Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

VĂN HÓA CHÍNH TRỊ VIỆT NAM LIÊN HỆ THỰC TẾ XÂY DỰNG VÀ NÂNG CAO VĂN HÓA CHÍNH TRỊ CHO CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ XÃ PHẠM VĂN CỘI TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.46 KB, 22 trang )

PHẦN I: MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: Văn hóa soi đường cho quốc dân đi.
Văn hóa lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường, tự chủ. Theo tinh
thần của Người, văn hóa nói chung, văn hóa chính trị nói riêng phải lấy dân
làm gốc. Gốc có vững cây mới bền.
Văn hóa chính trị được các nhà khoa học thế giới tiếp cận từ thập kỷ
năm mươi của thế kỷ XX dưới nhiều góc độ khác nhau nhưng vẫn chưa hồn
tồn có sự thống nhất. Điều dễ hiểu vì văn hóa và chính trị vừa mang tính phổ
biến vừa mang tính cá biệt; cách nhìn vấn đề văn hóa và chính trị có sự bổ
sung và phát triển theo thời đại và tiếp cận từ thực tiễn. Bàn tới văn hóa chính
trị là bàn tới một phương diện của văn hóa, tập trung ở tư tưởng và hoạt động
chính trị, một lĩnh vực hoạt động đặc thù gắn liền với quan hệ giữa các giai
cấp, các tập đoàn xã hội, các dân tộc trong một quốc gia và giữa các nhà
nước, các quốc gia; đồng thời là sự tham gia của các tổ chức chính trị xã hội
và của quần chúng nhân dân vào công việc của Nhà nước.
Thuật ngữ văn hóa chính trị đã quen thuộc và được trao đổi nhiều lần
trong Đảng cũng như trong xã hội. Nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra, văn hóa
chính trị của một thể chế và văn hóa chính trị của người cán bộ, đảng viên là
những vấn đề rộng lớn, bị chi phối bởi nhiều lĩnh vực, nhiều yếu tố. Vì vậy,
việc nâng cao văn hóa chính trị của người cán bộ, đảng viên phải được đặt
trong mối quan hệ hữu cơ với năng lực lãnh đạo của Đảng, sự vững mạnh của
hệ thống chính trị. Đặc biệt, việc nâng cao văn hóa chính trị của cán bộ phải
gắn liền với việc rèn luyện đạo đức, lối sống và đề cao trách nhiệm nêu
gương. Hay nói khác đi, người cán bộ phải là người tiêu biểu về đạo đức cách
mạng để trở thành chỗ dựa và niềm tin cậy của Nhân dân.

1


Trong Nghị quyết 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa XI về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng


yêu cầu phát triển bền vững đất nước” cũng đã nêu rõ: “Trọng tâm của xây
dựng văn hóa trong chính trị là xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, cơng
chức, viên chức có phẩm chất đạo đức, tận tụy hết lòng phụng sự Tổ quốc,
phục vụ Nhân dân, gắn bó máu thịt với Nhân dân, có ý thức thượng tơn pháp
luật, dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương; tự do cá nhân gắn với trách nhiệm
xã hội và nghĩa vụ công dân”. Một trong những nhiệm vụ trọng tâm khác mà
Nghị quyết này đã đề ra là: “Chú trọng chăm lo xây dựng văn hóa trong
Đảng, trong các cơ quan Nhà nước và các đoàn thể; coi đây là nhân tố quan
trọng để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh”.
PHẦN II: NỘI DUNG
I. CÁC VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VĂN HĨA CHÍNH TRỊ
1. Khái niệm văn hóa và văn hóa chính trị
1.1. Khái niệm văn hóa
Văn hóa có thể được hiểu theo một số cách cơ bản sau:
Thứ nhất, Văn hóa là tồn bộ các giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo ra. Theo cách hiểu này, tất cả những gì khơng có sẵn trong tự
nhiên, là kết quả của sự sáng tạo của con người đều được coi là một sản phẩm
văn hóa.
Hồ Chí Minh đã từng đưa ra cách hiểu về văn hóa theo nghĩa như
sau: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng
tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn
giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc,
ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó
tức là văn hóa”.
Thứ hai, Văn hóa là tồn bộ tri thức, hiểu biết của con người về thế giới
khách quan. Các hiểu này đồng nhất văn hóa với sự hiểu biết, với trình độ học
vấn của con người.
Thứ ba, Văn hóa là hệ thống các giá trị, niềm tin và các dạng thức hành
vi được các thành viên trong một cộng đồng chia sẻ. Theo cách hiểu này, văn
hóa là cái định hướng cho các lựa chọn, cách suy nghĩ, hành xử của các thành

2


viên trong cộng đồng theo một chuẩn mực đã được cộng đồng chấp nhận.
Và khi nới tới khái niệm văn hóa phải nhấn mạnh hai đặc trưng cơ bản:
Tính tập thể, tính nhóm: văn hóa khơng phải là sản phẩm của từng cá
nhân riêng lẻ (đối với cá nhân, người ta gọi là nhân cách, phong cách), mà nó là
sản phẩm của một nhóm, một tập thể, một cộng đồng.
Tính ổn định: nói tới văn hóa là nói tới các giá trị đã tồn tại trong một thời
gian tương đối dài, đã được xác lập tương đối ổn định chứ khơng phải là những
cái có ý nghĩa nhất thời hoặc đang trong q trình định hình.
1.2. Khái niệm văn hóa chính trị
Có một số cách hiểu văn hóa chính trị cơ bản hiện nay như sau:
Văn hóa chính trị là toàn bộ các giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo ra trong hoạt động chính trị. Nó có thể bao gồm lĩnh vực tư
tưởng chính trị, các lý tưởng và niềm tin chính trị, hệ thống các thể chế và
thiết chế chính trị…
Văn hóa chính trị là sự hiểu biết của con người về đời sống chính trị, là
những kinh nghiệm mà các chủ thể chính trị có được trong q trình tham gia
vào đời sống chính trị.
Và trong phạm vi tìm hiểu mơn học này, văn hóa chính trị được
hiểu:Văn hóa chính trị là hệ thống các giá trị, chuẩn mực được hình thành
trong thực tiễn chính trị, được cộng đồng chia sẻ và nó có thể chi phối, định
hướng hoạt động của các cá nhân và tổ chức khi các chủ thể này tham gia vào
đời sống chính trị.
2. Chức năng của văn hóa chính trị
Giáo dục chính trị:
Thơng qua q trinh xã hội hóa chính trị, văn hóa chính trị trang bị cho
cơng dân những tri thức, năng lực cần thiết cho hoạt động chính trị, giúp họ
hiểu biết về phương thức tổ chứ và vận hành của hệ thống chính trị, qua đó

mỗi cá nhân ý thức rõ hơn vai trị cũng như nghãi vụ và bổn phận của mình
trong đời sống chính trị.
Khơng chỉ giúp trang bị cho cơng dân những giá trị truyền thống đã
tương đối ổn định, văn hóa chính trị cịn góp phần bồi đắp cho các cá nhân
3


những giá trị chính trị đang hình thành. Các giá trị này tạo thành một hệ thống
chuẩn mực mà con người hướng tới.
Giao tiếp và liên kết cộng đồng:
Văn hóa chính trị giúp giữ gìn và trao truyền các giá trị chính trị từ các
thế hệ đi trước cho thế hệ sau, kết nối giữa quá khứ với hiện tại, duy trì và
củng cố bản sắc chính trị của các cộng đồng, dân tộc.
Văn hóa chính trị là cơ sở để liên kết các công dân trong xã hội với
nhau. Trong một cộng đồng, khi người dân có sự chia sẻ về niềm tin và giá trị,
trong đó có các niềm tin và giá trị chính trị, thì một cách tự nhiên, họ đã trở
thành một khối thống nhất. Chính các niềm tin và giá trị được chia sẻ là chất
keo dính kết các thành viên trong cộng đồng với nhau, góp phần định hình sự
cố kết xã hội.
Định hướng và điều chỉnh hành vi:
Yếu tố cốt lõi định hướng cho đời sống chính trị của mỗi thời kỳ lịch sử
là hệ tư tưởng thống trị, hệ thống các giá trị chính trị của thời kỳ đó. Hệ tư
tưởng có thể đóng vai trị định hướng cho cả một dân tộc, một quốc gia trong
một giai đoạn nhất định của lịch sử. Nếu hệ tư tưởng mang tính khoa học và
cách mạng thì các chủ thể chính trị sẽ tạo ra được các giá trị chính trị hướng
sự phát triển của xã hội theo chiều hướng tiến bộ. Lúc đó, văn hóa chính trị
thực hiện chức năng “soi đường cho quốc dân đi”, ngược lại, sự lựa chọn hệ
tư tưởng khơng phù hợp có thể sẽ kìm hãm sự phát triển của xã hội.
Văn hóa chính trị là mơi trường trong đó các hoạt động chính trị diễn
ra. Khi là thành viên của một tổ chức, của một cộng đồng, các cá nhân ln có

xu hướng điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với các giá trị, chuẩn mực
của tổ chức, của cộng đồng đó. Các niềm tin, giá trị chính trị được cộng đồng
chia sẻ sẽ trở thành yếu tố quan trọng để các thành viên cộng đồng cân nhắc
trước khi đưa ra các quyết định, các hành động chính trị.
Dự báo hành vi chính trị:
Từ nghiên cứu văn hóa chính trị của một cộng đồng, một quốc gia, trên
cơ sở nắm bắt được “gen” di truyền của cộng đồng đó, người ta có thể dự báo
hành vi của các nhà chính trị của cộng đồng trong những tình huống cụ thể.
3. Phân loại văn hóa chính trị
4


3.1. Phân loại dựa trên yếu tố hệ tư tưởng
Văn hóa chính trị xã hội chủ nghĩa: là văn hóa chính trị ở các quốc
gia có nền chính trị được xây dựng trên nền tảng tư tưởng của chủ nghĩa
Mác-Lênin. Văn hóa chính trị xã hội chủ nghĩa đề cao các giá trị như: tính
cộng đồng, sự hợp tác xã hội và sự bình đẳng. Từ các giá trị này, lý tưởng
mà các quốc gia theo định hướng xã hội chủ nghĩa hướng tới là xây dựng
một xã hội không cịn chế độ người bóc lột người, khơng cịn áp bức, bất
bình đẳng xã hội.
Văn hóa chính trị tư bản chủ nghĩa: là văn hóa chính trị ở các quốc gia
có nền chính trị được xây dựng chủ yếu dựa trên nền tảng của chủ nghĩa tự
do. Các giá trị chủ đạo mà họ hướng tới là chủ nghĩa cá nhân, tự do chính trị
và sự cạnh tranh giữa các cá nhân, các nhóm trong xã hội.
3.2. Phân loại dựa theo cấp độ của chủ thể
Văn hóa chính trị của quốc gia, dân tộc: ở mỗi quốc gia dân tộc, người
dân có thể có cùng cội nguồn lịch sử, cùng chia sẻ phương thức sống. Nói đến
mỗi quốc gia, người ta có thể kể ra những giá trị chính trị đặc trưng của quốc
gia đó.
Văn hóa chính trị của các tổ chức chính trị: mỗi loại hình tổ chức chính

trị cũng có hệ thống giá trị riêng tùy thuộc vào tơn chỉ, mục đích, mơ hình tổ
chức và hoạt động. Các giá trị được các thành viên trong tổ chức chia sẻ được
gọi là văn hóa chính trị của tổ chức đó.
Văn hóa chính trị của các nhóm, cộng đồng: trong một quốc gia có thể
có nhiều nhóm khác nhau cùng chung sống. Các nhóm chủ yếu được xác định
bởi các yếu tố như vùng miền, dân tộc, tôn giáo. Người dân ở các vùng miền
khác nhau của một quốc gia, bên cạnh những giá trị chung cùng chia sẻ với
người dân cả nước, họ cũng có thể chia sẻ những niềm tin hay giá trị riêng
của vùng miền mình. Người dân thuộc về các dân tộc, theo các tôn giáo khác
nhau có thể cũng định hình các giá trị, niềm tin khác nhau đối với nền chính
trị của quốc gia mình, từ đó chi phối cách thức tham gia của họ vào đời sống
chính trị.
Văn hóa chính trị của các cá nhân: Văn hóa chính trị là hệ thống các giá
trị, niềm tin mang tính tập thể, tính nhóm. Tuy nhiên, các tập thể, các nhóm
5


lại được hình thành bởi các cá nhân. Văn hóa chỉ có thể được biểu hiện thơng
qua các cá nhân, được “hiện thân” ở các cá nhân. Nhưng không phải tất cả các
cá nhân đều là hiện thân của văn hóa chính trị. Sự biểu hiện của văn hóa chính
trị trong từng cá nhân có tính khơng đồng đều. Có những cá nhân là kết tinh
văn hóa chính trị do nhân cách chính trị, lý tưởng chính trị của họ có ảnh
hướng lớn đến đời sống chính trị của một quốc gia, của cộng đồng. Nhưng
cũng có những cá nhân ít thấy hoặc không thấy những biểu hiện của những
giá trị chính trị chung mà cộng đồng chia sẻ.
3.3. Phân biệt dựa trên thái độ của người dân đối với đời sống
chính trị
Văn hóa chính trị tham gia: Người dân sống trong nền văn hóa chính trị
tham gia có một số đặc trưng nổi bậc như họ tự hào về hệ thống chính trị của
đất nước mình. Đặc biệt khi tiếp xúc với người nước ngoài, tranh luận về các

vấn đề chính trị, họ tin rằng đất nước họ có một nền chính trị tuyệt vời, thực
sự dân chủ và cơng bằng. Từ sự tự tin đó, họ cảm thấy hãnh diện vì là cơng
dân của đất nước mình.
Văn hóa chính trị tn thủ: Người dân có một số điểm đặc trưng như họ
hiểu về vai trị của mình trong đời sống chính trị, nhưng chỉ tham gia một
cách thụ động. Họ chủ yếu quan tâm đến các yếu tố “đầu ra” của hệ thống
chính trị, đó là các quyết định, chính sách hơn là các yếu tố “đầu vào”
Văn hóa chính trị thờ ơ: trong nền văn hóa này, người dân chỉ biết đến
mơi trường xung quanh mình và có sự hiểu biết rất hạn chế về chính trị. Họ
khơng quan tâm đến chính trị hoặc khơng có khả năng tham gia vào đời sống
chính trị. Dù sống trong chế độ nào thì những người này đều có cảm giác
khơng có quyền lực trong thể chế hiện tồn. Họ tin rằng, tiếng nói của bản thân
khơng có ý nghĩa đối với các quyết định chính trị của quốc gia. Do vậy, họ
thường từ chối tham gia vào các hoạt động chính trị của cộng đồng như bầu
cử, tranh luận các vấn đề chính sách…
Trên thực tế, khơng có quốc gia nào chỉ tồn tại thuần túy một mẫu hình
văn hóa chính trị duy nhất, mà thường là sự pha trộn ở mức độ khác nhau của
cả ba loại văn hóa chính trị nêu trên.
II. VĂN HĨA CHÍNH TRỊ VIỆT NAM
6


1. Các giá trị đặc trưng của văn hóa chính trị Việt Nam
Chủ nghĩa yêu nước:
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam đã phát triển qua các thời kỳ lịch sử, từ
thời vua Hùng dựng nước cho đến tận ngày nay. Trong mỗi giai đoạn lịch sử,
chủ nghĩa yêu nướ lại có những biểu hiện khác nhau. Thời kỳ trung đại, yêu
nước là “trung quân, ái quốc”, nhưng đến thời kỳ cách mạng xã hội chủ nghĩa,
yêu nước lại mang một ý nghĩa khác, đó là yêu nhân dân, yêu dân tộc.
Chủ nghĩa yêu nước biểu hiện ở việc luôn đặt lợi ích của Tổ quốc lên

trên, sẵn sàng hi sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Có thể nói, ít có một dân
tộc nào trên thế giới thời gian dành để chống thiên tai và chống giặc ngoại
xâm nhiều như dân tộc Việt Nam. Từ khi có quốc gia, người Việt liên tục phải
đối mặt với các cuộc chiến tranh xâm lược của kẻ thù. Theo thống kê của các
nhà sử học, tính từ cuộc kháng chiến chống xâm lược của phong kiến phương
Bắc năm 179 trước Công nguyên đến năm 1979, sau 22 thế kỷ, người Việt đã
phải đương đầu với 14 cuộc chiến tranh xâm lược với quy mơ lớn từ bên
ngồi, trong đó 11 lần chiến thắng, thời gian chiến tranh kéo dài tới 1.200
năm. Trãi qua các biến thiên của lịch sử, lòng yêu nước và tinh thần dân tộc
của người Việt vẫn tồn tại một cách bền bỉ theo thời gian.
Kế thừa những giá trị truyền thống, trong các giai đoạn cách mạng thời
kỳ hiện đại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu khẩu hiệu: “Khơng có gì q hơn
độc lập tự do”. Khẩu hiệu này đáp ứng đúng tâm tư, nguyện vọng của người
dân Việt Nam nên có sức lan tỏa rộng lớn. Là một giá trị chính trị được cả xã
hội đề cao nên qua năm tháng, nó trở thành một đạo lý chính trị của người
Việt Nam.
Tính cộng đồng:
Thể hiện ở tinh thần tương trợ, ý thức tập thể của người Việt. Tính cộng
đồng được hình thành trong q trình dựng nước và giữ nước của dân tộc. Xã
hội Việt Nam là xã hội nơng nghiệp, con người gắn bó với nhau trong địa vực
làng xã. Lịch sử đã chứng minh, ngay từ khi thành lập Nhà nước Văn Lang,
điều kiện quan trọng nhất để nhà nước đó hình thành là công cuộc đắp đê
ngăn lũ để sản xuất, chứ khơng phải do phân hóa giai cấp trong xã hội. Chính
cơng cuộc đắp đê, trị thủy địi hỏi phải có sự đồn kết, tính cố kết cộng đồng.
7


Sống trong môi trường của quan hệ làng xã suốt mấy nghìn năm, dần
dần những tập quá ứng xử trở thành đạo lý, thành chuẩn mực trong giao tiếp
xã hội. Để duy trì tính cộng đồng, người Việt Nam có một chuẩn mực là

quyền lợi của các cá nhân phải phục tùng quyền lợi của cộng đồng, quyền lợi
của các cộng đồng nhỏ phải phục tùng quyền lợi của cộng đồng lớn, quyền lợi
của cả dân tộc. Nếu một chủ thể chính trị nào đưa ra các quyết định chính trị
đi ngược lại chuẩn mực trên thì sẽ bị cộng đồng lên án.
Tinh thần đoàn kết:
Là sự gắn kết bền chặt giữa các cá nhân trong một cộng đồng để đạt
được một mục tiêu chung nào đó. Đồn kết là chất keo dính kết các cá nhân
với nhau, tạo ra sức mạnh vượt trội của cộng đồng. Vì những lý do khác nhau,
trong lịch sử, người Việt nhiều lần phải đương đầu với giặc ngoại xâm hùng
mạnh. Đứng trước kẻ thù lớn mạnh, để bảo vệ chủ quyền, sự tồn tại của mình,
chỉ có tinh thần đồn kết mới có thể giúp người Việt tạo nên sức mạnh chiến
thắng kẻ thù. Hồ Chí Minh đã tổng kết từ trong lịch sử dựng nước và giữ
nước của dân tộc: “Đoàn kết, đồn kết, đại đồn kết. Thành cơng, thành cơng,
đại thành cơng”.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sức mạnh đại đồn kết toàn dân tộc đã
được phát huy cao độ với quyết tâm “dù có hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy
cả dãy Trường Sơn, cũng kiên quyết giành cho được độc lập”, hơn 20 triệu
người dân Việt Nam đã nhất tề đứng dậy giành chính quyền làm nên cuộc
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 vĩ đại, đem lại nền độc lập cho dân tộc và
quyền tự do cho nhân dân.
Trong kháng chiến chống Pháp, với ý chí quyết tâm sắt đá và sự đồng
lịng của tồn dân tộc: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ,
không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng
lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc…” đã phát huy cao độ sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân vừa kháng chiến, vừa kiến quốc trong suốt 9 năm chống
thực dân Pháp lâu dài, gian khổ, để cuối cùng làm nên chiến thắng Điện Biên
Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.
Đặc biệt trong công cuộc chống Mỹ cứu nước trường kỳ, gian khổ, với
khát vọng cháy bỏng của toàn thể dân tộc Việt Nam: “Khơng có gì q hơn
độc lập, tự do”, tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh

8


“Đồn kết, đồn kết, đại đồn kết. Thành cơng, thành công, đại thành công”
đã được phát huy, lôi cuốn đông đảo mọi tầng lớp nhân dân hăng hái thi đua
vừa chiến đấu vừa lao động sản xuất. Nhờ đó, dân tộc Việt Nam đã huy động
cao độ sức mạnh chính trị, tinh thần, nhân lực, vật lực để “đánh cho Mỹ cút,
đánh cho Ngụy nhào”, và cuối cùng với cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa
Xuân 1975 thắng lợi, đã kết thúc vẻ vang sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của
dân tộc ta.
Trong những năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là từ khi đổi mới
đến nay, tinh thần đoàn kết của dân tộc ta tiếp tục được phát huy với nhiều
hình thức tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ
chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đoàn kết cùng nhau giải quyết
những khó khăn về đời sống, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế - xã
hội, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, bảo đảm quốc phòng - an ninh,
khơi dậy khát vọng phát triển, phát huy ý chí, sức mạnh văn hóa và con người
Việt Nam. Đảng ta đã lãnh đạo cả hệ thống chính trị tập trung tuyên truyền,
vận động, tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân, tạo sự thống nhất và đồng
thuận trong xã hội; triển khai sâu rộng và nâng cao chất lượng các phong trào
thi đua yêu nước, các cuộc vận động, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân,
phát huy tinh thần thi đua sáng tạo và huy động các nguồn lực trong xã hội,
tham gia thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng, phát triển đất
nước và bảo vệ Tổ quốc.
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc luôn là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam. Đảng và Nhà
nước ta đã ban hành và chỉ đạo thực hiện có hiệu quả nhiều chủ trương, chính
sách, pháp luật nhằm tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân.
Trọng dụng nhân tài:

Việt Nam là một đất nước có truyền thống văn hóa lâu đời, được định
hình trong suốt chiều dài dựng nước, giữ nước khi phải chống lại các thế lực
phong kiến phương Bắc mạnh hơn nhiều lần. Trong đó, văn hóa trọng dụng
nhân tài trở thành một nét đặc trưng tiêu biểu để xây dựng một quốc gia hùng
mạnh, nhỏ nhưng không yếu, yêu chuộng hịa bình nhưng khơng bao giờ
khuất phục trước bất kỳ thế lực xâm lược hùng mạnh nào. Lịch sử đã chứng
9


minh, khi các vị thủ lĩnh, vị vua anh minh tập hợp được nhiều người tài phò
trợ, được sự ủng hộ của nhân dân thì đất nước ln vững mạnh, bình yên và
sẳn sàng đánh bại các thế lực xâm lược. Những thành tích của Việt Nam để
bảo vệ độc lập dân tộc trong lịch sử, như thắng lợi của nhà Ngô trước quân
Nam Hán, nhà Lý trước quân Tống, nhà Trần trước quân Mông Nguyên, nhà
Tây Sơn trước quân Thanh...đã chứng minh giá trị chân lý của việc sử dụng
nhân tài hiệu quả, tất yếu sẽ đem đến những thành cơng. Có thể khẳng định, ở
bất cứ triều đại nào, đất nước cũng có những nhân tài kiệt xuất và xung quanh
họ cũng tập hợp những người tài năng không kém. Những tấm gương sáng
với tài năng của Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo,
Nguyễn Trãi, Quang Trung...vẫn mãi lưu danh sử sách để các thế hệ hậu bối
học hỏi, noi theo. Ở tấm bia đầu tiên trong 82 bia trong Văn Miếu – Quốc Tử
Giám, tiến sĩ Thân Nhân Trung thời Hậu Lê đã ghi rõ: “Hiền tài là nguyên khí
quốc gia. Nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh và hưng thịnh. Ngun khí suy
thì thế nước yếu mà thấp hèn. Vì thế, các bậc thánh đế, minh vương không
đời nào không coi trọng giáo dục nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng ngun
khí quốc gia làm cơng việc cần kíp đầu tiên”. Điều đó chứng minh rằng, văn
hóa coi trọng hiền tài của ông cha ta đã được nâng tầm thành chân lý trong
phát triển đất nước và bảo vệ độc lập dân tộc.
Trong thời đại Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam quang vinh đã tập hợp sức mạnh đoàn kết của dân tộc, quy tụ nhiều

người tài dưới lá cờ của Đảng. Từ đó, đem lại thành công cho dân tộc Việt
Nam trong cách mạng Tháng 8/1945, trong kháng chiến chống Pháp (1954)
và chống Mỹ (1975). Có thể khẳng định, với tài trí hơn người, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã tập hợp được xung quanh mình những nhân tài kiệt xuất (Lê
Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp...) để đem đến thắng
lợi cho sự nghiệp cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh có quan điểm rất khách
quan, đặt đúng người, đúng việc trong dùng người tài: “Việc dùng nhân tài, ta
không nên căn cứ vào những điều kiện quá khắt khe. Miễn là không phản lại
quyền lợi dân chúng, không là Việt gian, thân Pháp, thân Nhật, có lịng trung
thành với Tổ quốc là có thể dùng được. Tài to ta dùng làm việc to, tài nhỏ ta
cắt làm việc nhỏ, ai có năng lực về việc gì, ta đặt ngay vào việc ấy”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cịn có tư duy viễn minh trong việc dùng nhân
tài, luôn mở rộng cửa để đón nhận những người tài đức, mở rộng phạm vi tìm
10


kiến người tài. Sau cách mạng Tháng 8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết
thư gửi đến đồng bào cả nước, mong muốn giới thiệu cho Chính phủ những
người tài để xây dựng đất nước, trong đó khẳng định: “Các địa phương phải
lập tức điều tra nơi nào có người tài đức, có thể làm được những việc ích
nước lợi dân, thì phải báo cáo ngay cho Chính phủ biết”. Sau cách mạng
Tháng 8/1945, để sẳn sàng đón những người ngồi Đảng, cống hiến cơng sức,
trí tuệ cho cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ tuyên bố:
“Chính phủ sau đây phải là một chính phủ tồn dân đồn kết và tập hợp nhân
tài khơng đảng phái”.
Với tinh thần cầu thị, trọng dụng nhân tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
nhiều bậc hiền tài khơng phải là đảng viên cộng sản đã tình nguyện ra phục vụ
đất nước (Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Văn Tố, Bùi Bằng Đoàn, Phan Kế Toại,
Phạm Khắc Hịe...) và cống hiến nhiều cơng sức, trí tuệ cho sự nghiệp cách
mạng của dân tộc. Khơng chỉ tìm kiếm nhân tài trong nước, Chủ tịch Hồ Chí

Minh cịn chủ trương tìm kiếm những người Việt Nam tài năng đang làm việc ở
nước ngoài để mời về nước phục vụ sự nghiệp cách mạng. Trong đó, những
tấm gương sáng của tinh thần yêu nước, sẳn sàng trở về phục vụ quê hương của
kĩ sư Trần Đại Nghĩa, kĩ sư Lương Định Của...là minh chứng sống động cho sự
đúng đắn trong chiêu hiền, đãi sĩ, trọng dụng nhân tài của Chủ tịch Hồ Chí
Minh và Đảng ta. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhắc nhở cán bộ
phải tránh xa bệnh ích kỷ, bệnh kéo bè kéo cánh, những bệnh này rất nguy
hiểm vì sẽ dẫn đến không phát hiện và sử dụng được nhân tài. Ngồi việc phát
hiện nhân tài, bố trí cơng việc phù hợp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi
trọng đến công việc huấn luyện cán bộ, nhân tài: “Công việc thành công hoặc
thất bại đều do cán bộ tốt hay kém. Vì vậy, Đảng phải ni dạy cán bộ, như
người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu. Phải trọng nhân tài, trọng
cán bộ, trọng mỗi một người có ích cho công việc chung của chúng ta”
Trong thời hiện đại, trọng dụng nhân tài và thu hút nhân tài là chủ
trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta. Có nhiều chính sách được ban
hành trong thời gian qua để hiện thực hóa các chủ trương nói trên.
Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 18-6-1997 của Ban Chấp hành Trung
ương (khoá VIII) là nghị quyết chuyên đề về “Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy
mạnh Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” đã nhấn mạnh: “Đặc biệt chú
11


trọng phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng nhân tài, tạo nguồn cán bộ lãnh đạo và
quản lý các cấp từ Trung ương đến cơ sở; cán bộ khoa học đầu ngành; cán bộ
quản lý kinh doanh các doanh nghiệp lớn”. Tiếp tục định hướng này, Văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã chỉ rõ: “Xây dựng và thực
hiện chính sách phát triển và trọng dụng nhân tài, thu hút nhân tài vào những
lĩnh vực quan trọng, khơng phân biệt người trong Đảng hay ngồi Đảng. Tăng
nguồn đầu tư của Nhà nước và toàn xã hội vào phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng,
sử dụng nhân tài, trước hết trên ba lĩnh vực: lãnh đạo - quản lý, sản xuất kinh doanh và khoa học - công nghệ”.

Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương (khoá X) đã tiến hành
tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khoá VIII). Tại Hội nghị
này, Ban Chấp hành Trung ương Đảng cũng xác định rõ một trong những
nhiệm vụ rất quan trọng là: “Triển khai xây dựng đề án Chiến lược quốc gia
về nhân tài”.
Thực hiện Kết luận số 37-KL/TW ngày 2-2-2009 của Ban Chấp hành
Trung ương khoá X về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chiến lược cán bộ từ nay
đến năm 2020, Ban Tổ chức Trung ương được Bộ Chính trị phân cơng chủ trì
nghiên cứu đề tài cấp Nhà nước: “Cơ sở lý luận, thực tiễn của Chiến lược
quốc gia về nhân tài trong thời kỳ đẩy mạnh Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước”.
Để tiếp tục chủ trương thu hút, trọng dụng nhân tài, Đại hội XI đã nêu
những quan điểm chỉ đạo: “Muốn tạo nên một tập thể vững mạnh phải xây
dựng từng con người, quan tâm phát hiện và bồi dưỡng nhân tài”; “Có chính
sách trọng dụng trí thức, đặc biệt đối với nhân tài của đất nước”; “Hình thành
đồng bộ cơ chế, chính sách khuyến khích sáng tạo, trọng dụng nhân tài và đẩy
mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ”; “Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, phát
huy nhân tài; đào tạo nhân lực cho phát triển kinh tế tri thức”.
Quyết tâm hiện thực hóa những quan điểm, chủ trương lớn ấy, Chính
phủ đã xây dựng và triển khai nhiều cơ chế chính sách, trong đó có nội dung
thu hút, trọng dụng nhân tài, đã ban hành các Nghị định (số 24/2010/NĐ-CP,
số 40/2014/NĐ-CP, số 87/2014/NĐ-CP) quy định về: Xét tuyển đặc cách
không qua thi tuyển vào làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước đối
với những người tốt nghiệp thủ khoa tại các cơ sở đào tạo trình độ đại học ở
12


trong nước, tốt nghiệp loại giỏi, xuất sắc của các trường đại học có uy tín ở
nước ngồi hoặc có kinh nghiệm công tác từ 5 năm trở lên, đáp ứng được
ngay yêu cầu của vị trí việc làm cần tuyển dụng. Tạo môi trường, điều kiện

thuận lợi (về xuất nhập cảnh và cư trú, tuyển dụng, lao động, học tập, tiền
lương, nhà ở, tiếp cận thông tin…) để các cá nhân hoạt động khoa học và
công nghệ, bao gồm cả người Việt Nam ở nước ngoài và chuyên gia nước
ngồi tham gia hoạt động khoa học và cơng nghệ tại Việt Nam, có thể phát
triển tài năng và hưởng lợi ích xứng đáng với giá trị lao động sáng tạo của
mình; bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của tác giả các cơng trình khoa học
- cơng nghệ; thực hiện bảo hộ sở hữu trí tuệ. Cải tiến hệ thống giải thưởng
khoa học - công nghệ, danh hiệu vinh dự Nhà nước và có chính sách khen
thưởng, tơn vinh đối với những người có đóng góp lớn về khoa học -cơng
nghệ và các tác giả các cơng trình, sáng chế có giá trị khoa học và thực tiễn.
Trong định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030, Đảng đã
xác định cần phải: “Đổi mới mạnh mẽ cơ chế phát hiện, lựa chọn, thu hút,
trọng dụng người tài và cơ chế đánh giá cán bộ”.
2. Một số vấn đề đặt ra đối với văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý hiện nay và các giải pháp nâng cao văn hóa chính trị
của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam trong thời gian tới
2.1. Một số vấn đề đặt ra đối với văn hóa chính trị của đội ngũ cán
bộ lãnh đạo, quản lý hiện nay
Sự lệch lạc trong nhận thức của một bộ phận cán bộ về các giá trị và
chuẩn mực xã hội:
Hiện nay, một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý đã chạy theo các giá trị
và chuẩn mực mang tính hình thức. Các chuẩn mực này gồm cả chính thức và
phi chính thức, được thể hiện ở việc đánh giá các cá nhân, tổ chức còn dựa
vào các yếu tố mang tính hình thức như trọng bằng cấp, danh hiệu, số
lượng… Các vấn đề như trách nhiệm, bổn phận đạo đức, lương tâm của người
cán bộ còn chưa được coi trọng đúng mức. Những yếu tố trên dẫn tới hậu quả
là một số thang bậc giá trị xã hội bị đảo lộn. Xét cho cùng, đó là các hành vi
“lệch chuẩn” vì nó đi ngược lại các lý tưởng, các giá trị và chuẩn mực mà
Đảng theo đuổi, đi ngược lại lợi ích của nhân dân.
Tính cục bộ trong hoạt động lãnh đạo, quản lý của một số cá nhân và

13


tổ chức:
Trong đời sống chính trị, tính cục bộ được thể hiện ở ba chiều: cục bộ
ngành, cục bộ địa phương và cục bộ gia đình. Tính cục bộ ngành và cục bộ
địa phương thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng về cơ bản, các
cán bộ lãnh đạo, quản lý khi lựa chọn quyết định hành động đã khơng xuất
phát từ lợi ích tồn cục, dài hạn của quốc gia, của tập thể lớn, mà chỉ quan
tâm tới lợi ích của ngành mình, địa phương mình, gia đình mình. Thậm chí,
dù biết các quyết định đó có thể gây hại cho quốc gia, cho tổ chức, họ vẫn
thực hiện.
Trong các cơ quan, tổ chức, tư tưởng cục bộ địa phương, gia đình trong
cơng tác cán bộ cũng khá phổ biến. Đã có thời, tư tưởng “một người làm
quan, cả họ được nhờ” trở thành một chuẩn mực, giá trị trong giao tiếp, ứng
xử xã hội. Nhưng trong nền chính trị hiện đại, tư tưởng cục bộ địa phương,
gia đình lại trở thành một sự trở ngại cho sự phát triển.
Suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của một bộ phận cán
bộ lãnh đạo, quản lý:
Trong đời sống chính trị, hệ thống thể chế dù chặt chẽ đến đâu cũng
không bao giờ là đủ. Người thực thi quyền lực nếu không nhận thức được
trách nhiệm và bổn phận đạo đức cầm quyền sẽ tìm ra những kẽ hở của pháp
luật để lợi dụng. Văn hóa chính trị sẽ đóng vai trị là nhân tố bổ sung, lắp đầy
những khoảng trống của các thể chế. Các giá trị văn hóa – vốn đã thẩm thấu
trong từng cá nhân sẽ có sức mạnh vơ hình kiểm sốt hành vi của đội ngũ cán
bộ lãnh đạo, quản lý, buộc họ làm điều đúng, tránh điều sai.
Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã
nhận định: “Việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của một bộ phận cán
bộ, đảng viên chưa thường xun, một số suy thối về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống; vẫn cịn tình trạng nói khơng đi đôi với làm; không tuân thủ

nguyên tắc của Đảng; quan liêu, tham nhũng, lãng phí, chủ nghĩa cá nhân, cơ
hội, thực dụng, bè phái, gây mất đoàn kết nội bộ; chưa nêu cao ý thức trách
nhiệm trước tổ chức, cơ quan, đơn vị, địa phương và nhân dân. Thực hiện quy
định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên chưa trở thành nền nếp,
hiệu quả chưa cao. Một số cán bộ vi phạm đến mức phải kỷ luật, xử lý hình
sự…Việc đấu tranh với các biểu hiện lệch lạc về đạo đức, lối sống chưa mạnh
14


mẽ. Tự phê bình và phê bình ở khơng ít nơi cịn hình thức”.
2.2. Một số giải pháp nâng cao văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam trong thời gian tới
Thứ nhất, phải đổi mới q trình xã hội hóa chính trị
Nâng cao văn hóa chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý phải
gắn với việc trang bị cho họ các kiến thức lý luận cơ bản về chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Lý luận này là hệ tư tưởng nền tảng, là cơ sở
cho việc hoạch định chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật
của Nhà nước; nó cũng góp phần củng cố lập trường và nhân sinh quan của
người cán bộ lãnh đạo, quản lý.
Nâng cao trình độ tri thức về mọi mặt, đặc biệt về tri thức chính trị cho
cán bộ, đảng viên. Nhận thức có vị trí đặc biệt quan trọng trong hoạt động
thực tiễn, trên cơ sở nhận thức đúng mới có hành động đúng. Chính trị là một
lĩnh vực phức tạp, nhạy cảm, đòi hỏi con người khi tham gia vào đời sống
chính trị, hoạt động chính trị phải có những tri thức và sự hiểu biết tồn diện,
đúng đắn và sâu sắc về nó. V.I.Lênin quan niệm: “Một người khơng biết chữ
là người đứng ngồi chính trị”. Trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều
biến động như hiện nay, việc bồi dưỡng nâng cao trình độ tri thức toàn diện
càng đặc biệt quan trọng. Trên cơ sở những tri thức và sự hiểu biết về chính
trị, cán bộ, đảng viên mới có thể giác ngộ về lập trường, quan điểm giai cấp
đúng đắn, qua đó xác định đúng mục tiêu, thái độ và động cơ chính trị, phát
huy tính tự giác, quyết tâm, sáng tạo cả trong hoạt động thực tiễn cũng như ở

hành vi chính trị. Về điều này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Tư tưởng
đúng thì hành động mới khỏi sai lạc và mới làm tròn nhiệm vụ cách mạng
được. Tư tưởng đó là lập trường, quan điểm và lý tưởng chính trị của cán bộ,
đảng viên được biểu hiện ở lịng trung thành với sự lựa chọn chính trị của
Đảng, ở hành động thực tế trong hoạt động chính trị mang lại lợi ích cho Tổ
quốc, nhân dân. Cho nên việc học tập, nâng cao trình độ tri thức cho cán bộ,
đảng viên được Dự thảo Văn kiện Đại hội XIII đặc biệt chú trọng: “Kết hợp
chặt chẽ, hiệu quả giữa học tập lý luận với rèn luyện, thử thách cán bộ trong
thực tiễn để nâng cao bản lĩnh chính trị; khắc phục tình trạng ngại học, lười
học lý luận chính trị trong cán bộ, đảng viên”.
Bên cạnh nội dung thì phương thức xã hội hóa, truyền bá cũng cần
15


được đổi mới cho phù hợp với bối cảnh mới, tăng hiệu quả của cơng tác giáo
dục lý luận chính trị. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của
Đảng chỉ rõ: cần phải tiến hành “Đổi mới căn bản nội dung, chương trình,
phương pháp giáo dục lý luận chính trị theo hướng khoa học, sáng tạo, hiện
đại và gắn lý luận với thực tiễn; đưa việc bồi dưỡng lý luận chính trị, cập nhật
kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ
chốt các cấp đi vào nền nếp, nâng cao chất lượng hiệu quả và phù hợp với
từng đối tượng”.
Thứ hai, đề cao trách nhiệm nêu gương của cán bộ lãnh đạo, quản lý,
nhất là người đứng đầu các cấp.
Nâng cao nhận thức về trách nhiệm nêu gương của cán
bộ lãnh đạo, quản lý, để mọi người đều thấy rằng nêu gương
là trách nhiệm, bổn phận và đạo lý của người cán bộ lãnh đạo,
quản lý; đồng thời, chuyển từ nhận thức, thái độ đúng đắn
thành những hành động thiết thực, cụ thể. Mỗi cán bộ lãnh
đạo, quản lý thay vì chờ đợi hướng dẫn, chỉ đạo, phải chủ

động, tự giác thực hành bằng những hành động, việc làm dù
nhỏ trong công tác và đời sống hằng ngày, trong ứng xử với
chính mình, với cơng việc và với tập thể cơ quan, đơn vị; thấm
nhuần sâu sắc di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “một tấm
gương sống cịn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên
truyền”. Cán bộ lãnh đạo, quản lý phải tự đặt mình trong kỷ
luật của tổ chức, nghiêm túc chấp hành các chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và
nội quy, quy định của cơ quan, đoàn thể; phải là những người
đi đầu trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu
tranh phản bác các quan điểm sai trái, các luận điệu xuyên
tạc, thù địch.
Tiếp tục đổi mới phong cách, lề lối làm việc; bảo đảm
dân chủ, khơng độc đốn, chun quyền, quan liêu, xa rời
quần chúng; ln gắn bó mật thiết với nhân dân ở nơi cư trú
cũng như nơi công tác. Đối với người đứng đầu cấp ủy, tổ
chức đảng, “nói đi đôi với làm” là cách nêu gương tốt nhất;
16


các thế hệ đi trước cần nêu gương sáng cho các thế hệ đi sau;
lãnh đạo cần nêu gương cho nhân viên; đảng viên cần nêu
gương cho quần chúng. Kiên quyết chống những biểu hiện vi
phạm chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp
luật của Nhà nước; nói khơng đi đơi với làm; nói và làm khơng
nhất qn giữa khi còn đương chức với lúc nghỉ hưu.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 8 khóa XII đã
ban hành Quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ,
đảng viên. Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XIII của Đảng
cũng nhấn mạnh sự cần thiết phải: “Thực hiện nghiệm các

quy định của Đảng về trách nhiệm nêu gương, chức vụ càng
cao càng phải gương mẫu, trước hết là các Ủy viên Bộ Chính
trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương.
Đảng viên phải tự giác nêu gương để khẳng định vị trí lãnh
đạo, vai trò tiên phong, gương mẫu, tạo sự lan tỏa, thúc đẩy
các phong trào cách mạng”.
Thứ ba, chú trọng áp dụng các biện pháp nhằm xây dựng, củng cố lòng
tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng
Bên cạnh cơng tác tun truyền, thuyết phục thì việc phải hoàn thiện
các thể chế của nhà nước pháp quyền, trong đó nhấn mạnh tinh thần thượng
tơn pháp luật là hết sức cần thiết. Cần áp dụng nguyên tắc công khai, minh
bạch và trách nhiệm giải trình trong các hoạt động của bộ máy nhà nước;
kiểm sốt tình trạng tham nhũng, lạm quyền. Đây là tiền đề của việc xây dựng
lòng tin trong xã hội.
Mặt khác, Đảng phải tăng cường gắn bó mật thiết với nhân dân, tổng
hợp các nhu cầu, mong đợi, bức xúc của nhân dân và chuyển hóa thành các
đề xuất chính sách cụ thể. Điều đó bảo đảm Đảng sẽ thực sự là vì nhân dân,
đại diện cho lợi ích của nhân dân. Ngồi lợi ích của nhân dân và của dân tộc,
Đảng khơng có lợi ích nào khác. Lòng tin của nhân dân đối với Đảng là một
trong những tiền đề quan trọng để Đảng tiếp tục giữ vững vai trị lãnh đạo
của mình.
IV. LIÊN HỆ THỰC TẾ XÂY DỰNG VÀ NÂNG CAO VĂN HÓA
17


CHÍNH TRỊ CHO CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ XÃ PHẠM VĂN
CỘI TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Với nhận thức văn hóa chính trị của người cán bộ lãnh đạo, quản lý đóng
vai trị quan trọng vì về bản chất nó là sự thống nhất ở nhiều đặc điểm, phẩm
chất của người lãnh đạo, quản lý, biểu hiện trong các quan hệ và hoạt động

chính trị - xã hội, trong các quan hệ và hoạt động lãnh đạo, quản lý tại địa
phương. Đó là sự thống nhất giữa lý trí và tình cảm, giữa đạo đức và tài năng,
giữa bản lĩnh và sự thích ứng, giữa nội dung và phong cách lãnh đạo, giữa năng
lực nhận thức và năng lực hành vi xã hội, giữa lợi ích cá nhân và lợi ích giai
cấp, lợi ích cộng đồng. Kinh nghiệm thực tiễn đã chỉ rõ, mức độ tổ chức triển
khai, áp dụng chính xác và kịp thời cũng như việc thực hiện thắng lợi đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đều phụ thuộc chất lượng đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý, nhất là đối với cấp chính quyền cơ sở - xã Phạm Văn Cội.
Chính vì vậy, trong suốt thời gian qua, vấn đề xây dựng và nâng cao văn
hóa chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý xã Phạm Văn Cội luôn được
cấp ủy Đảng quan tâm thực hiện thường xuyên, liên tục.
Trên cơ sở những phương hướng, giải pháp cơ bản để nâng cao văn hóa
chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, xã Phạm Văn Cội dựa trên thực
trạng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện nay đã xác định một số phương
hướng nâng cao văn hóa chính trị của cán bộ lãnh, quản lý là: xây dựng một
đội ngũ vững mạnh trên tất cả các mặt, có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên
định với mục tiêu và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, tiêu biểu và trung
thành tuyệt đối với lý tưởng của giai cấp công nhân và dân tộc; người cán bộ
lãnh đạo, quản lý phải gương mẫu, đi đầu trong công tác và mọi mặt đời sống
cho cấp dưới, cho nhân dân; trình độ kiến thức, năng lực phải tồn diện, vừa
rộng vừa sâu và thể hiện bằng hiệu quả thực tế trong công tác lãnh đạo, quản lý
tại địa phương; biết vận dụng các quy luật khách quan, khoa học vào trong lãnh
đạo, quản lý ở từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể; đồng thời là người có phong

18


cách lãnh đạo, có khả năng liên kết và thống nhất quần chúng, thật sự tận tâm,
tận lực phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Phương hướng trên được cấp ủy Đảng cụ thể hóa trên các mặt, các giải

pháp trong thời gian qua như sau:
Thứ nhất, phát huy hiệu quả việc tiếp tục đẩy mạnh “Học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, nhất là thực hiện về trách
nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, cán bộ chủ chốt, người đứng đầu
Theo đó, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã thực hiện trách
nhiệm nêu gương bằng đăng ký kế hoạch, bản cam kết; bằng hành động, thống
nhất giữa lời nói và việc làm; qua kết quả lãnh đạo, chỉ đạo và chịu trách nhiệm
về kết quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ; qua tự giác tu dưỡng, rèn luyện,
nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, trình độ, năng lực cơng tác; qua tự giác
vận động gia đình, người thân chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước; nêu gương về đức khiêm tốn, giản dị, tác
phong sâu sát thực tế, gần gũi thấu hiểu tâm tư, giải quyết kịp thời nguyện
vọng, lợi ích chính đáng của cán bộ, đảng viên; làm việc có ngun tắc, kỷ
cương, có lý có tình, khơng lạm dụng chức vụ, quyền hạn để mưu cầu lợi ích cá
nhân, cục bộ. Hết lòng chăm lo xây dựng và tăng cường đoàn kết nội bộ.
Thứ hai, tạo điều kiện cho cán bộ lãnh đạo, quản lý tham gia đào tạo,
bồi dưỡng về lý luận chính trị, về chun mơn nghiệp vụ, về kỹ năng công tác
để đáp ứng yêu cầu thực tiễn xây dựng đất nước
Đến thời điểm hiện nay, 100% cán bộ lãnh đạo, quản lý đều có trình độ
cao cấp lý luận chính trị, trung cấp lý luận chính trị, 100% cán bộ lãnh đạo,
quản lý có trình độ đại học trở lên. Hàng năm, cán bộ lãnh đạo, quản lý tại xã
đều tham dự các lớp bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ theo quy
định, trong đó chú trọng tham dự các lớp như bồi dưỡng chức danh lãnh đạo,
quản lý, bồi dưỡng các lớp lãnh đạo xây dựng Nông thôn mới trên địa bàn
Thành phố....
Chính từ việc quan tâm đào tạo, bồi dưỡng nêu trên, đã trang bị kiến
thức và kỹ năng cho người cán bộ lãnh đạo, quản lý nắm bắt và phân tích kịp
19



thời những sự kiện, q trình và tình huống chính trị cụ thể tại địa phương, khả
năng phân tích tâm trạng, thái độ, phản ứng chính trị ở các đối tượng khác nhau
trong những thời điểm khác nhau để có những quyết sách tương ứng và kịp
thời. Thực tế đã chứng minh, thiếu những kiến thức và kỹ năng hành động
chính trị cụ thể, người cán bộ lãnh đạo, quản lý có thể rất lúng túng trước các
tình huống phức tạp và tế nhị đòi hỏi phải ứng xử nhanh nhạy, chính xác.

20


PHẦN III: KẾT LUẬN
Văn hóa chính trị của cán bộ, đảng viên là những giá trị chân, thiện,
mỹ, phản ánh bản chất giai cấp cơng nhân, bản sắc văn hóa dân tộc được biểu
hiện thông qua nhận thức, tri thức, tình cảm, niềm tin, bản lĩnh, thái độ ứng
xử, năng lực thực hiện chức trách, nhiệm vụ của cán bộ, đảng viên.
Trong công cuộc đổi mới, Đảng ta đã bàn tới nhiệm vụ xây dựng văn hóa
trong chính trị, chú trọng chăm lo xây dựng văn hóa trong Đảng, trong các cơ
quan nhà nước và các đoàn thể. Đảng ta nhận rõ so với những thành tựu trên lĩnh
vực chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, thành tựu trong lĩnh vực
văn hóa chưa tương xứng; chưa đủ để tác động có hiệu quả xây dựng con người
và mơi trường văn hóa lành mạnh. Đáng lo ngại nhất là văn hóa trong chính trị
với tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trong nội bộ chưa bị ngăn chặn, đẩy lùi. Có mặt, có bộ phận cịn
biểu hiện tinh vị, phức tạp; tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tiêu cực, tha hóa
quyền lực vẫn cịn nghiêm trọng. Những biểu hiện đó chỉ là một bước ngắn,
thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khơn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc câu kết
với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng cách mạng của Đảng và dân
tộc.
Xây dựng văn hóa trong chính trị, văn hóa trong Đảng, Đảng ta đặt
trọng tâm là xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, cơng chức, viên chức có

phẩm chất đạo đức, tận tụy, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân,
gắn bó máu thịt với nhân dân; có ý thức thượng tơn pháp luật, dân chủ đi đôi
với kỷ luật, kỷ cương, tự do cá nhân gắn với trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ
cơng dân. Có quyết tâm chính trị cao trong ngăn chặn, đẩy lùi, chủ động
phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh, xử lý nghiêm sự suy thối về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và những hành vi
tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tiêu cực trong cán bộ, đảng viên, cơng chức.
Văn hóa nói chung, văn hóa chính trị nói riêng trước hết và xun suốt
là trau dổi nhân cách, tu dưỡng bản thân của những cán bộ, đảng viên có chức
có quyền, lãnh đạo, đứng đầu. Đảng ta nhấn mạnh xây dựng đội ngũ cán bộ
các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực và
uy tín. Nhận thức và quyết tâm đó của Đảng là trở về đích thực với quan điểm
21


và tấm gương của Hồ Chí Minh trong nhiệm vụ xây dựng văn hóa chính trị
mà Người nêu lên cách đây hơn hai phần ba thế kỷ./.

22



×