Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

tăng cường quản lý rủi ro tín dụng tại ngân hàng công thương chi nhánh đống đa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (600.11 KB, 72 trang )

Chuyên đề thực tập
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây nền kinh tế nước ta có nhiều chuyển biến tích cực trong
mọi lĩnh vực. Đang từng bước bắt nhịp với xu thế phát triển của các nước trong khu vực và
trên thế giới. Việt nam đã đạt được những thành tựu to lớn trong việc phát triển kinh tế. Để
có được những thành công to lớn này một phần là có sự lãnh đạo bằng những đường lối
đúng đắn của Đảng và Nhà nước, mặt khác là sự đóng góp của các thành phần kinh tế
trong nước. Trong đó có ngân hàng thương mại. Ngân hàng thương mại với vai trò là một
trung gian tài chính đã cung cấp một lượng vốn lớn đáp ứng nhu cầu về vốn để phát triển
kinh tế của đất nước. Ngân hàng Công Thương Việt Nam là một trong những Ngân hàng
thương mại quốc doanh lớn nhất Việt nam. Với mạng lưới chi nhanh rộng khắp trong cả
nước với sản phẩm dịch vụ đa dạng phục vụ được một số lượng lớn khách hàng, nó đã
đóng góp một phần không nhỏ vào sự phát triển của nền kinh tế nhất là cho đầu tư cơ sở hạ
tầng, máy móc thiết bị…
Hoạt động tín dụng là hoạt động đặc trưng của ngân hàng, nó đem lại nguồn thu nhập
chủ yếu cho ngân hàng. Song hoạt động này luôn tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro cao chính vì
vậy ngân hàng thương mại phải tìm mọi biện pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng.
Đối vớ Ngân hàng Công Thương Việt nam thì việc hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng
càng trở nên cần thiết.
Qua quá trình học tập nghiên cứu ở trường, cùng với sự giúp đỡ của khoa, của trường
và sự giúp đỡ của tập thể cũng như Ban lãnh đạo chi nhánh NHCTĐĐ đã tạo điều kiện cho
em được thực tập tại chi nhánh. Với những kiến thức đã được học và thời gian thực tập tại
chi nhánh và sự hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Hữu Tài em đã quyết định chọn đề tài:
“Tăng cường quản lý rủi ro tín dụng tại NHCTVN chi nhánh Đống Đa"
Nội dung đề tài được trình bày theo kết cấu sau:
Chương 1: Những lý luận chung về quản lý rủi ro tín dụng trong NHTM
Chương 2: Thực trạng rủi ro tín dụng tại Chi nhánh NHCTĐĐ
Chương 3: Giải pháp kiến nghị rủi ro tín dụng tại chi nhánh NHCTĐĐ
Nguyễn Hữu Cường Ngân hàng 46C
1
Chuyên đề thực tập


CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ RỦI
RO TÍN DỤNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Lý luận chung về hoạt động tín dụng trong ngân hàng thương mại
1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng thương mại
Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với lịch sử phát triển của nền
sản xuất hàng hóa. Nghề ngân hàng bắt đầu với nhiệm vụ đổi tiền hoặc đúc tiền. Những
người làm nghề đúc, đổi tiền thực hiện kinh doanh tiền tệ bằng cách đổi ngoại tệ lấy bản tệ
và ngược lại qua đó thu được lợi nhuận là sự chênh lệch giá mua bán. Những người làm
nghề đổi tiền thường có két tốt và thực hiện cất trữ hộ, điều này tạo điều kiện thanh toán hộ
và thanh toán không dùng tiền mặt. Ngân hàng của những người vừa đổi tiền, thanh toán
hộ vừa đúc tiền gọi là ngân hàng của những người thợ vàng. Nghề ngân hàng này cũng bắt
đầu từ người cho vay nặng lãi. Họ đồng thời thực hiện luôn cả nghiệp vụ đổi tiền, giữ hộ
và thanh toán hộ.Từ chỗ dùng vốn tự có để cho vay, các chủ ngân hàng nhận thấy luôn có
số dư thường xuyên tại ngân hàng vì tất cả những người gửi tiền không rút tiền cùng một
lúc. Do tính chất vô danh của tiền, chủ ngân hàng có thể sử dụng một phần tiền gửi của
khách để thu lợi nhuận. Vì vậy các ngân hàng đều tìm cách mở rộng thu hút tiền gửi để cho
vay bằng cách trả lãi cho người gửi tiền cũng như cung cấp các tiện ích khác nhau nhằm
thu lợi nhuận ngày càng lớn.
Ban đầu chủ yếu là cho vay cá nhân(chủ yếu là người giàu), với hình thức chủ yếu là
thấu chi, phát hành chứng chỉ tiền gửi khống để cho vay vì vật mà nhiều ngân hàng gặp
khó khăn và phá sản.
Do sự sụp đổ của nhiều ngân hàng và do lãi suất cao nên nhiều nhà buôn tự thành lập
ngân hàng, gọi là ngân hàng thương mại.Ngân hàng thương mại xuất phát và gắn liền với
tư bản thương nghiệp. Nó thực hiện các nghiệp vụ truyền thống của ngân hàng như huy
động tiền gửi, thanh toán, cất giữ hộ và cho vay. Tuy nhiên có một điểm khác biệt là
NHTM chủ yếu cho các nhà buôn vay dưới hình thức chiết khấu thương phiếu và để đảm
bảo an toàn, NHTM ban đầu không cho vay người tiêu dùng, không cho vay trung – dài
hạn, không cho vay nhà nước.Sự phá sản của NHTM dẫn đến hình thành ngân hàng tiền
gửi – không cho vay, chỉ thực hiện giữ hộ và thanh toán hộ để lấy phí. Bên cạnh đó, tùy
đặc điểm của từng nước mà xuất hiện nhiều hình thức ngân hàng khác nhau tạo nên hệ

thống ngân hàng, chúng đều thực hiện kinh doanh tiền tệ(trừ ngân hàng nhà nước).
Nguyễn Hữu Cường Ngân hàng 46C
2
Chuyên đề thực tập
Hoạt động ngân hàng có những bước tiến nhanh cùng với sự phát triển kinh tế và
công nghệ. Trước hết đó là sự đa dạng hóa các loại hình ngân hàng( ngân hàng tư nhân,
ngân hàng cổ phần, ngân hàng liên doanh…)và các hoạt động ngân hàng (đa dạng về số
lượng dịch vụ cũng như nâng cao về chất lượng).Do sự tích tụ và tâp trung vốn số lượng và
quy mô ngân hàng ngày càng được mở rộng, các nghiêp vụ mới ngày càng phát triển(từ
chỗ chỉ cho vay ngắn hạn là chủ yếu đã mở rộng cho vay trung và dài hạn, cho vay đầu tư,
tiêu dùng, cho thuê…).Các ngân hàng ngày càng phụ thuộc và liên hệ chặt chẽ với nhau,
điển hình như các hoạt động ngân hàng xuyên quốc gia và đa quốc gia đã và đang thúc đẩy
hình thành các hiệp hội, các tổ chức liên kết ngân hàng nhằm tạo sự thống nhất trong điều
hành hệ thống ngân hàng.
Sụp đổ ngân hàng đi liền với sự phát triển của hệ thống ngân hàng, các nhà quản lý
không ngừng cải tiến, nâng cao chính sách quản lý để hạn chế sự sụp đổ và mở đường cho
sự phát triển mạnh mẽ của ngành ngân hàng.
1.1.2. Chức năng và các dịch vụ của NHTM
1.1.2.1. Chức năng của NHTM
- Trung gian tài chính:
Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển tiền
tiết kiệm thành đầu tư. Trong nền kinh tế luôn có những người thừa vốn và những người
thiếu vốn. Để cho quá trình sản xuất được liên tục, ngân hàng thực hiện chức năng của
mình đó là huy động các nguồn tiền tiết kiệm cùng với nguồn vốn của chính mình để cung
cấp cho nền kinh tế. Ngân hàng đã làm tăng thu nhập của người tiết kiệm(qua việc trả lãi
tiền gửi) đồng thời giảm phí tổn tín dụng cho người đầu tư, từ đó khuyến khích đầu tư,
tăng trưởng kinh tế.Ngân hàng đã làm rất tốt nhiệm vụ là một trung gian tài chính tập hợp
các người tiết kiệm và đầu tư sử dụng các kỹ thuật và nghiệp vụ để hạn chế, phân tán rủi
ro, giảm phí giao dịch và đặc biệt tạo điều kiện cho sự phát triển.
- Tạo phương tiện thanh toán

Tiền có vai trò quan trọng là làm phương tiện thanh toán. Ban đầu các ngân hàng đã
không tạo được tiền kim loại mà với sự ra đời của giấy nhận nợ do ngân hàng phát hành
cùng ưu điểm nhất định đã trở thành phương tiện thanh toán rộng rãi được nhiều người
chấp nhận. Với nhiều ưu thế, dần dần giấy nợ của ngân hàng đã thay thế tiền kim loại làm
phương tiện lưu thông và cất trữ, nó trở thành tiền giấy. Trong điều kiện phát triển thanh
toán qua ngân hàng, khi ngân hàng cho vay, số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của
Nguyễn Hữu Cường Ngân hàng 46C
3
Chuyên đề thực tập
khách hàng tăng lên, khách hàng qua đó có thể dùng mua hàng hóa và dịch vụ. Do vậy
bằng việc cho vay các ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán. Ngày nay cùng sự phát
triển của nền kinh tế thì toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng tạo phương tiện thanh toán khi
các khoản tiền gửi được mở rộng từ ngân hàng này đến ngân hàng khác trên cơ sở cho vay.
- Trung gian thanh toán:
Trong hầu hết các quốc gia hiện nay, ngân hàng đã trở thành trung gian thanh toán
lớn nhất. thay mặt khách hàng, thực hiện thanh toán giá trị hàng hóa và dịch vụ. Ngày nay
cùng với sự phát triển của nền kinh tế để việc thanh toán nhanh chóng, thuận tiện và tiết
kiệm chi phí, ngân hàng đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán như thanh toán
bằng séc, ủy nhiệm chi, nhờ thu,…Đặc biệt công nghệ thanh toán hiện đại qua ngân hàng
thường được các nhà quản lý tìm cách áp dụng rộng rãi, để tạo tính thanh toán không chỉ
giữa các ngân hàng trong một quốc gia mà còn giữa các ngân hàng trên toàn thế giới. Ngân
hàng đã và đang trở thành một trung tâm thanh toán quan trọng và có hiệu quả, phục vụ
đắc lực cho nền kinh tế toàn cầu.
1.1.2.2. Các dịch vụ của ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một doanh nghiệp cung cấp các dịch vụ cho công chúng và doanh
nghiệp. Hoạt động ngân hàng có phát triển hay không nó phụ thuộc vào kết quả dịch vụ mà
ngân hàng cung cấp cho nền kinh tế.
- Mua, bán ngoại tệ:
Một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên được thực hiện là trao đổi mua bán
ngoại tệ: mua, bán một loại tiền này lấy một loại tiền khác và hưởng phí dịch vụ.

- Nhận tiền gửi.
Ngân hàng là tổ chức kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ. Cho vay được coi là hoạt động
sinh lời cao.do vậy các ngân hàng tìm mọi cách để huy động được tiền ngoài nguồn vốn tự
có của mình. Ngân hàng sẵn sàng trả lãi cho cho tiền gửi như là phần bù chi phí cơ hội cho
khách hàng khi họ hy sinh việc tiêu dùng trước mắt và cho ngân hàng sử dụng tạm thời để
kinh doanh.
- Cho vay:
Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao. Ngay thời kỳ đầu các ngân hàng đã chiết
khấu thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với những người bán. Sau đó ngân hàng cho
vay trực tiếp đối với khách hàng là người mua, giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ nhằm
mở rộng sản xuất kinh doanh.
Nguyễn Hữu Cường Ngân hàng 46C
4
Chuyên đề thực tập
Với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của nền kinh tế đi kèm với nó là nhu cầu vốn
của khách hàng ngày càng tăng thì nghiệp vụ cho vay của ngân hàng cũng ngày càng trở
nên đa dạng hơn như: cho vay tiêu dùng, cho vay ngắn hạn, tài trợ cho dự án trung và dài
hạn, cho vay đầu tư,…
- Cung cấp tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán.
Khi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, ngân hàng không chỉ bảo quản mà còn thực
hiện các lệnh chi trả cho khách hàng. Thanh toán qua ngân hàng đã mở đầu cho thanh toán
không dùng tiền mặt. Việc thanh toán không dùng tiền mặt đã góp phần rút ngắn thời gian
kinh doanh và nâng cao thu nhập cho khách hàng – người gửi tiền không cần đến ngân
hàng để chi tiền mà chỉ cần viết giấy chi trả cho khách hàng, khách hàng mang giấy đến
cho ngân hàng sẽ nhận được tiền. Chính vì vậy đã khuyến khích khách hàng gửi tiền vào
ngân hàng để nhờ ngân hàng thanh toán hộ,cùng với sự phát triển của khoa học thì công
nghệ thanh toán qua ngân hàng cũng ngày càng đa dạng: séc, ủy nhiệm thu,chi, L/C, thẻ…
- Bảo lãnh.
Do khả năng thanh toán của ngân hàng cho một khách hàng rất lớn và do ngân hàng
nắm giữ tiền gửi của khách hàng, nên ngân hàng có uy tín trong bảo lãnh cho khách hàng.

Ngân hàng thường bảo lãnh cho khách hàng của mình mua chịu hàng hoá và trang thiết bị,
phát hành chứng khoán, vay vốn của tổ chức tín dụng khác
- Các dịch vụ khác.
Ngoài những dịch vụ mà ngân hàng cung cấp như trên còn có những dịch vụ như:
bảo quản hộ tài sản, quản lý ngân quỹ, tài trợ các hoạt động của Chính phủ, cho thuê thiết
bị trung và dài hạn, cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn, dịch vụ bảo hiểm, các dịch vụ địa
lý.
Với sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay. Để đáp ứng nhu
cầu của khách hàng, các ngân hàng đã cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán, cung
cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác. Một số ngân
hàng đã thành lập công ty chứng khoán hạch toán độc lập để cung cấp dịch vụ môi giới
chứng khoán này.
1.1.3. Khái quát về các hoạt động tín dụng ngân hàng
Tín dụng được hiểu là một giao dịch thỏa thuận giữa hai bên, trong đó một bên (có
thể là trái chủ hoặc người cho vay) chu cấp tiền, hàng hoá, dịch vụ hoặc chứng khoán dựa
Nguyễn Hữu Cường Ngân hàng 46C
5
Chuyên đề thực tập
vào lời hứa thanh toán lại trong tương lai của bên kia (là người thụ trái hoặc người đi vay).
Những giao dịch này thường còn bao gồm cả việc thanh toán lợi tức cho người cho vay.
Tín dụng ngân hàng là sự cho vay hay ứng trước tiền do ngân hàng thực hiện. Bản
thân ngân hàng là người cho vay còn người đi vay là những khách hàng khác nhau. Giá mà
ngân hàng ấn định cho khách hàng khi đi vay là tiền hoa hồng mà họ phải trả trong suốt
thời gian tồn tại khoản ứng trước đó.
Vậy hoạt động tín dụng có ý nghĩa gì đối với sự phát triển của một ngân hàng?
Trong nền kinh tế thị trường cung cấp tín dụng là chức năng kinh tế cơ bản của ngân
hàng. Tín dụng là hoạt động sinh lời nhiều nhất song rủi ro lại là lớn nhất cho NHTM. Đối
với hầu hết các ngân hàng, dư nợ tín dụng thường chiếm tới hơn 1/2 tổng tài sản có và thu
nhập từ tín dụng chiếm khoảng từ 1/2 đến 2/3 tổng thu nhập của ngân hàng. Mặt khác, rủi
ro trong kinh doanh ngân hàng có xu hướng tập trung chủ yếu vào danh mục tín dụng. Khi

ngân hàng rơi vào trạng thái tài chính khó khăn nghiêm trọng, thì nguyên nhân thường phát
sinh từ hoạt động tín dụng của ngân hàng.
Rủi ro tín dụng sẽ dẫn đến rủi ro về lãi suất, rủi ro tỷ giá hối đoái, rủi ro nguồn vốn.
Do đó các ngân hàng phải có những biện pháp quản lý hoạt động tín dụng một cách thích
hợp để nâng cao chất lượng tín dụng một mặt hạn chế rủi ro, mặt khác nhằm mang lại hiệu
quả kinh doanh cao cho ngân hàng.
1.1.3.1. Phân loại các nghiệp vụ tín dụng trong ngân hàng
a) Căn cứ vào mục đích:
Dựa vào căn cứ này tín dụng được chia làm các loại:
* Cho vay bất động sản: Loại cho vay liên quan đén việc mua sắm và xây dựng bát
động sản nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
* Cho vay công nghiệp và thương mại: là loại cho vay ngắn hạn để bổ xung vốn lưu
động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ .
* Cho vay nông nghiệp là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất như phân
bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, lao động, nhiên liệu.
* Cho vay cá nhân là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng như mua sắm
các vật dụng đắt tiền, ngày nay ngân hàng còn thực hiện các khoản cho vay để trang trải
các chi phí thông thường của đời sống thông qua phát hành thẻ tín dụng.
* Thuê mua và các loại khác.
b) Căn cứ vào thời hạn cho vay:
Nguyễn Hữu Cường Ngân hàng 46C
6
Chuyên đề thực tập
Theo căn cứ này thì chia làm 3 loại:
- Cho vay ngắn hạn.
- Cho vay trung hạn .
- Cho vay dài hạn.
Nghiệp vụ truyền thống của các ngân hàng thương mại là cho vay ngắn hạn , nhưng
từ những năm 70 trở lại đây các ngân hàng đã chuyển sang kinh doanh tổng hợp và một
trong những nội dung đổi mới đó là nâng tỷ trọng cho vay trung và dài hạn trong tổng số

dư nợ của ngân hàng.
c) Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng:
Theo căn cứ này bao gồm:
- Cho vay không đảm bảo: là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc có
sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách
hàng . Đối với những khách hàng tốt, trung thực trong kinh doanh, có khả năng tài chính
mạnh, quản trị có hiệu quả thì ngân hàng có thể cấp tín dụng dựa vào uy tín của khách
hàng mà không cần một nguồn thu nợ bổ sung.
- Cho vay có đảm bảo là loại cho vay được ngân hàng cung ứng, phải có tài sản thế
chấp hoặc cầm cố, hoặc có sự bảo lãnh của người thứ ba.
d) Căn cứ vào hình thái giá trị của tín dụng:
Theo căn cứ này thì được chia thành:
- Cho vay bằng tiền là loại cho vay mà hình thái giá trị của tín dụng được cung cấp
bằng tiền .Đây là loại cho vay chủ yếu của các ngân hàng và việc thực hiện bằng các kỹ
thuật khác nhau như: tín dụng ứng trước, thấu chi, dễ dãi ngân quỹ, tín dụng thời vụ, tín
dụng trả góp
- Cho vay bằng tài sản là hình thức cho vay bằng tài sản rất phổ biến và đa dạng,
riêng đối với ngân hàng cho vaybằng tài sản được áp dụng phổ biến là tài trợ thuê mua.
Theo phương thức cho vay này ngân hàng hoặc công ty thuê mua cung cấp trực tiếp tài sản
cho người đi vay được gọi là người đi thuê, và theo định kỳ người đi thuê hoàn trả nợ vay
bao gồm cả vốn gốc và lãi.
e) Căn cứ vào phương pháp hoàn trả:
- Cho vay trả góp .
- Cho vay phi trả góp.
- Cho vay hoàn trả theo yêu cầu.
Nguyễn Hữu Cường Ngân hàng 46C
7
Chuyên đề thực tập
1.1.3.2. Các nguyên tắc trong tín dụng ngân hàng
Hoạt động tín dụng của NHTM có một số nguyên tắc nhất định nhằm đảm bảo tính

an toàn và khả năng sinh lời.Các nguyên tắc này được phản ánh rõ trong các quy định của
ngân hàng nhà nước và các NHTM.
Trước hết, khách hàng phải cam kết hoàn trả vốn (gốc) và lãi với thời gian xác định:
Các khoản tín dụng ngân hàng chủ yếu có nguồn gốc từ các khoản tiền gửi của khách hàng
và các khoản ngân hàng vay mượn. Ngân hàng phải có trách nhiệm hoàn trả cả lãi và gốc
như đã cam kết. Do vậy ngân hàng luôn yêu cầu người nhận tín dụng phải thực hiện đúng
cam kết này. Đây là điều kiện tiên quyết để ngân hàng tồn tại và phát triển.
Với việc sử dụng vốn vay: Khách hàng phải cam kết sử dụng tín dụng theo mục đích
được thoả thuận với ngân hàng, phù hợp với các điều lệ ngân hàng, không trái với các quy
định của pháp luật và các quy định khác của ngân hàng cấp trên.
Ngân hàng tài trợ dựa trên phương án có hiệu quả: Thực hiện nguyên tắc này là điều
kiện để thực hiện nguyên tắc thứ nhất. Phương án hoạt động có hiệu quả của người vay
minh chứng cho khả năng thu hồi được vốn đầu tư và có lãi để trả nợ ngân hàng. Các
khoản tài trợ của ngân hàng phải gắn liền với việc hình thành tài sản của người vay. Trong
trường hợp xét thấy kém an toàn, ngân hàng đòi hỏi người vay phải có tài sản đảm bảo khi
vay. Các tài sản này cũng phải có đầy đủ các yêu cầu về tài sản đảm bảo của ngân hàng.
1.1.4. Các loại rủi ro trong kinh doanh của ngân hàng
Kinh doanh ngân hàng là loại hình kinh doanh đặc biệt và những rủi ro đối với hoạt
động ngân hàng cũng vì thế mà mang tính dặc thù. Những rủi ro mà một ngân hàng phải
đối mặt bao gồm:
1.1.4.1. Rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất mà ngân hàng phải chịu do khách
hàng vay không trả đúng hạn, không trả, hoặc không trả đầy đủ vốn và lãi. Khi thực hiện
một hoạt động cho vay cụ thể, ngân hàng không dự kiến là khoản cho vay đó sẽ bị tổn thất,
cấp tín dụng và nhận các giấy nhận nợ do con nợ phát hành với sự cam kết sẽ thanh toán cả
gốc và lãi đầy đủ đúng hạn.Do vậy tại thời điểm cấp tín dụng đồng nghĩa với việc ngân
hàng đã thừa nhận khả năng thanh toán của khách hàng với một xác suất cao. Tuy nhiên
những khoản vay đó luôn hàm chứa nhiều rủi ro.
Nguyễn Hữu Cường Ngân hàng 46C
8

Chuyên đề thực tập
1.1.4.2. Rủi ro hối đoái
Rủi ro hối đoái là khả năng xảy ra tổn thất mà ngân hàng phải chịu khi tỷ giá hối đoái
thay đổi vượt quá thay đổi dự tính. Trong cơ chế thị trường, tỷ giá thường xuyên dao động.
Sự thay đổi này cùng với trạng thái hối đoái của ngân hàng tạo ra thặng dư hoặc thâm hụt
tạm thời. Tuy nhiên những thay đổi tỷ giá ngoài dự kiến dẫn đến tổn thất cho ngân hàng, ta
có thể lấy một ví dụ nhỏ sau: giả sử một ngân hàng Việt Nam cấp tín dụng bằng USD cho
khách hàng của mình, khi đồng USD giảm giá so với VND, thì gốc và lãi của khỏan cho
vay bằng USD thu về sẽ bị giảm khi quy thành VND.
1.1.4.3. Rủi ro lãi suất
Rủi ro lãi suất là khả năng xảy ra những tổn thất khi lãi suất thay đổi ngoài dự tính.
Lãi suất ngân hàng thường xuyên biến động với các mức độ khác nhau cùng với sự không
cân xứng về kỳ hạn giữa tài sản có và tài sản nợ làm cho ngân hàng có thể dẫn đến tổn thất.
Rủi ro lãi suất có liên quan chặt chẽ với rủi ro tín dụng.
1.1.4.4. Rủi ro thanh khoản
Rủi ro thanh khoản là khả năng xảy ra tổn thất cho ngân hàng khi nhu cầu thanh
khoản thực tế vượt quá khả năng thanh khoản dự kiến làm gia tăng các chi phí để đáp ứng
nhu cầu thanh khoản hoặc làm cho ngân hàng mất khả năng thanh toán.Hay nói cách khác
nó phát sinh khi những người gửi tiền đồng thời có nhu cầu rút tiền gửi ở ngân hàng ngay
lập tức. Mặc dù ngân hàng luôn lường trước điều này bằng việc duy trì lượng tiền mặt ở
mức tối ưu đủ để đáp ứng các nhu cầu rút tiền thường xuyên của người gửi tiền mà không
gây ảnh hưởng đến độ thanh khoản của ngân hàng. Tuy nhiên, trong một vài trường hợp
đặc biệt ngân hàng vẫn phải đối mặt với rủi ro thanh khoản như trong tình huống những
người gửi tiền mất lòng tin vào ngân hàng hay nhu cầu rút tiền có tính chất thời vụ mà
ngân hàng không dự tính trước được đòi hỏi ngân hàng phải chi trả tức thời một khoản tiền
lớn hơn mức bình thường. Hậu quả là ngân hàng có thể phải đối mặt với rủi to phá sản.
1.1.4.5. Rủi ro khác
Ngoài các rủi ro chính đã nêu ngân hàng còn phải luôn sẵn sàng đối mặt với các rủi
ro khác là: rủi ro tồn đọng vốn,rủi ro công nghiệ và hoạt động, khả năng xảy ra cướp ngân
hàng, nhầm lẫn trong thanh toán, hoả hoạn…

Tất cả các loại rủi ro này đòi hỏi ngân hàng ngày càng phải hoàn chỉnh quy trình
quản lý, giám sát của mình một cách chặt chẽ nhằm đưa ra các dự báo kịp thời cũng như có
các biện pháp nhanh chóng thích hợp để hạn chế rủi ro xảy ra.
Nguyễn Hữu Cường Ngân hàng 46C
9
Chuyên đề thực tập
1.1.5. Ảnh hưởng của rủi ro đối với ngân hàng
Như trên đã nói rủi ro gắn liền với hoạt động kinh doanh của NHTM, nó phản ánh
các tình huống xảy ra ngoài dự kiến, có thể gây tổn thất cho ngân hàng. Khi tổn thất xảy ra,
trước hết thu nhập của ngân hàng giảm sút, dẫn đến tỷ suất lợi tức và thị giá cổ phiếu của
ngân hàng giảm. Việc cổ phiếu giảm giá nếu không kịp thời chấn chỉnh sẽ có thể kéo theo
việc bán hàng loạt các cổ phiếu trên thị trường là điểm mở đầu của quá trình mua lại, sát
nhập hoặc có thể thay thế ban quản lý ngân hàng. Rủi ro tín dụng, lãi suất có thể dẫn đến
rủi ro thanh khoản với hàng loạt người gửi tiền rút tiền khỏi ngân hàng, khi đó buộc ngân
hàng phải đóng cửa hoặc tuyên bố phá sản. Một số dẫn chứng về tổn thất của ngân hàng:
• Vào những năm 70 các NHTM nước ngoài cho các nước kém phát triển vay hàng
trăm tỷ đô la. Vào những năm 80 những khoản vay này trở nên khó thu hồi, các ngân hàng
bị thua lỗ rất lớn.
• Ngân hàng Ilinoi năm 1984, ngân hàng BOA năm 1991 đều gặp phải sự giảm sút
rất lớn của tiền gửi, dẫn đến mất khả năng thanh toán.
• 1987 Merrill Lynch mất 350 triệu USD do viêc nắm giữ các chứng khoán thế chấp
khi lãi suất tăng đột ngột.
• Đầu những năm 1990, các quĩ tín dụng của Việt Nam sụp đổ hàng loạt gây ra tổn
thất lớn cho những người gửi tiền tiết kiệm.
• Vào năm 1997, nhiều NHTM Việt Nam do mở rộng lĩnh vực cho vay tràn lan đã
rơi vào tình trạng nợ quá hạn, nợ khó đòi cao.
Tóm lại ngân hàng luôn phải đối mặt với các rủi ro xung quanh quá trình hoạt động
của mình, khi chúng xảy ra dù ít hay nhiều cũng để lại cho ngân hàng những tổn thất
không thể lường hết được. Trước hết nó có thể làm tổn hại đến những người gửi tiền và sự
phá sản của một ngân hàng luôn có hiệu ứng lây lan và mang tính dây chuyền, nó có thể

tạo ra sự nghi ngờ của công chúng về sự ổn định và khả năng thanh toán của toàn hệ thống
ngân hàng nói chung,tạo ra sự náo loạn trong xã hội.
1.2 Rủi to tín dụng
Để đạt được lợi nhuận cao thu hút nhiều khách hàng, tăng sức cạnh tranh, các ngân
hàng tìm cách mở rộng tín dụng, cung ứng nhiều dịch vụ mới cho khách hàng nhưng đồng
thời cũng phải đối mặt với nhiều rủi ro hơn, các loại rủi ro này luôn tiềm ẩn làm tăng chi
phí để bù đắp rủi ro làm giảm lợi nhuận, lỗ hoặc mất vốn; thiếu hụt nguồn vốn để chi trả
Nguyễn Hữu Cường Ngân hàng 46C
10
Chuyên đề thực tập
tiền gửi cho khách hàng, các khoản vay của tổ chức tín dụng, tài chính khác do không thu
hồi được các khoản nợ và lãi đến hạn, dẫn đến mất khả năng chi trả, khả năng thanh toán
dễ rơi vào tình trạng phá sản; ảnh hưởng đến hoạt động ngân hàng cho vay, nếu nghiêm
trọng và kéo dài dễ gây hiệu ứng phản ứng dây truyền đe doạ đến hàng loạt các ngân hàng
khác do khách hàng đua nhau rút tiền gửi ở ngân hàng. Nền kinh tế lâm vào khủng hoảng
tài chính tiền tệ.
Hoạt động tín dụng là hoạt động tiêu biểu của hầu hết các ngân hàng, hoạt động này
đòi hỏi ngân hàng phải tìm mọi cách để kiểm soát được khả năng hoàn trả nợ của khách
hàng, ít nhất cũng là dự tính, phán đoán khả năng này. Rủi ro trong hoạt động tín dụng
không chỉ xảy ra đối với các khoản tín dụng bình thường mà còn xảy ra đối với các khoản
ngoại bảng như bảo lãnh L/C, hoạt động bao thầu phát hành trái phiếu,…thì nếu việc quản
trị điều hành không hiệu quả hoặc không đánh giá đúng được tác dụng của các nghiệp vụ
ngoại bảng có thể dẫn đến những tổn thất to lớn.
1.2.1. Bản chất và tác động của rủi ro tín dụng
1.2.1.1. Bản chất của rủi ro tín dụng.
Rủi ro tín dụng (rủi ro về sự tổn thất tài chính) là khả năng xảy ra những tổn thất mà
ngân hàng phải chịu do khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả, hoặc không trả đầy
đủ cả gốc và lãi, mất khả năng thanh toán. Điều này có nghĩa là các khoản thanh toán bao
gồm cả gốc và lãi như cam kết sẽ có thể bị trì hoãn hoặc thậm chí là không được trả, và
hậu quả là sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng sự luân chuyển tiền tệ và sự bền vững của tính chất

trung gian dễ bị tổn thương trong hoạt động của ngân hàng.
Rủi ro tín dụng gắn liền với họat động quan trọng nhất, có quy mô lớn nhất của
NHTM – hoạt động tín dụng. Khi thực hiện hoạt động cho vay cụ thể, ngân hàng không dự
kiến được chính xác các rủi ro có thể xảy ra và khoản cho vay đó có thể sẽ bị tổn thất. Rủi
ro tín dụng là không thể tránh khỏi trong hoạt động của ngân hàng, trên quan điểm quản lý
toàn bộ ngân hàng, rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi, là khách quan. Do vậy, khi tổn
thất dưới mức tỷ lệ tổn thất dự kiến đối với hoạt động tín dụng thì ngân hàng coi đó cũng là
một thành công trong quản lý.
Chính vì rủi ro tín dụng luôn được coi là người bạn đồng hành trong kinh doanh ngân
hàng, chỉ có thể dự đoán đề phòng, hạn chế, chứ không thể loại trừ.Chính vì vậy nó đặt cho
các nhà quản lý ngân hàng cần có những quy trình chặt chẽ nhằm kiểm soát và dự báo
những rủi ro dự kiến có thể xảy ra trong chiến lược hoạt động chung của ngân hàng.
Nguyễn Hữu Cường Ngân hàng 46C
11
Chuyên đề thực tập
1.2.1.2. Tác động của rủi ro tín dụng.
Thứ nhất, rủi ro tín dụng gây ra hậu quả nặng nề đối với các chủ thể tham gia trực
tiếp vào quan hệ tín dụng là NHTM và khách hàng.
Rủi ro tín dụng có ảnh hưởng đến thu nhập và uy tín của ngân hàng bởi vì: Nhiệm vụ
đầu tiên của ngân hàng là nhằm bảo vệ tiền gửi của khách hàng. Nếu một khoản cho vay
nào đó bị thất thoát (không thu hồi được) thì trước tiên làm cho ngân hàng không có khả
năng thanh toán cho người gửi tiền. Ngân hàng cũng phải có trách nhiệm với các cổ đông,
phải đảm bảo mức chia lãi tức cổ phần hợp lý cũng như đảm bảo mức lương nhất định đối
với nhân viên ngân hàng. Hoạt động tín dụng là hoạt động chủ yếu của ngân hàng, đem lại
85->90% thu nhập của ngân hàng. Nếu những doanh nghiệp vay vốn ngân hàng đỏ vỡ,
nhất là những doanh nghiệp vay nhiều vốn của một ngân hàng và không có khả năng khắc
phục được, thì sau đó sẽ dẫn đến sự đổ vỡ của chính bản thân ngân hàng. Bởi nếu ngân
hàng bị rủi ro trong hoạt động tín dụng và phải dùng vốn để trang trải cho các khoản thất
thoát này thì đến một chừng mực nào đó sẽ không thể thực hiện việc “xoá sổ” những khoản
thất thoát này nữa và ngân hàng có thể bị lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán cho

người gửi tiền. Giảm uy tín đối với khách hàng đến gửi tiền do đó làm giảm nguồn vốn mà
ngân hàng có thể huy động được.
Rủi ro tín dụng có ảnh hưởng đến khách hàng vay vốn bởi vì:
Rủi ro tín dụng xảy ra cụ thể là nợ quá hạn phát sinh thì doanh nghiệp vay vốn phải
chịu lãi suất quá hạn là 150% lãi suất trong hạn, một mức lãi suất cao làm cho tổng nợ của
khách hàng đối với ngân hàng tăng lên nhanh chóng, tình hình tài chính của họ đã khó
khăn nay lại càng khó khăn hơn, khả năng trả nợ cho ngân hàng ngày càng thấp. Hơn nữa,
khách hàng để phát sinh nợ quá hạn là dấu hiệu nói lên sự hoạt động kém hiệu quả của
khách hàng và uy tín của khách hàng sẽ bị giảm sút. Do đó họ sẽ gặp nhiều khó khăn khi
muốn vay vốn tại ngân hàng đó hoặc tại ngân hàng khác để khôi phục hoạt động sản xuất
kinh doanh.
Thứ hai, rủi ro tín dụng có thể gây ra hậu quả đối với hệ thống tài chính của cả quốc
gia.
Ngân hàng là một trung gian tài chính, hoạt động của mỗi ngân hàng có sự tác động
mạnh mẽ đến toàn bộ hệ thống tài chính. Nếu có sự thất thoát trong hoạt động tín dụng nào
đó, dù chỉ một ngân hàng và ở một mức nhất định nào đó cũng sẽ đe doạ đến tính an toàn
và tính ổn định của toàn hệ thống ngân hàng. Từ đó sẽ dẫn đến các chính sách tài chính
Nguyễn Hữu Cường Ngân hàng 46C
12
Chuyên đề thực tập
cũng không còn phù hợp và hệ thống tài chính tiền tệ không còn được vững mạnh. Giảm
uy tín trên thị trường tài chính thế giới. Vì lẽ đó mà các ngân hàng Trung ương đều quy
định mọi ngân hàng phải tuân thủ quy trình phân tích rủi ro trong cho vay.
Thứ ba, rủi ro tín dụng có ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế:
Khi có tổn thất xảy ra, trước hết thu nhập của ngân hàng giảm sút, dẫn đến tỷ suất lợi
tức và thị giá cổ phiếu của ngân hàng giảm. Việc cổ phiếu giảm giá sẽ có thể kéo theo việc
bán hàng loạt cổ phiếu trên thị trường, là điểm mở đầu của quá trình mua lại, sát nhập, thay
thế ban quản lý ngân hàng. Rủi ro tín dụng có thể dẫn đến rủi ro thanh khoản, mọi người sẽ
mất lòng tin ở ngân hàng và việc huy động vốn của ngân hàng cũng sẽ gặp khó khăn. Rủi
ro tín dụng không chỉ có ảnh hưởng đến phạm vi của một ngân hàng nào đó mà nó ảnh

hưởng đến toàn bộ hệ thống ngân hàng, đến thị trường tài chính, từ đó ảnh hưởng đến sự
phát triển kinh tế.
Do đó việc quản lý để hạn chế rủi ro tín dụng ngân hàng là điều rất cần thiết trong
quá trình thực hiện hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
1.2.2. Phân loại rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng Ngân hàng thường do khách hàng mang lại, sự yếu kém về quản lý
của Ngân hàng, do hoàn cảnh Ngân hàng mang lại Tuy nhiên, khả năng gây ra rủi ro tín
dụng phổ biến nhất, hay gặp nhất trong thực tế là từ phía khách hàng vay vốn mang lại.
Theo hình thức tín dụng ta có thể đưa ra một số loại rủi ro chủ yếu như sau:
- Rủi ro đối với tín dụng ngắn hạn:
Mục đích của tín dụng ngắn hạn là nhằm bổ sung vốn lưu động tạm thời thiếu cho
các doanh nghiệp và cá nhân kinh doanh với thời hạn ngắn (thường dưới 1 năm). Các
khoản tín dụng ngắn hạn thường được kiểm tra qua tính toán hiệu quả đầu tư giản đơn và
nhanh chóng, lãi suất cho vay thấp, phương pháp này dễ xảy ra tình trạng khách hàng sử
dụng vốn ngắn hạn để đầu tư trung và dài hạn, sử dụng sai mục đích, gây thiệt hại cho
ngân hàng.
- Rủi ro đối với tín dụng trung và dài hạn:
Đặc điểm của tín dụng trung và dài hạn là thời hạn thu hồi vốn dài, có khối lượng
lớn, vòng quay vốn chậm (từ một năm trở lên) chủ yếu cấp vốn để mua Tài sản cố định, cải
tiến mở rộng sản xuất, đầu tư cho các công trình và dự án lớn mà hiệu quả của công việc
đầu tư này phụ thuộc vào nhiều yếu tố như biến động về chính trị, xã hội, thiên tai địch
hoạ Những yếu tố có thể tác động tích cực hoặc tiêu cực đến hiệu quả đầu tư. Những
Nguyễn Hữu Cường Ngân hàng 46C
13
Chuyên đề thực tập
hoạt động tiêu cực gây ra sự đình trệ, thất thoát vốn của doanh nghiệp, trì hoãn thời gian
thu vốn của dự án gây ảnh hưởng đến các món nợ của ngân hàng.
- Rủi ro trong nghiệp vụ chiết khấu:
Chiết khấu là việc tổ chức tín dụng mua thương phiếu, giấy tờ có giá ngắn hạn khác
của người thụ hưởng trước khi đến hạn thanh toán.

Tái chiết khấu là việc mua lại thương phiếu, giấy tờ có giá ngắn hạn khác đã được
chiết khấu trước khi đến hạn thanh toán.
Chiết khấu có thể xảy ra rủi ro trong các trường hợp sau:
+ Thương phiếu giả mạo:
+ Người nhận trả không có khả năng trả nợ
- Rủi ro đối với tín dụng thuê mua:
Nói chung đây là một hình thức tín dụng có độ an toàn tương đối cao vì trong suốt
quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng thuê mua, tài sản cho thuê vẫn thuộc quyền sở hữu
của người cho thuê.
Theo hình thức quản lý thì rủi ro tín dụng bao gồm hai loại:
- Rủi ro tín dụng có thể kiểm soát được:
Đối với rủi ro này ngân hàng phần nào dự đoán được chủ thể gây ra rủi ro, ước tính
được mức độ ảnh hưởng của rủi ro, đồng thời dự kiến được thời gian phát sinh từ đó có
những biện pháp phòng ngừa và hạn chế ở mực thấp nhất thiệt hại có thể xảy ra cho ngân
hàng. Những rủi ro này thường ro tính chủ quan của con người gây ra, có thể do khách
hàng gây ra như kinh doanh kém hiệu quả hoặc quản lý yếu kém, có thể do nguyên nhân từ
phía ngân hàng như không tuân thủ nguyên tắc cũng như quy trình thẩm định, năng lực,
đạo đức cán bộ tín dụng…Thông thường là do khách hàng gây ra rủi ro này.
- Rủi ro tín dụng không kiểm soát được:
Đây là loại rủi ro mà ngân hàng không thể dự đoán trước được, không biết chúng sẽ
xảy ra vào thời điểm nào, cũng như không thể tính toán một cách chính xác được những
ảnh hưởng thiệt hại mà chúng gây ra. Những rủi ro này chủ yếu do những bất lợi về yếu tố
tự nhiên như hạn hán, lũ lụt, mất mùa, hoả hoạn…Ngoài ra rủi ro này còn do những thay
đổi cơ chế cũng như chính sách của nhà nước.
Nguyễn Hữu Cường Ngân hàng 46C
14
Chuyên đề thực tập
1.2.3. Các nguyên nhân và dấu hiệu của rủi ro tín dụng
1.2.3.1. Những nguyên nhân:
Quản lý rủi ro tín dụng cần xác định những nguyên nhân cụ thể, chính xác nguyên

nhân gây ra rủi ro để có biện pháp hạn chế. Có rất nhiều nguyên nhân gây ra rủi ro tín
dụng, trong đó được chia ra làm ba loại sau:
Những nguyên nhân bất khả kháng
+ Nguyên nhân do điều kiện tự nhiên:
Là các nguyên nhân không thể phòng tránh thuộc về thiên nhiên, thiên tai, địch hoạ,
gây mất mát thiệt hại về tài sản của Ngân hàng.
+ Nguyên nhân về phía người vay:
Năng lực của người đi vay yếu kém.
Điều này thể hiện trong khả năng sử dụng vốn của người vay. Một nguồn vốn sử
dụng có hiệu quả khi nó tạo ra của cải vật chất phù hợp và được xã hội chấp nhận. Với
năng lực kém, người vay không có khả năng nhận biết được sự phát triển của khoa học kỹ
thuật, trình độ thưởng thức cũng như sự đòi hỏi của nhu cầu trên thị trường, do vậy sử
dụng vốn một cách không hợp lý dẫn đến không có khả năng chi trả, phá sản và gây tổn
thất cho ngân hàng.
Do sự yếu kém của người điều hành.
Người điều hành không có khả năng dự đoán được sự biến động của giá cả thị
trường, không xác định được thị phần của các đối thủ cạnh tranh, không nắm được thị hiếu
của người tiêu dùng dẫn đến sự tồn đọng hàng hoá, bị cạnh tranh mất thị phần. Điều này
ảnh hưởng không chỉ tới kết quả sản xuất kinh doanh của người vay mà còn ảnh hưởng tới
khả năng thu hồi các khoản vay của nhà ngân hàng.
Do không nắm bắt kịp thời các thông tin.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, sự nắm bắt tình hình về giá cả, sự
xuất hiện của các hàng hoá cùng loại, thị hiếu của người tiêu dùng trên thị trường là điều
kiện cần thiết nhất quyết định kinh doanh đúng đắn nhất, có hiệu quả nhất. Do vậy, sự
thiếu thông tin có thể dẫn người vay tới tình trạng thua lỗ do mất thị trường, tồn đọng hàng
hoá gây ra sự mất chi trả đối với các khoản nợ của Ngân hàng.
Do thiếu tính cạnh tranh.
Nền kinh tế thị trường đem lại một nền kinh tế với sự đa dạng về chủng loại và chất
lượng hàng hoá. Do vậy, để hàng hoá của mình có chỗ đứng trên thị trường, thu được lợi
Nguyễn Hữu Cường Ngân hàng 46C

15
Chuyên đề thực tập
nhuận, hàng hoá của người vay phải có khả năng cạnh tranh với các loại hàng hoá đồng
loại khác trên thị trường. Nếu hàng hoá của người vay thiếu tính cạnh tranh ở chất lượng,
giá cả, mẫu mã thì thị trường sẽ tìm kiếm các loại hàng hoá khác phù hợp với nhu cầu xã
hội để tiêu dùng, người vay phải bán rẻ hoặc bị tồn kho gây ra sự thua lỗ, phá sản.
Do tư cách người vay kém.
Hiện nay, phương châm của mọi nhà Ngân hàng là mở rộng tín dụng nhằm thu hút
lợi nhuận. Do vậy không tránh khỏi sự quản lý lỏng lẻo, sự xuất hiện của các loại rủi ro.
Nhân đà này, không ít những kẻ có tư cách đạo đức kém, đã đưa ra những dự án giả, chứng
từ giả, sử dụng sai mục đích tín dụng trong hợp đồng nhằm mục đích chiếm dụng vốn
của Ngân hàng.
+ Nguyên nhân từ môi trường cho vay:
Môi trường kinh tế không lành mạnh, nhịp độ tăng trưởng không ổn định, chu kỳ
của nền kinh tế ngắn, Ngân hàng rất khó nắm bắt được thị trường, sản xuất trong nước
không ổn định, dễ đình trệ, không có hiệu quả. Mặt khác, nền kinh tế xuất hiện nhiều tệ
nạn xã hội như buôn lậu, hàng giả dẫn đến sự phá sản của các doanh nghiệp. Do vậy,
Ngân hàng rất khó khăn trong các mục tiêu mở rộng tín dụng, đánh giá môi trường tín
dụng
Môi trường pháp lý không thuận lợi. Hệ thống pháp luật ban hành không đồng bộ và
không phù hợp với yêu cầu của hoạt động kinh doanh, nhiều khi cản trở hoạt động kinh
doanh. Cơ chế đảm bảo thực thi pháp luật kém hiệu lực.
Những nguyên nhân thuộc về chủ quan người vay
Trong hoạt động tín dụng rất nhiều người vay sẵn sàng chấp nhận mạo hiểm với kì
vọng thu được lợi nhuận cao. Trong khi Ngân hàng luôn thận trọng với những khoản cho
vay của mình do vậy để đạt được mục đích nhiều khách hàng đã tìm mọi thủ đoạn ứng phó
với Ngân hàng như cung cấp thông tin sai, mua chuộc. Bên cạnh đó có thể người vay
không tính toán kỹ lưỡng hoặc không có khả năng phân tích kỹ lưỡng những khó khăn có
thể xảy ra hoặc không có những khả năng thích ứng với những khó khăn trong kinh doanh.
Cũng có nhiều trường hợp khách hàng kinh doanh có hiệu quả những lại cố tình không trả

nợ. Như vậy có thể kết luận, trình độ yếu kém của người vay trong dự đoán các vấn đề
kinh doanh, trong quản lý, chủ định lừa đảo cán bộ tín dụng hay thiếu thiện trí trả nợ là
những nguyên nhân gây ra RRTD.
Nguyên nhân do rủi ro đạo đức của cán bộ ngân hàng
Nguyễn Hữu Cường Ngân hàng 46C
16
Chuyên đề thực tập
Chất lượng cán bộ kém, không đủ trình độ đánh giá khách hàng hoặc đánh giá không
tốt, cố tình làm sai là một trong những nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng. Khách hàng
của ngân hàng rất đa dạng, họ hoạt động trên nhiều lĩnh vực ở nhièu vùng khách nhau, với
phong tục tập quán khác nhau. Để khoản cho vay an toàn cao, nhân viên ngân hàng phải
am hiểu khách hàng, do đó đòi hỏi nhân viên ngân hàng phải có sự hiểu biết xâu rộng, trên
nhiều lĩnh vực, đồng thời phải có khả năng dự báo các vấn đề liên quan đến người vay.
Nếu nhân viên ngân hàng không đủ trình độ để hiểu kĩ lưỡng khách hàng khi cho vay thì
rủi ro tín dụng rất dẽ xảy ra. Bên cạnh đó việc sống trong môi trường tiền bạc nhiều nhân
viên ngân hàng không tránh được sự cám dỗ của đồng tiền. Họ tiếp tay cho khách hàng rút
ruột ngân hàng.
1.2.3.2. Những dấu hiệu của rủi ro tín dụng
• Các dấu hiệu liên quan đến mối quan hệ của khách hàng với ngân hàng.
- Trì hoãn hoặc gây khó khăn đối với ngân hàng trong quá trình kiểm tra theo định
kỳ hoặc đột suất tình hình sử dụng vốn vay, tình hình tổ chức, hoạt động sản xuất kinh
doanh của khách hàng mà không có sự giải thích minh bạch, thuyết phục.
- Có dấu hiệu không thực hiện đầy đủ các quy định, vi phạm pháp luật trong quá
trình quan hệ tín dụng.
- Chậm gửi hoặc trì hoãn gửi các báo cáo tài chính theo yêu cầu mà không có sư
giải thích minh bạch, thuyết phục.
- Không có các báo cáo hay dự đoán về lưu chuyển tiền tệ
- Đề nghị gia hạn điều chỉnh kỳ hạn nợ nhiều lần không rõ lý do hoặc thiếu căn cứ
thuyết phục mang tính khách quan về việc gia hạn hay điều chỉnh kỳ hạn nợ
- Sự sụt giảm bất thường số dư tài khoản tiền gửi mở tại NH, xuất hiện nhiều thay

đổi bất thường ngoài dự kiến và không giải thích được trong tốc độ và tổng mức lưu
chuyển tiền gửi thanh toán của KH.
- Chậm thanh toán các khoản lãi khi đến hạn.
- Thanh toán các khoản nợ gốc không đầy đủ, đúng hạn.
- Xuất hiện nợ quá hạn do khách hàng, không có khả năng hoàn trả hoặc khách
hàng không muốn trả nợ hoặc do việc tiêu thụ hàng, thu hồi con nợ chậm hơn dự tính.
- Tài sản bảo đảm không đủ tiêu chuẩn, giá trị tài sản bị giảm sút so với định giá
khi cho vay. Có dấu hiện tài sản đã cho người khác thuê, bán hay trao đổi hoặc đã biến
mất, không còn tồn tại.
Nguyễn Hữu Cường Ngân hàng 46C
17
Chuyên đề thực tập
- Có dấu hiệu tìm kiếm sự tài trợ nguồn vốn lưu động từ nhiều nguồn khác, đặc biệt
từ đối thủ cạnh tranh của ngân hàng.
- Chấp nhận sử dụng các nguồn vốn vay với giá cao, với mọi điều kiện
• Nhóm dấu hiệu liên quan đến phương pháp quản lý, tình hình tài chính và hoạt
động sản xuất kinh doanh của khách hàng.
- Có chênh lệch lớn giữa doanh thu hay dòng tiền thực tế so với mức dự kiến khi
khách hàng đề nghị cấp tín dụng.
- Nhiều thay đổi bất lợi trong cơ cấu vốn, tỷ lệ thanh khoản hay mức độ hoạt động
của khách hàng.
- Xuất hiện ngày càng nhiều các khoản chi phí bất hợp lý như sự gia tăng đột biến
trong chi phí quảng cáo, tiếp khách, tập trung quá mức chi phí để gây ấn tượng như thiết bị
văn phòng hiện đại, phương tiện giao thông đắt tiền.
- Thay đổi thường xuyên ban điều hành.
- Xuất hiện bất đồng và mâu thuẫn trong quản trị điều hành, tranh chấp trong quá
trình quản lý.
- Có dấu hiệu phát hiện ra quá trình khảo sát, thẩm định dự án sai dẫn đến việc đầu tư dự
án không hiệu quả.
- Khó khăn trong việc phát triển sản phẩm, dịch vụ mới.

• Nhóm dấu hiệu xuất phát từ chính sách tín dụng của ngân hàng
- Cấp tín dụng dựa trên các cam kết không chắc chắn và thiếu tính bảo đảm của
khách hàng về việc duy trì, khoản tiền gửi lớn hay các lợi ích do khách hàng đem lại từ
khoản tín dụng được cấp. Đặc biệt một số ngân hàng có khuynh hướng cạnh tranh thái quá,
giảm thấp lãi suất cho vay phí dịch vụ hay thực hiện chiến lược “giữ chân” khách hàng
bằng những khỏan tín dụng mới – tiềm ẩn nhiều rủi ro cao.
- Tốc độ tăng trưởng tín dụng quá nhanh, vượt quá khả năng, năng lực kiểm soát
cũng như nguồn vốn của ngân hàng.
- Soạn thảo các điều kiện ràng buộc trong hợp đồng tín dụng mập mờ, không rõ ràng
không xê dịch hoàn trả đối với từng khoản vay, có ý thoả hiệp các nguyên tắc tín dụng với
khách hàng dù biết có tiềm ẩn rủi ro(lieu quan đến rủi ro đạo đức của nhân viên tín dụng).
- Chính sách tín dụng quá cứng nhắc hoặc lỏng lẻo để kẽ hở cho khách hàng lợi dụng
- Cung cấp tín dụng với khối lượng lớn cho các khách hàng không thuộc phân đoạn
Nguyễn Hữu Cường Ngân hàng 46C
18
Chuyên đề thực tập
thị trường tối ưu của ngân hàng.
- Hồ sơ tín dụng không đầy đủ, thiếu sự tuân thủ hay tuân thủ không đầy đủ. Các quy
định hiện hành phê duyệt tín dụng.
1.2.4. Các chỉ tiêu phản ánh rủi ro tín dụng
1.2.4.1. Nợ quá hạn.
Để đánh giá mức độ rủi ro tín dụng ta phải phân tích chỉ tiêu dư nợ tín dụng.
Xét tỉ lệ:

Trong đó:
Tổng dư nợ
=
Tổng dư nợ
+
Doanh số

-
Doanh số
Cuối kỳ đầu kỳ cho vay thu nợ
Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ: Nợ quá hạn là khoản nợ mà khách
hàng không trả được khi đã đến hạn thoả thuận ghi trên hợp đồng tín dụng.
Nợ quá hạn nói chung được xem như một dấu hiệu của một vấn đề rủi ro tiềm ẩn.
Để hiểu bản chất của khoản nợ quá hạn chúng ta phải tìm hiểu nguyên nhân của khoản nợ
quá hạn đó bằng việc: cán bộ tín dụng kiểm tra các báo cáo tài chính, hồ sơ lưu trữ kho
hàng, danh mục các khoản phải thu và các thông tin tài chính khác. Nếu nợ quá hạn là một
biểu hiện của một doanh nghiệp không muốn hoặc không có khả năng hoàn trả thì có thể
khoản vay đã có vấn đề nghiêm trọng và có thể không cứu vãn được. Nếu việc nợ qúa hạn
hình thành do việc tiêu thụ hàng hoá hoặc thu hồi các khoản phải thu chậm hơn dự tính,
hoặc do việc chậm trễ không lường trước được trong việc vận chuyển hàng từ nơi sản xuất
đến thị trường tiêu thụ thì vấn đề có thể là chưa đến mức trầm trọng. Nếu vào ngày đáo
hạn người vay đưa ra yêu cầu giãn nợ hoặc xin vay tiếp mà không dự tính trước thì đây
cũng có thể là một biểu hiện của việc phá vỡ thoả thuận hoàn trả và điều đó cũng nghiêm
trọng giống như nợ quá hạn.
1.2.4.2. Nợ khó đòi và tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ:
Nợ khó đòi là khoản nợ quá hạn đã quá một kỳ gia hạn nợ. Nợ khó đòi càng tăng
thì rủi ro tín dụng của ngân hàng đó càng lớn. Nếu tỷ lệ nợ khó đòi chiểm tỷ trọng lớn
trong các khoản nợ tín dụng thì rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng càng cao.
Tuy nhiên một ngân hàng có thể có những cách định lượng các chỉ tiêu trên nhằm
phản ánh sai lệch rủi ro, ví dụ như: giãn nợ, đảo nợ Do đó một số ngân hàng phản ánh rủi
Nguyễn Hữu Cường Ngân hàng 46C
19
Chuyên đề thực tập
ro tín dụng không chỉ bằng các chỉ tiêu trên mà quan trọng hơn bằng chỉ tiêu rủi ro tiềm
năng: các khoản tín dụng có chất lượng trung bình và xấu trên tổng tín dụng.
Các chỉ tiêu này có liên quan chặt chẽ với nhau và phản ánh các mức độ rủi ro tín
dụng khác nhau. Đối với ngân hàng, việc khách hàng không trả đúng hạn có liên quan đến

thanh khoản và rủi ro thanh khoản: Chi phí gia tăng để tìm nguồn mới để chi trả tiền gửi và
cho vay đúng hợp đồng.
Theo quy định của Ngân hàng Nhà nước nếu tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ của
ngân hàng nào mà lớn hơn 5% thì ngân hàng đó được xem là có chất lượng tín dụng kém.
Tuy nhiên, có trường hợp tỷ lệ nợ quá hạn ở dưới mức cho phép song vẫn không được
đánh giá là tốt nếu trong số nợ quá hạn đó, nợ quá hạn không có khả năng thu hồi chiếm tỷ
trọng lớn hơn hoặc giá trị tài sản thế chấp không đủ để thu hồi nợ.
1.2.4.3. Nhóm chỉ tiêu về khách hàng(tình hình tài chính của người vay)
Trước khi ngân hàng quyết định cho khách hàng vay vốn thì ngân hàng phải có
phương pháp để thu thập và xử lý thông tin về khách hàng của mình. Sau đó xem xét và
phân tích hồ sơ tín dụng có phù hợp hay không. Để biết được khách hàng có đủ năng lực
để trả nợ trong tương lai thì ngân hàng cần phải phân tích tình hình tài chính của khách
hàng và phương án sử dụng vốn có đúng như trong hồ sơ vay vốn hay không. Việc phân
tích tình hình tài chính của khách hàng là yếu tố quan trọng bậc nhất quyết định đến chất
lượng tín dụng của ngân hàng và yếu tố rủi ro trong hoạt động tín dụng.
Ngân hàng đọc và phân tích bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp cần vay vốn để
có thể phản ánh một cách tổng quát tình hình tài sản, vốn, nguồn vốn, công nợ tại thời
điểm lập báo cáo. Về mặt pháp lý, số liệu ở phần nguồn vốn thể hiện trách nhiệm pháp lý
của doanh nghiệp đối với người cho vay về các khoản nợ phải trả. Tiếp đến là phân tích
bảng báo cáo kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, số liệu trong báo cáo này cung cấp
những thông tin tổng hợp nhất về phương thức kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ và
chỉ ra rằng, các hoạt động kinh doanh đó có đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp hay gây
tình trạng lỗ vốn, đồng thời nó còn phản ánh tình hình sử dụng các tiềm năng về vốn, lao
động, kỹ thuật và kinh nghiệm quản lý kinh doanh của doanh nghiệp. Các chỉ tiêu về tài
chính của doanh nghiệp có thoả mãn điều kiện nhất định thì hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp đó mới có thể đảm bảo rằng việc vay vốn là đúng mục đích kinh doanh và sử
dụng vốn có hiệu quả.
a) Trước hết là nhóm chỉ tiêu về khả năng thanh toán
Nguyễn Hữu Cường Ngân hàng 46C
20

Chuyên đề thực tập
* Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn.
Hệ số thanh toán nợ ngắn hạn thể hiện mức độ đảm bảo của tài sản lưu động với nợ
ngắn hạn.
Nợ ngắn hạn là các khoản nợ phải thanh toán trong kỳ, do đó doanh nghiệp phải
dùng tài sản thực có của mình để thanh toán bằng cách chuyển đổi một bộ phận tài sản
thành tiền. Trong tổng số tài sản mà hiện doanh nghiệp đang quản lý, sử dụng và sở hữu,
chỉ có tài sản lưu động (TSLĐ) trong kỳ là có khả năng chuyển đổi thành tiền. Do đó hệ số
thanh toán tạm thời được xác định theo công thức:
Khả năng thanh
=
TSLĐ và đầu tư ngắn hạn (1)
toán nợ ngắn hạn Tổng nợ ngắn hạn
Hệ số này phải lớn hơn 1, càng lớn thì càng tốt
* Hệ số khả năng thanh toán nhanh:
TSLĐ trước khi mang đi thanh toán cho chủ nợ đều phải chuyển đổi thành tiền.
Trong TSLĐ hiện có thì vật tư, hàng hoá chưa thể chuyển đổi thành tiền ngay được, do đó
nó có khả năng thanh toán kém nhất. Vì vậy hệ số khả năng thanh toán nhanh là thước đo
về khả năng trả nợ ngay, không dựa vào việc phải bán các loại vật tư hàng hoá và được xác
định theo công thức:
Khả năng thanh
=
TSLĐ và đầu tư ngắn hạn - Hàng tồn kho (2)
toán nhanh Tổng nợ ngắn hạn
Hệ số này càng lớn thì khả năng trả nợ của doanh nghiệp càng cao.
* Hệ số thanh toán nợ dài hạn:
Khả năng thanh toán
=
Giá trị còn lại của TSCĐ được hình thành từ vốn vay
nợ dài hạn Tổng nợ ngắn hạn (3)

b) Chỉ tiêu hoạt động.
Nhóm chỉ tiêu hoạt động đo lường mức độ hiệu quả trong việc sử dụng tài sản của
doanh nghiệp.
Nguyễn Hữu Cường Ngân hàng 46C
21
Chuyên đề thực tập
* Vòng quay hàng tồn kho:
Vòng quay hàng tồn kho là số lần mà hàng hoá tồn kho bình quân luân chuyển
trong kỳ, được xác định bằng công thức:
Số vòng quay hàng tồn kho càng cao thì việc kinh doanh được đánh giá càng tốt,
bởi lẽ doanh nghiệp chỉ đầu tư cho hàng tồn kho thấp nhưng vẫn đạt được doanh số cao.
* Kỳ thu nợ bình quân:
Phản ánh thời hạn tín dụng thương mại bình quân (bán chịu) mà doanh nghiệp đã
cấp cho khách hàng là bao nhiêu ngày. Được tính bằng công thức:
Kỳ thu nợ bình quân =
* Vòng quay tổng tài sản:
Chỉ tiêu này phản ánh năng lực của doanh nghiệp trong việc sử dụng tổng tài sản để
tạo doanh thu là như thế nào. Chỉ tiêu này càng cao thì tình hình hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp đó được coi là tốt. Chỉ tiêu này được tính bằng công thức:

Vòng quay tổng tài sản =
Tổng tài sản (6)
Doanh thu hàng năm
c) Nhóm chỉ tiêu đòn bẩy:
Nhóm chỉ tiêu đòn bẩy phản ánh quy mô nợ so với vốn cổ phần của doanh nghiệp.
* Tỷ số nợ trên tổng tài sản: (Hệ số đòn bẩy)
Tỷ số nợ =
Tỷ số nợ càng cao phản ánh hoạt động của doanh nghiệp dựa vào nguồn vốn vay
càng lớn. Chính vì vậy, khi cho vay ngân hàng cần phải xem xét thận trọng những doanh
nghiệp có hệ số đòn bẩy quá cao so với mức bình quân ngành.

Nguyễn Hữu Cường Ngân hàng 46C
Số vòng quay
=
Giá vốn hàng bán (4)
hàng tồn kho Hàng tồn kho bình quân
Tài khoản phải thu bình quân (5)
Doanh số bán chịu hàng ngày bình quân
Tổng dư nợ (7)
Tổng tài sản
22
Chuyên đề thực tập
* Khả năng trả lãi tiền vay:
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng của doanh nghiệp trong việc thanh toán lãi tiền vay
là như thế nào, và được tính theo công thức:
Khả năng trả lãi tiền vay =
d) Nhóm chỉ tiêu khả năng sinh lời:
Mục đích phân tích các chỉ tiêu sinh lời để đánh giá tính hiệu quả trong việc sử
dụng các nguồn lực của doanh nghiệp để tạo ra lợi nhuận cho các cổ đông.
* Tỷ lệ sinh lời trên doanh thu:
Tỷ lệ sinh lời trên doanh thu =
Với cùng một mức doanh thu, nếu doanh nghiệp nào càng giảm được chi phí đầu vào thì
tỷ lệ sinh lời trên doanh thu càng lớn, điều này nói lên doanh nghiệp này hoạt động tốt.
* Tỷ lệ sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE):
ROE =
Chỉ tiêu này phản ánh tính hiệu quả trong việc sử dụng đồng vốn chủ sở hữu.
* Tỷ lệ sinh lời trên tổng tài sản (ROA):
ROA=
Chỉ tiêu này phản ánh tính hiệu quả trong việc sử dụng tổng tài sản của doanh nghiệp.
Nguyễn Hữu Cường Ngân hàng 46C
Lợi nhuận trước thuế và lãi vay (8)

Chi phí lãi tiền vay
Lợi nhuận sau thuế (9)
Doanh thu
Lợi nhuận sau thuế (10)
Vốn chủ sở hữu
Lợi nhuận sau thuế (11)
Tổng tài sản
23
Chuyên đề thực tập
1.2.4.4. Bảo đảm tiền vay.
Để đảm bảo an toàn trong cho vay, ngân hàng xem xét 3 yếu tố chính của khách
hàng: Uy tín của khách hàng, hiệu quả dự án và tài sản đảm bảo.
Trong hoạt động của ngân hàng, tài trợ hoàn toàn dựa trên uy tín của khách hàng
được gọi là tài trợ không có đảm bảo bằng tài sản. mặc dù uy tín được coi là tài sản rất lớn
của khách hàng song nếu người vay mất khả năng chi trả thì uy tín cũng bị giảm sút và
ngân hàng thì cũng không thể bán uy tín đó để thu nợ.
Hiệu quả dự án được các nhà ngân hàng đặc biệt quan tâm. Thông qua thẩm định
dự án, ngân hàng dự tính các yếu tố tác động tới quá trình kinh doanh của khách hàng
trong tương lai, mối liên hệ giữa sức mạnh tài chính của khách hàng hiện tại và kết quả dự
án trong tương lai.
Tài trợ dựa trên tài sản đảm bảo tức là ngân hàng yêu cầu khách hàng phải có
nguồn trả nợ thứ hai bên cạnh nguồn trả nợ thứ nhất là thu nhập từ hoạt động của khách
hàng. Khi cần thiết ngân hàng có thể bán tài sản đảm bảo để thu nợ. Tài sản đảm bảo, về
bản chất tạo nguồn thu thứ hai, khi nguồn thu thứ nhất không đủ, không kịp thời bù đắp
thiệt hại cho ngân hàng. Do vậy, giá trị tài sản đảm bảo mà ngân hàng yêu cầu không phải
phụ thuộc hoàn toàn vào quy mô tài trợ mà chủ yếu phụ thuộc vào rủi ro dự kiến. Với các
khách hàng mức độ rủi ro là khác nhau, ngân hàng có thể yêu cầu giá trị đảm bảo khác
nhau so với số tiền cho vay. Đảm bảo có thể lớn hơn giá trị khoản cho vay, hoặc chỉ chiếm
một phần như đảm bảo bằng số dư phần bù, bằng sổ lương, kết hợp đảm bảo loại 1 và 2.Do
đó định giá tài sản đảm bảo, thế chấp là một yếu tố quan trọng trong việc đưa ra quyết định

cho vay. Việc dự tính rủi ro để xác định giá trị tài sản đảm bảo, loại đảm bảo, hình thức
đảm bảo là giải pháp mở rộng tài trợ của ngân hàng, tăng sinh lợi và an toàn trong hoạt
động của ngân hàng hiện nay.
1.2.4.5. Các chỉ tiêu khác.
Thông thường một doanh nghiệp phải có vốn sở hữu để tài trợ một phần cho tài sản
lưu động và tài sản cố định.
Tỷ lệ tài trợ bằng vốn sở hữu =
Nguyễn Hữu Cường Ngân hàng 46C
Vốn sở hữu (12)
Tổng tài sản
24
Chuyên đề thực tập
Tỷ lệ này cho thấy sức mạnh tài chính của người vay. Nhiều doanh nghiệp Việt
Nam hiện nay tỷ lệ này vào khoảng 0,3->0,4; hoặc thấp hơn buộc ngân hàng phải thận
trọng và kiểm soát chặt chẽ các khoản cho vay.
Rủi ro của người vay rất đa dạng. Chúng ta cần có nhiều trường hợp điều chỉnh rủi
ro trong mọi trường hợp. Cách tiếp cận rủi ro của người vay như phân tích các yếu tố liên
quan đến quá trình sản xuất, tiếp thị, nhân sự, tài chính, chính sách của chính phủ tác động
tới khách hàng như thế nào.
Bảng 1: Những biểu hiện của một khoản tín dụng xấu và một chính sách tín dụng kém hiệu
quả.
Các biểu hiện của tín dụng có vấn đề Các biểu hiện của chính sách tín dụng kém
hiệu quả
1. Trả nợ vay không đúng kỳ hạn 1. Sự lự chọn khách hàng không đúng với cấp
độ rủi ro của họ.
2. Thường xuyên sửa đổi thời hạn, xin
gia hạn tín dụng.
2. Chính sách cho vay phụ thuộc vào những sự
kiện có thể xảy ra trong tương lai.
3. Có hồ sơ đảo nợ (mỗi lần vay mới thì

nợ gốc giảm xuống một ít).
3. Cho vay trên cơ sở lời hứa của khách hàng
có duy trì số dư tiền gửi lớn.
4. Lãi suất tín dụng cao không bình
thường (để bù đắp rủi ro tín dụng).
4. Thiếu kế hoạch rõ ràng để thanh lý từng
khoản tín dụng.
5. Tài khoản phải thu hay tồn kho tăng
không bình thường.
5. Tỷ lệ tín dụng cao cho khách hàng có trụ sở
ngoài lãnh địa hoạt động của ngân hàng
6. Tỷ lệ “nợ/vốn chủ sở hữu” tăng. 6. Hồ sơ tín dụng không đầy đủ, thiếu sót và
không đồng bộ.
7. Thất lạc hồ sơ đặc biệt là báo cáo tài
chính khách hàng.
7. Tỷ lệ cho vay nội bộ cao.
8. Chất lượng bảo đảm tín dụng thấp. 8. Cấp tín dụng xấu để giữ chân khách hàng
9. Tin vào đánh giá lại tài sản để tăng
vốn chủ sở hữu của khách hàng.
9. Cho vay hỗ trợ các mục đích đầu cơ.
10. Thiếu báo cáo lưu chuyển luồng tiền
hay dự báo luồng tiền.
10. Không nhạy cảm với sự thay đổi các điều
kiện môi trường kinh tế.
11. Khách hàng dựa vào nguồn thu bất
thường để trả nợ như: bán nhà xưởng
hay máy móc thiết bị).
Nguyễn Hữu Cường Ngân hàng 46C
25

×