây ra tổn hại về
mặt sức khỏe cho bà Nguyễn. (hậu quả)
Chính vì thế, căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bà Nguyễn
đã hội đủ.
Câu 1.3. Theo quy định hiện hành, những thiệt hại vật chất nào do vi phạm hợp
đồng gây ra được bồi thường? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.

Theo khoản 2 Điều 361 BLDS 2015 quy định: “Thiệt hại về vật chất là tổn thất
vật chất thực tế xác định được, bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn
chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút.”


6

Theo quan điểm của chuyên gia: “Thiệt hại vật chất là những tổn thất vật chất
cụ thể, có thể cảm nhận được bằng các giác quan, có thể tính tốn được bằng
tiền”2
Hoặc cũng có quan điểm cho rằng: “Thiệt hại về vật chất là sự biến đổi theo
chiều hướng xấu đi đối với tài sản hoặc lợi ích vật chất của một người, thể hiện ở
những tổn thất thực tế tính được thành tiền mà người bị thiệt hại phải gánh chịu”3.
Theo Điều 589 BLDS 2015 quy định:
Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm bao gồm:
1. Tài sản bị mất, bị hủy hoại hoặc bị hư hỏng.
2. Lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản bị mất, bị giảm sút.
3. Chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại.
4. Thiệt hại khác do luật quy định.
Từ những căn cứ trên có thể thấy rằng những thiệt hại vật chất làm căn cứ phát
sinh trách nhiệm bồi thường khá đa dạng theo quy định của pháp luật hiện hành, có
thể là thiệt hại do tổn thất về tài sản, chi phí cho việc điều trị bệnh, thu nhập bị mất
hoặc giảm sút… Các chi phí này có thể được tính tốn thành tiền để làm căn cứ xác
định mức bồi thường thiệt hại.
Câu 1.4. BLDS có cho phép yêu cầu bồi thường tổn thất về tinh thần phát sinh
do vi phạm hợp đồng không? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
BLDS 2015 đã có quy định cho phép yêu cầu bồi thường thiệt hại về tinh thần
phát sinh do vi phạm hợp đồng.
Cơ sở pháp lý: khoản 3 Điều 419 BLDS 2015: “Theo u cầu của người có
quyền, Tịa án có thể buộc người có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại về tinh thần cho

người có quyền. Mức bồi thường do Tòa án quyết định căn cứ vào nội dung vụ
việc.”
2 Tưởng Duy Lượng (2005), Pháp luật dân sự và thực tiễn xét xử, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự Thật, Hà
Nội, tr.269.
3 Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2011), Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền nhân thân
của cá nhân theo quy định tại Bộ luật dân sự năm 2005, Chế Mỹ Phương Đài, Nxb Hồng Đức – Hội luật gia
Việt Nam, tr.55


7

Câu 1.5. Theo quy định hiện hành, bà Nguyễn có được bồi thường tổn thất về
tinh thần khơng? Vì sao? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
Ở Việt Nam, khoản 1 Điều 307 BLDS 2005 quy định: “Trách nhiệm bồi thường
thiệt hại bao gồm trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất, trách nhiệm bồi
thường bù đắp tổn thất về tinh thần”. Như vậy, tổn thất về tinh thần được bồi
thường và quy định này áp dụng cho nghĩa vụ dân sự nói chung nên cũng được áp
dụng cho nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng nhưng khi đi vào chi tiết thì khoản 3 Điều
307 nêu trên lại khoanh vùng phạm vi áp dụng với nội dung: “Người gây thiệt hại
về tinh thần cho người khác do xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân
phẩm, uy tín của người đó thì ngồi việc chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải
chính cơng khai còn phải bồi thường một khoản tiền để bù đắp tổn thất về tinh thần
cho người bị thiệt hại”. Quy định này vẫn được giữ lại trong BLDS 2015 với một
số thay đổi tại khoản 3 Điều 361 theo đó: “Thiệt hại về tinh thần là tổn thất về tinh
thần do bị xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín và các
lợi ích nhân thân khác của một chủ thể”. Ở đây, thiệt hại về tinh thần được bồi
thường khi “bị xâm phạm” tới các lợi ích nhân thân; trong khi đó đây là điều kiện
khó phát sinh trong lĩnh vực hợp đồng.
Trước đây, Luật Thương mại 1997 yêu cầu phải có “thiệt hại vật chất” nên có
thể suy luận là chỉ tổn thất vật chất mới được bồi thường nhưng Luật Thương mại

2005 đã có thay đổi và chỉ yêu cầu phải có “thiệt hại thực tế”. Ở đây, các nhà làm
luật chỉ nêu thiệt hại thực tế chứ khơng nói thiệt hại vật chất trong khi đó thiệt hại
thực tế có thể khơng chỉ là thiệt hại vật chất mà có thể bao gồm cả tổn thất về tinh
thần. Với cách quy định như Luật Thương mại 2005, chúng ta có thể và nên suy
luận tổn thất về tinh thần được bồi thường nếu nó thực tế tồn tại. Như vậy, nhìn từ
góc độ văn bản, tổn thất về tinh thần trong lĩnh vực hợp đồng cũng được bồi thường
và thực tiễn một số vụ án cũng đã theo hướng này. Với việc kế thừa thực tiễn cũng
như một số kinh nghiệm từ pháp luật nước ngồi, BLDS 2015 đã có một quy định
mới về tổn thất về tinh thần khi có vi phạm hợp đồng. Đó chính là khoản 3 Điều
419 về Thiệt hại được bồi thường do vi phạm hợp đồng, theo đó: “Theo u cầu
của người có quyền, Tịa án có thể buộc người có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại về


8

tinh thần cho người có quyền. Mức bồi thường do Tòa án quyết định căn cứ vào nội
dung vụ việc”4.

4 Đỗ Văn Đại (2018), Luật hợp đồng Việt Nam – Bản án và Bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật
gia Việt Nam, tr. 504.


9

VẤN ĐỀ 2: PHẠT VI PHẠM HỢP ĐỒNG
Tóm tắt Phán quyết trọng tài phạt vi phạm hợp đồng
Nguyên đơn: Công ty Hà Việt
Bị đơn: Công ty Shanghai CJS International
Theo hợp đồng, bị đơn có nghĩa vụ xếp hàng trước ngày 20/10/2006, nhưng đến
ngày trên, bị đơn vẫn chưa thực hiện. Trong ngày đó, ơng Jung - giám dốc điều

hành cơng ty bán gián tiếp có gửi mail tăng giá nhưng không được chấp nhận. Ngày
27/10, nguyên đơn nh6ận được email hủy hợp đồng từ ông Jung. Nguyên đơn khởi
kiện yêu cầu bị đơn bồi thường.
Tòa cho rằng mức phạt hợp đồng 30% là quá cao so với quy định Luật thương
mại 2005. Luật này quy định mức phạt hợp đồng không quá 8% giá trị hợp đồng.
Do vậy, bị đơn phải thanh toán khoản tiền phạt tương đương với 8% giá trị của hợp
đồng. Tuy nhiên, Điều 301 Luật Thương mại cũng quy định ngoài mức phạt trên,
bên bị thiệt hại có quyền đối với bồi thường thiệt hại thực tế. Do các bên đã thỏa
thuận về mức bồi thường thiệt hại tối đa là 30% tổng giả trị hợp đồng, nên việc cho
phép bồi thường ở mức cao hơn sẽ gây bất ngờ cho bị đơn. Nên HĐTT cho rằng có
thể xét bồi thường thiệt hại thực tế cho nguyên đơn, song tổng mức bồi thường thiệt
hại và khoản phạt vi phạm sẽ không được cao quá 30% giá trị hợp đồng.
*Đối với vụ việc thứ nhất*
Câu 2.1. Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về phạt vi phạm hợp đồng
Về mức phạt vi phạm tại khoản 2 Điều 422 BLDS 2005 quy định: “Mức phạt vi
phạm do các bên thỏa thuận”.
Tại khoản 2 Điều 418 BLDS 2015 quy định: “Mức phạt vi phạm do các bên
thỏa thuận, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác”.
BLDS 2015 có bổ sung quy định về mức phạt vi phạm trong trường hợp “luật
liên quan có quy định” ngoài trường hợp các bên thỏa thuận so với BLDS 2005,
BLDS 2015 bổ sung quy định trên bởi lẽ hiện nay vẫn có luật quy định khác về mức


10

phạt như Luật xây dựng, Luật thương mại có quy định về mức phạt tối đa các bên
khơng được hồn toàn tự do thỏa thuận).
Khoản 3 Điều 422 BLDS 2005 : “Các bên có thể thỏa thuận về việc bên vi
phạm nghĩa vụ chi phải nộp tiền phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại
hoặc vừa phải nộp phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại; nếu khơng có

thỏa thuận trước về mức bồi thường thiệt hại thì phải bồi thường tồn bộ thiệt hại”
Khoản 3 Điều 418 BLDS 2015: “Các bên có thể thỏa thuận về việc bên vi phạm
nghĩa vụ chi phải chịu phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa
phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại”
BLDS 2015 đã bỏ đi quy định nếu không có thỏa thuận trước về mức bồi thường
thiệt hại thì phải bồi thường tồn bộ thiệt hại vì đây là vấn đề bồi thường thiệt hại
đã được quy định tại Điều 13, Điều 360 BLDS 2015.
Về mối quan hệ giữa phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại, BLDS 2015 vẫn theo
hướng nếu khơng có thỏa thuận cụ thể về việc kết hợp hai chế tài này thì thỏa thuận
phạt vi phạm loại trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại (có thỏa thuận về phạt vi
phạm mà khơng có thỏa thuận về sự kết hợp thì chỉ áp dụng phạt vi phạm).
Câu 2.2. Điểm giống giữa đặt cọc và phạt vi phạm hợp đồng
Theo khoản 1 Điều 328 BLDS 2015: “Đặt cọc là việc một bên (sau đây gọi là
bên đặt cọc) giao cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận đặt cọc) một khoản tiền
hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác (sau đây gọi chung là tài sản đặt
cọc) trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng.”
Phạt vi phạm hợp đồng là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng giữa
các bên khi chưa có hành vi vi phạm để thúc đẩy các bên nghiêm túc thực hiện
nghĩa vụ theo hợp đồng. Bên vi phạm hợp đồng phải trả cho bên kia tiền phạt hợp
đồng. Thực chất, tiền phạt này là tiền đền bù vật chất cho bên bị vi phạm, không
phụ thuộc vào việc có hay khơng có thiệt hại. Ngồi ra, nếu phải chịu phạt vi phạm
rồi thì khơng cần phải bồi thường thiệt hại nữa. Chỉ khi các bên có thỏa thuận vừa
phạt vi phạm vừa phải bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm mới phải bồi thường
thiệt hại.


11

Như vậy, điểm giống nhau giữa đặt cọc và vi phạm hợp đồng đều là biện pháp
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng giữa các bên, đều là trao cho bên kia 1 khoản

tiền. Đều do các bên thỏa thuận.
Câu 2.3. Khoản tiền trả trước 30% được Tòa án xác định là tiền đặt cọc hay là
nội dung của vi phạm hợp đồng?
Khoản tiền trả trước 30% được Tòa án xác định là tiền đặt cọc.
Đoạn trong bản án cho thấy:
Xét thấy, theo khoản 3 Điều 4 Hợp đồng kinh tế số 01-10/TL-TV ngày
01/10/2010 các bên đã thỏa thuận: ngay sau khi kí hợp đồng, bên mua
(Cơng ty Tân Việt) phải thanh tốn trước cho bên bán (Cơng ty Tường
Long) 30% giá trị đơn hàng gọi là tiền đặt cọc, 40% giá trị đơn hàng
thanh toán ngay sau khi bên Cơng ty Tường Long giao hàng hồn tất,
30% cịn lại sẽ thanh tốn trong vịng 30 ngày kể từ ngày thanh toán
cuối cùng. Do vậy, số tiền thanh toán đợt 1 là 30% giá trị đơn hàng
(406.920.000 đồng) được xác định là tiền đặt cọc.
Câu 2.4 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án liên quan đến
khoản tiền trả trước 30%.
Trong quyết định được bình luận trên, Tòa án đã theo hướng khoản tiền trả trước
30% là khoản tiền đặt cọc. Tuy nhiên, Tòa án lại giải quyết khoản tiền này theo
hướng khá lạ là đã dựa vào quy định tại khoản 2 Điều 358 BLDS 2005 để cho rằng,
biện pháp này chỉ áp dụng khi bên nhận cọc từ chối thực hiện hợp đồng và bị đơn
khơng phải chịu phạt cọc vì bị đơn khơng từ chối thực hiện hợp đồng. Hướng giải
quyết này là khơng thuyết phục dựa trên những phân tích sau đây:
Thứ nhất, theo quy định tại khoản 1 Điều 328 BLDS 2015: “Đặt cọc là việc một
bên giao cho bên kia một khoản tiền hoặc kim khí quí, đá quý hoặc vật có giá trị
khác (sau đây gọi là tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc
thực hiện hợp đồng dân sự”. Theo quy định này thì đặt cọc có thể bảo đảm việc
thực hiện nghĩa vụ trong hai trường hợp đó là q trình giao kết hoặc thực hiện hợp
đồng. Đối với quá trình thực hiện hợp đồng thì ta cần hiểu rằng, biện pháp đặt cọc
đưa áp dụng cho việc các bên phải thực hiện tồn bộ nghĩa vụ ở đây thì phía bị đơn



12

phải tiến hành giao số vải theo đúng như thỏa thuận trong hợp đồng. Nhưng trong
trường hợp này, phía bị đơn đã không tự ý tăng giá khiến và hủy bỏ hợp đồng là đã
vi phạm nghĩa vụ trong đặt cọc. Cho nên, cần phạt đặt cọc trong trường hợp này.
Thứ hai, việc Tòa án áp dụng khoản 2 Điều 358 BLDS 2005 để cho rằng bị đơn
không từ chối ngay từ ban đầu, mà đã đi vào thực hiện. Hướng giải quyết này của
Tồ án là khơng chính xác vì bản chất của đặt cọc là nhằm tăng trách nhiệm của các
bên để hợp đồng được thực hiện đầy đủ. Hướng giải quyết như thế này sẽ đem đến
tiền lệ chưa từng có. Bởi lẽ, nếu các bên xác lập một hợp đồng đặt cọc để bảo đảm
cho quá trình thực hiện hợp đồng nhưng trong quá trình thực hiện một bên lại đổi ý,
khiến việc thực hiện hợp đồng khơng được tiếp tục, bên cịn lại bị thiệt hại nhưng
khơng có khoản tiền phạt từ đặt cọc. Thì từ đó, đặt cọc sẽ trở nên khơng có tác dụng
răn đe các bên và nếu đi theo hướng này thì chế định này trên thực tế sẽ rất khó áp
dụng.
Câu 2.5. Trong Quyết định của Trọng tài, mức phạt vi phạm hợp đồng được giới
hạn như thế nào?
Trong Quyết định của Trọng tài, thỏa thuận phạt 30% giá trị Hợp đồng của các
bên quy định tại Điều 5 của Hợp đồng là không phù hợp với quy định theo Điều
301, Luật Thương mại 2005. Cụ thể là Luật Thương mại quy định mức phạt hợp
đồng không quá 8% giá trị của Hợp đồng nên điều khoản này vô hiệu phần mức
phạt Hợp đồng cao hơn 8% giá trị Hợp đồng.
*Đối với vụ việc thứ hai*
Câu 2.6. So với văn bản, mức giới hạn phạt vi phạm trong Quyết định có thuyết
phục khơng? Vì sao?
So với văn bản, mức giới hạn phạt vi phạm trong Quyết định là hợp chưa phù
hợp vì theo pháp luật Dân sự và Thương mại hiện hành chưa có quy định nào cho
phép Tịa án có thể tăng giảm mức hình phạt, hoặc giới hạn mức hình phạt ở con số
tối đa 8%. Tuy nhiên, xét trên góc độ thực tiễn thì nhiều Bản án đã áp dụng giảm
mức hình phạt ở mức tối đa là 8%. Khi cho các bên tự do thỏa thuận mức phạt

(khơng giới hạn tối đa) thì có thể sẽ dẫn đến tình trạng cả hai bên thỏa thuận mức
phạt cao hơn rất nhiều so với thiệt hại thực tế, nên việc cho phép giới hạn mức phạt


13

tối đa, hoặc cho phép Tịa giảm mức hình phạt xuống ở mức hợp lý thì sẽ thỏa đáng
hơn.
Câu 2.7. Trong pháp luật dân sự và pháp luật thương mại, phạt vi phạm hợp
đồng có được kết hợp với bồi thường thiệt hại khơng nếu các bên khơng có thỏa
thuận về vấn đế này? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trong pháp luật dân sự, khoản 3 Điều 418 quy định:
Các bên có thể thỏa thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu
phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải chịu
phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại.
Trường hợp các bên có thỏa thuận về phạt vi phạm nhưng không thỏa
thuận về việc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt
hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm.
Như vậy, phạt vi phạm có thể kết hợp với bồi thường thiệt hại nếu có thỏa thuận
cho phép kết hợp hai biện pháp này. Nếu các bên khơng có thỏa thuận về vấn đề này
thì khơng thể đương nhiên kết hợp hai biện pháp trong pháp luật dân sự.
Trong pháp luật thương mại, Điều 316 quy định: “Một bên không bị mất
quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với tổn thất do vi phạm hợp đồng của bên
kia khi đã áp dụng các chế tài khác.” Và theo khoản 2 Điều 307 quy định: “Trường
hợp các bên có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm có quyền áp dụng cả
chế tài phạt vi phạm và buộc bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp Luật này có quy
định khác.”
Luật thương mại quy định bên bị vi phạm có thể áp dụng hai chế tài cùng một
lúc. Đây là điểm khác biệt so với pháp luật dân sự vì, ở pháp luật thương mại, hai
chế tài này đương nhiên được kết hợp với nhau và không cần thỏa thuận về sự kết

hợp này như trong pháp luật dân sự.5 Nếu dựa theo nguyên tắc áp dụng pháp luật
chuyên ngành trước, pháp luật chung sau thì có thể hiểu rằng: Nếu vi phạm hợp
đồng thương mại thì bên bị vi phạm có thể yêu cầu vừa áp dụng phạt vi phạm, vừa
áp dụng bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, nếu hợp đồng bị vi phạm là các hợp đồng
5 Đỗ Văn Đại (2018), Luật hợp đồng Việt Nam – Bản án và Bình luận bản án Tập 1, Nxb. Hồng Đức – Hội
Luật gia Việt Nam, tr.615.


14

dân sự khác như hợp đồng mua bán đất chằng hạn thì bên bị vi phạm khơng có
quyền u cầu bồi thường thiệt hại nếu đã áp dụng phạt vi phạm mà khơng có thỏa
thuận khác trong hợp đồng. Tùy vào từng loại hợp đồng mà cách áp dụng sẽ khác
nhau.
Câu 2.8. Trong quyết định Trọng tài, phạt vi phạm hợp đồng có được kết hợp với
bồi thường thiệt hại không? Đoạn nào của quyết định cho câu trả lời?
Trong Quyết định Trọng tài, phạt vi phạm hợp đồng được kết hợp với bồi
thường thiệt hại, qua đoạn: “HĐTT cho rằng có thể xét bồi thường thiệt hại thực tế
cho nguyên đơn, song tổng mức bồi thường thiệt hại và khoản phạt vi phạm sẽ
không được cao quá 30% giá trị hợp đồng.”
Câu 2.9. Điểm giống và khác nhau giữa phạt vi phạm hợp đồng và bồi thường
thiệt hại do không thực hiện đúng hợp đồng.
Giống nhau:
 Là biện pháp chế tài mà Bộ luật Dân sự quy định để áp dụng cho các trường
hợp vi phạm hợp đồng.
 Cơ sở để áp dụng hai biện pháp này là phải có hành vi vi phạm hợp đồng
trên thực tế và phải có lỗi của bên vi phạm.
 Mục đích chung của việc quy định cũng như áp dụng hai biện pháp này là
nhằm ngăn ngừa sự vi phạm hợp đồng.



15

Khác nhau:
Phạt vi phạm hợp đồng

Cơ sở để áp dụng

Mục đích chủ yếu

- Phải có sự thỏa thuận của
các chủ thể về việc áp dụng
biện pháp phạt hợp đồng.
- Không cần chứng minh có
thiệt hại do hành vi vi phạm
gây ra cũng có thể được áp
dụng.
Ngăn ngừa vi phạm

Dựa trên sự thỏa thuận của
Mức độ thiệt hại về các bên nhưng tối đa không
vật chất của người quá 8% giá trị phần hợp
bị áp dụng
đồng bị vi phạm (Điều 301
Luật Thương mại 2005).

Bồi thường thiệt hại do
không thực hiện đúng hợp
đồng
- Khơng cần có sự thỏa thuận

giữa các chủ thể
- Biện pháp này sẽ được áp
dụng khi có hành vi vi phạm
gây thiệt hại trên thực tế cho
chủ thể bị vi phạm.
Khắc phục hậu quả do thiệt
hại gây ra trên thực tế bởi
hành vi vi phạm
Tùy theo mức độ thiệt hại.
Thiệt hại được tính bao gồm
cả thiệt hại thực tế và trực tiếp
do hành vi vi phạm hợp đồng
gây ra; những khoản lợi mà
người vi phạm đáng lẽ được
hưởng nếu khơng có hành vi
vi phạm (Điều 419 BLDS
2015).

Câu 2.10. Theo văn bản, khoản tiền do kết hợp vi phạm khoản tiền do kết hợp
phạt vi phạm với bồi thường thiệt hại có bị giới hạn khơng ? Vì sao ?
Theo khoản 3 Điều 418 BLDS 2015 : “Các bên có thỏa thỏa thuận về việc bên
vi phạm nghĩa vụ chi phải chịu phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại
hoặc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại” . BLDS 2015
không đề cập đến mức tối đa của khoản tiền kết hợp. Như vậy BLDS 2015 không
giới hạn mức tối đa của khoản tiền do kết hợp phạt vi phạm với bồi thường thiệt
hại. Theo khoản 2 Điều 307 Luật thương mại 2005 quy định về quan hệ giữa chế tài
phạt vi phạm và chế tài bồi thường thiệt hại: “Trường hợp các bên có thỏa thuận
phạt vi phạm thì bên bị vi phạm có quyền áp dụng cả chế tài phạt vi phạm và buộc
bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp Luật này có quy định khác.” Như vậy Luật
Thương mại quy định do các bên thỏa thuận, như vậy mức tối đa không được quá

mức các bên đã thỏa thuận


16

Câu 2.11. Trong quyết định Trọng tài, khoản tiền do kết hợp phạt vi phạm và bồi
thường thiệt hại có bị giới hạn không? Suy nghĩ của anh chị về giải pháp trong
Quyết định về vấn đề này
Trong quyết định Trọng tài, khoản tiền do kết hợp phạt vi phạm và bồi thường
thiệt hại có bị giới hạn, cụ thể là bị giới hạn tối đa là 30% giá trị hợp đồng
Theo nhóm, hướng giải quyết này là thỏa đáng vì trong hợp đồng của 2 bên đã
thỏa thuận sẽ bồi thường thiệt hại tối đa 30% giá trị hợp đồng. Do đó, nếu cho các
bên tự ý thỏa thuận thì con số sẽ tăng lên rất nhiều khi kết hợp cả hai biện pháp. Do
vậy, để đảm bảo quyền lợi cho cả hai bên, một bên vừa được nhận 1 khoản bồi
thường thỏa đáng, 1 bên trả phải trả 1 mức bồi thường hợp lý thì cách thức trên là
cách tốt nhất.
Câu 2.12. Suy nghĩ của anh/chị về khả năng Tòa án được quyền giảm mức phạt
vi phạm hợp đồng trong pháp luật Việt Nam.
Việc Tòa án giảm mức phạt vi phạm hợp đồng trong pháp luật Việt Nam thường
được thông qua việc giới hạn mức hợp đồng vi phạm khi các bên kí hợp đồng. Đây
là một “hạn chế tự do ý chí của các bên trong việc thỏa thuận ký kết hợp đồng”.
Việc giới hạn mức phạt vi phạm được thể hiện thông qua quy định tại Điều 301
Luật Thương mại 2005: “Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng
mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thỏa thuận trong hợp đồng, nhưng
không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm, trừ trường hợp quy định
tại Điều 266 của Luật này”.
Tuy nhiên, việc áp dụng quy định trên lại gây xung đột với pháp luật dân sự. Cụ
thể tại khoản 2 Điều 422 BLDS 2005 quy định: “Mức phạt vi phạm do các bên tự
thỏa thuận”.
Việc viện dẫn một lúc hai văn bản về mức vi phạm này rất khó hiểu nhưng

chúng ta có giải thích như sau: Viện dẫn BLDS để cho thấy các bên được tự do về
mức phạt còn việc viện dẫn Luật Thương mại để cho thấy các bên bị giới hạn trong
định đoạt mức phạt.
Biện pháp phạt vi phạm được thiết lập vì lợi ích của bên bị vi phạm do đó bên bị
vi phạm lựa chọn hay kết hợp với bồi thường thiệt hại để đảm bảo quyền lợi của


17

mình. Việc Tịa án áp dụng hai chế tài này là phù hợp, quyền lợi bên bị vi phạm
được bảo vệ. Song vấn đề đặt ra là nên áp dụng văn bản nào để thuyết phục, đảm
bảo quyền lợi cho các đương sự, Tòa đã áp dụng văn bản là Luật Thương mại. Do
vậy, hướng giải quyết của Tòa là phù hợp vì khơng những đảm bảo quyền lợi của
bên bị vi phạm mà đảm bảo quyền của bên vi phạm.


18

VẤN ĐỀ 3: SỰ KIỆN BẤT KHẢ KHÁNG
Câu 3.1. Những điều kiện để một sự kiện được coi là bất khả kháng? Và cho biết
các bên có thể thỏa thuận với nhau về trường hợp có sự kiện bất khả kháng
không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 156 BLDS 2015: “Sự kiện bất khả kháng là sự
kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc
phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép”. Thì
muốn áp dụng sự kiện bất khả kháng phải đáp ứng những điều kiện sau:
Thứ nhất, đó phải là một sự kiện xảy ra khách quan mà các bên khơng thể lường
trước được. Ví dụ như đại dịch Covid – 19.
Thứ hai, sự kiện đó được các bên sử dụng mọi cách trong khả năng cho phép
nhưng vẫn khơng khắc phục được. Ví dụ như trong trường hơp đại dịch covid – 19

các doanh nghiệp bn bán bị chính phủ nghiêm cấm mở bán, thì đây được xem là
trường hợp khơng thể khắc phục.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 351 BLDS 2015: “Trường hợp bên có nghĩa vụ
khơng thực hiện đúng nghĩa vụ do sự kiện bất khả kháng thì khơng phải chịu trách
nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định
khác”. Thì pháp luật dân sự của nước ta cho phép quy các bên trong hợp đồng có
thể thỏa thuận trường hợp sự kiện bất khả kháng.
Câu 3.2. Những hệ quả pháp lý trong trường hợp hợp đồng không thể thực hiện
được do sự kiện bất khả kháng trong BLDS và Luật thương mại sửa đổi.
Ở BLDS 2005 và BLDS 2015 đều có quy định về Trách nhiệm dân sự do vi
phạm nghĩa vụ. Căn cứ tại khoản 2 Điều 302 BLDS 2005 và tại khoản 2 Điều 351
BLDS 2015: “Trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ do sự
kiện bất khả kháng thì khơng phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.”
Ngoại trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại, BLDS 2015 không quy định rõ
những loại trách nhiệm nào mà bên vi phạm khơng phải chịu. Trong khi đó ở Luật
Thương mại năm 2005 tại điểm b khoản 1 Điều 294 có quy định rộng hơn về vấn đề


19

này và miễn trách nhiệm của bên vi phạm đối với hầu hết các biện pháp khắc phục,
bao gồm bồi thường thiệt hại, phạt vi phạm, tạm ngừng thực hiện hợp đồng, hủy bỏ
hợp đồng và đơn phương chấm dứt hợp đồng. 6
Câu 3.3. Số hàng trên có bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng khơng? Phân tích
các điều kiện hình thành sự kiện bất khả kháng trong tình huống trên
Số hàng trên có bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng. Theo khoản 1 Điều 156
BLDS 2015: “Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không
thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện
pháp cần thiết và khả năng cho phép”. Theo điểm a khoản 3 Điều 4 Nghị định

62/2015/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi
hành án dân sự thì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan thuộc 1
trong các trường hợp sau đây: “Sự kiện bất khả kháng là trường hợp thiên tai, hỏa
hoạn, địch họa;”
Xét trong vụ việc, gió có thể coi là trường hợp thiên tai, con người khơng thể
lường trước được rằng là gió mạnh sẽ đến nhấn chìm tồn bộ con tàu. Đồng thời,
hàng hóa chìm xuống biển, nên cho dù dùng mọi biện pháp thì cũng khơng sẽ khơi
phục lại được, tức khơng thể khắc phục hậu quả. Do vậy, số hàng trên bị hư hỏng là
do sự kiện bất khả kháng.
Câu 3.4. Nếu hàng bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng, anh Văn có phải bồi
thường cho anh Bình về việc hàng bị hư hỏng không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả
lời.
Theo khoản 2 Điều 351 BLDS 2015 quy định: “Trường hợp bên có nghĩa vụ
khơng thực hiện đúng nghĩa vụ do sự kiện bất khả kháng thì khơng phải chịu trách
nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định
khác.”
Và theo điểm b khoản 1 Điều 351 quy định về các trường hợp miễn trách nhiệm
đối với hành vi vi phạm: “Xảy ra sự kiện bất khả kháng”

6 Vấn đề miễn trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ thanh toán trong trường hợp bất khả kháng – Covid19, Trương Nhật Quang – Ngô Thái Ninh, />tintucid=210450, 28/10/2020.


20

Trong trường hợp này, nếu hàng bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng thì anh
Văn khơng phải bồi thường cho anh Bình về việc hàng bị hư hỏng, cụ thể theo
khoản 3 Điều 541 BLDS 2015 quy định: “Trường hợp bất khả kháng dẫn đến tài
sản vận chuyển bị mất, hư hỏng hoặc bị hủy hoại trong quá trình vận chuyển thì
bên vận chuyển khơng phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp
có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.”

Câu 3.5. Nếu hàng bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng và anh Văn thỏa thuận
bồi thường cho anh Bình giá trị hàng bị hư hỏng thì anh Văn có được u cầu
Cơng ty bảo hiểm thanh tốn khoản tiền này khơng? Tìm câu trả lời nhìn từ góc
độ văn bản và thực tiễn xét xử.
Nhìn tự góc độ văn bản: Vấn đề này chưa được văn bản quy định rõ. Trong
BLDS 2015 đã bỏ mục quy định về hợp đồng bảo hiểm, còn Điều 580 BLDS 2005
về bảo hiểm trách nhiệm dân sự quy định như sau:
1. Trong trường hợp bảo hiểm trách nhiệm dân sự đối với người thứ
ba theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật thì bên bảo hiểm
phải trả tiền bảo hiểm cho bên mua bảo hiểm hoặc cho người thứ ba
theo yêu cầu của bên mua bảo hiểm đối với thiệt hại mà bên mua bảo
hiểm đã gây ra cho người thứ ba theo mức bảo hiểm đã thoả thuận hoặc
theo quy định của pháp luật;
2. Trong trường hợp bên mua bảo hiểm đã bồi thường thiệt hại
cho người thứ ba thì có quyền yêu cầu bên bảo hiểm phải hoàn trả
khoản tiền mà mình đã trả cho người thứ ba, nhưng khơng vượt quá mức
trả bảo hiểm mà các bên đã thoả thuận hoặc pháp luật đã quy định.
Về thực tiễn xét xử cũng khá lúng túng và không nhất quán về hướng xét xử.
Chẳng hạn trong Quyết định số 105/GĐT-DS ngày 30/5/2003 của Tòa dân sự Tòa
án nhân dân tối cao tỉnh An Giang. (Được nêu ở vấn đề 4) Tòa giám đốc thẩm cho
rằng “trong trường hợp của ơng Khóm, Bảo Việt An Giang phải có trách nhiệm bồi
thường mất mát 2600 con vịt là tổn thất do sự kiện bảo hiểm gây ra” và “thỏa
thuận giữa ơng Khóm và ông Trinh, ông Điền là không trái pháp luật, có hiệu lực
và ràng buộc cả Bảo Việt An Giang”. Trong một bản án khác, Tòa địa phương theo
hướng “anh Khen tự thỏa thuận, tự nguyện bồi thường thiệt hại” và “do đó bản


21

thân anh Khen tự chịu trách nhiệm”. Từ đó Tịa án địa phương đã quyết định “bác

đơ yêu cầu kháng cáo của anh Khen trong vụ việc yêu cầu Công ty bảo hiểm Trà
Vinh bồi thường”.


22

VẤN ĐỀ 4: TÌM KIẾM BẢN ÁN LIÊN QUAN ĐẾN CHẬM THỰC
HIỆN NGHĨA VỤ THANH TOÁN
Bản án sơ thẩm kinh doanh thương mại số 01/2017/KDTM-ST ngày 01/8/2017
của TAND huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định.
Nguyên đơn Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng kiện bị đơn Cơng ty
TNHH A để địi thanh toán số tiền 695.777.297 đồng bao gồm nợ gốc, nợ lãi, tiền
phạt chậm trả.
Theo hợp đồng tín dụng số LD1301800155 ngày 18/01/2013, nguyên đơn thỏa
thuận cho bị đơn vay số tiền 420.000.000 đồng, lãi suất trong hạn là 15%/năm, lãi
quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn, phạt chậm trả bằng 150% mức lãi suất trong
hạn tính trên số tiền lãi chậm trả và số ngày chậm trả, tài sản bảo đảm là chiếc xe ô
tô hiệu Chevrolet Cruze.
Nhận định của HĐXX: Thỏa thuận về lãi suất trong hạn, lãi suất quá hạn bằng
150% lãi suất trong hạn là đúng pháp luật, phù hợp với quy định của Luật các Tổ
chức tín dụng, Điều 11 Quy chế cho vay của Tổ chức tín dụng đối với khách hàng.
Do bị đơn từ bỏ nghĩa vụ cung cấp các tài liệu, chứng cứ chứng minh nên HĐXX
xét thấy các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp về số nợ gốc, nợ lãi mà bị
đơn còn nợ nguyên đơn là có căn cứ. Vì vậy u cầu của ngun đơn về số nợ gốc
372.740.735 đồng, nợ lãi 236.747.136 đồng tạm tính đến ngày 01/8/2017 được chấp
nhận.
Đối với yêu cầu phạt chậm trả lãi của ngun đơn khơng được Tịa án chấp
nhận.
Nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải tiếp tục chịu lãi, phạt chậm trả lãi theo thỏa
thuận trong hợp đồng tín dụng kể từ sau khi tuyên án cho đến khi bị đơn thực tế

thanh toán hết nợ cho nguyên đơn và yêu cầu này đã được Tòa án chấp thuận.
Như vậy, bị đơn phải thanh toán cho nguyên đơn nợ gốc, nợ lãi và tiếp tục chịu
lãi suất đối với khoản nợ gốc theo mức lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng,
tương ứng với thời gian chậm trả cho đến ngày thanh toán xong nợ gốc.
* Suy nghĩ về hướng giải quyết của Tòa án trong bản án trên:


23

Trong vụ việc tại Bản án nêu trên, Tòa án đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn đòi bị đơn thanh toán số tiền nợ gốc, tiền lãi trong hạn và tiền lãi quá
hạn, nhưng đối với khoản tiền phạt chậm trả, Tòa án đã bác bỏ với lập luận “về bản
chất, lãi suất nợ quá hạn đã là một biện pháp phạt vi phạm hợp đồng, nhưng tại
khoản 2 Điều 7 của hợp đồng trên các bên còn thỏa thuận bên vay “Phải chịu tiền
phạt chậm trả lãi bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn” là phạt chồng phạt và lãi
chồng lãi nên không đúng với quy định tại khoản 5 Điều 474 BLDS 2005”. Ở đây
Tòa án đã áp dụng BLDS 2005 với các quy định nêu trên để khơng chấp nhận u
cầu địi tiền phạt chậm trả củ nguyên đơn. Khoản tiền phạt chậm trả này “bằng
150% lãi suất cho vay trong hạn theo hợp đồng, tính trên số tiền lãi chậm trả và số
ngày chậm trả; bắt đầu tính từ thời điểm quá hạn cho đến khi bên vay thanh toán hết
nợ lãi quá hạn”. Đây chính là tiền lãi trên nợ lãi trong hạn theo hợp đồng tương ứng
với thời gian chậm trả.
Đáng lẽ ra Tòa án cần chấp nhận yêu cầu này của nguyên đơn vì yêu cầu này là
phù hợp với quy định tại khoản 5 Điều 466 BLDS 2015. Đây là hợp đồng được các
bên xác lập từ ngày 18/01/2013, nhưng tại thời điểm giải quyết tranh chấp thì BLDS
2015 đã có hiệu lực. Theo điểm b khoản 1 Điều 688 BLDS 2015: “1. Đối với giao
dịch dân sự được xác lập trước ngày Bộ luật này có hiệu lực thì việc áp dụng pháp
luật được quy định như sau: b) Giao dịch dân sự chưa được thực hiện hoặc đang
được thực hiện mà có nội dung và hình thức phù hợp với quy định của Bộ luật này
thì áp dụng quy định của Bộ luật này;”.

Lưu ý khi chấp nhận yêu cầu đòi khoản tiền lãi trên số lãi trong hạn theo hợp
đồng vay thì Tịa án cần điều chỉnh lại mức lãi suất theo khoản 2 ĐIều 468 BLDS
2015, tức là 10%/năm thay vì mức 150% lãi suất theo hợp đồng.
Như vậy, theo nhóm thì hướng giải quyết trên của Tịa án chưa hồn tồn thuyết
phục, vẫn còn hạn chế và chưa đảm bảo quyền lợi hợp pháp đầy đủ nhất cho phía
Ngân hàng.
Quyết định số 105/GĐT-DS ngày 30/5/2003 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân
tối cao tỉnh An Giang.
Bản án được tóm tắt như sau:


24

Ơng Khóm nhận chuyển 2.600 con vịt cho ơng Điền và ơng Trình bằng tàu của
ơng. Ơng khóm tham gia bảo hiểm dân sự của chủ tàu và trong hợp đồng có nêu rõ
điều kiện bảo hiểm dân sự của chủ tàu, thuyền. Theo phạm vi trách nhiệm bảo hiểm
thì Bảo Việt nhận trách nhiệm bồi thường mất mát, hư hỏng hàng hóa, tài sản
chuyên chở trên tàu, thuyền được bảo hiểm. Trên đường vận chuyển, do mưa gió to,
nước chảy mạnh, tàu va vào chân cầu bị chìm làm tổn thất trị giá đến 79.100.000
đồng số tiền vịt. Vì ơng Khóm thỏa thuận trong hợp đồng với ơng Trình ông Điền
nên đã bồi thường số tiền trên. Nay ông Khóm u cầu Bảo Việt hồn trả ơng số
tiền nói trên. Về vụ việc trên, theo Tịa vì các bên có nêu rõ trong hợp đồng bảo
hiểm nói trên và theo Điều 546 BLDS 2005 vẫn cho phép người vận chuyển và bên
thuê vận chuyển được thỏa thuận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngay cả trong
trường hợp bất khả kháng. Do đó, thỏa thuận giữa ơng Khóm và ơng Trình, ơng
Điền là khơng trái pháp luật, có hiệu lực và ràng buộc cả Bảo Việt An Giang. Mặt
dù Bảo Việt cho rằng theo Điều 30 Thể lệ vận chuyển và xếp dỡ hàng hóa thủy nội
địa thì bên vận chuyển được miễn bồi thường trong trường hợp thiên tai, địch họa
hay bất khả kháng. Hơn thế nữa, theo Tòa cho thấy thế mạnh thuộc về bên Bảo Việt
và các thuật ngữ hay giải thích trong hợp đồng phải có lợi cho bên yếu thế. (Theo

khoản 8 Điều 409 quy định: “Trong trường hợp bên mạnh thế đưa vào hợp đồng
nội dung bất lợi cho bên yếu thế thì khi giải thích hợp đồng phải theo hướng có lợi
cho bên yếu thế.”). Do đó, Bảo Việt phải có trách nhiệm bảo hiểm cho ơng Khóm.
Thiết nghĩ, để uy tín trong các quan hệ tương tự như trên, tốt hơn hết các bên nên
nêu rõ trong hợp đồng bảo hiểm là có hay khơng bảo hiểm trong trường hợp thiệt
hại do sự kiện bất khả kháng.


25

Tóm tắt Bản án số 04/2018/KDTM-PT ngày 06/2/2018 về Yêu cầu thực hiện
nghĩa vụ trả tiền – Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng
Nguyên đơn là Tổng công ty Xây dựng Cơng trình giao thơng Đ (gọi tắt là Công
ty Đ), bị đơn là Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng Đ (gọi tắt là Tổng Công ty
CĐ).
Theo Quyết định số 1834/QĐ-BGTVT thì phần vốn nhà nước Cơng ty Đ cịn
phải nộp về Quỹ hỗ trợ sắp xếp doanh nghiệp Tổng Cơng ty là 202.461.546 đồng.
Ngồi ra, Cơng ty Đ cịn nợ Tổng Cơng ty CĐ tiền cổ tức và nhiều khoản công nợ
khác. Tổng Công ty CĐ đã nhiều lần có văn bản u cầu Cơng ty Đ phải thanh tốn
các khoản tiền cịn nợ nêu trên và lãi chậm trả. Tuy nhiên, cho đến nay, Cơng ty Đ
vẫn khơng thực hiện việc thanh tốn theo u cầu của Tổng Cơng ty CĐ.
Phía ngun đơn và bị đơn đều kháng cáo đối với bản án sơ thẩm. Hội đồng xét
xử phúc thẩm xét thấy chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với phần
nợ gốc là có cơ sở; khoản tiền lãi chậm thanh tốn đã hết thời hiệu khởi kiện nên
khơng có cơ sở chấp nhận kháng cáo của Tổng Công ty CĐ; không chấp nhận
kháng cáo của nguyên đơn và bị đơn.
Theo nhóm, hướng giải quyết của Tịa là có cơ sở và thỏa đáng. Tịa án cấp phúc
thẩm trong q trình xem xét lại vụ án đã chỉ ra được những điểm cần khắc phục và
rút kinh nghiệm của Tòa án cấp sơ thẩm. Tịa án đã khẳng định có việc Cơng ty Đ vi
phạm nghĩa vụ thanh tốn nên phải chịu trách nhiệm với Tổng Cơng ty Đ. Có thể

thấy, từ vụ việc trên, khi giải quyết tranh chấp liên quan đến chậm thực hiện nghĩa
vụ thanh tốn, Tịa án cần phân biệt được trường hợp nghĩa vụ trả tiền được hình
thành từ trước khi bản án, quyết định hay phán quyết có hiệu lực và trường hợp
nghĩa vụ trả tiền được hình thành từ bản án, quyết định hay phán quyết để xác định
lãi suất và khoảng thời gian để tính lãi.7

7 Hồng Vũ Cường (2017), Sách tình huống Pháp luật hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng,
Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr.337


×