Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

mở rộng cho vay tiêu dùng tại ngân hàng thương mại cổ phần quân đội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 90 trang )

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng – Tµi chÝnh
Vâ ThÞ Nh ý Ng©n hµng 45B
1
LỜI CẢM ƠN

Chuyên đề này được thực hiện dưới sự giúp
đỡ nhiệt tình của giáo viên hướng dẫn PGS.TS Lê
Đức Lữ cũng như Ban lãnh đạo và toàn thể cán bộ
nhân viên Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân
đội. Tuy nhiên, do kiến thức còn nhiều hạn chế nên
chuyên đề còn có những thiếu sót. Vì thế, em rất
mong được sự đóng góp ý kiến của thầy cô giáo và
tập thể cán bộ nhân viên Ngân hàng Thương mại
cổ phần Quân đội.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà nội, tháng 4 năm 2007
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng – Tµi chÝnh
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
1. NHTMCPQĐ: Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân đội
2. KHDN: Khách hàng doanh nghiệp
3. KHCN: Khách hàng cá nhân
4. Cvtd: Cho vay tiêu dùng
5. Cvk: Cho vay khác
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ
1. BẢNG
Bảng 2.1: Quy mô vốn điều lệ của NHTMCPQĐ qua các năm 34
Bảng 2.2: Một số chỉ tiêu tổng hợp qua các năm 42
Bảng 2.3: Cách thức chấm điểm khách hàng cá nhân tại NHTMCPQĐ 54
Vâ ThÞ Nh ý Ng©n hµng 45B
2
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng – Tµi chÝnh


Bảng 2.4: Các bước xếp hạng tín dụng cá nhân tại NHTMCPQĐ 56
Bảng 2.5: Tình hình cho vay tiêu dùng tại NHTMCPQĐ
thời kỳ 2004 - 2006 59
Bảng 2.6: Tỷ trọng cho vay tiêu dùng trong tổng dư nợ cho vay tại
NHTMCPQĐ giai đoạn 2004 – 2006 61
Bảng2. 7: Cơ cấu dư nợ cho vay tiêu dùng theo sản phẩm tại NHTMCPQĐ
thời kỳ 2004 - 2006 64
Bảng 2.8: Thu từ lãi của hoạt động cho vay tiêu dùng tại NHTMCPQĐ giai
đoạn 2004 - 2006 68
Bảng 2.9: Mức thu lãi trên một đồng vốn cho vay tại NHTMCPQĐ thời kỳ
2004 – 2006 69
2. BIỀU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Tổng vốn huy động của NHTMCPQĐ trong một vài năm 35
Biểu đồ 2.2: Tổng dư nợ của NHTMCPQĐ qua các năm 36
Biểu đồ 2.3: Lợi nhuận trước thuế của NHTMCPQĐ thời gian qua 41
Biểu đồ 2.4: Tăng trưởng dư nợ & doanh số cho vay tiêu dùng của
NHTMCPQĐ trong 3 năm gần đây 60
LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay, với nền kinh tế tăng trưởng mạnh, cùng chính sách đẩy mạnh
kích cầu đã góp phần quan trọng thúc đẩy hoạt động kinh doanh của Ngân
hàng thương mại. Cũng chính vì vậy mà các Ngân hàng không ngừng nỗ lực
thực hiện tốt vai trò là trung gian tài chính bậc nhất, là trụ cột của nền kinh tế,
Vâ ThÞ Nh ý Ng©n hµng 45B
3
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng – Tµi chÝnh
đang tích cực phát triển các hoạt động của mình, tung ra rất nhiều sản phẩm
dịch vụ mới phù hợp với nhu cầu thực tế. Trong đó, mở rộng hoạt động cho
vay tiêu dùng đang được nhiều Ngân hàng thương mại sử dụng như một công
cụ hữu hiệu.
Cùng với xu thế phát triển chung đó, Ngân hàng thương mại cổ phần

Quân đội không chỉ dừng lại phục vụ các khách hàng doanh nghiệp truyền
thống mà ngày càng mở rộng quan hệ kinh doanh với những khách hàng các
nhân. Vì vậy, NHTMCPQĐ đã nghiên cứu và triển khai hoạt động cho vay
tiêu dùng bắt đầu từ năm 2001. Trải qua hơn 5 năm, hoạt động này đã đạt
được sự tăng trưởng ổn định và ngày càng giữ vị trí quan trọng trong hoạt
động tín dụng nói chung và tín dụng cá nhân nói riêng. Tuy nhiên, hiện nay
cho vay tiêu dùng vẫn chưa được mở rộng tương xứng với tiềm năng của
Ngân hàng. Từ thực tế trên, sau một thời gian thực tập tại NHTMCPQĐ với
mong muốn phát triển hơn nữa hoạt động cho vay tiêu dùng, em xin chọn đề
tài: “Mở rộng cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân
đội” làm đề tài cho báo cáo chuyên đề thực tập của mình.
Chuyên đề gồm 3 nội dung chính:
Chương một: Lý luận chung về cho vay tiêu dùng
Chương hai: Thực trạng cho vay tiêu dùng tại NHTMCPQĐ
Chương ba: Giải pháp mở rộng cho vay tiêu dùng tại NHTMCPQĐ
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHO VAY TIÊU DÙNG
1.1. NHỮNG HOẠT ĐỘNG CƠ BẢN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1.Khái niệm về Ngân hàng thương mại
Vâ ThÞ Nh ý Ng©n hµng 45B
4
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng – Tµi chÝnh
Sự hình thành và phát triển của Ngân hàng thương mại gắn liền với lịch
sử hình thành và phát triển của nền sản xuất hàng hóa. Giữa Ngân hàng
thương mại và nền kinh tế có mối quan hệ biện chứng với nhau, nền kinh tế
phát triển là điều kiện cho sự phát triển của Ngân hàng, và chính sự phát triển
thành hệ thống của Ngân hàng trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế.
Hiện nay, có rất nhiều cách tiếp cận để xem xét Ngân hàng dựa trên các
phương diện khác nhau.
Nếu dựa vào những loại hình dịch vụ mà Ngân hàng cung cấp, chúng ta

có thể hiểu Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các
dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh
toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức
kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Còn Luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam lại xem xét Ngân hàng trên các hoạt động chủ yếu: “Hoạt động
Ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung
thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung
ứng các dịch vụ thanh toán”.
Như vậy, Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng
nhất của nền kinh tế. Hiện nay, có rất nhiều tổ chức tài chính khác như công
ty chứng khoán, quỹ tương hỗ, quỹ đầu tư… đang nỗ lực cố gắng cung cấp
các dịch vụ của Ngân hàng. Cho nên các Ngân hàng cũng phải mở rộng phạm
vi hoạt động của mình, phát triển các dịch vụ mới để đối phó với các đối thủ
cạnh tranh này.
1.1.2.Những hình thức tín dụng của Ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Phân loại theo hình thức cấp tín dụng
Vâ ThÞ Nh ý Ng©n hµng 45B
5
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng – Tµi chÝnh
Với cách phân loại theo hình thức cấp tín dụng thì hoạt động của Ngân
hàng bao gồm các nghiệp vụ cơ bản như sau: chiết khấu, cho vay, cho thuê tài
sản, bảo lãnh.
Theo Luật các tổ chức tín dụng, chiết khấu được hiểu là “việc tổ chức
tín dụng mua thương phiếu, giấy tờ có giá khác của người thụ hưởng trước
khi đến hạn thanh toán”. Đây là nghiệp vụ đơn giản, dựa trên sự tín nhiệm
giữa Ngân hàng và những người ký tên trên thương phiếu. Ngoài ra, Ngân
hàng thương mại có thể tái chiết khấu thương phiếu tại Ngân hàng Nhà nước
dể đáp ứng nhu cầu thanh khoản với chi phí thấp.
Nghiệp vụ cho vay chính là một trong những hoạt động chủ yếu của

Ngân hàng thương mại. Ở nghiệp vụ này có rất nhiều hình thức khác nhau
như: thấu chi, cho vay trực tiếp từng lần, cho vay theo hạn mức, cho vay luân
chuyển, cho vay trả góp, cho vay gián tiếp. Thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua
đó Ngân hàng cho phép người vay được chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán
của mình đến một giới hạn nhất định và trong một khoảng thời gian xác định.
Còn cho vay trực tiếp từng lần là hình thức cho vay tương đối phổ biến của
Ngân hàng đối với khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không đủ
điều kiện để cấp hạn mức thấu chi. Và mỗi lần vay khách hàng phải làm đơn
và trình Ngân hàng phương án sử dụng vốn vay. Cho vay theo hạn mức là
hình thức tín dụng theo đó Ngân hàng thỏa thuận cấp cho khách hàng hạn
mức tín dụng có thể tính cả kỳ hoặc cuối kỳ. Còn đối với hình thức cho vay
luân chuyển là hình thức cho khách hàng vay dựa vào sự luân chuyển hàng
hóa. Cho vay trả góp là hình thức mà Ngân hàng cho khách hàng trả gốc làm
nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận. Bên cạnh những hình thức
cho vay trực tiếp là chủ yếu thì ngoài ra Ngân hàng còn có thêm hình thức cho
vay gián tiếp. Đây là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian. Với
Vâ ThÞ Nh ý Ng©n hµng 45B
6
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng – Tµi chÝnh
nhu cầu vay vốn ngày càng nhiều như hiện nay thì tại các Ngân hàng ngày
càng có nhiều hình thức cho vay khác nhau được hình thành và phát triển.
Cho thuê tài sản là nghiệp vụ trung và dài hạn mà Ngân hàng thực
hiện. Thông thường Ngân hàng thường cho khách hàng vay để mua tài sản,
tuy nhiên trong nhiều trường hợp khách hàng không đủ điều kiện để vay. Vì
vậy, để mở rộng tín dụng Ngân hàng đã mua các tài sản theo yêu cầu của
khách hàng sau đó tiến hành cho khách hàng thuê. Thêm vào đó, tài sản này
vẫn thuộc sỡ hữu của Ngân hàng. Chính vì thế, Ngân hàng vẫn có thể giảm
bớt được thiệt hại khi thực hiện nghiệp vụ này mà khách hàng không trả được
nợ. Cho thuê có hai hình thức chủ yếu là cho thuê nghiệp vụ và cho thuê tài
chính. Cho thuê nghiệp vụ là hình thức mà người đi thuê không có ý định

“mua” tài sản sau khi đã thuê để sử dụng. Còn cho thuê tài chính vừa đáp ứng
nhu cầu thuê trong thời gian dài đồng thời người đi thuê có quyền mua lại tài
sản khi hết hợp đồng thuê.
Ngoài ra, Ngân hàng còn tiến hành bảo lãnh cho khách hàng nào có
nhu cầu. Bảo lãnh của Ngân hàng là cam kết của Ngân hàng dưới hình thức
thư bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của
Ngân hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ như cam kết. Còn
về phía khách hàng thì phải nhận nợ và hoàn trả cho Ngân hàng số tiền đã
được trả thay. Theo mục tiêu chúng ta có thể phân loại bảo lãnh ra làm 5 hình
thức khác nhau, đó là: bảo lãnh bảo đảm tham gia dự thầu, bảo lãnh thực hiện
hợp đồng, bảo lãnh bảo đảm hoàn trả tiền ứng trước, bảo lãnh vay vốn, bảo
lãnh đảm bảo thanh toán.
1.1.2.2. Phân loại theo thời gian
Vâ ThÞ Nh ý Ng©n hµng 45B
7
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng – Tµi chÝnh
Bên cạnh việc phân loại theo hình thức cấp tín dụng người ta có thể
phân loại các nghiệp vụ tín dụng theo thời gian, bao gồm: tín dụng ngắn hạn,
tín dụng trung và dài hạn.
Tín dụng ngắn hạn là hình thức tài trợ của Ngân hàng cho tài sản lưu
động hoặc cho nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn của Nhà nước, doanh nghiệp,
hộ sản xuất. Khách hàng có thể vay trực tiếp hoặc gián tiếp, vay theo món
hoặc vay theo hạn mức, có hoặc không cần có đảm bảo, dưới hình thức chiết
khấu, thấu chi hoặc luân chuyển. Các Ngân hàng thương mại sẽ cho vay ngắn
hạn trong những trường hợp như sau: cho Nhà nước vay để tài trợ nhu cầu chi
tiêu của Nhà nước, cho vay đối với các tổ chức tài chính khác nhằm đáp ứng
nhu cầu thanh khoản, tài trợ cho nhu cầu tăng vốn để sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp…
Tín dụng trung và dài hạn lại là hình thức nhằm mục đích để đáp ứng
nhu cầu vốn trung và dài hạn của doanh nghiệp, nhu cầu cho đầu tư phát triển

của Nhà nước và nhu cầu thỏa mãn chi tiêu của người tiêu dùng. Hiện nay có
các hình thức tín dụng trung và dài hạn như sau: Thứ nhất là mua trái phiếu.
Đây là hình thức tài trợ của các Ngân hàng cho doanh nghiệp trong quá trình
hình thành tài sản cố định. Thứ hai là cho vay theo các dự án. Khi khách hàng
có kế hoạch mua sắm, xây dựng tài sản cố định… nhằm thực hiện dự án nhất
định, Ngân hàng thương mại có thể cho khách hàng vay sau khi Ngân hàng đã
thẩm định dự án. Cuối cùng là hình thức cho vay đối với người tiêu dùng.
Hình thức này để đáp ứng nhu cầu mua hàng trả góp, hàng hóa lâu bền…cho
các khách hàng cá nhân. Với xu hướng tiêu dùng của dân cư ngày càng gia
tăng thì hình thức này càng có cơ hội phát triển.
Vâ ThÞ Nh ý Ng©n hµng 45B
8
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng – Tµi chÝnh
1.2. HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI
1.2.1. Sự hình thành và phát triển của cho vay tiêu dùng
Cho vay tiêu dùng được hiểu là hình thức tài trợ của Ngân hàng cho
mục đích chi tiêu của các cá nhân, hộ gia đình. Các nguồn cho vay tiêu dùng
là nguồn tài chính quan trọng giúp người tiêu dùng có thể trang trải các nhu
cầu trong cuộc sống như nhà ở, phương tiện đi lại, tiện nghi sinh hoạt, học
tập, du lịch, y tế… trước khi họ có đủ khả năng về tài chính để hưởng thụ.
Quan hệ tín dụng này được dựa trên nguyên tắc: người đi vay cam kết hoàn
trả đầy đủ cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định.
Trong môi trường phát triển và cạnh tranh gay gắt như hiện nay, cho
vay tiêu dùng cũng như các loại hình tín dụng khác, đều ra đời từ đòi hỏi
khách quan của khách hàng lẫn Ngân hàng.
Như chúng ta đã biết, nhu cầu con người hết sức đa dạng và phong phú,
khi nhu cầu cũ được thỏa mãn thì nhu cầu mới lại nảy sinh. Hơn thế, mong
muốn của con người luôn muốn được thỏa mãn các nhu cầu của mình một
cách nhanh chóng và thuận tiện nhất. Tuy nhiên, để thỏa mãn các nhu cầu của

mình, đặc biệt là các nhu cầu về tiêu dùng thì đòi hỏi mỗi cá nhân phải có một
sự tích lũy về tài chính để đảm bảo khả năng thanh toán. Vì thế hầu hết thời
gian cần thiết để thỏa mãn các nhu cầu này rất dài. Chính vì mâu thuẫn giữa
nhu cầu tiêu dùng và khả năng thanh toán mà hình thành nên nhu cầu vay vốn
từ các tổ chức tín dụng trong đó có Ngân hàng để nhằm thỏa mãn các nhu cầu
tiêu dùng khác nhau.
Còn về phía Ngân hàng không chỉ chú trọng nâng cao chất lượng các
hoạt động của mình mà còn cố gắng tìm tòi, nghiên cứu, triển khai các sản
phẩm dịch vụ mới để vừa có thể thỏa mãn nhu cầu khách hàng vừa đủ sức
Vâ ThÞ Nh ý Ng©n hµng 45B
9
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng – Tµi chÝnh
cạnh tranh với các tổ chức tài chính khác. Vì vậy, các đối tượng khách hàng
cá nhân ngày càng được các Ngân hàng thương mại chú trọng tới, đặc biệt
người tiêu dùng được xem như một khách hàng trung thành tiềm năng và sản
phẩm cho vay tiêu dùng được hình thành từ đó.
Bên cạnh đó, hầu hết các nhà sản xuất đều mong muốn vừa tiêu thụ
được hàng hóa một cách nhanh chóng vừa đảm bảo được thu nhập. Vậy nên
khi các Ngân hàng tài trợ cho người tiêu dùng, không chỉ thõa mãn nhu cầu
cho chính khách hàng của mình mà còn thỏa mãn cả những nhà sản xuất.
Điều này, kích thích nền kinh tế phát triển. Hơn thế, với nền kinh tế ngày
càng phát triển, đời sống của dân cư ngày càng được cải thiện, thu nhập người
dân ngày càng tăng, một bộ phận trong số họ có thu nhập cao và ổn định.
Điều này tạo nên một nguồn trả nợ chắc chắn nếu các Ngân hàng thương mại
triển khai hoạt động cho vay tiêu dùng và rủi ro sẽ được giảm thiểu cho Ngân
hàng.
Xuất phát từ những yêu cầu đó, cho vay tiêu dùng đã được hình thành
và phát triển mạnh ở một số quốc gia trên thế giới trong những năm 1920 –
1930. Một số phòng tín dụng tiêu dùng lớn mạnh đã được thành lập. Kết quả
là từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, tín dụng tiêu dùng trở thành một

trong những loại hình tín dụng có mức tăng trưởng nhanh nhất.
Còn ở Việt Nam cách đây khoảng 20 năm trở về trước, khái niệm “cho
vay tiêu dùng” vẫn còn “khá mới mẻ”. Nhưng trong một vài năm trở lại đây,
hoạt động cho vay tiêu dùng đã phát triển rất mạnh mẽ và trở thành mục tiêu
của nhiều tổ chức tín dụng, nhất là các tổ chức tín dụng ngoài quốc doanh. Đi
đầu trong lĩnh vực này ở Việt Nam có thể khẳng định đó chính là Ngân hàng
thương mại cổ phần Á Châu ( ACB), luôn được xem là “Ngân hàng bán lẻ
hàng đầu Việt Nam” trong những năm vừa qua. Trong giai đoạn từ năm 1993
Vâ ThÞ Nh ý Ng©n hµng 45B
10
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng – Tµi chÝnh
đến 1998, hầu hết các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam chủ yếu tập trung
vào cho vay tiêu dùng theo hình thức trả góp, các sản phẩm còn hết sức đơn
điệu. Hơn nữa hành lang pháp lý đảm bảo cho hoạt động cho vay tiêu dùng
còn chưa thực sự rõ ràng, dẫn tới hoạt động này ngày càng suy giảm ở Việt
Nam. Nhưng đến năm 1998, sau khi Luật các tổ chức tín dụng có hiệu lực,
kèm theo đó nhiều văn bản pháp quy của hoạt động cho vay tiêu dùng được
ban hành, kết quả là cho vay tiêu dùng ngày càng phát triển rầm rộ trong các
Ngân hàng thương mại Việt Nam. Thời báo Sài Gòn số 31 - 2005 ngày
28/7/2005 đã đưa ra các thông tin về nhu cầu tiêu dùng của người Việt Nam
theo một cuộc điều tra: “tỷ lệ hộ gia đình có thu nhập trên 3 triệu đồng một
tháng ở khu vực thành thị tại 36 thành phố lớn trong cả nước đã tăng từ 36%
năm 2002 lên 63% năm 2005, mức chi tiêu của các hộ gia đình cũng tăng theo
từ 15,9% vào năm 2002 và đến năm 2005 là 40%”. Như vậy, thời gian tới
hoạt động này được dự báo vẫn còn rất phát triển ở một thị trường đầy tiềm
năng như Việt Nam với dân số hơn 82 triệu người.
1.2.2. Lợi ích của cho vay tiêu dùng
Ngay từ khi ra đời, cho vay tiêu dùng đã góp phần mang lại nguồn thu
lớn cho các Ngân hàng thương mại. Không chỉ dừng lại ở đó, cho vay tiêu
dùng còn đem lại nhiều lợi ích khác cho Ngân hàng, cho khách hàng và cho

cả sự phát triển chung của toàn xã hội.
1.2.2.1. Lợi ích đối với Ngân hàng
Cho vay tiêu dùng là loại hình cấp tín dụng mà nguồn lợi nhuận Ngân
hàng thu được từ nó rất lớn. Bởi vì cho vay tiêu dùng có rủi ro cao hơn so với
các hình thức tín dụng khác, cho nên lãi suất của cho vay tiêu dùng cũng cao
hơn. Hơn thế, hiện nay các cá nhân có nhu cầu vay tiêu dùng càng tăng lên
nên nguồn thu từ hoạt động tín dụng này ngày càng lớn.
Vâ ThÞ Nh ý Ng©n hµng 45B
11
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng – Tµi chÝnh
Ngoài ra, thông qua hoạt động cho vay tiêu dùng ngân hàng càng tăng
cường thêm quan hệ với khách hàng có số lượng đông đảo – khách hàng cá
nhân. Khi Ngân hàng tài trợ cho các cá nhân, hộ gia đình thỏa mãn các nhu
cầu chi tiêu khi họ chưa có khả năng thanh toán sẽ giúp Ngân hàng càng ngày
càng tăng cường hình ảnh của mình trong mắt khách hàng, đặc biệt là khách
hàng cá nhân. Qua đây vị trí của Ngân hàng dần dần sẽ được khẳng định trong
tâm trí đông đảo khách hàng. Thêm vào đó, bên cạnh hoạt động cho vay,
Ngân hàng cũng phải tiến hành huy động vốn. Mà nguồn vốn dồi dào, với chi
phí thấp chính là nguồn vốn huy động từ dân cư. Hoạt động cho vay tiêu dùng
sẽ giúp Ngân hàng dễ dàng hơn trong quá trình huy động tiền gửi từ các đối
tượng khách hàng cá nhân, quan hệ của Ngân hàng với các tổ chức sản xuất,
các doanh nghiệp, các hãng bán lẻ cũng được củng cố và tăng cường. Từ đó,
các dịch vụ khác của Ngân hàng có nhiều cơ hội đến với những khách hàng
này. Vì vậy mà lợi nhuận của Ngân hàng càng được tăng lên.
Hơn nữa, hoạt động cho vay tiêu dùng còn góp phần làm đa dạng danh
mục sản phẩm dịch vụ mà ngân hàng cung cấp. Điều này không chỉ rất cần
thiết trong môi trường cạnh tranh gay gắt giữa các Ngân hàng như hiện nay
mà còn giúp các Ngân hàng phân tán được rủi ro, mở rộng được thị trường.
Qua đó, Ngân hàng có nhiều cơ hội lựa chọn trong việc sử dụng đồng vốn của
mình, thu nhập được tăng lên. Thêm vào đó, thông qua hoạt động cho vay tiêu

dùng Ngân hàng sẽ giới thiệu cho nhiều khách hàng cá nhân hơn về các sản
phẩm dịch vụ khác mà Ngân hàng có thể cung cấp cho họ.
1.2.2.2. Lợi ích đối với khách hàng
Ngay khi hoạt động cho vay tiêu dùng được hình thành, người tiêu
dùng có thể nói là được lợi nhất do những lợi ích mà hình thức tín dụng này
mang lại. Đúng vậy, nhờ có các khoản vay này mà các cá nhân, hộ gia đình có
Vâ ThÞ Nh ý Ng©n hµng 45B
12
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng – Tµi chÝnh
cơ hội cải thiện và nâng cao đời sống khi mà khả năng tài chính hiện tại chưa
đủ đáp ứng nhu cầu của họ. Quan trọng hơn, các khoản cho vay tiêu dùng có
thể giúp các khách hàng trong những trường hợp chi tiêu cấp bách như viện
phí, chi phí học hành cho bản thân, cho con cái…
Như vậy, nhờ có cho vay tiêu dùng mà khách hàng có thể kết hợp được
khả năng tài chính hiện tại với tương lai, cùng với đó, họ được hưởng cuộc
sống tốt hơn và có điều kiện tiếp cận với những dịch vụ chăm sóc sức khỏe,
dịch vụ giáo dục…, để rồi họ có nhiều cơ hội nâng cao trình độ học vấn cũng
như là gia tăng thu nhập…
1.2.2.3. Lợi ích đối với kinh tế - xã hội
Cho vay tiêu dùng ra đời đã góp một phần không nhỏ trong việc thúc
đẩy sản xuất phát triển. Vì ngoài tác động kích cầu làm tăng cầu về hàng hóa,
dịch vụ, thì cho vay tiêu dùng còn hướng tới thỏa mãn các nhu cầu thiết yếu
cho các cá nhân, hộ gia đình. Như vậy, hàng hóa được tiêu thụ một cách
nhanh chóng, khả năng thanh toán của người tiêu dùng được đảm bảo, không
có lý gì mà nhà sản xuất lại không gia tăng sản lượng. Thêm vào dó, một khi
người lao động có được những điều kiện vật chất tốt sẽ tạo nên tâm lý thoải
mái trong làm việc, trình độ của họ cũng được nâng lên và kết quả là sẽ tạo ra
được nhiều sản phẩm hơn, năng suất sẽ cao hơn. Cho vay tiêu dùng chính là
đòn bẩy kinh tế quan trọng. Bên cạnh đó, cho vay tiêu dùng đã giảm thiểu
được tình trạng vay nặng lãi, làm lành mạnh hóa quan hệ tài chính.

Như chúng ta đã biết, không phải nhu cầu nào cũng đủ khả năng thanh
toán tại thời điểm hiện tại, mà nhiều lúc con người ta còn phải chờ đến 10
năm hay 15 năm hay có thể còn lâu hơn thế mới đủ khả năng thỏa mãn nó.
Cho vay tiêu dùng chính là một giải pháp để thỏa mãn nhu cầu của các cá
nhân tại thời điểm hiện tại. Từ đó, đời sống của các cá nhân, hộ gia đình
Vâ ThÞ Nh ý Ng©n hµng 45B
13
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng – Tµi chÝnh
không chỉ được cải thiện mà còn được nâng cao. Một khi các điều kiện vật
chất lẫn tinh thần của mỗi cá nhân - tế bào của xã hội - tốt hơn, thì xã hội đó
sẽ ngày càng tiến bộ hơn. Mặt khác, nhu cầu của con người là vô tận, nhu cầu
trước được thỏa mãn thì nhu cầu sau sẽ hình thành và còn phát triển cao hơn
nhu cầu cũ. Và khi càng có nhiều nhu cầu con người được thỏa mãn thì xã hội
sẽ càng phát triển theo.
1.2.3. Đặc điểm của cho vay tiêu dùng
Qua những phần đã trình bày ở trên chúng ta đã phần nào biết được
rằng: cho vay tiêu dùng chính là một hoạt động tài trợ của Ngân hàng thương
mại. Vì vậy, cũng giống như bao hoạt động tín dụng khác, cho vay tiêu dùng
cũng có những đặc trưng cơ bản như: đối tượng khách hàng, mục đích cho
vay, lãi suất, nguồn trả nợ… Nhưng trong từng đặc điểm này lại có những nét
riêng không giống với những hình thức tín dụng khác.
1.2.3.1. Đặc điểm về đối tượng vay tiêu dùng
Trong cho vay tiêu dùng thì đối tượng chính là các cá nhân và hộ gia
đình. Hầu hết các cá nhân khi tiền hành vay vốn của Ngân hàng để đáp ứng
cho mục đích tiêu dùng đều có thu nhập khá cao và ổn định. Hơn thế, họ còn
mong muốn được chi tiêu vượt quá thu nhập của mình. Đây cũng chính là
những điểm khác biệt so với đối tượng khách hàng là các doanh nghiệp. Đối
với các khách hàng cá nhân, vay vốn của Ngân hàng sẽ giúp họ nhận được
cuộc sống đầy đủ ở hiện tại mà chỉ khả năng thanh toán trong tương lai mới
đáp ứng được. Các cá nhân được đề cập ở đây là những cá nhân có đầy đủ

năng lực pháp lý, thuộc nhiều thành phần khác nhau (công chức Nhà nước,
viên chức trong các đơn vị ngoài quốc doanh, các lao động tự do…) và hơn
hết phải đáp ứng được nhiều điều kiện vay vốn của Ngân hàng.
Vâ ThÞ Nh ý Ng©n hµng 45B
14
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng – Tµi chÝnh
1.2.3.2. Đặc điểm về mục đích cho vay tiêu dùng
Khi nhắc đến cho vay tiêu dùng chắc chắn chúng ta cũng đã có thể hình
dung ra được mục đích của khoản vay này là nhằm phục vụ nhu cầu tiêu dùng
của các cá nhân, hộ gia đình, chứ không phải xuất phát từ mục đích kinh
doanh như một số hình thức tín dụng khác. Nhu cầu tín dụng của các khách
hàng chủ yếu phục vụ cho những mục đích như: mua, sửa chữa cải tạo nâng
cấp nhà ở; mua xe hơi, xe máy, các phương tiện sinh hoạt khác; trang trải cho
các chi phí về học tập, chữa bệnh…
1.2.3.3. Đặc điểm về nhu cầu và quy mô cho vay tiêu dùng
Thực tế cho thấy, các khách hàng vay vốn đều có nhu cầu vay nhạy
cảm theo chu kỳ kinh tế. Khi nền kinh tế có sự tăng trưởng cao và ổn định,
người tiêu dùng sẽ có thái độ lạc quan hơn, họ kỳ vọng sẽ có được khoản thu
nhập nhiều hơn trong tương lai. Do đó chi tiêu của người tiêu dùng ở hiện tại
sẽ được thúc đẩy, nhu cầu vay tiêu dùng của người tiêu dùng sẽ xuất hiện và
tăng lên nhanh chóng. Và ngược lại, khi nền kinh tế suy thoái người dân có xu
hướng giảm chi tiêu, không kỳ vọng nhiều vào nền kinh tế, không muốn đến
Ngân hàng để vay vốn nữa, cho vay tiêu dùng sẽ gặp nhiều khó khăn.
Bên cạnh đó, nếu xem xét một khoản vay tiêu dùng thì quy mô món
vay có thể không lớn một phần là do đối tượng khách hàng là các cá nhân, hộ
gia đình. Nhưng với nền kinh tế phát triển như vũ bão, nhu cầu vay tiêu dùng
tăng cao, số lượng khách hàng vay tiêu dùng sẽ ngày càng nhiều thì quy mô
của cho vay tiêu dùng trong một Ngân hàng thương mại là khá lớn so với các
hình thức tín dụng khác. Hơn thế, tâm lý của mỗi người là càng muốn mong
nhanh chóng thỏa mãn các nhu cầu của mình. Nên cho vay tiêu dùng càng có

cơ hội phát triển, khách hàng ngày càng tìm kiếm nhiều tới các Ngân hàng.
Vâ ThÞ Nh ý Ng©n hµng 45B
15
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng – Tµi chÝnh
Dẫn tới số lượng khách hàng của cho vay tiêu dùng lại càng tăng mạnh, dư nợ
cho vay tiêu dùng sẽ rất cao trong tổng dư nợ tín dụng.
1.2.3.4. Đặc điểm về mức độ rủi ro của cho vay tiêu dùng
Xuất phát từ bản thân khách hàng của cho vay tiêu dùng, có thể nhận
định rằng cho vay tiêu dùng có mức độ rủi ro cao hơn bất kỳ một hình thức
tín dụng nào khác. Đúng vậy, đối với mỗi cán bộ tín dụng, quá trình thẩm
định và quyết định cho vay đối với các khoản vay tiêu dùng thường gặp rất
nhiều khó khăn về vấn đề thông tin khách hàng. Các thông tin này thường là
không đầy đủ, thậm chí là nhiều lúc còn không chính xác, không rõ ràng.
Nhiều lúc, khách hàng còn cố tình dấu các cán bộ tín dụng về tình hình sức
khỏe thực tế của mình, thông tin về công việc hiện tại… nếu như chúng quá
bất lợi cho họ trong vấn đề vay vốn. Hơn thế, khách hàng của cho vay tiêu
dùng thường chỉ tìm đến Ngân hàng một lần do dó nguồn thông tin từ trước là
chưa có, nên càng khó khăn hơn cho Ngân hàng trong thu thập thông tin.
Ngoài ra, các Ngân hàng cũng không thể biết trước được tâm lý khách hàng
một cách chính xác trong việc thanh toán nợ. Nếu khách hàng cố tình không
chịu trả nợ cho Ngân hàng thì rủi ro là không thể tránh khỏi. Hơn thế, có
nhiều trường hợp khách hàng chưa đến hạn thanh toán nợ nhưng gặp vấn đề
rắc rối về vấn đề tài chính, mất việc làm, đau ốm, bệnh tật, hay qua đời thì
khả năng thu hồi nợ gốc còn rất khó khăn chứ chưa nói đến thu lãi. Còn có
những nguyên nhân bất khả kháng như thiên tai, dịch bệnh… cũng ảnh hưởng
tới thu nhập của người tiêu dùng và như một phản ứng dây chuyền sẽ ảnh
hưởng tới quá trình thu hồi vốn vay của Ngân hàng. Vậy là, những nguyên
nhân chủ quan xuất phát từ phía khách hàng cũng như những nguyên nhân
khách quan bất khả kháng, cộng thêm một số ít các món vay lại có thời hạn
dài làm cho cho vay tiêu dùng có rủi ro rất cao.

Vâ ThÞ Nh ý Ng©n hµng 45B
16
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng – Tµi chÝnh
1.2.3.5. Đặc điểm về chi phí của cho vay tiêu dùng
Qua nhiều tính toán cho thấy, cho vay tiêu dùng có chi phí lớn nhất
trong các khoản mục của tín dụng của Ngân hàng. Ngay từ khi có một khách
hàng đến Ngân hàng để xin được cấp vốn, Ngân hàng đã phát sinh các chi
phí. Đó là, chi phí điều tra, thu thập thông tin về khách hàng. Hơn nữa, đối
với cho vay tiêu dùng thì quá trình này còn vất vả và gặp nhiều khó khăn hơn.
Vì đối tượng của món vay là các cá nhân, mà như đã trình bày cụ thể ở những
đặc điểm trên, rủi ro là rất cao, họ chỉ tìm đến Ngân hàng một lần, không phải
thường xuyên nên Ngân hàng sẽ có rất ít thông tin về khách hàng. Vậy nên,
để đảm bảo mục tiêu an toàn nhưng vẫn hiệu quả, ngoài việc cẩn trọng trong
công việc, đạo đức của các cán bộ tín dụng… Ngân hàng cũng phải mất chi
phí khá lớn cho hoạt động thu thập thông tin khách hàng. Thêm vào đó, trong
quy trình tín dụng từ thẩm định, lập hồ sơ, giải ngân, giám sát khoản vay…
thì Ngân hàng cũng không được bỏ sót một giai đoạn nào. Do đó, chi phí cao
là điều hết sức dễ hiểu. Mặt khác, hoạt động quản lý các khoản vay mặc dù có
quy mô nhỏ nhưng với số lượng khách hàng vay tiêu dùng là rất lớn ở các
Ngân hàng thương mại là điều không hề dễ dàng. Vì những lý do trên mà có
thể khẳng định chắc chắn: Cho vay tiêu dùng có chi phí cao hơn các loại hình
tín dụng khác.
1.2.3.6. Đặc điểm về lãi suất của cho vay tiêu dùng
Với rủi ro cao, chi phí lớn thì cho vay tiêu dùng sẽ phải có một lãi suất
phù hợp để có thể bù đắp những tổn thất dự tính mà Ngân hàng phải ghánh
chịu. Vậy nên trong cho vay tiêu dùng thì lãi suất là rất cao. Đây chỉ mà một
lý do để dẫn tới cho vay tiêu dùng lại có lãi suất cao như vậy. Ngoài ra, khách
hàng tìm đến Ngân hàng chỉ để nhằm một mục đích lớn chính là nhằm thỏa
mãn nhu cầu của mình, chứ họ ít chú ý tới lãi suất. Hơn thế, vay tiêu dùng
Vâ ThÞ Nh ý Ng©n hµng 45B

17
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng – Tµi chÝnh
không tạo ra lợi nhuận, do đó khách hàng không có sự tính toán giữa chi phí
về lãi vay và lợi nhuận tiềm năng do món vay mang lại. Đối với đối tượng
khách hàng này, lãi suất không phải là vấn đề, điều khiến họ quan tâm hơn hết
là số tiền mà phải trả hàng tháng, mặc dù rõ ràng chính lãi suất trong hợp
đồng tín dụng ảnh hưởng đến quy mô số tiền phải trả này.
Thông thường trước đây, lãi suất trong cho vay tiêu dùng thường được
giữ cố định chứ không thả nổi như những hình thức tín dụng khác. Còn hiện
nay, trong môi trường cạnh tranh đã buộc các Ngân hàng thay đổi, lãi suất của
cho vay tiêu dùng đã có sự thả nổi nhưng đấy là sự thả nổi chưa hoàn toàn.
Nhìn chung lãi suất vẫn được xác định dựa trên lãi suất cơ bản. Cụ thể, lãi
suất cho vay tiêu dùng bằng tổng của chi phí huy động vốn, rủi ro tổn thất dự
kiến, phần bù kỳ hạn với các khoản cho vay dài hạn và lợi nhuận cận biên.
1.2.3.7. Đặc điểm về nguồn trả nợ của các khoản vay tiêu dùng
Cho vay tiêu dùng nhằm thỏa mãn nhu cầu của con người chưa có khả
năng thanh toán tại thời điểm hiện tại, hoàn toàn không tài trợ nhằm mục đích
kinh doanh. Vậy nên nguồn trả nợ của khách hàng cũng không thể lấy từ lợi
nhuận do khoản vay mang lại như một số hình thức cho vay khác. Mặt khác,
khách hàng thường trả nợ cho Ngân hàng bằng một phần hay toàn bộ thu
nhập hàng tháng của mình. Do vậy, từ việc Ngân hàng thương mại tài trợ cho
các cá nhân, hộ gia đình trong việc chi tiêu, qua đó sẽ thúc đẩy đối với những
khách hàng này về tâm lý tích lũy, tiết kiệm, động lực làm việc và dẫn tới lao
động năng suất tăng cao hơn nhiều. Cũng chính vì vậy mà các Ngân hàng
thường đưa ra những chỉ tiêu như: thu nhập ổn định, có trình độ học vấn…
làm tiêu chí quan trọng để Ngân hàng quyết định trong việc cho khách hàng
vay hay không?
Vâ ThÞ Nh ý Ng©n hµng 45B
18
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng – Tµi chÝnh

1.2.3.8. Đặc điểm về lợi nhuận của cho vay tiêu dùng
Trên lý thuyết, với một hinh thức tín dụng có độ rủi ro cao như cho vay
tiêu dùng thì các Ngân hàng thương mại kỳ vọng vào một mức lợi nhuận do
nó mang lại là rất lớn. Và thực tế, dù quy mô mỗi khoản vay là không lớn lắm
nhưng do các khoản vay tiêu dùng có lãi suất cao, số lượng khách hàng trong
hoạt động tín dụng này lại lớn nên thu nhập từ lãi của nó rất lớn. So với các
hoạt động tín dụng khác, lợi nhuận trên một đồng vốn của cho vay tiêu dùng
thường cao hơn. Với nguồn lợi nhuận hấp dẫn như vậy, cho nên ngày càng có
nhiều Ngân hàng thương mại tăng cường mở rộng cho vay tiêu dùng.
1.2.4. Phân loại cho vay tiêu dùng
Cho vay tiêu dùng có nhiều hình thức khác nhau, tùy thuộc vào phương
thức phân loại. Dưới đây là một số căn cứ để chúng ta có thể phân chia cho
vay tiêu dùng:
1.2.4.1. Căn cứ vào mục đích vay
Cho vay tiêu dùng sẽ được chia thành hai loại. Đó là:
 Cho vay tiêu dùng cư trú: Là các khoản cho vay nhằm phục vụ nhu
cầu xây dựng, mua sắm hoặc cải tạo nhà ở của cá nhân, hộ gia đình. Khoản
vay này có đặc điểm là thời gian dài và quy mô thường lớn.
 Cho vay tiêu dùng không cư trú: Là các khoản cho vay phục vụ nhu
cầu cải thiện đời sống như mua sắm phương tiện, đồ dùng, du lịch, học hành
hoặc giải trí… Đặc điểm của hình thức vay này là quy mô nhỏ, thời gian ngắn
và do đó rủi ro sẽ thấp hơn cho vay tiêu dùng cư trú.
1.2.4.2. Căn cứ vào phương thức hoàn trả khoản vay
Theo căn cứ này, cho vay tiêu dùng có ba phương thức hoàn trả khoản
vay, bao gồm:
Vâ ThÞ Nh ý Ng©n hµng 45B
19
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng – Tµi chÝnh
 Cho vay tiêu dùng trả một lần: Theo đó số tiền vay sẽ được khách
hàng trả một lần vào cuối kỳ khi đến hạn. Qui mô của món vay này không

lớn, thường được sử dụng với mục đích đáp ứng nhu cầu tiền mặt tức thời như
trả tiền viện phí, đi du lịch, mua sắm đồ dùng… Vậy nên, rủi ro của mỗi
khoản vay này là không lớn lắm.
 Cho vay tiêu dùng trả góp: Là hình thức mà khoản nợ được trả làm
nhiều lần theo thỏa thuận giữa Ngân hàng và khách hàng. Phương thức này
thường dùng để tài trợ cho việc mua sắm các vật dụng đắt tiền như ô tô,
thuyền, một số đồ dùng phục vụ sinh hoạt đắt tiền, trang trải các khoản nợ…
Theo tính toán, trong tổng khối lượng tín dụng do các Ngân hàng thương mại
cung cấp thì có đến hơn 80% được thực hiện trên cơ sở trả góp. Điều này xuất
phát từ khả năng tài chính của khách hàng không đủ để chi trả khoản vay một
lần duy nhất, thêm vào đó việc định kỳ trả nợ vào mỗi tháng hay đến kỳ lương
khi tiến hành sẽ gặp nhiều thuận lợi hơn.
 Cho vay tiêu dùng tuần hoàn: Là các khoản cho vay trong đó Ngân
hàng cho phép khách hàng sử dụng thẻ tín dụng hay các loại Séc được phép
thấu chi dựa trên tài khoản vãng lai. Hiện nay, trên thế giới với sự phát triển
mạnh mẽ của hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt thì việc sử dụng thẻ
đang ngày càng trở nên phổ biến. Do đó, hình thức này có thể nói là đã hết
sức phát triển. Tuy nhiên ở Việt Nam, hình thức này còn rất ít Ngân hàng
triển khai. Vì thực tế đại bộ phận dân cư của nước ta chủ yếu vẫn sử dụng tiền
mặt trong các giao dịch và thanh toán của mình, rất ít người biết đến dịch vụ
thanh toán không dùng tiền mặt do một số Ngân hàng hiện đang cung cấp.
Nếu trong thời gian tới, tỷ lệ sử dụng tiền mặt trong thanh toán được giảm
thiểu thì sẽ có nhiều Ngân hàng thương mại Việt Nam hơn nữa tiếp tục tung
ra loại sản phẩm này.
Vâ ThÞ Nh ý Ng©n hµng 45B
20
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng – Tµi chÝnh
1.2.4.3. Căn cứ vào biện pháp đảm bảo tiền vay
 Cho vay tiêu dùng có tài sản đảm bảo: Là hình thức cho vay với tài
sản đảm bảo thường là động sản (tàu, thuyền, ô tô…), bất động sản được hình

thành từ vốn vay hoặc tài sản thuộc quyền sở hữu của khách hàng trước khi
vay vốn Ngân hàng. Tài sản đảm bảo thường tăng tính an toàn cho các khoản
vay, vì Ngân hàng có thể tạo được áp lực để buộc khách hàng phải trả nợ hoặc
trong tình huống xấu nhất thì Ngân hàng có thể phát mại tài sản đảm bảo nếu
khách hàng không trả được nợ cho mình. Do vậy, rủi ro của chính bản thân
hoạt động cho vay tiêu dùng sẽ được giảm thiểu nhờ có tài sản đảm bảo.
 Cho vay tiêu dùng không có tài sản đảm bảo: Đối lập với cho vay
tiêu dùng có tài sản đảm bảo, ở hình thức này Ngân hàng cho vay dựa trên uy
tín và khả năng trả nợ của khách hàng, không căn cứ vào tài sản đảm bảo. Để
đề phòng với rủi ro và có những tổn thất gây có thể xảy ra, thông thường
Ngân hàng rất ít khi cho vay nói chung với hình thức này, và đặc biệt là đối
với rủi ro cao như cho vay tiêu dùng nói riêng. Nếu có cho vay thì khách hàng
đó, đối với Ngân hàng phải thật sự có độ uy tín cao và là khách hàng truyền
thống của Ngân hàng.
1.2.4.4. Căn cứ vào nguồn gốc khoản vay
 Cho vay tiêu dùng trực tiếp: Là hình thức mà Ngân hàng và khách
hàng trực tiếp gặp nhau để tiến hành cho vay hoặc thu nợ. Ở hình thức cho
vay này bên cạnh những ưu điểm như: Ngân hàng có thể sử dụng tối đa nguồn
nhân lực của mình, các khoản vay thường có chất lượng cao hơn, lựa chọn
được nhiều khách hàng tốt, quan hệ trực tiếp giữa khách hàng và Ngân hàng
sẽ xử lý tốt các phát sinh đồng thời có khả năng làm thỏa mãn tốt hơn quyền
lợi cho cả khách hàng lẫn Ngân hàng, đối tượng khách hàng rất rộng lớn sẽ dễ
dàng hơn cho Ngân hàng khi đưa ra các dịch vụ tiện ích mới, qua đó hình ảnh
Vâ ThÞ Nh ý Ng©n hµng 45B
21
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng – Tµi chÝnh
của Ngân hàng đối với khách hàng càng được tăng cường quảng bá… Nó
cũng còn có những nhược điểm: mở rộng và tăng doanh số cho vay không
thực sự thuận lợi, chi phí cho vay thường khá lớn.
 Cho vay tiêu dùng gián tiếp: Là hình thức cho vay trong đó Ngân

hàng mua các khoản nợ phát sinh của các doanh nghiệp đã bán chịu hàng hóa
hoặc đã cung cấp các dịch vụ cho người tiêu dùng, nhưng vẫn còn trong hạn
thanh toán. Với hình thức này, Ngân hàng cho vay thông qua các doanh
nghiệp bán hàng hoặc làm các dịch vụ mà không trực tiếp tiếp xúc với khách
hàng. Đối lập với cho vay trực tiếp, cho vay gián tiếp giúp các Ngân hàng dễ
dàng mở rộng và tăng doanh số cho vay, tiết kiệm và giảm được chi phí, có cơ
hội phát triển các quan hệ với khách hàng cũng như các hoạt động khác của
Ngân hàng và giảm thiểu được rủi ro nếu như Ngân hàng quan hệ tốt với các
doanh nghiệp bán lẻ. Nhưng hạn chế của hình thức này cũng không phải ít.
Đó chính là: Ngân hàng không trực tiếp tiếp xúc với người vay vốn mà chỉ
thông qua các doanh nghiệp đã bán chịu hàng hóa, dịch vụ. Cho nên Ngân
hàng thiếu sự kiểm soát khi các doanh nghiệp tiến hành bán lẻ hàng hóa,
nhiều khoản tín dụng cấp ra không thực sự chính đáng, tình trạng bỏ qua một
số khách hàng tốt với Ngân hàng có thể diễn ra trong trong quá trình doanh
nghiệp lựa chọn khách hàng mua sắm hàng hóa, dịch vụ. Thêm vào đó, kỹ
thuật và quy trình nghiệp vụ của hình thức cho vay này là hết sức phức tạp,
không phải Ngân hàng nào cũng thực hiện được.
1.2.5. Quy trình nghiệp vụ của cho vay tiêu dùng
Khi khách hàng tìm đến Ngân hàng để tiến hành xin tài trợ cho những
nhu cầu chi tiêu, thông thường các Ngân hàng sẽ yêu cầu khách hàng của
mình phải có đầy đủ các giấy tờ: Đơn xin vay, các tài liệu liên quan tới thông
tin người vay và thuyết minh về khoản tín dụng (chứng minh thư, sổ hộ khẩu,
Vâ ThÞ Nh ý Ng©n hµng 45B
22
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng – Tµi chÝnh
nghề nghiệp, nguồn thu nhập, tình trạng gia đình, học vấn, mức vốn tự có,
nhu cầu tài trợ, tài sản thế chấp, vật cầm cố…).
Sau đó, Ngân hàng sẽ tiến hành xét duyệt để đưa ra kết luận là có cho
khách hàng vay hay không? Quá trình xét duyệt của Ngân hàng tiến hành dựa
trên các tiêu chí mà ngân hàng đưa ra. Cụ thể là năng lực vay của khách hàng,

Ngân hàng sẽ không cho vay với các đối tượng người vị thành niên, người bị
truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đang chấp hành án, người bị rối loạn tâm
thần. Và các yếu tố về độ tin cậy của người vay, mục đích tín dụng, năng lực
hoàn trả, các đảm bảo tín dụng, số lượng và kỳ hạn khoản tín dụng. Nếu như
khách hàng đáp ứng được các điều kiện của Ngân hàng đưa ra thì Ngân hàng
sẽ tiến hành cấp tín dụng cho khách hàng. Khách hàng và Ngân hàng tiến
hành ký kết hợp đồng tín dụng, thỏa thuận rõ số tiền vay, kỳ hạn, lãi suất,
hình thức trả nợ…
Tiếp theo, Ngân hàng sẽ phải theo dõi và thu nợ khách hàng. Bất kể
khách hàng vay dưới hình thức nào thì việc theo dõi khách hàng sau khi vay
vốn là rất cần thiết. Cho vay tiêu dùng cũng không nằm ngoài ngoại lệ đó.
Quá trình theo dõi này đem lại cho Ngân hàng các thông số cần thiết nhằm xử
lý kịp thời với những tình huống khi không quá muộn, chẳng hạn: sự ổn định
về tình hình tài chính của người vay, mục đích vay có được chấp hành không,
tiến độ trả nợ… Đến khi thu nợ, tùy theo hình thức cấp tín dụng mà quá trình
này diễn ra khác nhau. Với những khoản vay theo hình thức trả góp thì khách
hàng sẽ thanh toán nợ làm nhiều lần do đó, Ngân hàng sẽ thu nợ làm nhiều
lần. Hay những khoản vay trả một lần thì khách hàng sẽ thanh toán nợ vào
cuối kỳ, và Ngân hàng cũng thu nợ vào cuối kỳ. Mức thu được áp dụng chung
là: tiền gốc, lãi và các phí khác có liên quan tới dịch vụ Ngân hàng. Tuy
nhiên, một khi khoản tín dụng tiêu dùng được đặt vào tình trạng có vấn đề,
Vâ ThÞ Nh ý Ng©n hµng 45B
23
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng – Tµi chÝnh
giải pháp mang tính nguyên lý cũng được Ngân hàng tính đến và vận dụng -
phát mại tài sản đảm bảo.
1.2.6. Các nhân tố ảnh hưởng đến cho vay tiêu dùng
Cho vay tiêu dùng chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố, nhưng chúng
ta có thể chia ra làm hai nhóm nhân tố chính: Nhóm các nhân tố vĩ mô và
Nhóm các nhân tố vi mô.

1.2.6.1. Nhóm các nhân tố vĩ mô
Thứ nhất chính là môi trường Luật pháp. Luật pháp là công cụ quản
lý đắc lực của Nhà nước. Mọi cá nhân, tổ chức tại mỗi nước đều chịu sự chi
phối của hệ thống pháp luật do quốc gia đó quy định với những hoạt động của
mình. Các Ngân hàng thương mại cũng không phải ngoại lệ. Hơn thế hoạt
động kinh doanh của các Ngân hàng là một lĩnh vực hết sức nhạy cảm - kinh
doanh tiền tệ - thì sự giám sát kiểm tra của Nhà nước là hết sức quan trọng và
cần thiết. Những quy định của các cơ quan chức năng có thẩm quyền càng
chặt chẽ bao nhiêu thì càng thúc đẩy cho hoạt động kinh doanh của Ngân
hàng bấy nhiêu và còn góp phần giúp các Ngân hàng thương mại nâng cao
chất lượng phục vụ của mình đối với người dân và toàn bộ nền kinh tế.
Trước hết, các quy định của luật pháp sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới
phương hướng hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, trong đó có định hướng
về cho vay tiêu dùng. Nếu tại quốc gia nào mà Luật pháp không cho phép các
Ngân hàng tiến hành nghiệp vụ cho vay tiêu dùng thì chắc chắn một điều
rằng: tại đó các Ngân hàng sẽ không được phép thực hiện hoạt động này. Còn
nếu pháp luật có quy định về hoạt động cho vay tiêu dùng nhưng còn quá sơ
sài, chưa đủ hành lang cho Ngân hàng hoạt động thì cũng không thể giúp
Ngân hàng hoạt động kinh doanh tốt được. Vì vậy, nếu pháp luật có các quy
định rõ ràng, được xây dựng một cách có hệ thống, đồng bộ về cho vay tiêu
Vâ ThÞ Nh ý Ng©n hµng 45B
24
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng – Tµi chÝnh
dùng sẽ như “hộp dầu bôi trơn” các công đoạn trong quy trình cho vay tiêu
dùng, đưa cho vay tiêu dùng ngày càng phát triển nhanh chóng.
Ngoài ra, hệ thống Luật pháp cũng còn tác động tới cộng đồng dân cư
trong xã hội, các doanh nghiệp, các tổ chức khác… Đây chính là những khách
hàng của các Ngân hàng thương mại. Vì vậy, thông qua sự tác động tới những
đối tượng này mà Ngân hàng cũng chịu sự tác động theo trong quá trình kinh
doanh của mình nói chung và hoạt động cho vay tiêu dùng nói riêng.

Bên cạnh đó, các văn bản luật thuộc các ban ngành khác có liên quan
đến lĩnh vực hoạt động kinh doanh của Ngân hàng như Luật đầu tư nước
ngoài, Luật thuế, Quy định về giảm thiểu các thủ tục hành chính… được ban
hành và sửa đổi ngày càng tiến gần với thông lệ của quốc tế, tiến bộ của nhân
loại cũng góp phần không nhỏ tạo điều kiện thông suốt các hoạt động của
Ngân hàng cũng như là hoạt động cho vay tiêu dùng.
Thứ hai là môi trường kinh tế - chính trị. Đây là một nhân tố không
kém phần quan trọng so với môi trường Luật pháp. Những chỉ tiêu như thu
nhập quốc dân (GDP), tốc độ tăng trưởng, tỷ lệ lạm phát, chỉ số giá tiêu dùng,
tỷ lệ thất nghiệp… phản ánh trung thực thực trạng nền kinh tế của một quốc
gia. Nếu một nước có nền kinh tế tăng trưởng và phát triển ổn định thì đời
sống của người dân cũng có xu hướng phát triển theo, nhu cầu tiêu dùng trong
xã hội tăng mạnh. Vì vậy, cho vay tiêu dùng sẽ được phát triển với nền kinh
tế có tốc độ tăng trưởng cao, thu nhập bình quân đầu người tăng, tỷ lệ thất
nghiệp giảm
Tình hình chính trị tác động mạnh đến nền kinh tế nên cũng tác động
tới cho vay tiêu dùng. Như chúng ta đã biết với một quốc gia thường xuyên có
bạo loạn, lật đổ, đảo chính, bất ổn về chính trị, biểu tình phản đối… thì nền
kinh tế không thể phát triển được. Do vậy ở tại những nước này, hầu hết các
Vâ ThÞ Nh ý Ng©n hµng 45B
25

×