Tải bản đầy đủ (.docx) (48 trang)

CÔNG PHÁP QUỐC tế 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.31 KB, 48 trang )

CÔNG PHÁP QUỐC TẾ 2
(GV NGUYỄN HỮU KHÁNH LINH)
CHƯƠNG 1: LUẬT BIỂN QUỐC TẾ
1. Nội thủy
a. Khái niệm về nội thuỷ
Theo Điều 5, Công ước về lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải năm 1958 và Điều
8 Công ước 1982 về Luật biển thì “Nội thủy là vùng nước phía bên trong đường
cơ sở, phía ngồi giáp với lãnh hải và phía trong giáp bờ biển”.
- Cách xác định đường cơ sở
Đường cơ sở là đường từ đó được lấy làm cơ sở để tính chiều rộng của lãnh hải,
nó là ranh giới phía trong của lãnh hải và là ranh giới phía ngồi của nội thủy.Vì
vậy, để xác định được nội thủy và các vùng biển khác, các quốc gia có biển phải
xác định được đường cơ sở của mình.
Về mặt ý nghĩa, việc xác định đường cơ sở ln là một vấn đề rất nhạy cảm.Bởi
vì việc xác định đường cơ sở sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến phạm vi chủ quyền,
quyền chủ quyền của quốc gia ven biển và ảnh hưởng tới các quốc gia khác.Một
văn bản pháp luật quốc gia liên quan đến việc xác định đường cơ sở khơng hợp
lý có thể gây ra những phản ứng từ phía các quốc gia khác. Do vai trò quan
trọng của đường cơ sở và để điều hịa lợi ích của quốc gia ven biển và các quốc
gia liên quan, Công ước 1982 đã quy định hai phương pháp chủ yếu để xác định
đường cơ sở. Đó là phương pháp xác định đường cơ sở thông thường và phương
pháp xác định đường cơ sở thẳng.
- Phương pháp đường cơ sở thông thường
Phương pháp này được áp dụng để xác định đường cơ sở tại những nơi có địa
hình bờ biển phẳng, khơng khúc khuỷu và lồi lõm.
Cơng ước 1982 quy định: "Trừ khi có quy định khác của Cơng ước, đường cơ sở
thơng thường dùng để tính chiều rộng lãnh hải là ngấn nước thủy triều thấp
nhất dọc theo bờ biển như được thể hiện trên hải đồ tỷ lệ lớn đã được quốc gia
ven biển chính thức công nhận" (Điều 5). Tuy nhiên, "Trong trường hợp những
bộ phận đảo cấu tạo bằng san hô hoặc các đảo có đá ngầm ven bờ bao quanh
thì đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải là ngấn nước triều thấp nhất ở


bờ phía ngồi cùng của các mỏm đá như đã được thể hiện trên hải đồ được
quốc gia ven biển chính thức cơng nhận" (Điều 6).
Như vậy, quốc gia có thể lấy ngấn nước triều thấp nhất trong một ngày đêm, một
tháng hoặc một năm...chạy dọc theo bờ biển, đảo, quần đảo để xác định đường
cơ sở của mình. Tuy nhiên, mức nước thủy triều thấp nhất ở các nước thường


khơng giống nhau, thậm chí ngay trên tuyến bờ biển của một quốc gia cũng
không giống nhau.
Trong cách xác định này, mỗi quốc gia có quyền tự mình xác định mực nước
chuẩn của mình. Đây là vấn đề thuộc chủ quyền quốc gia của nước ven biển, các
nước ngồi khơng thể kiểm tra hoặc đối chiếu được cụ thể mà chỉ có thể đánh
giá tính chính xác, mức độ hợp lý của đường cơ sở thông thường bằng cách căn
cứ vào chính sự cơng bố trên hải đồ của quốc gia ven biển đưa ra.
- Phương pháp đường cơ sở thẳng
Phương pháp này thường hay được áp dụng đối với các quốc gia có bờ biển và
địa hình phức tạp, có nhiều đảo ven bờ hoặc những vùng ngấn nước triều thấp
nhất không thể hiện rõ ràng. Người ta chọn những điểm nhô ra xa nhất của các
đảo ven bờ, của các mũi hoặc những điểm nhất định mà khi nối các điểm đó lại
với nhau tạo thành một đường gãy khúc liên tiếp chạy dọc theo chiều hướng
chung của bờ biển làm đường cơ sở để xác định nội thuỷ, tính chiều rộng lãnh
hải và các vùng biển khác.
Phương pháp này đã được áp dụng từ lâu trong thực tiễn các quốc gia có bờ biển
phức tạp. Trong Cơng ước 1982 quy định về cách xác định đường cơ sở thẳng
như sau:
“1. Ở nơi nào bờ biển bị khoét sâu và lịi lõm hoặc nếu có một chuỗi đảo nằm
sát ngay và chạy dọc theo bờ biển, phương pháp đường cơ sở thẳng có thể được
sử dụng để kẻ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải.
2. Ở nơi nào bờ biển cực kỳ không ổn định do có một châu thổ và những đặc
điểm tự nhiên khác, các điểm thích hợp có thể được lựa chọn dọc theo ngấn

nước triều thấp nhất nhô ra xa nhất và ngay cả trường hợp về sau ngấn nước
triều thấp nhất có thể dịch chuyển vào phía trong bờ, các đường cơ sở đã được
vạch ra vẫn có hiệu lực cho tới khi các quốc gia ven biển sửa đổi chúng theo
công ước.
3. Tuyến các đường cơ sở không được đi chệch quá xa hướng chung của bờ biển
và các vùng biển ở bên trong các đường cơ sở này phải gắn với đất liền đủ đến
mức để đặt dưới chế độ nội thủy.
4. Các đuờng cơ sở thẳng không được kéo đến hoặc xuất phát từ các bãi cạn lúc
nổi lúc chìm, trừ trường hợp ở đó có các đèn biển hoặc các thiết bị tương tự
thường xuyên nhô trên mặt nước hoặc việc vạch các đường cơ sở thẳng đó đã
được thừa nhận chung của quốc tế.
5. Trong trường hợp mà phương pháp kẻ đường cơ sở thẳng được áp dụng theo
khoản 1 khi ấn định một số đoạn đường cơ sở có tính đến những lợi ích kinh tế
riêng biệt của khu vực đó mà thực tế và tầm quan trọng của nó đã được một q
trình sử dụng lâu dài chứng minh rõ ràng.


6. Phương pháp kẻ đường cơ sở thẳng do một quốc gia áp dụng không được làm
cho lãnh hải của một quốc gia khác bị tách khỏi biển cả hoặc một vùng đặc
quyền về kinh tế.”(Điều 7).
Như vậy, các quốc gia có biển có quyền tự xác định đường cơ sở của mình miễn
sao đường cơ sở đó phù hợp với Công ước. Trong khi xác định đường cơ sở, các
quốc gia có quyền tự do lựa chọn phương pháp đường cơ sở thẳng hoặc/và
phương pháp đường cơ sở thông thường. Theo Điều 14 Cơng ước 1982 thì: "uốc
gia ven biển tùy theo hồn cảnh khác nhau có thể vạch ra các đường cơ sở theo
một hay nhiều phương pháp được trù định ở các điều nói trên".
Đến nay đã có trên 100 quốc gia cơng bố đường cơ sở dùng để của mình.Trong
số đó, có hơn một nửa quốc gia áp dụng phương pháp đường cơ sở thẳng, số còn
lại áp dụng phương pháp kết hợp giữa đường cơ sở thẳng và đường cơ sở thông
thường hoặc chỉ áp dụng đường cơ sở thẳng như Việt Nam.

Theo Tuyên bố của Chính Phủ nước Cộng hịa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam về
đường cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam ngày 12/11/1982, tuyến
đường cơ sở của Việt Nam là đường cơ sở thẳng gồm 10 đoạn nối liền 11
điểm.Điểm bắt đầu từ điểm 0 trên vùng nước lịch sử giữa Việt Nam và
Campuchia, nối liền các đảo, hòn đến điểm cuối cùng là đảo Cồn Cỏ của Việt
Nam. Điểm của đường cơ sở cách xa bờ nhất là hịn Hải (trên 70 hải lý), Cơn
Đảo (trên 50 hải lý ), hòn Nhạn (khoảng 80 hải lý). Điểm ở mũi Đại Lãnh nằm
sát ngay bờ biển, còn các điểm khác trung bình cách bờ biển từ 12 đến 24 hải lý.
Điểm 0 và điểm kết thúc ở cửa Vịnh Bắc bộ chưa xác định được nên hệ thống
đường cơ sở của Việt Nam chưa khép kín.
Về vùng nước nội thuỷ của Việt Nam, vùng này được xác định trong Điểm 5 của
Tuyên bố của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam về đường cơ sở để
tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam ngày 12/11/1982 cũng có cách xác định như
trên. Theo đó :“Vùng nước phía trong đường cơ sở và giáp với bờ biển, hải đảo
của Việt Nam là nội thủy của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam”. Hiện nay, vùng
này được quy định một cách chính thức trong Luật Biên giới quốc gia Việt Nam
năm 2003, định nghĩa đường cơ sở được quy định tại Điều 7: “ Nội thủy của
Việt Nam bao gồm: Các vùng nước phía trong đường cơ sở; Vùng nước cảng
được giới hạn bởi đường nối các điểm nhơ ra ngồi khơi xa nhất của các cơng
trình thiết bị thường xun là bộ phận hữu cơ của hệ thống cảng”.
Như vậy ranh giới bên trong của nội thủy chính là đường kéo dài, dọc theo bờ
biển, cịn ranh giới bên ngồi của nội thuỷ chính là đường cơ sở. Trong vùng
nước nội thuỷ, có thể bao gồm nhiều nhiều bộ phận khác nhau như: Cảng biển,
vũng đậu tàu, vịnh thiên nhiên, vịnh lịch sử, vùng nước lịch sử.
- Cảng biển: Là một khu vực trung gian nối liền biển với đất liền. Nó có thể là
cảng dùng cho thương mại quốc phòng hay cảng chuyên dùng. Quy chế Genève
ngày 9/12/1922 về các cảng biển định nghĩa: “Cảng biển là tất cả các cảng


thường xuyên có tàu biển ra vào và được sử dụng phục vụ cho mậu dịch đối

ngoại (Điều 1).
Trong đề nghị của Liên Xô trước đây đưa ra tại Hội nghị của Tổ chức hàng hải
quốc tế (IOM) ngày 24/12/1974 bàn về địa vị pháp lý của tàu thuyền tại các hải
cảng của nước ngồi thì cảng biển gồm: Nơi đậu tàu, các vịnh, vũng đậu tàu
hoặc những vị trí tương tự khác có cửa thơng ra biển nhưng thuộc chủ quyền
hoàn toàn và quyền tài phán của một nước, mở cửa cho tàu nước ngoài và phục
vụ việc tiếp đón tàu thuyền bốc dỡ hàng hóa, nhận khách và trả khách, bảo
dưỡng và sữa chữa tàu thuyền và những hoạt động cần thiết của tàu thuyền.
- Vũng đậu tàu: Là vùng trũng ở trên biển dùng để tàu thuyền neo đậu để trung
chuyển hàng hoá, hành khách vào cảnh biển hoặc đất liền.
Nếu vũng đậu tàu đóng vai trị là tiền cảng, khơng tách rời khởi cảng biển thì
mang chế độ pháp lý của cảng biển tức thuộc nội thủy. Nếu mang tính độc lập
như cho tàu neo, dỡ hàng, bốc hàng hoặc nơi để tàu neo đậu, trú ẩn thì có thể là
một bộ của nội thủy nếu nằm trong khu vực nội thủy hoặc thuộc lãnh hải nếu
nằm ở lãnh hải hoặc bên ngoài lãnh hải (Điều 12 Công ước Luật biển 1982).
Trong truờng hợp vũng đậu tàu nằm một phần ở nội thủy và một phần ở lãnh hải
thì vũng đậu tàu này thuộc quy chế của nội thủy.
- Vịnh thiên nhiên: Là vùng lõm sâu rõ rệt vào đất liền đựơc bao bọc bởi phần
lớn bờ biển với điều kiện : Diện tích của nó, được tính giữa ngấn nước triều thấp
nhất dọc theo bờ biển, ít nhất cũng phải bằng diện tích một nữa hình trịn có
đường kính là đường thẳng nối liền các ngấn nước triều thấp nhất ở các điểm
của cửa vào tự nhiên kẻ ngang qua cửa vào của vùng lõm. Nếu do có các đảo mà
một vùng lõm có nhiều cửa ra vào, thì nữa hình trịn nói trên có đường kính
bằng tổng số chiều dài các đoạn thẳng cắt ngang các cửa vào đó và diện tích của
các đảo nằm trong một vùng lõm được tính vào diện tích chung của vùng lõm.
Vì khả năng một vịnh lớn có thể lấn nhiều vào phần biển chung nên Công ước
1982 cũng quy định trường hợp khoảng cách giữa các ngấn nước triều thấp nhất
ở các điểm của cửa vào tự nhiên của vùng lõm vượt quá 24 hải lý, thì phải kẻ
một đường cơ sở thẳng dài 24 hải lý ở phía trong vịnh, sao cho phía trong nó có
một diện tích nước tối đa (Điều 10).

Như vậy, chúng ta có 2 điều kiện để xác định một vịnh tự nhiên, hưởng theo quy
chế pháp lý của nội thủy :
- Cửa vịnh không được vượt quá 24 hải lý
- Diện tích vịnh khơng được nhỏ hơn diện tích của nữa đường trịn có đường
kính là của vịnh.
- Vịnh lịch sử: Vịnh lịch sử là một vùng lõm khoét sâu vào đất liền mà không
cần phải đủ điều kiện của một vịnh thiên nhiên. Một cơ sở lý luận và pháp lý
duy nhất để xác định vịnh lịch sử là vũng lõm này có vị trí địa lý đặc biệt, liên


quan trực tiếp về an ninh, chính trị , kinh tế...đối với quốc gia ven biển. Nó gắn
liền với các hoạt động của quốc gia trong nhiều lĩnh vực và đã được quốc gia
hoặc các quốc gia ven biển chiếm hữu, sử dụng từ lâu mà khơng có tranh chấp.
- Vùng nước lịch sử: Vùng nước lịch sử có nghĩa rộng hơn vịnh lịch sử. Vùng
nước này có thể là các vùng nước thuộc các biển vịnh, vũng đậu tàu, eo biển...
Qua thực tiễn quá trình khai thác, sử dụng biển đã hình thành một số tiêu chí
nhất định để xác định tính chất “lịch sử” cho các vùng nước có danh nghĩa lịch
sử và có vị trí địa lý đặc biệt gắn liền với lãnh thổ quốc gia và là một bộ phận
cấu thành không thể tách rời của lãnh thổ quốc gia. Đồng thời, nó có ý nghĩa đặc
biệt về an ninh quốc phòng, kinh tế v.v... đối với quốc gia ven biển và phải ở
cách xa đường hàng hải quốc tế.
Ở Việt Nam, trong Tuyên bố của Chính Phủ nước Cộng hịa Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam ngày 12/11/1982, đã xác định Vịnh Bắc bộ là vịnh nằm giữa nước
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa,
phần vịnh thuộc phía Việt Nam là vùng nước lịch sử theo chế độ nội thủy của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong vùng nước này, khơng có
vùng lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và biển cả.
Hiệp định về vùng nước lịch sử chung Việt Nam - Campuchia ngày 07/7/1982,
có quy định vùng nước biển nằm giữa được giới hạn bởi các bờ biển Hà Tiên
(Việt Nam) và Campot (Campuchia), đảo Phú Quốc và các đảo ngoài khơi thuộc

quần đảo Thổ Chu (Việt Nam) và nhóm đảo Poulowai (Campuchia) là vùng
nước lịch sử chung của cả hai nước.
Đối với các quốc gia quần đảo, Cơng ước 1982 có những quy định riêng trong
phần IV của Cơng ước. Do địa hình lãnh thổ của những quốc gia này rất đặc biệt
nên toàn bộ vùng nước quần đảo là vùng nước mặc dù nằm phía trong đường cơ
sở quần đảo nhưng không thể hiểu một cách thuần túy là vùng nội thủy: “Ở phía
trong vùng nước quần đảo, quốc gia quần đảo có thể vạch những đường khép
kính để hoạch định ranh giới nội thủy của mình theo đúng các Điều 9,10 và 11
“ ( Điều 50 Công ước 1982 ).
b. Quy chế pháp lý của nội thủy
Do vị trí địa lý của nội thủy, nằm ngay sát bờ biển của quốc gia, nên luật biển
quốc tế và pháp luật của các quốc gia đều xác định tính chất chủ quyền hồn
tồn và tuyệt đối cho vùng nước nội thủy. Tính chất chủ quyền này áp dụng ln
cả phần đáy, lịng đất dưới đáy của vùng này và khơng phận phía trên vùng nước
nội thủy.
Đặc trưng cho tính chất chủ quyền tuyệt đối của quốc gia ở vùng nội thủy là chế
độ xin phép của tàu thuyền nước ngoài khi muốn vào nội thủy và việc thực hiện
quyền tài phán của quốc gia ven biển đối với các hành vi vi phạm của tàu thuyền
nước ngoài trong vùng nội thủy.


Chủ quyền của quốc gia ven biển đối với vùng nội thủy được quy định rõ ràng,
cụ thể và chủ yếu trong các văn bản quy phạm pháp luật của quốc gia. Tuy
nhiên, những quy định cụ thể cho hoạt động của tàu thuyền nước ngoài và việc
xử lý các hành vi vi phạm pháp luật của tàu thuyền là không giống nhau mà phụ
thuộc vào từng loại tàu thuyền. Công ước 1982 phân chia tàu thuyền thành 4 loại
sau đây:
- Tàu quân sự : Là con tàu thuộc chủng loại quân sự và lực lượng cảnh sát của
một quốc gia, được điều khiển bởi một thuyền trưởng là một sĩ quan quân đội
trong danh sách sĩ quan của quốc gia mà tàu mang cờ và tất cả thuyền viên trên

tàu phải tuân thủ theo một mệnh lệnh quân sự của chính quốc gia mà tàu mang
cờ.
- Tàu dân sự Nhà nước được sử dụng vào mục đích khơng thương mại,
- Tàu dân sự Nhà nước được sử dụng vào mục đích thương mại
- Tàu dân sự tư nhân (tàu buôn).
Trong thực tiễn, hầu hết các quốc gia đều quy định tàu thuyền nước ngoài muốn
vào khu vực nội thủy của quốc gia ven biển đều phải xin phép trước.Khi được
phép của quốc gia ven biển thì tàu thuyền nước ngoài mới được vào. Điều kiện
xin phép đối với từng loại tàu thuyền, thời gian xin phép, ra, vào, đậu lại và hoạt
động ở vùng nội thủy của quốc gia thường được quy định rất chặt chẽ và cụ thể
trong các văn bản quy phạm pháp luật của quốc gia liên quan.
+ Đối với tàu dân sự nước ngoài : Khi đi vào nội thủy để đến cảng của nước
ven biển thường phải đến một địa điểm quy định để các lực lượng như biên
phòng, y tế, hải quan kiểm tra và làm các thủ tục bắt buộc trước khi vào cảng.
Đồng thời phải sử dụng hoa tiêu dẫn đường của quốc gia ven biển. Việc sử dụng
hoa tiêu của nước ven biển là một điều kiện bắt buộc đối với tàu thuyền nước
ngoài khi vào cảng, nhằm đảm bảo an ninh của quốc gia và sự an toàn cho
phương tiện đó.
Các hoạt động của tàu thuyền nước ngồi, nếu không được phép của quốc gia
ven biển như cập mạn, tiếp xúc với các tàu thuyền khác, đưa người, hàng hóa
lên hoặc xuống tàu, đo đạc, khảo sát, thăm dị, chụp ảnh, quay phim, vẽ hoặc ghi
chép thông tin ở cảng, những cơ sở quân sự, kinh tế, cơ sở nghiên cứu khoa
học... thậm chí việc tự động nhổ neo di chuyển vị trí trong cảng, cũng bị coi là vi
phạm pháp luật của nước ven biển. Các loại thuyền máy, ca nô trên tàu thả
xuống để làm nhiệm vụ liên lạc cũng chỉ được đi lại trong khu vực mà nước ven
biển tại cho phép.
Khi ở nội thủy của quốc gia, các tàu thuyền nước ngồi khơng được vứt các chất
thải, chất độc gây ô nhiễm môi trường xuống biển và đất liền.Trong trường hợp
có nguy cơ xảy ra ô nhiễm nghiêm trọng, nước ven biển có quyền áp dụng mọi
biện pháp xử lý để ngăn chặn hậu quả.



Nếu tàu thuyền nước ngoài vi phạm những quy định của pháp luật quốc gia ven
biển thì các cơ quan có thẩm quyền của nước ven biển có quyền áp dụng mọi
biện pháp cần thiết để bảo đảm an toàn, an ninh, trật tự và các lợi ích của mình.
Các biện pháp này bao gồm cả việc bắt giam, truy tố, xét xử những cá nhân và
tàu thuyền vi phạm trên biển và các thủy thủ vi phạm pháp luật trên bờ. Nếu vi
phạm nghiêm trọng thì tàu thuyền có thể bị giữ lại hoặc tịch thu làm vật bảo đảm
cho án kiện dân sự, trừ trường hợp tàu thuyền thuộc quyền sở hữu nhà nước
nước ngoài hoặc trường hợp pháp luật hay điều ước quốc tế mà quốc gia ven
biển ký kết hoặc tham gia có quy định khác. Việc khám xét, bắt giữ và tiến hành
các thủ tục tư pháp đều do pháp luật của quốc gia ven biển quy định.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp cơ quan có thẩm quyền của nước ven biển
có thể chuyển giao vụ án cho cơ quan tư pháp của nước có tàu để xét xử theo
yêu cầu của thuyền trưởng hoặc lãnh sự của quốc gia có tàu.
+ Đối với tàu quân sự : Việc xin phép vào, thời gian vào, đậu lại hoặc hoạt
động trong vùng nội thủy không những phải chấp hành đầy đủ các quy định
chung như đối với tàu dân sự, mà còn phải tuân thủ những điều kiện riêng chặt
chẽ của quốc gia ven biển.
Ví dụ: Ở Việt Nam, tàu thuyền quân sự (bao gồm cả tàu chiến và tàu hộ tống)
nước ngoài vào nội thủy Việt Nam phải xin phép trước Chính Phủ nước Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam qua con đường ngoại giao ít nhất là 30 ngày.
Trước và sau khi được phép vào phải thông báo cho nhà đương cục quân sự Việt
Nam 48 giờ trước khi được phép vào vùng lãnh hải Việt Nam; Tàu thuyền quân
sự của một nước được phép vào lãnh hải hoặc nội thủy Việt Nam không được trú
đậu quá 3 chiếc trong cùng một thời gian và thời gian trú đậu của mỗi tàu khơng
được q 1 tuần, trừ trường hợp được Chính Phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩaViệt Nam cho phép. Các vũ khí cố định và vũ khí lưu động trước khi vào
nội thủy (kể cả lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải) phải đưa tồn bộ vũ khí về tư
thế bảo quản...

Đối với tàu quân sự nước ngoài khi đi vào, đậu lại hoặc hoạt động hợp pháp ở
vùng nội thủy của quốc gia ven biển thì được hưởng quyền miễn trừ tuyệt đối về
tư pháp và được coi là bất khả xâm phạm.Tuy nhiên, loại tàu này vẫn phải chấp
hành nghiêm chỉnh mọi luật lệ có liên quan của nước chủ nhà. Trong trường hợp
tàu quân sự nước ngoài vi phạm các quy định của pháp luật nước ven biển thì
quốc gia ven biển có quyền ra lệnh cho tàu quân sự vi phạm phải rời khỏi nội
thủy của nước mình trong một thời hạn nhất định và u cầu Chính phủ nước có
tàu phải chịu mọi trách nhiệm về những tổn thất hay thiệt hại do tàu của họ gây
ra tại vùng nội thủy này. Do đó, quốc gia chủ nhà khơng có quyền bắt giữ tàu
qn sự vi phạm để tiến hành các biện pháp, thủ tục tố tụng…
2. Lãnh hải
a. Khái niệm về lãnh hải


Lãnh hải là một vùng biển thuộc chủ quyền hoàn tồn và đầy đủ của quốc gia,
nằm phía ngồi và cách đường cơ sở của quốc gia một khoảng cách không
được vượt quá 12 hải lý.
Điều 2, Công ước năm 1982 về Luật biển quy định:
1. Chủ quyền của quốc gia ven biển được mở rộng ra ngoài lãnh thổ và nội thủy
của mình và trong trường hợp một quốc gia quần đảo, ra ngoài vùng nước quần
đảo đến một vùng tiếp liền gọi là lãnh hải.
2. Chủ quyền này được mở rộng đến vùng trời trên lãnh hải, cũng như đến đáy
và lòng đất dưới đáy của vùng biển này.
3. Chủ quyền ở lãnh hải được thực hiện trong những điều kiện do các quy định
của Công ước và các quy tắc khác của pháp luật quốc tế trù định.
Như vậy, chủ quyền của quốc gia trong vùng lãnh hải bao trùm lên cả vùng trời
ở phía trên cũng như đáy biển và lòng đất dưới đáy biển ở phía dưới lãnh hải.
Do đó, đường ranh giới phía ngồi của lãnh hải cũng chính là đường biên giới
của quốc gia trên biển.
- Xác định Lãnh hải

Chiều rộng lãnh hải là một trong những vấn đề gây tranh cãi nhất trong luật biển
quốc tế, vì chiều rộng lãnh hải có liên quan mật thiết đến quyền lợi chính trị,
kinh tế, hành hải, an ninh quốc phòng của quốc gia ven biển và liện quan đến
quyền lợi của các nước khác.
Vào thế kỷ XVI và XVII, một số quốc gia tuyên bố chiều rộng lãnh hải một cách
tuỳ tiện nên không được các quốc gia khác thừa nhận. Đến thế kỷ XVIII một
nguyên tắc được thừa nhận chung để xác định chiều rộng lãnh hải là độ dài
đường đi của đạn đại bác. Ngoài ra, thực tiễn cuộc chiến tranh của Napoléon,
nảy sinh việc xác định chiều rộng lãnh hải là 3 hải lý.
Việc thông qua Công ước 1982, đã ảnh hưởng lớn lao đến thực tiễn của các quốc
gia. Điều 3 quy định “Mổi quốc gia có quyền ấn định chiều rộng lãnh hải của
mình. Chiều rộng này khơng được vượt quá 12 hải lý tính từ đường cơ sở vạch
ra theo đúng Công ước”
Đối với Việt Nam, để thực hiện chủ quyền của quốc gia đối với lãnh hải, trong
Tuyên bố về lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ngày
12/5/1977 của Chính Phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, tại Điều
3 đã quy định “Lãnh hải nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam rộng 12
hải lý, ở phía ngồi đường cơ sở, nối liền các điểm nhơ ra nhất của bờ biển và
các điểm ngoài cùng của các đảo vem bờ của Việt Nam“. Tuyên bố này hoàn
toàn phù hợp với Cơng Ước 1982. Bên cạnh đó, tại Điều 9, Luật biên giới quốc
gia Việt Nam năm 2003 cũng quy định : « Lãnh hải của Việt Nam rộng 12 hải lý
tính từ đường cơ sở ra phía ngoài. Lãnh hải của Việt Nam bao gồm lãnh hải của
đất liền, lãnh hải của đảo và lãnh hải của quần đảo ».


Như vậy, sau khi xác định được đường cơ sở của quốc gia thì việc xác định ranh
giới phía ngồi của lãnh hải sẽ được thực hiện một cách dễ dàng.Đó là đường
mà mỗi điểm của nó cách đều các điểm chạy dọc song song trên đường cơ sở ở
một khoảng cách không được vượt quá 12 hải lý.
Đối với các quốc gia nằm đối diện nhau, khi xác định ranh giới lãnh hải, thông

thường người ta thực hiện theo phương pháp thỏa thuận trên cơ sở đường trung
tuyến. Còn đối với các quốc gia nằm kề nhau người ta thường phân định theo
thỏa thuận trên cơ sở đường cách đều.
b. Quy chế pháp lý của lãnh hải
Lãnh hải là một bộ phận của lãnh thổ quốc gia.Pháp luật và tập quán quốc tế đều
thừa nhận quốc gia ven biển có chủ quyền hồn tồn và đầy đủ đối với lãnh hải
của mình.Riêng vùng trời phía trên vùng nước lãnh hải, vùng nước phía dưới
mặt nước của lãnh hải cũng như đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của lãnh hải
thì quốc gia có chủ quyền hồn tồn và tuyệt đối.Vì vậy, xác định quy chế pháp
lý của lãnh hải là công việc thuộc chủ quyền của quốc gia ven biển trên cơ sở
các quy định của pháp luật quốc tế. Quy chế pháp lý của lãnh hải bao gồm các
nội dung sau đây:
- Chế độ qua lại vô hại của tàu thuyền nước ngoài trong vùng nước lãnh hải
Mặc dù lãnh hải là một bộ phận của lãnh thổ quốc gia, nhưng ở đây khác với nội
thủy là trong vùng này, tàu thuyền nước ngoài được tự do qua lại vô hại. Quyền
tự do qua lại vô hại của tàu thuyền nước ngoài trong vùng lãnh hải đã được thừa
nhận từ lâu trong tập quán hàng hải quốc tế vì lợi ích phát triển, hợp tác kinh tế
và hàng hải của mỗi quốc gia riêng biệt cũng như của cộng đồng quốc tế. Quyền
qua lại vô hại này thường được xây dựng trên cơ sở bình đẳng, tự nguyện, không
phân biệt đối xử giữa các quốc gia.
Điều 17 Công ước 1982 quy định: “Với điều kiện chấp hành Cơng ước, tàu
thuyền của tất cả các quốc gia, có biển hay khơng có biển, đều được hưởng
quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải”.
Việc qua lại không gây hại được Điều 19 Công ước 1982 xác định như sau:
“ 1. Việc đi qua không gây hại, chừng nào nó khơng làm phương hại đến hịa
bình, trật tự hay an ninh của quốc gia ven biển. Việc đi qua không gây hại cần
phải được thực hiện theo đúng với quy định của Công ước và các quy tắc khác
của pháp luật quốc tế.
2. Việc đi qua của tàu thuyền nước ngồi bị coi như phương hại đến hịa bình
trật tự hay an ninh của quốc gia ven biển, nếu như ở trong lãnh hải, tàu thuyền

này tiến hành một trong bất kỳ hoạt động nào sau đây:
a) Đe dọa hoặc dùng vũ lực chống lại chủ quyền, tòa vẹn lãnh thổ hoặc độc lập
chính trị của quốc gia ven biển hay dùng mội cách khác trái với nguyên tắc của
pháp luật quốc tế đã được nêu trong hiến chương Liên Hiệp Quốc;


b) Luyện tập hoặc diễn tập với bất kỳ loại vũ khí nào;
c) Thu thập tình báo gây thiệt hại cho quốc phòng hay an ninh của quốc gia ven
biển;
d) Tuyên truyền nhằm làm hại đến quốc phòng hay an ninh của quốc gia ven
biển;
e) Phóng đi, tiếp nhận hay xếp lên tàu các phương tiện bay;
f) Phóng đi, tiếp nhận hay xếp lên tàu các phương tiện quân sự;
g) Xếp hoặc dỡ hàng hóa, tiền bạc hay đưa người lên xuống tàu trái với các luật
và quy định về hải quan, thuế khóa, y tế hoặc nhập cư của quốc gia ven biển;
h) Gây ô nhiễm cố ý và nghiêm trọng, vi phạm Công ước
i) Đánh bắt hải sản;
j) Nghiên cứu hay đo đạc;
k) Làm rối loạn hoạt động của mọi hệ thống giao thông liên lạc hoặc mọi trang
thiết bị hay cơng trình khác của quốc gia ven biển;
l) Mọi hoạt động không trực tiếp quan hệ đến việc đi qua.“
Tuy vậy, đối với các khu vực quan trọng trong lãnh hải, quốc gia ven biển có thể
quy định về thời gian và tuyến đường thuỷ mà tàu thuyền nước ngoài được phép
đi qua.Đồng thời, trong những hoàn cảnh cần thiết, quốc gia có thể tạm thời đình
chỉ việc đi qua không gây hại của tàu thuyền nước ngồi và phải cơng bố chi
tiết, cơng khai cho các nước khác biết.
Trong vấn đề qua lại vô hại của tàu thuyền nước ngồi, quốc gia ven biển cũng
phải có những nghĩa vụ sau:
- Quy định hành lang qua lại, thiết lập hệ thống phân chia tuyến, luồng trong
lãnh hải;

- Khơng được áp đặt cho các tàu thuyền nước ngồi những nghĩa vụ dẫn đến
việc cản trở hay hạn chế việc thực hiện quyền đi qua không gây hại của tàu
thuyền này;
- Không được phân biệt đối xử về mặt pháp lý hay mặt thực tế đối với tàu
thuyền của một quốc gia nhất định hay đối với tàu thuyền chở hàng từ một quốc
gia nhất định hay đến quốc gia đó hoặc nhân danh một quốc gia nhất định;
- Thơng báo thích đáng mọi nguy hiểm về hàng hải mà mình biết trong lãnh hải
của mình;
- Khơng thu lệ phí hoặc thuế đối với các tàu nước ngồi đi qua thuần túy trong
lãnh hải. Nếu nước ven biển có tổ chức những hoạt động như hoa tiêu, lái dắt


tàu, cung cấp lương thực, nước... thì họ được thu các khỏan lệ phí về dịch vụ đó
và khơng được phân biệt đối xử (Điều 26 Công ước 1982).
- Quyền tài phán của quốc gia trong lãnh hải
Luật quốc tế hiện đại thừa nhận quyền tài phán của quốc gia ven biển đối với tàu
thuyền nước ngoài trên vùng nước lãnh hải, nhưng có sự phân biệt giữa các loại
tàu và với một số điều kiện hạn chế được quy định trong Cơng ước 1982. Cụ
thể:
+ Trong lĩnh vực hình sự
Đối với tàu quân sự : Nếu một tàu quân sự không tôn trọng các luật và quy định
của quốc gia ven biển có liên quan đến việc đi qua trong lãnh hải và bất chấp
yêu cầu phải tuân thủ các luật và quy định đó đã được thơng báo cho họ thì quốc
gia ven biển có thể u cầu chiếc tàu đó rời khỏi lãnh hải. Quốc gia mà tàu mang
cờ phải chịu trách nhiệm quốc tế về mọi tổn thất hoặc về mọi thiệt hại gây ra cho
quốc gia ven biển do một tàu chiến hay bất kỳ tàu thuyền nào khác của Nhà
nước dùng vào mục đích khơng thương mại vi phạm.
Ngồi trừ những quy định chung cho việc đi qua vô hại mà tất cả các loại tàu
phải tuân thủ, các tàu quân sự và các tàu khác của Nhà nước dùng vào những
mục đích khơng thương mại được hưởng quyền miễn trừ tài phán của quốc gia

ven biển.
Đối với tàu dân sự:Theo Điều 27 Công ước 1982, nếu trường hợp con tàu chỉ đi
qua lãnh hải thì quốc gia ven biển khơng được thực hiện quyền tài phán hình sự
của mình ở trên một tàu nước ngoài đi qua lãnh hải để tiến hành việc bắt giữ hay
tiến hành việc dự thẩm sau một vụ vi phạm hình sự xảy ra trên con tàu trong khi
nó đi qua lãnh hải, trừ các trường hợp sau đây:
a. Nếu hậu quả của vụ vi phạm đó mở rộng đến quốc gia ven biển;
b. Nếu vụ vi phạm có tính chất phá hoại hịa bình của đất nước hay trật tự trong
lãnh hải;
c. Nếu thuyền trưởng hay một viên chức ngoại giao hoặc một viên chức lãnh sự
của quốc gia mà tàu mang cờ yêu cầu sự giúp đỡ của các nhà đương cục địa
phương;
d. Nếu các biện pháp này là cần thiết để trấn áp việc buôn lậu chất ma túy hay
chất kích thích.
Tuy nhiên, trong trường hợp con tàu đi qua lãnh hải sau khi rời khỏi nội thủy
của quốc gia ven biển thì quốc gia ven biển có quyền áp dụng mọi biện pháp mà
luật trong nước quy định nhằm tiến hành việc bắt giữ hay tiến hành việc dự thẩm
trên con tàu nước ngoài đi qua lãnh hải.


Trong những trường hợp nêu trên, nếu thuyền trưởng của con tàu có u cầu bảo
hộ ngoại gia thì quốc gia ven biển phải phải tạo điều kiện dễ dàng cho viên chức
ngoại giao hay lãnh sự đó tiếp xúc với đoàn thủy thu của con tàu.
Trong trường hợp con tàu xuất phát từ một cảng nước ngoài, chỉ đi qua lãnh hải
mà khơng đi vào nội thủy thì quốc gia ven biển không được thực hiện một biện
pháp nào ở trên một con tàu nước ngoài nhằm tiến hành bắt giữ hay dự thẩm sau
một vụ vi phạm hình sự xảy ra trước khi con tàu đi vào lãnh hải, trừ trường hợp
áp dụng những quy định về bảo vệ và gìn giữ mơi trường biển hay trong trường
hợp có sự vi phạm các luật và quy định được định ra cho vùng đặc quyền kinh tế
của quốc gia ven biển.

+ Trong lĩnh vực dân sự
Điều 28 Công ước 1982 quy định: « Quốc gia ven biển khơng được bắt một con
tàu nước ngoài đang đi qua lãnh hải phải dừng lại hay thay đổi hành trình của
nó để thực hiện quyền tài phán dân sự của mình đối với một người ở trên con
tàu đó, và khơng thể áp dụng các biện pháp trừng phạt hay biện pháp bảo đảm
về mặt dân sự đối với con tàu này, nếu khơng phải vì những nghĩa vụ đã cam kết
hay các trách nhiệm mà con tàu phải đảm nhận trong khi đi qua hoặc để được
đi qua vùng lãnh hải của quốc gia ven biển ».
Tuy nhiên, quốc gia ven biển vẫn có quyền áp dụng các biện pháp trừng phạt
hay đảm bảo về mặt dân sự do luật trong nước quốc gia này quy định đối với
một tàu thuyền nước ngoài đang đậu trong lãnh hải hay đang đi qua lãnh hải sau
khi đã rời nội thủy.
3. Vùng tiếp giáp lãnh hải
Vùng tiếp giáp lãnh hải là vùng biển nằm phía ngồi lãnh hải và tiếp liền với
lãnh hải, rộng 12 hải lý tính từ danh giới ngồi của lãnh hải, hợp với lãnh hải
Việt Nam thành một vùng biển rộng 24 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính
chiều rộng lãnh hải của Việt Nam.
Trong vùng tiếp giáp, nước ven biển có quyền qui định biện pháp ngăn ngừa và
trừng trị các hành vi vi phạm đối với luật lệ về nhập cư, thuế khóa, y tế, thậm chí
cả an ninh, xảy ra trong lãnh thổ hay lãnh hải của mình.
Cơng ước về lãnh hải và vùng tiếp giáp năm 1958, Điều 24 quy định quốc gia
ven biển có quyền tiến hành các hoạt động kiểm soát cần thiết tại vùng tiếp giáp,
nhằm:


Ngăn ngừa những vi phạm đối với các luật và quy định về hải quan, thuế
khoá, y tế hay nhập cư trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình;




Trừng trị những vi phạm đối với các luật và quy định nói trên xảy ra trên
lãnh thổ hoặc trong lãnh hải của mình.




Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982, Điều 33 nhắc lại
nội dung trên nhưng cần lưu ý, về bản chất pháp lý, vùng tiếp giáp lãnh
hải được quy định bởi Công ước năm 1958 là một phần của biển cả. Còn
vùng tiếp giáp lãnh hải được quy định bởi Công ước năm 1982 nằm trong
vùng đặc quyền kinh tế (sẽ xem xét sau), có quy chế của một vùng sui
generic (đặc biệt), không phải là một vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia
và cũng không phải là vùng biển có quy chế tự do biển cả.

Trong vùng tiếp giáp lãnh hải, Điều 303, Công ước của Liên Hợp quốc về Luật
biển năm 1982, đã mở rộng quyền của quốc gia ven biển đối với các hiện vật có
tính lịch sử và khảo cổ. Mọi sự trục vớt các hiện vật này từ đáy biển thuộc vùng
tiếp giáp lãnh hải mà không được phép của quốc gia ven biển, đều được coi là vi
phạm xảy ra trên lãnh thổ hoặc trong lãnh hải của quốc gia đó.
4. Vùng đặc quyền kinh tế
4.1. Khái niệm
Vùng đặc quyền kinh tế là vùng biển rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở (188
hải lý tính từ ranh giới ngồi lãnh hải, 176 hải lý tính từ ranh giới ngồi của
vùng tiếp giáp). Vùng đặc quyền kinh tế là một chế định riêng biệt, được hình
thành từ nhu cầu quản lý tài nguyên, bảo vệ lợi ích kinh tế của quốc gia ven
biển.Trong vùng biển này, nước ven biển có quyền chủ quyền và quyền tài phán
đối với mọi loại tài nguyên thiên nhiên và các hoạt động kinh tế nhằm khai thác,
sử dụng các tài nguyên thiên nhiên đó, có quyền tài phán đối với các hoạt động
nghiên cứu khoa học bảo vệ môi trường biển, xây dựng và lắp đặt những cơng
trình và thiết bị nhân tạo. Các nước khác có quyền tự do bay, tự do hàng hải và

đặt dây cáp và ống đẫn ngầm.Vùng đặc quyền kinh tế của nước CHXHCN Việt
Nam tiếp liền lãnh hải Việt Nam và hợp với lãnh hải Việt Nam thành một vùng
biển rộng 200 hải lý kể từ đường cơ sở, đùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt
Nam theo tuyên bố của Chính phủ Việt Nam năm 1977.
*Bản chất pháp lý:
Vùng đặc quyền kinh tế là một chế định pháp lý mới, riêng biệt, lần đầu tiên
được ghi nhận trong Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982. Vùng
đặc quyền kinh tế là một vùng sui generic, trong đó quốc gia ven biển thực hiện
thẩm quyền riêng biệt của mình nhằm mục đích kinh tế, được quy định bởi Công
ước, mà không chia sẻ với các quốc gia khác. Tuy nhiên, so với thềm lục địa,
vùng đặc quyền kinh tế không tồn tại ipso facto and ab initio; do đó quốc gia
ven biển phải yêu sách vùng này bằng một tuyên bố đơn phương.
Theo quy định tại phần V của Công ước Luật Biển 1982, vùng đặc quyền về
kinh tế là một vùng đặc thù, với chế độ pháp lý riêng biệt. Nó khơng phải là lãnh
hải (vì nằm ngồi lãnh hải) và cũng khơng phải là một phần của biển cả (vì
phạm vi áp dụng của phần biển cả (phần VII) của Công ước Luật Biển 1982,
không áp dụng cho vùng đặc quyền về kinh tế). Trong vùng đặc quyền về kinh


tế, quốc gia ven biển thực hiện thẩm quyền riêng biệt của mình (quyền, quyền
tài phán) nhằm mục đích kinh tế, được quy định bởi Công ước, mà không chia
sẻ với các quốc gia khác. Song, đây là vùng chuyển tiếp giữa lãnh hải và biển cả,
nên đồng thời là một "vùng chủ quyền giới hạn". Nguồn gốc sự ra đời của vùng
đặc quyền về kinh tế xuất phát từ nhu cầu khai thác kinh tế biển và đảm bảo an
ninh trên vùng biển của các quốc gia ven biển.
4.2. Chế độ pháp lý của vùng đặc quyền kinh tế
Trong vùng đặc quyền kinh tế, quốc gia ven biển có các quyền thuộc chủ quyền
về việc thăm dò và khai thác, bảo tồn và quản lý các tài nguyên thiên nhiên, sinh
vật hoặc không sinh vật của vùng nước bên trên đáy biển, của đáy biển và lòng
đất dưới đáy biển, cũng như về những hoạt động khác nhằm thăm dị và khai

thác vùng này vì mục đích kinh tế, như việc sản xuất năng lượng từ nước, hải
lưu và gió.
a. Quyền tài phán theo đúng những quy định thích hợp của Công ước về
việc:


· Lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị và cơng trình;



· Nghiên cứu khoa học về biển;



· Bảo vệ và gìn giữ môi trường biển.

b. Các quyền và nghĩa vụ khác do Công ước quy định.
Trong vùng đặc quyền kinh tế, tất cả các quốc gia, dù có biển hay khơng
có biển, đều được hưởng các quyền tự do hàng hải và hàng không, quyền tự do
đặt dây cáp và ống dẫn ngầm, cũng như quyền tự do sử dụng biển vào các mục
đích khác hợp pháp về mặt quốc tế và gắn liền với việc thực hiện các quyền tự
do này và phù hợp với các quy định khác của Công ước, nhất là trong khuôn khổ
việc khai thác các tàu thuyền, phương tiện bay và dây cáp, ống dẫn ngầm.
Quốc gia ven biển quản lý các tài nguyên trong vùng đặc quyền kinh tế:
Đối với các tài nguyên không sinh vật, quốc gia ven biển tự khai thác hoặc cho
phép quốc gia khác khai thác cho mình, đặt dưới quyền kiểm sốt của mình;
Đối với các tài ngun sinh vật, quốc gia ven biển tự định ra tổng khối lượng có
thể đánh bắt được, tự đánh giá khả năng thực tế của mình trong việc khai thác
các tài nguyên sinh vật biển và ấn định số dư của quốc gia ven biển cho phép
các quốc gia khác, thông qua các điều ước hoặc những thoả thuận liên quan,

khai thác số dư của khối lượng cho phép đánh bắt này, có ưu tiên cho các quốc
gia khơng có biển hoặc các quốc gia bất lợi về mặt địa lý.
Ngoài ra, quốc gia ven biển có nghĩa vụ thi hành các biện pháp thích hợp về bảo
tồn và quản lý, nhằm làm cho việc duy trì các nguồn lợi sinh vật trong vùng đặc


quyền kinh tế của mình khỏi bị ảnh hưởng do khai thác q mức. Cơng ước Luật
biển năm 1982 có ghi nhận một loạt điều khoản cụ thể quy định các quyền và
nghĩa vụ của các quốc gia ven biển và các quốc gia khác trong việc bảo tồn các
loài sinh vật biển cụ thể như: các loài cá di cư xa; các lồi có vú ở biển; các đàn
cá vào sơng sinh sản; các lồi cá ra biển sinh sản; các lồi định cư.
5. Thềm lục địa
Cơng ước Giơnevơ năm 1958 về thềm lục địa định nghĩa thềm lục địa là vùng
đáy biển và lòng đất dưới đáy biển nằm bên ngoài lãnh hải của quốc gia ven
biển, trên phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia này và có
ranh giới ngồi được xác định bởi hai tiêu chuẩn:


Tiêu chuẩn độ sâu: 200 m – một tiêu chuẩn ấn định;



Tiêu chuẩn khả năng khai thác – một tiêu chuẩn động, mâu thuẫn với tiêu
chuẩn trên và chỉ phụ thuộc vào trình độ kỹ thuật khai thác thềm lục địa
của quốc gia ven biển. Nó tạo ra sự bất bình đẳng giữa các quốc gia.

Cơng ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982 định nghĩa thềm lục địa là
vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển nằm bên ngoài lãnh hải của quốc gia
ven biển, trên phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia này cho
đến bờ ngồi của rìa lục địa, hoặc đến cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng

lãnh hải 200 hải lý, khi bờ ngồi của rìa lục địa của quốc gia này ở khoảng cách
gần hơn. Trong trường hợp khi bờ ngồi của rìa lục địa của một quốc gia ven
biển kéo dài tự nhiên vượt quá khoảng cách 200 hải lý tính từ đường cơ sở; quốc
gia ven biển này có thể xác định ranh giới ngồi của thềm lục địa của mình tới
một khoảng cách khơng vượt q 350 hải lý tính từ đường cơ sở hoặc cách
đường đẳng sâu 2.500 m một khoảng cách không vượt quá 100 hải lý, với điều
kiện tuân thủ các quy định cụ thể về việc xác định ranh giới ngoài của thềm lục
địa trong Công ước Luật biển năm 1982 và phù hợp với các kiến nghị của Uỷ
ban Ranh giới thềm lục địa được thành lập trên cơ sở Phụ lục II của Công ước.
*Chế độ pháp lý của thềm lục địa


Quốc gia ven biển thực hiện các quyền thuộc chủ quyền đối với thềm lục
địa về mặt thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên của mình;



Những quyền chủ quyền của quốc gia ven biển đối với thềm lục địa của
mình là những đặc quyền, nghĩa là nếu quốc gia ven biển này khơng thăm
dị thềm lục địa hay không khai thác tài nguyên thiên nhiên của thềm lục
địa (bao gồm các tài nguyên không sinh vật và các tài ngun sinh vật
thuộc lồi định cư), thì khơng ai có quyền tiến hành các hoạt động như
vậy, nếu khơng có sự thoả thuận rõ ràng của các quốc gia đó;




Các quyền của quốc gia ven biển đối với thềm lục địa không phụ thuộc
vào sự chiếm hữu thật sự hay danh nghĩa, cũng như vào bất cứ tuyên bố
rõ ràng nào. Các quyền này tồn tại một cách ipso facto and ab initio.

o

Tất cả các quốc gia đều có quyền lắp đặt các dây cáp và ống dẫn
ngầm ở thềm lục địa. Quốc gia đặt cáp hoặc ống dẫn ngầm phải
thoả thuận với quốc gia ven biển về tuyến đường đi của ống dẫn
hoặc cáp;

o

Khi quốc gia ven biển tiến hành khai thác thềm lục địa ngoài 200
hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải thì phải
có một khoản đóng góp theo quy định của Công ước;

o

Các quyền của quốc gia ven biển đối với thềm lục địa không đụng
chạm đến chế độ pháp lý của vùng nước ở phía trên hay của vùng
trời trên vùng nước này;

o

Việc quốc gia ven biển thực hiện các quyền của mình đối với thềm
lục địa khơng được gây thiệt hại đến hàng hải hay các quyền và các
tự do khác của các quốc gia khác đã được Công ước thừa nhận,
cũng không được cản trở việc thực hiện các quyền này một cách
không thể biện bạch được;

o

Quốc gia ven biển có đặc quyền cho phép và quy định việc khoan ở

thềm lục địa bất kỳ vào mục đích gì.

6. Biển cả
Là vùng biển nằm ngồi các vùng biển thuộc phạm vi chủ quyền và quyền tài
phán quốc gia của các quốc gia ven biển. Thuật ngữ biển cả chỉ áp dụng với cột
nước bên trên đáy và lòng đất đáy đại dương.
Biển cả được để ngỏ cho tất cả các quốc gia, dù là những quốc gia có biển hay
khơng có biển. Trong vùng biển này, tất cả các quốc gia đều được hưởng các tự
do, như:
- Tự do hàng hải;
- Tự do hàng không;
- Tự do đặt các dây cáp và ống dẫn ngầm;
- Tự do xây dựng các đảo nhân tạo và các thiết bị khác được pháp luật
cho phép;
- Tự do đánh bắt hải sản;
- Tự do nghiên cứu khoa học…


Các quốc gia thực hiện các quyền tự do biển cả trên cơ sở tôn trọng và lưu ý tới
lợi ích của cộng đồng quốc tế.
Để đảm bảo trật tự, an toàn cho các hoạt động ở biển cả và bảo tồn tài
nguyên sinh vật ở biển cả, Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982
ghi nhận một loạt những quy định về:
- Quy chế pháp lý đối với các loại tàu thuyền hoạt động ở biển cả; quyền
và nghĩa vụ của quốc gia có tàu đối với tàu thuyền hoạt động ở biển cả;
- Việc ngăn chặn và cấm các hoạt động chuyên chở nô lệ, bn bán bất
hợp pháp ma t và các chất kích thích, cướp biển, phát sóng truyền thanh,
truyền hình bất hợp pháp từ biển cả hướng vào đất liền;
- Sự hợp tác giữa các quốc gia trong việc khai thác, bảo tồn và quản lý
tài nguyên sinh vật ở biển cả.

Ngoài ra, cần chú ý đến quyền khám xét và quyền truy đuổi tàu thuyền nước
ngoài trong biển cả.
7. Đáy đại đương:
Là đáy biển và lòng đất dưới đáy biển nằm bên ngoài các vùng biển
thuộc quyền tài phán quốc gia, được gọi là Vùng theo quy định Công ước của
Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982.
- Vùng và tài nguyên của Vùng bao gồm các tài nguyên khoáng sản ở thể
rắn, lỏng hoặc khí, kể cả các khối đa kim nằm ở đáy đại dương và trong lòng đất
dưới đáy – là di sản chung của nhân loại;
- Việc thăm dò, khai thác tài nguyên của Vùng được tiến hành thông qua
một tổ chức quốc tế, gọi là Cơ quan quyền lực quốc tế (ta quen gọi là Cơ quan
quyền lực Đáy đại dương). Cơ quan quyền lực quốc tế bảo đảm việc phân chia
công bằng, trên cơ sở khơng phân biệt đối xử, những lợi ích tài chính và các lợi
ích kinh tế khác do những hoạt động tiến hành trong Vùng thơng qua bộ máy
của mình;
- Cơ quan quyền lực có quyền định ra các quy tắc, quy định và thủ tục
thích hợp cho việc sử dụng Vùng vào mục đích hồ bình, ngăn ngừa, hạn chế và
chế ngự ô nhiễm môi trường biển, bảo vệ sự sống của con người, bảo vệ và bảo
tồn các tài nguyên thiên nhiên của Vùng, phòng ngừa những thiệt hại đối với hệ
động vật và hệ thực vật.
CHƯƠNG 2: LUẬT NGOẠI GIAO, LÃNH SỰ
Cùng với sự xuất hiện của nhà nước, những mối quan hệ bang giao giữa các
quốc gia được hình thành một cách khách quan. Thời gian đầu (Chế độ nhà nước
chiếm hữu nô lệ) Các mối quan hệ này chủ yếu mang tính khu vực, bó hẹp trong


phạm vi một số các quốc gia trong cùng khu vực địa lý nhất định. Các quốc gia
thúc đẩy mối quan hệ láng giềng thân thiện thông qua các sứ giả, sứ thần đại
diện cho nước mình hoặc cho nhà vua, thực hiện một số chức năng nhiệm vụ
nhất định như thương thuyết, thoả thuận những vấn đề chiến tranh, hồ bình,

thành lập liên minh, xúc tiến thương mại, thực hiện các nhiệm vụ đặc biệt
khác… Một trong những nguyên tắc cổ điển của Luật ngoại giao và lãnh sự
được hình thành trong thời kỳ này là việc sứ giả, sứ thần được hưởng quyền bất
khả xâm phạm ở nước mà họ được cử tới. Nguyên tắc đó được củng cố và phát
triển cùng với sự phát triển của luật ngoại giao và lãnh sự - một trong các ngành
cổ điển nhất của Luật quốc tế, đóng vai trị là nguyên tắc quan trọng trong ngành
luật này. Luật ngoại giao và lãnh sự thực sự phát triển mạnh mẽ khi ở châu Âu
xuất hiện các cơ quan đại diện ngoại giao thường trực ở nước ngoài (Thế kỷ
XVI - XVII). Cơ quan lãnh sự mặc dù ra đời sớm hơn cơ quan đại diện ngoại
giao (Thế kỷ thứ III T.C.N ở Hi Lạp cổ đại) nhưng chỉ tăng cường chức năng
của mình vào thời kỳ phong kiến ở Châu Âu. Hiện nay, trong xu thế hội nhập,
quan hệ ngoại giao và lãnh sự giữa các quốc gia ngày càng phát triển mạnh mẽ.
Cùng với sự phát triển quan hệ ngoại giao và lãnh sự chính là sự phát triển của
hệ thống pháp luật điều chỉnh quan hệ ngoại giao và lãnh sự giữa các nước như
các điều ước quốc tế song phương và đa phương giữa các quốc gia, các tập quán
quốc tế ngày càng được hình thành và củng cố, pháp luật của các quốc gia điều
chỉnh vấn đề quan hệ ngoại giao lãnh sự…
I. Khái niệm, các nguyên tắc của luật ngoại giao và lãnh sự
1. Khái niệm
Hoạt động ngoại giao, theo nghĩa chung nhất là hoạt động của các cơ quan và
những người đại diện của nhà nước dưới các hình thức quan hệ chính thức với
nước ngoài như tiến hành đàm phán, trao đổi văn kiện ngoại giao, ký kết các
điều ước quốc tế, tham gia các tổ chức quốc tế hay hội nghị quốc tế, đặt các cơ
quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài… để thực hiện mục đích, yêu cầu của
chính sách đối ngoại của nhà nước. Để điều chỉnh các mối quan hệ ngoại giao
này, các quốc gia phải áp dụng các quy phạm của luật ngoại giao và lãnh sự đã
được hình thành và phát triển cùng với sự phát triển của các mối quan hệ quốc tế
Luật ngoại giao và lãnh sự là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật
quốc tế, bao gồm tổng thể các nguyên tắc và quy phạm pháp luật quốc tế điều
chỉnh quan hệ về tổ chức và hoạt động của các cơ quan quan hệ đối ngoại nhà

nước cùng các thành viên của các cơ quan này, đồng thời cũng điều chỉnh các
vấn đề về quyền ưu đãi và miễn trừ của tổ chức quốc tế liên Chính phủ cùng
thành viên của nó.
Đối tượng điều chỉnh của luật Ngoại giao và lãnh sự là các quan hệ về:
- Tổ chức và hoạt động của các cơ quan quan hệ đối ngoại của nhà nước cùng
thành viên của nó;


- Các quyền ưu đãi và miễn trừ dành cho các cơ quan quan hệ đối ngoại của các
quốc gia và các nhân viên của cơ quan đó;
- Hoạt động của các phái đoàn đại diện của các quốc gia trong quá trình viếng
thăm hoặc tham dự hội nghị quốc tế;
- Hoạt động của các tổ chức quốc tế liên chính phủ và các quyền ưu đãi, miễn
trừ dành cho các tổ chức này cũng như các thành viên của tổ chức tại lãnh thổ
của các quốc gia.
2. Các nguyên tắc của luật Ngoại giao và lãnh sự
Bên cạnh các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế chi phối toàn bộ các quan hệ
trong mọi lĩnh vực của đời sống quốc tế thì mỗi ngành luật lại có hệ thống các
nguyên tắc đặc thù của mình. Trong quan hệ ngoại giao lãnh sự, các quốc gia
cũng phải tuân thủ các nguyên tắc đặc thù của luật ngoại giao và lãnh sự.
a. Ngun tắc Bình đẳng, khơng phân biệt đối xử
Xuất phát từ nguyên tắc Bình đẳng giữa các quốc gia có chủ quyền, quan hệ
ngoại giao và lãnh sự là quan hệ bình đẳng trên cơ sở chủ quyền. Sự bình đẳng
này thể hiện ở chỗ khơng cho phép có bất cứ sự phân biệt đối xử nào giữa các
nước có chế độ chính trị - xã hội và vị trí địa lý, kinh tế, chính trị khác nhau. Đối
xử trọng thị và bình đẳng là đặc thù của loại hình quan hệ hợp tác về ngoại giao
và lãnh sự. Cơ sở pháp lý: Điều 47 Công ước Viên năm 1961 về quan hệ ngoại
giao: “Trong khi thi hành những điều khoản của Công ước này, nước nhận dại
diện khơng được có sự phân biệt đối xử giữa các nước”. Tuy nhiên, Điểm b
Khoản 2 của Điều này cũng chỉ rõ rằng việc các nước cho nhau hưởng theo tập

quán hoặc theo sự thoả thuận với nhau một sự đối xử thuận lợi những điều kiện
trong Cơng ước thì cũng không bị coi là phân biệt đối xử.
b. Nguyên tắc thoả thuận
Thoả thuận là nguyên tắc được áp dụng triệt để nhất trong quan hệ ngoại giao
lãnh sự. Các hoạt động thiết lập quan hệ ngoại giao, quan hệ lãnh sự và cơ quan
đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự, bổ nhiệm người đứng đầu các cơ quan này
giữa nước cử đại diện và nước nhận đại diện đều phải thơng qua q trình trao
đổi thoả thuận để đi đến quyết định cuối cùng. Cơ sở pháp lý: Điều 2, Điều 4
Công ước Viên 1961 về quan hệ ngoại giao; Điều 2, Khoản 1 Điều 4, Điều 10
Công ước Viên 1963 về quan hệ lãnh sự.
c. Nguyên tắc tôn trọng quyền ưu đãi và miễn trừ của cơ quan đại diện ngoại
giao, cơ quan lãnh sự và thành viên của các cơ quan này. Xuất phát từ nguyên
tắc tôn trọng quyền miễn trừ của các quốc gia, trong quan hệ ngoại giao và lãnh
sự, nước nhận đại diện và tiếp nhận lãnh sự phải tôn trọng quyền ưu đãi và miễn
trừ ngoại giao của cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự. Các quyền ưu
đãi và miễn trừ này xuất phát từ chủ quyền quốc gia, được pháp luật quốc tế ghi
nhận và đảm bảo thực hiện. Quốc gia sở tại phải đối xử trọng thị với viên chức


ngoại giao và viên chức lãnh sự, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình theo
quy định của pháp luật quốc tế để cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự
được hưởng đầy đủ quyền ưu đãi và miễn trừ trong khi thực hiện chức năng mà
nhà nước giao.
d. Nguyên tắc tôn trọng pháp luật và phong tục tập quán của nước sở tại.
Hoạt động của các cơ quan và thành viên các cơ quan quan hệ đối ngoại của nhà
nước phải luôn phù hợp với luật pháp quốc tế, với pháp luật nước mình và tơn
trọng pháp luật cũng như phong tục, tập quán của nước sở tại. Tôn trọng pháp
luật, phong tục tập quán của nước sở tại là hành vi biểu hiện sự tôn trọng chủ
quyền quốc gia trong quan hệ quốc tế, đồng thời là việc làm để xây dựng phát
triển quan hệ hữu hảo giữa các quốc gia hữu quan.

e. Nguyên tắc có đi có lại
Nguyên tắc có đi có lại là nguyên tắc mang tính tập quán và truyền thống trong
quan hệ ngoại giao và lãnh sự. Nguyên tắc có đi có lại được xây dựng dựa trên
nền tảng là nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ ngoại giao và lãnh sự. Nội dung
của nguyên tắc:
- Cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự, thành viên của các cơ quan này
được hưởng chế độ pháp lý và đối xử như nhau, khơng cho phép một bên địi hỏi
cơ quan và thành viên của cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự của
mình được hưởng quyền ưu đãi và miễn trừ nhiều hơn những gì mình đã, đang
và sẽ dành cho bên kia.
- Các quốc gia có thể áp dụng biện pháp trả đũa trong trường hợp nước nhận đại
diện có hành vi làm ảnh hưởng đến danh dự, uy tín hoặc làm thiệt hại đến lợi ích
của nước cử đại diện. Ví dụ: cắt đứt quan hệ ngoại giao, tun bố bất tín nhiệm
đối với trưởng đồn ngoại giao… Cơ sở pháp lý: Điểm a, Khoản 2 Điều 47
Công ước Viên 1961 quy định “Việc nước nhận đại diện áp dụng hạn chế một số
điều khoản của Cơng ước vì lý do điều khoản ấy cũng đã áp dụng như vậy đối
với đồn của nước đó tại nước cử đại diện” thì khơng bị coi là phân biệt đối xử.
3. Nguồn luật điều chỉnh Quan hệ ngoại giao và lãnh sự là mối quan hệ ra đời
sớm nhất giữa các quốc gia. Chính vì vậy, nguồn luật điều chỉnh các quan hệ
ngoại giao, lãnh sự rất đa dạng, bao gồm đầy đủ cả các Điều ước quốc tế, các tập
quán quốc tế và cả pháp luật của mỗi quốc gia.
a. Điều ước quốc tế
v Các điều ước quốc tế đa phương
- Công ước Viên 1961 về quan hệ ngoại giao, có hiệu lực năm 1964 (Việt Nam
tham gia năm 1990);
- Công ước Viên 1963 về quan hệ lãnh sự, có hiệu lực năm 1967 (Việt Nam
tham gia năm 1992);


- Công ước 1946 về quyền ưu đãi và miễn trừ của Liên Hợp Quốc;

- Công ước năm 1947 về quyền ưu đãi miễn trừ của các tổ chức chuyên môn của
Liên Hợp Quốc;
- Công ước Viên năm 1975 về cơ quan đại diện của các quốc gia tại các tổ chức
quốc tế phổ cập;
- Công ước năm 1977 về ngăn ngừa và trừng trị các tội phạm chống lại các cá
nhân được hưởng sự bảo hộ quốc tế;
- Công ước năm 1980 về quy chế pháp lý, các quyền ưu đãi và miễn trừ của các
tổ chức quốc tế liên chính phủ.
Trong số những điều ước trên Cơng ước Viên 1961 về quan hệ ngoại giao và
Công ước Viên 1963 về quan hệ lãnh sự là quan trọng hơn cả. Đây là hai Công
ước đề cập đến các nội dung cơ bản nhất trong mối quan hệ ngoại giao, lãnh sự
giữa các quốc gia như: Chức năng của cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh
sự, cơ sở pháp lý của việc thiết lập quan hệ ngoại giao, lãnh sự, trình tự bổ
nhiệm cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự, các quyền ưu đãi và miễn
trừ dành cho các cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự và thành viên của
các cơ quan này… Đây là những Cơng ước có tính khái qt cao, được các quốc
gia thừa nhận rộng rãi.
v Các điều ước quốc tế song phương Ngoài các điều ước quốc tế đa phương, các
điều ước quốc tế song phương có vai trò rất quan trọng trong việc điều chỉnh
mối quan hệ ngoại giao, lãnh sự giữa các quốc gia. Thông thường, đó là các điều
ước về thoả thuận thiết lập quan hệ ngoại giao và lãnh sự giữa các quốc gia như:
Các hiệp định về việc thiết lập quan hệ ngoại giao, đặt trụ sở của cơ quan đại
diện ngoại giao…
b. Tập quán quốc tế
Trong một thời gian dài từ khi hình thành và phát triển mối quan hệ ngoại giao
và lãnh sự giữa các quốc gia, nguồn luật chủ yếu điều chỉnh mối quan hệ này là
các tập quán quốc tế được các quốc gia thừa nhận chung. Cho đến thế kỷ thứ 19
mới có một điều ước quốc tế có tính chất chung là Nghị định thư năm 1815, sửa
đổi bổ sung năm 1818 quy định về hàm của đại diện ngoại giao. Ngày nay, các
tập quán quốc tế vẫn có vai trị quan trọng trong việc điều chỉnh mối quan hệ

ngoại giao lãnh sự giữa các quốc gia. Một số tập quán cũng đã được pháp điển
hoá. Ví dụ: Việc quy định các quyền ưu đãi và miễn trừ dành cho các thành viên
của cơ quan đại diện ngoại giao và cơ quan lãnh sự trong Công ước Viên 1961
và 1963 là kết quả của việc pháp điển hoá tập quán sứ giả, sứ thần được hưởng
quyền bất khả xâm phạm ở nước mà họ được cử tới. Trong phần lời nói đầu của
Cơng ước Viên 1961 và Cơng ước Viên 1963 cũng khẳng định vai trị không thể
thiếu của các tập quán quốc tế trong việc điều chỉnh những vấn đề chưa được
giải quyết một cách hồn chỉnh trong các điều khoản của Cơng ước. c. Pháp luật
quốc gia Ngoài các điều ước quốc tế song phương và đa phương, các tập quán


quốc tế được thừa nhận rộng rãi chung thì mỗi quốc gia đều ban hành các văn
bản pháp lý liên quan đến chính sách đối ngoại, các quan hệ ngoại giao lãnh sự
của quốc gia mình với các nước. Nội dung của các văn bản pháp luật quốc gia
liên quan đến điều này thường bao gồm:
- Các nguyên tắc cơ bản trong chính sách đối ngoại.
- Chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước thực hiện chức năng ngoại
giao, lãnh sự.
- Tổ chức, hoạt động của cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự của nước
mình ở nước ngoài.
- Việc thực hiện các điều ước quốc tế về quan hệ ngoại giao, lãnh sự …
II. Hệ thống các cơ quan quan hệ đối ngoại
1. Khái niệm Cơ quan quan hệ đối ngoại của nhà nước
Là cơ quan do nhà nước lập ra để duy trì mối quan hệ chính thức của nhà nước
đó với các quốc gia khác, với các tổ chức quốc tế hoặc với các chủ thể khác của
luật quốc tế. Hệ thống cơ quan quan hệ đối ngoại, phạm vi chức năng, quyền
hạn của các cơ quan này trong lĩnh vực quan hệ đối ngoại do luật quốc tế và
pháp luật của từng nước quy định.
2. Phân loại
Hình thức tổ chức, tính chất hoạt động của cơ quan quan hệ đối ngoại ở mỗi

nước phụ thuộc vào chế độ kinh tế, chính trị, và đặc điểm lịch sử của nước đó.
Nhưng xét về phạm vi hoạt động thì có thể chia cơ quan quan hệ đối ngoại của
nhà nước ra làm hai loại:
- Cơ quan quan hệ đối ngoại ở trong nước.
- Cơ quan quan hệ đối ngoại ở nước ngoài
a. Cơ quan quan hệ đối ngoại ở trong nước
Dựa vào cơ sở pháp lý, tính chất, chức năng có thể chia cơ quan quan hệ đối
ngoại ở trong nước ra làm hai bộ phận là cơ quan đại diện chung và cơ quan đại
diện chuyên ngành.
v Cơ quan đại diện chung: là các cơ quan có tính chất chính trị chung, hoạt động
trên cơ sở các quy định của Hiến pháp, bao gồm: Quốc hội (Nghị viện), Nguyên
thủ quốc gia, Chính phủ và người đứng đầu chính phủ, Bộ ngoại giao và bộ
trưởng bộ ngoại giao. - Quốc hội: Nói chung, quốc hội (nghị viện) có vai trị
quan trọng trong cơng tác đối ngoại ở mỗi nước. Theo hiến pháp của nhiều
nước, quốc hội có quyền vạch ra đường lối, chính sách đối ngoại của nhà nước,
giải quyết các vấn đề chiến tranh, hồ bình, ra các tun bố về vấn đề quốc tế
quan trọng, phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ước quốc tế, kiểm soát các hoạt động


của chính phủ về cơng tác đối ngoại dưới hình thức thơng qua các báo cáo của
chính phủ... Tuy nhiên, ở các nước có chế độ chính trị, kinh tế khác nhau, địa vị
pháp lý và vai trò thực tế của quốc hội về mặt đối ngoại là không giống nhau, ví
dụ: ở các nước theo chế độ cộng hồ tổng thống, quyền hạn của tổng thống
thường rất lớn, do đó, nghị viện trên thực tế khơng lãnh đạo chung về chính sách
đối ngoại. Ở nước ta, Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất, quyết định các
chính sách cơ bản về đối ngoại như: phê chuẩn hoặc bãi bỏ điều ước quốc tế
theo đề nghị của Chủ tịch nước, quyết định các vấn đề chiến tranh, hồ bình,
quy định về tình trạng khẩn cấp, các biện pháp đặc biệt khác để đảm bảo quốc
phòng, an ninh quốc gia, ban hành các quy định về hàm, cấp ngoại giao... (Điều
83, 84 Hiến pháp).

- Nguyên thủ quốc gia: Về mặt đối ngoại, nguyên thủ quốc gia là cơ quan quan
hệ đối ngoại và là đại diện cao nhất của nhà nước theo thực tiễn phổ biến của
các nước hiện nay. Thông thường, hiến pháp các nước quy định chức năng và
quyền hạn của nguyên thủ quốc gia về mặt đối ngoại như sau: Tuyên bố tình
trạng chiến tranh, đình chiến, ký hoà ước, tuyên bố phê chuẩn, bãi bỏ các điều
ước quốc tế, bổ nhiệm và triệu hồi các đại diện ngoại giao của nước mình, tiếp
nhận các đại diện ngoại giao của nước ngồi được cử đến nước mình... Ở nước
ta, theo quy định của Hiến pháp, Chủ tịch nước là người đứng đầu nhà nước,
thay mặt cho nhà nước về mặt đối nội và đối ngoại, công bố quyết định tuyên bố
tình trạng chiến tranh, quyết định phong hàm, cấp ngoại giao, cử, triệu hồi đại sứ
đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam, tiếp nhận đại sứ đặc mệnh toàn quyền của
nước ngoài, tiến hành đàm phán, ký kết điều ước quốc tế nhân danh nhà nước,
quyết định phê chuẩn hoặc tham gia điều ước quốc tế, trừ trường hợp cần trình
quốc hội quyết định. (Điều 101, 103)


· Chính phủ: Về mặt đối ngoại, chính phủ có nhiệm vụ lãnh đạo thực hiện
chính sách đối ngoại của nhà nước. Hình thức hoạt động đối ngoại thơng
thường của chính phủ là cử và tiếp nhận các phái đồn chính phủ, đàm
phán và ký kết các hiệp định và ra các tuyên bố chung với chính phủ các
nước khác, trao đổi cơng hàm, thơng điệp với chính phủ nước ngồi về
các vấn đề quan hệ quốc tế. Ở nước ta, Chính phủ có nhiệm vụ thống nhất
quản lý cơng tác đối ngoại của nhà nước, ký kết, tham gia, phê duyệt điều
ước quốc tế nhân danh chính phủ, chỉ đạo việc thực hiện các điều ước
quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia, bảo vệ lợi ích của nhà nước,
lợi ích chính đáng của tổ chức và cơng dân Việt Nam ở nước ngoài. (Điều
112 - Hiến pháp 1992)




· Người đứng đầu chính phủ: có quyền đại diện cho chính phủ trong các
quan hệ đối ngoại thuộc phạm vi quyền hạn của mình và có quyền tiến
hành hoạt động hàng ngày về mặt đối ngoại. Người đứng đầu chính phủ
có quyền tham gia đàm phán với chính phủ các nước ở trong và ngoài
nước, dự các hội nghị quốc tế, các phiên họp của các tổ chức quốc tế mà
khơng cần có thư uỷ nhiệm. Khi ra nước ngồi, người đứng đầu chính phủ


hoặc các phái đồn chính phủ được hưởng các chế độ ưu đãi, miễn trừ
ngoại giao. - Bộ Ngoại giao: Bộ ngoại giao là cơ quan quan hệ đối ngoại
thuộc chính phủ, chun trách thực hiện chính sách và cơng tác đối ngoại
của nhà nước, trực tiếp tổ chức và chỉ đạo thực hiện các hoạt động ngoại
giao của nhà nước. Nhiệm vụ và quyền hạn của bộ ngoại giao của mỗi
nước chủ yếu được xây dựng trên cơ sở đường lối chính sách đối ngoại
của từng nước, trên cơ sở những nguyên tắc tổ chức bộ máy chính quyền
của mỗi nước. Ở nước ta, Theo Nghị định 82/CP ngày 10/11/1993 của
Chính phủ, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của bộ Ngoại giao được quy
định như sau: “Bộ Ngoại giao là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức
năng quản lý nhà nước về lĩnh vực công tác ngoại giao nhằm bảo vệ chủ
quyền và lợi ích của pháp nhân và công dân Việt Nam; mở rộng quan hệ
hữu nghị hợp tác cùng có lợi với các nước; nâng cao vị trí quốc tế của
nước CHXHCN Việt Nam; góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân
dân thế giới vì hồ bình độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.” Nghị
định cũng quy định rõ nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể của bộ Ngoại giao
phù hợp với các chức năng chung nêu trên.
- Bộ trưởng Bộ Ngoại giao: là thành viên của chính phủ, chịu trách nhiệm về
cơng tác ngoại giao của chính phủ. Bộ trưởng Bộ Ngoại giao có quyền ra chỉ thị
và quyết định các công việc của Bộ Ngoại giao. Bộ trưởng Bộ Ngoại giao có thể
tiến hành đàm phán với các đại diện ngoại giao ở nước ngồi, thay mặt chính
phủ mình tham dự các hội nghị quốc tế hoặc khố họp các điều ước mà khơng

cần có thư uỷ nhiệm… Khi ra nước ngoài, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao được
hưởng các chế độ ưu đãi và miễn trừ ngoại giao. v Cơ quan đại diện chuyên
ngành: là các Bộ, cơ quan ngang Bộ, các Uỷ ban nhà nước trong các lĩnh vực
chuyên môn tham gia vào quan hệ đối ngoại trong từng lĩnh vực nhất định, phù
hợp với chức năng của mình. Ngày nay, ở các nước, xu hướng mở rộng các mối
quan hệ liên quốc gia tạo điều kiện để tất cả các bộ, cơ quan ngang bộ, các uỷ
ban nhà nước đều tham gia vào quan hệ đối ngoại với tư cách là cơ quan chuyên
ngành. Giữa các bộ chuyên ngành của các nước đều có quan hệ hợp tác trực tiếp
với nhau, thông qua những thoả thuận song phương... Trong các cơ quan chuyên
ngành, Bộ ngoại thương, Uỷ ban hợp tác kinh tế của các quốc gia là tham gia
tích cực nhất vào quan hệ đối ngoại.
b. Cơ quan quan hệ đối ngoại ở nước ngoài. Cơ quan quan hệ đối ngoại của
nhà nước được chia ra làm 2 loại:
v Cơ quan quan hệ đối ngoại thường trực ở nước ngoài
Là cơ quan do nhà nước thành lập ở nước ngồi, có trụ sở cố định, cán bộ, nhân
viên được bổ nhiệm theo nhiệm kỳ, được giao giữa một công việc xác định để
thực hiện các hoạt động của nhà nước, bao gồm:
- Cơ quan đại diện ngoại giao.
- Cơ quan lãnh sự.


- Phái đoàn đại diện ngoại giao ở các tổ chức quốc tế.
v Cơ quan lâm thời
Cơ quan quan hệ đối ngoại lâm thời là những cơ quan thực hiện hoạt động đối
ngoại theo từng cơng vụ nhất định, có thành phần không cố định và tự giải tán
sau khi hồn thành cơng vụ. Ví dụ: các phái đồn của Chính phủ, do Thủ tướng
Chính phủ hoặc Bộ trưởng Bộ Ngoại giao dẫn đầu được phái ra nước ngoài để
thăm viếng, đàm phán với chính phủ các nước khác, dự hội nghị quốc tế hoặc ký
kết các điều ước quốc tế.
III. Cơ quan đại diện ngoại giao

1. Khái niệm
Cơ quan đại diện ngoại giao là cơ quan của một quốc gia đóng trên lãnh thổ của
một quốc gia khác để thực hiện quan hệ ngoại giao với quốc gia sở tại và với các
cơ quan đại diện ngoại giao của các quốc gia khác ở quốc gia sở tại. Cơ quan đại
diện ngoại giao được thành lập theo sự thoả thuận giữa hai quốc gia. Cơ quan
này đại diện cho quốc gia về tất cả các lĩnh vực trong quan hệ đối ngoại với
nước nhận đại diện và quan hệ với cơ quan đại diện ngoại giao của các quốc gia
khác ở nước nhận đại diện.
2. Phân loại cơ quan đại diện ngoại giao
Từ thời cổ đại cho đến thế kỷ XV, cơ quan đại diện ngoại giao của nhà nước ở
nước ngồi chỉ mang tính chất tạm thời, nhằm thực hiện nhiệm vụ nhất định
trong một thời gian cụ thể. Từ giữa thế kỷ XV bắt đầu xuất hiện cơ quan đại
diẹn ngoại giao thường trực ở nước ngoài. Tuy vậy, cho đến trước chiến tranh
thế giới thứ I, chỉ có các cường quốc mới trao đổi đại diện ngoại giao ở cấp đại
sứ quán. Ngày nay, trên cơ sở nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền, mọi quốc gia
đều có thể đặt cơ quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài. Theo Luật Quốc tế, cơ
quan đại diện ngoại giao được phân thành ba loại như sau:
- Đại sứ quán: Là cơ quan đại diện ngoại giao thường trú cao nhất ở nước ngoài.
Người đứng đầu đại sứ qn là Đại sứ đặc mệnh tồn quyền.
- Cơng sứ quán: Là cơ quan đại diện ngoại giao thường trú thấp hơn, sau đại sứ
quán. Người đứng đầu Công sứ qn là Cơng sứ đặc mệnh tồn quyền.
Trước đây, trong quan hệ bất bình đẳng giữa các nước đế quốc và các nước chư
hầu thường có tình trạng là các nước đế quốc thì đặt cơ quan đại sứ tại các nước
chư hầu, còn các nước chư hầu chỉ được đặt cơ quan công sứ tại các nước đế
quốc. Hiện nay cơ quan này cịn rất ít. Trước đây giữa nước ta với Cộng hồ
nhân dân Mơng cổ có trao đổi cơ quan đại diện ngoại giao ở cấp Công sứ nhưng
hiện nay cơ quan này được nâng lên cấp đại sứ quán.
- Cơ quan đại biện (Đại biện quán): đây cũng là cơ quan đại diện ngoại giao
thường trú nhưng khơng phải là hình thức phổ biến. Đứng đầu cơ quan đại biện



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×