Tải bản đầy đủ (.docx) (49 trang)

Các khía cạnh tiêu cực của thị trường chứng khoán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (390.52 KB, 49 trang )

Bài Thảo Luận

Thị trường chứng khốn
Đề tài

“Các khía cạnh tiêu cực của thị trường chứng khoán”.
GVHD: Đặng Thị Lan Phương

Hà Nội, tháng 4 năm 2022

1


MỤC

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
Khoa Khách sạn - Du lịch
------

2

LỤC


A. LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với phát triển của nền kinh tế thị trường, thị trường chứng khoán ra đời,
tồn tại và phát triển như một điều tất yếu. Là một bộ phận của thị trường tài chính có
cơ chế hoạt động khá phức tạp nhưng những lợi ích to lớn mà nó đem lại cho nền kinh
tế là không thể phủ nhận được. Thị trường chứng khốn được ví như hệ thống các con


kênh góp phần khơi thơng dịng chảy cho các nguồn vốn trong nền kinh tế. Vai trị đó
càng hữu ích hơn đối với những nền kinh tế đang phát triển do bản thân nó chưa có
một cơ chế huy động và sử dụng vốn hiệu quả phù hợp với các quy luật của nền kinh
tế thị trường. Trong những năm gần đây, thị trường chứng khốn diễn ra khá sơi động
song vẫn mang lại hiệu quả chưa cao. Bởi vẫn còn tồn tại những hạn chế, những khía
cạnh tiêu cực. Nhận thấy tính cấp thiết của vấn đề này. Nhóm chúng em quyết định
tiến hành nghiên cứu đề tài: “Các khía cạnh tiêu cực của thị trường chứng khốn” và
từ đó có thể đề xuất một số biện pháp nhằm ngăn chặn, hạn chế các khía cạnh tiêu cực
trên thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu


Mơ tả và phân tích thực trạng các khía cạnh tích cực và tiêu cực của thị trường chứng




khốn
Tìm hiểu ngun nhân dẫn đến các hành vi tiêu cực thị trường chứng khoán
Đề ra một số kiến nghị và giải pháp nhằm ngăn chặn, hạn chế các khía cạnh tiêu cực
trên thị trường chứng khoán
3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu định tính


Tìm hiểu trên các website, bài báo về những thơng tin liên quan đến thị



trường chứng khốn

Thảo luận nhóm tập trung

3


4


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1. Khái niệm, đặc điểm và các chủ thể tham gia Thị Trường Chứng Khốn
(TTCK)
1.1.1. Cơ sở hình thành TTCK
Thứ nhất, giải quyết mối quan hệ giữa cung và cầu vốn tiền tệ Đây là
nguyên nhân mang tính tiền đề cho sự xuất hiện TTCK.
Thực tế cho thấy, các chủ thể trong nền kinh tế - xã hội, trước hết là Nhà nước
và các doanh nghiệp, vì những lý do khác nhau mà thường có nhu cầu huy động vốn
để bổ sung thiếu hụt ngân sách của mình. Cầu vốn là lượng vốn cần thiết để tiến hành
quá trình đầu tư, xây dựng, sản xuất kinh doanh hay phục vụ cho một mục đích tiêu
dùng nào đó của các chủ thể trong nền kinh tế.
Đồng thời trong nền kinh tế - xã hội, cũng ln có cung vốn. Cung vốn là
lựơng vốn hiện đang nhàn rỗi trong xã hội và có thể sử dụng cho các mục đích khác
nhau, hoặc cho tiêu dùng, hoặc cho các hoạt động đầu tư, xây dựng, sản xuất kinh
doanh.
Thứ hai, sự xuất hiện các loại chứng khoán. Đây là nguyên nhân trực tiếp
quyết định sự ra đời của TTCK.
Về phía Nhà nước: Khi ngân sách Nhà nước bị thiếu hụt, cũng có nghĩa là cầu
về vốn tiền tệ xuất hiện, Chính phủ có thể sử dụng nhiều biện pháp khác nhau để tạo
ra nguồn bù đắp cho sự thâm hụt đó như: phát hành tiền, vay các ngân hàng, tìm
nguồn tài trợ từ các đối tác nước ngồi,... Tuy nhiên các biện pháp này đều có những

hạn chế và có thể gây nên những hậu quả nhất định đối với nền kinh tế xã hội quốc
gia. Vì vậy, một biện pháp được coi là tối ưu hơn cả, đó là Nhà nước trực tiếp vay nợ
của mọi tầng lớp dân cư cũng như các chủ thể khác trong nền kinh tế, dưới hình thức
tín dụng Nhà nước, bằng cách phát hành trái phiếu chính phủ. . .

5


Về phía doanh nghiệp: Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp là chủ thể
thứ hai (sau Nhà nước), cũng có nhu cầu rất lớn và thường xuyên về vốn tiền tệ. Được
chủ động tạo vốn, doanh nghiệp sẽ lựa chọn phương án tài trợ hiệu quả nhất, nghĩa là
với chi phí sử dụng vốn thấp nhất, ít rủi ro nhất. Nói chung, doanh nghiệp có hai giải
pháp cơ bản đáp ứng nhu cầu về vốn đầu tư. Trước hết là khả năng tự tài trợ của doanh
nghiệp. Tuy nhiên khả năng này là hạn chế và thường chỉ đáp ứng một phần nào đó
nhu cầu vốn đầu tư. Biện pháp thứ hai là huy động vốn từ bên ngoài. Chủ yếu có hai
phương án, hoặc là vay vốn từ các tổ chức tín dụng, hoặc là phát hành trái phiếu hay
cổ phiếu. Biện pháp truyền thống là vay ngân hàng, bên cạnh những ưu điểm cũng bộc
lộ những khó khăn và hạn chế nhất định về thủ tục, điều kiện, tài sản đảm bảo, số
lượng tiền vay. Việc phát hành trái phiếu hay cổ phiếu mở ra khả năng tài trợ to lớn
với những ưu điểm nổi trội so với các phương pháp truyền thống. Các loại cổ phiếu và
trái phiếu do cơng ty phát hành, chính là chứng khoán.
1.1.2. Khái niệm
Thị Trường Chứng Khoán là thị trường diễn ra các hoạt động phát hành, giao
dịch mua bán chứng khoán. Việc mua bán này được tiến hành ở thị trường sơ cấp, khi
người mua mua được chứng khoán lần đầu từ những người phát hành chứng khoán, và
ở thị trường thứ cấp khi có sự mua đi bán lại các chứng khoán đã được phát hành từ
thị trường sơ cấp.
Như vậy, TTCK là 1 bộ phận của thị trường tài chính, là nơi diễn ra q trình
phát hành, mua bán các chứng khốn, đó là các chứng khốn nợ và chứng khốn vốn
(cịn gọi là cơng cụ sở hữu). Bản chất của TTCK là thị trường thể hiện mối quan hệ

giữa cung và cầu vốn đầu tư. Giá chứng khốn chứa đựng các thơng tin về chi phí
vốn, hay còn gọi là giá của vốn đầu tư. TTCK là hình thức phát triển bậc cao của nền
sản xuất và lưu thơng hàng hóa.
1.1.3. Đặc điểm TTCK
Thứ nhất, hàng hố của TTCK là các loại chứng khốn. Đó là những công
cụ chuyền tải giá trị như cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư, chứng khoán phái
6


sinh. Chứng khốn có những đặc điểm khác biệt so với các loại hàng hóa thơng
thường. Nếu như mỗi loại hàng hóa thơng thường đều có tính năng tác dụng và mục
đích sử dụng riêng (mua để sử dụng làm nguyên liệu phục vụ sản xuất, mua để đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng cá nhân như ăn, mặc...) thì chứng khốn khơng có những tính
năng tác dụng riêng đó. Vì thế ở các thị trường hàng hóa, người sản xuất - người bán
và người mua đều rất quan tâm tới hình dáng, mẫu mã, kích thước, chất liệu, tác dụng,
giá thành và giá cả của sản phẩm; ở TTCK, do chứng khốn là những cơng cụ chuyển
tải giá trị nên người ta chỉ quan tâm đến chứng khốn đó thật hay giả, khả năng sinh
lợi và rủi ro tiềm ẩn thế nào, khả năng thanh khoản ra sao. Nói cách khác, việc phát
hành, giao dịch các chứng khoán với tư cách là hàng hoá trên TTCK của tổ chức phát
hành, của nhà đầu tư nhằm mục đích huy động các nguồn vốn nhàn rỗi cho đầu tư,
đồng thời thực hiện việc chuyển dịch các dòng tiết kiệm và đầu tư nhằm mục tiêu tìm
kiếm lợi nhuận.
Thứ hai, TTCK được đặc trưng bởi hình thức chuyển giao tài chính trực
tiếp, những người có khả năng cung ứng vốn có thể điều chuyển vốn trực tiếp cho
người cần vốn mà không cần thơng qua các trung gian tài chính ngân hàng, cơng ty tài
chính,...) với tư cách là một chủ thể riêng biệt, độc lập thực hiện huy động vốn để
phân phối vốn nhằm đạt được những lợi ích riêng.
Chúng ta đều đã biết, các nguồn tài chính có thể được chuyển dịch từ người
cung sang người cầu bằng một trong hai hình thức: tài chính gián tiếp hoặc trực tiếp.
Tài chính gián tiếp: vốn được luân chuyển từ người cung vốn qua - các trung

gian tài chính (như ngân hàng thương mại, cơng ty tài chính...) rồi mới được chuyển
tới người cầu vốn. Trung gian tài chính đứng giữa người cung và người cầu vốn, tiến
hành tập trung các nguồn tài chính từ những người cung vốn và trả cho họ một khoản
tiền lãi nhất định; sau đó sử dụng các nguồn lực tài chính huy động được để cho
những người cầu vốn vay và thu từ họ một khoản tiền lãi nhất định. Trung gian tài
chính được hưởng một khoản thu nhập từ phần chênh lệch giữa thu từ cung ứng nguồn
lực tài chính và chỉ cho huy động các nguồn lực tài chính.
Tài chính trực tiếp: vốn hay các nguồn tài chính được luân chuyển trực tiếp từ
người cung vốn sang người cầu vốn. Trong quá trình vận động này, nguồn tài chính
7


không dừng lại ở bất kỳ một tổ chức tài chính trung gian nào. Người có nhu cầu sử
dụng vốn phải trả chi phí sử dụng vốn cho người cung vốn. Tuy nhiên, trong hình thức
tài trợ trực tiếp, nguồn vốn có thể luân chuyển tới người có nhu cầu theo 2 hình thức;
tài trợ trực tiếp qua trung gian và tài trợ trực tiếp không qua trung gian.
Thứ ba, hoạt động mua bán trên TTCK chủ yếu được thực hiện qua người
môi giới. TTCK được cấu thành bởi nhiều bộ phận thị trường, trong đó TTCK tập
trung và thị trường OTC là những bộ phận quan trọng. Do hàng hóa của thị trường
này là các cơng cụ chuyển tải giá trị, nên bằng những giác quan thông thường nhà đầu
tư khó có khả năng phân biệt được chứng khốn đó có đảm bảo u cầu về mặt pháp lí
cũng như chất lượng của chúng. Vì vậy, để bảo vệ quyền lợi chính đáng cho nhà đầu
tư, đảm bảo TTCK hoạt động đúng pháp luật, công bằng, công khai và hiệu quả, luật
pháp các nước thường quy định hoạt động mua bán chứng khốn trên các thị trường
có tổ chức phải thơng qua các trung gian, đó là những nhà mơi giới chứng khốn đã
được cấp phép là thành viên giao dịch của thị trường đó. Các nhà đầu tư muốn mua
hoặc bán chứng khốn khơng thể đến thị trường đàm phán để mua bán trực tiếp, mà
bắt buộc phải đặt lệnh mua bán qua các nhà môi giới chứng khốn.
Thứ tư, TTCK gần với thị trường cạnh tranh hồn hảo. TTCK bao gồm
nhiều bộ phận thị trường khác nhau, trong đó TTCK tập trung là bộ phận trung tâm. Ở

thị trường này tất cả mọi người đều được tự do tham gia mua và bán theo nguyên tắc
hoạt động của thị trường. Khơng có sự áp đặt giá cả trên TTCK, giá cả ở đây được xác
định dựa trên quan hệ cung cầu của thị trường và phản ánh các thơng tin có liên quan
đến chứng khốn.
Thứ năm, TTCK về cơ bản là thị trường liên tục. Sau khi các chứng khoán
được phát hành trên thị trường sơ cấp, nó có thể được mua đi bán lại nhiều lần trên thị
trường thứ cấp. TTCK đảm bảo cho những người đầu tư có thể chuyển các chứng
khốn của họ nắm giữ thành tiền bất cứ lúc nào họ muốn.
Trên đây là một số đặc điểm cơ bản của TTCK. Chính những đặc điểm này là
cơ sở để phân biệt sự khác nhau giữa TTCK với các thị trường khác; đồng thời đó
cũng là những điểm nhấn tạo ra sự hấp dẫn của TTCK đối với các tổ chức phát hành,
nhà đầu tư và kinh doanh chứng khoán. Đặc biệt đối với các tổ chức phát hành, TTCK
8


là kênh huy động vốn trung và dài hạn rất thuận lợi vì với đặc điểm "thị trường chứng
khốn là thị trường liên tục" đã tạo điều kiện cho các nguồn vốn ngắn hạn của nhà đầu
tư, trở thành nguồn vốn dài hạn của nhà phát hành.

1.1.4. Các chủ thể tham gia TTCK
Chủ thể tham gia TTCK thường bao gồm: tổ chức phát hành, nhà đầu tư, tổ
chức kinh doanh chứng khoán, tổ chức quản lý TTCK và các tổ chức phụ trợ khác.


Tổ chức phát hành chứng khốn là các tổ chức cần vốn và thực hiện huy
động vốn thông qua TTCK. Tổ chức phát hành là người cung cấp hàng hóa cho thị
trường và có trách nhiệm cơng bố các thơng tin về chứng khốn. Các tổ chức được
phát hành chứng khốn gồm: Chính phủ và các cấp chính quyền địa phương,
Doanh nghiệp, Cơng ty quản lý quỹ đầu tư




Nhà đầu tư chứng khốn là những người bỏ tiền đầu tư vào chứng khốn
nhằm mục đích thu lợi nhuận. Có thể chia nhà đầu tư thành nhiều nhóm như: nhà
đầu tư tổ chức, nhà đầu tư cá nhân, nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước
ngoài. Tùy theo chính sách quản lý nguồn vốn đầu tư nước ngoài của mỗi quốc
gia, trong từng thời kỳ mà số lượng các ngành và tỷ lệ tham gia đầu tư cổ phiếu,
trái phiếu của các tổ chức và cá nhân nước ngồi vào các doanh nghiệp thuộc các
ngành có thể khác nhau.



Người kinh doanh chứng khốn Tham gia kinh doanh chứng khốn bao gồm
các tổ chức như: cơng ty chứng khốn (CTCK), cơng ty quản lý quỹ đầu tư
(QLQĐT) và cá nhân hành nghề độc lập.



Người quản lý và giám sát thị trường. Tùy theo chính sách phát triển thị
trường và thực tế phát triển TTCK của mỗi quốc gia mà việc quản lý và giám sát
TTCK được thực hiện bởi các chủ thể khác nhau. Thông thường tham gia quản lý
giám sát TTCK bao gồm: Nhà nước (thông qua các cơ quan chức năng như Ủy ban

9


chứng khoán nhà nước/ UBCKNN, Ngân hàng nhà nước/NHNN), các tổ chức tự
quản (Sở giao dịch, Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán).
Các tổ chức phụ trợ khác. Để đảm bảo cho TTCK có thể vận hành một cách




bình thường, bên cạnh các chủ thể nêu trên cần có các tổ chức cung cấp các dịch
vụ hỗ trợ kinh doanh chứng khoán như: tổ chức lưu ký chứng khoán và thanh toán
bù trừ, tổ chức đánh giá hệ số tín nhiệm, tổ chức tài trợ chứng khốn, tổ chức kiểm
tốn, tổ chức cơng nghệ thơng tin TTCK…
1.2. Phân loại Thị Trường Chứng Khoán
1.2.1. Theo đối tượng giao dịch
Thị trường cổ phiếu (Stock Market) còn gọi là TTCK vốn, là thị trường mà



đối tượng giao dịch là các loại cổ phiếu của các công ty cổ phần. Thị trường cổ
phiếu được coi là bộ phận cơ bản và giữ vị trí quan trọng nhất của hệ thống
TTCK. Nói đến TTCK, người ta thường đồng nghĩa với thị trường cổ phiếu.
Thị trường trái phiếu (Bond Market) còn gọi là thị trường nợ, là nơi giao dịch



các loại trái phiếu. Thị trường trái phiếu có một số đặc điểm sau:
o

Hàng hóa mua bán trên thị trường là các loại trái phiếu (còn gọi là các chứng
khốn nợ) như: trái phiếu chính phủ và chính quyền địa phương, trái phiếu
cơng ty, trái phiếu, kỳ phiếu ngân hàng…

o

Người sở hữu trái phiếu giữ vai trò là chủ nợ của tổ chức phát hành.


o

Do trái phiếu có kỳ hạn nên việc thu hồi vốn đầu tư có thể thực hiện trực tiếp
tại tổ chức phát hành (nếu trái phiếu đã đến ngày đáo hạn). Trường hợp ngược
lại, nhà đầu tư phải đem bán chúng (chuyển nhượng quyền sở hữu) cho những
nhà đầu tư khác trên thị trường trái phiếu.

10


Thị trường chứng chỉ quỹ đầu tư (Fund Certificate Market/ Fund Stock



Market) Thị trường chứng chỉ quỹ là nơi giao dịch các loại chứng chỉ quỹ. Thị
trường chứng chỉ quỹ có một số đặc điểm sau:
o

Hàng hóa mua bán trên thị trường là các loại chứng chỉ quỹ do các công ty
quản lý quỹ đầu tư phát hành.

o

Người sở hữu chứng chỉ quỹ là người ủy thác cho công ty quản lý quỹ thực
hiện hoạt động đầu tư tập thể theo điều lệ của quỹ. Nhà đầu tư khơng có quyền
kiểm soát hàng ngày đối với hoạt động đầu tư của quỹ.

o

Tùy theo đặc điểm của từng loại quỹ đầu tư, người sở hữu chứng chỉ quỹ có thể

thu hồi vốn đầu tư trực tiếp tại quỹ, hoặc đem bán chúng (chuyển nhượng
quyền sở hữu) cho những nhà đầu tư khác trên thị trường chứng chỉ quỹ.



Thị trường chứng khốn phái sinh (Derivatives Market)
TTCK phái sinh là nơi giao dịch các loại chứng khoán phái sinh như quyền

mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn, hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai. TTCK
phái sinh là thị trường mà sự ra đời và phát triển của nó bắt nguồn từ chính việc phát
hành, giao dịch các loại chứng khoán gốc. Sự tồn tại và phát triển của thị trường này
có ý nghĩa quan trọng, góp phần thúc đẩy thị trường cổ phiếu và thị trường trái phiếu
hoạt động sôi động và hiệu quả hơn.
Tiêu thức phân chia này giúp chúng ta có thể đánh giá trình độ phát triển của
nền kinh tế nói chung cũng như sự phát triển của TTCK nói riêng. Với những nước
phát triển, sự phát triển của thị trường cổ phiếu là biểu trưng cho sự phát triển của nền
kinh tế. Song hành cùng với sự phát triển và hồn thiện của thị trường, các loại chứng
khốn phái sinh cũng ngày càng gia tăng để đáp ứng nhu cầu đa dạng, đồng thời cung
cấp các công cụ phòng chống rủi ro cho các nhà đầu tư, kinh doanh chứng khoán.
1.2.2. Theo các giai đoạn vận động của chứng khoán

11




Thị trường sơ cấp (Primary Market) là thị trường phát hành chứng khốn mới.
TTCK sơ cấp có vai trị tạo vốn cho tổ chức phát hành và chuyển hoá các nguồn
vốn nhàn rỗi trong công chúng vào công cuộc đầu tư.
Đặc điểm của thị trường sơ cấp:

o

Trên thị trường sơ cấp, chứng khoán là phương tiện huy động vốn của tổ
chức phát hành, là công cụ đầu tư các nguồn tiền nhàn rỗi của nhà đầu tư.

o

Chủ thể giao dịch: trên thị trường sơ cấp, người bán chứng khoán là các tổ
chức phát hành, người mua là các nhà đầu tư .

o

Kết quả giao dịch trên thị trường sơ cấp làm tăng vốn đầu tư cho tổ chức
phát hành. Tính chất hoạt động của thị trường: thị trường sơ cấp là thị trường
khơng liên tục.



Thị trường thứ cấp (Secondary Market) là thị trường diễn ra các giao dịch
mua bán chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp. Vai trò của TTCK
thứ cấp là thực hiện việc chuyển đổi quyền sở hữu chứng khoán giữa các nhà đầu
tư chứng khốn. Xét trên góc độ kinh tế vĩ mơ, TTCK thứ cấp là một bộ phận quan
trọng của thị trường tài chính thực hiện chức năng điều tiết vốn đầu tư giữa các
ngành, các lĩnh vực, tạo ra một sự cân đối mới cho nền kinh tế.
Đặc điểm của TTCK thứ cấp:
o

Trên thị trường thứ cấp, chứng khoán chỉ thuần túy là công cụ đầu tư mà
không tồn tại với tư cách là phương tiện huy động vốn cho tổ chức phát
hành.


o

Chủ thể giao dịch trên thị trường thứ cấp chủ yếu là các nhà đầu tư, kinh
doanh chứng khốn.

o

Kết quả hoạt động của thị trường thứ cấp khơng làm tăng vốn đầu tư cho nền
kinh tế mà chỉ làm thay đổi quyền sở hữu chứng khoán giữa các nhà đầu tư.
12


Tính chất hoạt động của thị trường: thị trường thứ cấp là thị trường liên
tục.
Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp có mối quan hệ hữu cơ, gắn bó với
nhau, làm tiền đề cho sự phát triển của TTCK. Thị trường sơ cấp có vai trị tạo hàng
hóa cho TTCK, thị trường thứ cấp làm gia tăng tính thanh khoản của chứng khoán,
đảm bảo cho sự phát triển của thị trường sơ cấp.
Phân chia và nghiên cứu TTCK theo tiêu thức này có ý nghĩa quan trọng trong
việc phân tích quan hệ cung cầu vốn trong nền kinh tế, đồng thời tạo cơ sở để đánh giá
hiện trạng nền kinh tế cũng như vị thế, uy tín của tổ chức phát hành thông qua sự biến
động giá chứng khoán trên thị trường thứ cấp.

1.2.3. Theo cơ chế hoạt động


Thị trường chứng khốn chính thức (cịn gọi là thị trường có tổ chức) là thị
trường mà sự ra đời và hoạt động được thừa nhận, bảo hộ về mặt pháp lý. Các hoạt
động giao dịch của thị trường này nằm dưới sự kiểm soát và chịu sự ảnh hưởng bởi

cơ chế quản lý của Nhà nước thông qua các pháp luật chun ngành.



Thị trường có tổ chức và thị trường tự do là hai bộ phận cùng song song tồn
tại và phát triển. Xét về lịch sử, thị trường tự do ra đời sớm hơn rất nhiều so với thị
trường có tổ chức. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường cũng
như sự gia tăng vai trị kiểm sốt của Nhà nước thì quy mơ và phạm vi hoạt động
của thị trường tự do ngày càng giảm đi rõ rệt, ngược lại với sự phát triển nhanh
chóng của thị trường có tổ chức.



Thị trường Private là thị trường cổ phiếu của các công ty cổ phần nội bộ. Cổ
phiếu của các cơng ty này có tính thanh khoản kém, giao dịch chủ yếu diễn ra giữa
các cổ đơng cũ của cơng ty. Do tính thanh khoản kém, giá cổ phiếu không phản
ánh đúng giá trị của công ty và rủi ro thanh khoản cao, song công ty gần như

13


khơng phải đối mặt với các xung đột lợi ích giữa các nhóm cổ đơng nên hoạt động
khá ổn định.
Thị trường thứ ba là thị trường dành cho các chứng khốn đích danh và giao



dịch khối. Các chứng khốn đích danh thường có điều kiện đặc biệt trong điều kiện
chuyển nhượng, vì vậy thường khơng được đăng ký giao dịch tại các thị trường
chính thức. Đối với các giao dịch khối, sở giao dịch thường giới hạn khối lượng

giao dịch, chẳng hạn tại Sở giao dịch chứng khoán New York, những giao dịch có
khối lượng chứng khốn lớn hơn 10.000 đơn vị thuộc giao dịch khối.
1.2.4. Theo thời hạn thanh toán
Thị trường giao ngay Thị trường giao ngay là thị trường mà việc giao nhận



chứng khốn và thanh tốn được diễn ra ngay trong ngày giao dịch hoặc trong thời
gian thanh toán bù trừ theo quy định.
Đặc điểm của TTCK giao ngay: Việc ký hợp đồng giao dịch mua bán chứng
khoán được thực hiện ở hiện tại. o Việc chuyển giao quyền sở hữu chứng khoán và
thanh toán được thực hiện ngay trong ngày giao dịch, hoặc trong thời gian thanh
toán bù trừ theo quy định của thị trường mỗi nước (T+1 hoặc T+2 hoặc T+3).


Thị trường kỳ hạn là thị trường mà việc giao nhận chứng khoán và thanh toán
được diễn ra sau ngày giao dịch một khoảng thời gian nhất định. Đặc điểm của
TTCK kỳ hạn: Việc ký hợp đồng giao dịch mua bán chứng khoán được thực hiện
ở hiện tại. o Việc chuyển giao quyền sở hữu chứng khoán và thanh toán được
thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định theo hợp đồng đã ký kết. Tùy
theo cơ chế hoạt động của thị trường theo kiểu Âu hay kiểu Mĩ mà ngày thực
hiện hợp đồng (chuyển giao quyền sở hữu chứng khoán và thanh toán) được thực
hiện sau ngày giao ngay một khoảng thời gian đã ký hay bất cứ ngày nào trong
thời hạn của hợp đồng.

1.3. Chức năng, vai trị của Thị Trường Chứng Khốn
14


1.3.1. Chức năng của thị trường chứng khoán

Là một định chế tài chính quan trọng trong nền kinh tế thị trường, TTCK được
nhìn nhận với hai chức năng cơ bản, đó là: tập trung huy động vốn đầu tư và điều tiết
các nguồn vốn trong nền kinh tế.


Tập trung huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế
Thông qua các giao dịch trên được thực hiện trên TTCK sơ cấp, các nguồn vốn

tạm thời nhàn rỗi trong dân cư, trong các tổ chức chính trị, các tổ chức xã hội… được
huy động và tập trung để tạo vốn cho tổ chức phát hành.
Thông qua phát hành trái phiếu, Nhà nước huy động vốn để thực hiện các
chương trình đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, các cơng trình cơng cộng, thực hiện cơng
nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Các doanh nghiệp sử dụng vốn huy động được
qua phát hành trái phiếu, cổ phiếu để đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển thị trường,
mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, củng cố và nâng cao vị thế doanh nghiệp trên
thương trường.


Điều tiết các nguồn vốn trong nền kinh tế
Thị trường chứng khốn nói chung, TTCK thứ cấp nói riêng là nơi tạo tính

thanh khoản cho các loại chứng khốn. Thơng qua thị trường này nhà đầu tư có thể
thu hồi vốn hoặc chuyển vốn đầu tư một cách dễ dàng thông qua hoạt động bán và
mua các loại chứng khoán.
Mặt khác, trong nền kinh tế thị trường, bên cạnh những doanh nghiệp thành
đạt, khơng ít doanh nghiệp có hiệu quả kinh doanh thấp kém, thậm chí có nguy cơ phá
sản. Những doanh nghiệp này có thể phải chấp nhận giải pháp thu hẹp phạm vi kinh
doanh ở một lĩnh vực nào đó bằng cách rút bớt vốn đầu tư khỏi các hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp để đầu tư vào một lĩnh vực khác thơng qua việc mua các
chứng khốn đang được giao dịch trên TTCK. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc vốn

đầu tư tự phát điều tiết từ các ngành, các lĩnh vực có hiệu quả sử dụng thấp sang các
ngành, các lĩnh vực có hiệu quả sử dụng cao hơn.
15


1.3.2. Vai trị của thị trường chứng khốn
Việc tạo lập và phát triển TTCK có ý nghĩa rất quan trọng trong sự nghiệp phát
triển kinh tế của các nước có nền kinh tế thị trường. Nó là kênh bổ sung nguồn vốn
trung và dài hạn cho nền kinh tế. Tuy nhiên, nếu khơng có đầy đủ các điều kiện cần
thiết để đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển thì TTCK cũng có thể gây nên những tác
hại khơn lường đối với nền kinh tế – xã hội. Chính vì thế, nhận thức được đầy đủ vai
trị tích cực cũng như những bất lợi của TTCK có một ý nghĩa quan trọng trong việc
sử dụng thị trường và xây dựng chính sách quản lý thị trường một cách hữu hiệu.
Ở hầu hết các nước có nền kinh tế thị trường phát triển đều tồn tại TTCK với
các vai trò chủ yếu sau:


TTCK là kênh huy động, tập trung và luân chuyển vốn linh hoạt của nền
kinh tế
Trong nền kinh tế thị trường, TTCK được xem như một trung tâm thu gom mọi

nguồn vốn tiết kiệm lớn nhỏ của từng hộ dân cư, các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi
trong các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính và từ nước ngoài... tạo thành một nguồn
vốn khổng lồ tài trợ cho nền kinh tế, mà các kênh tài chính khác khơng làm được. Qua
phát hành chứng khốn, các doanh nghiệp có vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh,
Nhà nước có được những nguồn vốn lớn để xây dựng các cơng trình cơ sở hạ tầng,
các ngành kinh tế mũi nhọn...


Thị trường chứng khốn góp phần kích thích cạnh tranh, nâng cao hiệu

quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp
Thơng qua TTCK, các doanh nghiệp có thể sử dụng vốn tiền tệ tạm thời nhàn

rỗi để đầu tư chứng khoán như là một tài sản kinh doanh và ngược lại, các chứng
khốn đó sẽ được chuyển thành tiền khi cần thiết. Hơn nữa, TTCK còn giúp các doanh
nghiệp xâm nhập lẫn nhau thông qua việc mua bán cổ phiếu. Thậm chí khi một doanh
nghiệp kinh doanh thua lỗ, có nguy cơ đi đến bờ vực phá sản, nó cũng có thể khơng

16


mất đi, mà được bán cho những nhà đầu tư khác và các cổ đông mới này sẽ tiếp tục
duy trì, phát triển sự hoạt động của doanh nghiệp.
Quy định của TTCK bắt buộc các doanh nghiệp tham gia thị trường phải cơng
bố cơng khai, minh bạch tình hình tài chính, kết quả kinh doanh hàng q, hàng năm
trước cơng chúng, để cơng chúng có thể nhận định, đánh giá được cơng ty. Bên cạnh
đó, việc mua bán cổ phiếu của cơng ty một cách tự do, khiến người có cổ phiếu trở
thành chủ sở hữu của công ty. Nhờ đó, họ có thể kiểm sốt cơng ty và nhận biết được
khả năng hoạt động của công ty qua sự chấp nhận của TTCK. Chính những điều này
buộc các doanh nghiệp phải tính tốn kỹ lưỡng trong việc huy động và sử dụng vốn,
qua đó góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.


Thị trường chứng khốn góp phần đa dạng hóa các hình thức đầu tư và huy
động vốn trong nền kinh tế
TTCK đưa đến cho công chúng những công cụ đầu tư mới, đa dạng, phong

phú, phù hợp với từng đối tượng có tâm lý và chiến lược riêng. Với một hệ thống các
loại chứng khoán khác nhau của nhiều ngành kinh tế và các chủ thể khác nhau, người
tiết kiệm có thể tự mình lựa chọn, hoặc thơng qua những nhà tài chính chun mơn

lựa chọn những hình thức đầu tư thích hợp nhất. Nhờ vậy, vốn nhàn rỗi trong xã hội sẽ
được thu hút vào công cuộc đầu tư. Vốn đầu tư sinh lời, càng kích thích ý thức tiết
kiệm và đầu tư trong dân chúng. Nếu khơng có TTCK thì nguồn tiết kiệm trong dân
chúng có thể vẫn tiếp tục nằm dưới dạng cất trữ, không sinh lời cho bản thân người
tiết kiệm và cũng chẳng đóng góp gì cho q trình phát triển kinh tế.
Như vậy, TTCK là nơi cung cấp các cơ hội đầu tư có lựa chọn cho cơng chúng,
từ đó nâng cao tiết kiệm quốc gia, tạo điều kiện về vốn cho sự nghiệp phát triển kinh
tế. Đồng thời, nhờ sự phát triển của TTCK, các chủ thể thiếu vốn có thêm một sự lựa
chọn kênh huy động vốn: hoặc là phát hành chứng khoán qua TTCK, hoặc huy động
vốn từ các tổ chức tín dụng - một kênh huy động vốn truyền thống và tương đối phổ
biến. Về mặt lý thuyết, huy động vốn qua phát hành chứng khốn là một phương pháp
hiệu quả vì người cầu vốn sẽ nhận được vốn trực tiếp từ người cung vốn, nên có thể
giảm được chi phí huy động. Tuy nhiên, trên thực tế, điều này còn tùy thuộc vào tính
hiệu quả, sự phát triển của TTCK và điều kiện thực tế của tổ chức phát hành ...
17




Thị trường chứng khoán là tấm gương phản ánh thực trạng và tương lai
phát triển của doanh nghiệp
Thị giá chứng khoán của một doanh nghiệp đang giao dịch trên TTCK được coi

là cơ sở quan trọng đánh giá thực trạng hoạt động của doanh nghiệp đó trong hiện tại
cũng như trong tương lai. Thị giá cổ phiếu cao hay thấp biểu hiện trạng thái kinh tế
của doanh nghiệp. Đặc biệt, mức độ cổ tức và giá thặng dư của cổ phiếu (chênh lệch
giữa giá thị trường và mệnh giá) thể hiện khả năng mang lại lợi tức và thu nhập cho
các cổ đông. Triển vọng tương lai của mỗi doanh nghiệp cũng được thể hiện một cách
trực tiếp trên thị giá cổ phiếu và sự diễn biến quá trình biến động thị giá cổ phiếu của
công ty.

Như vậy thông qua sự biến động về giá cả chứng khoán và các chỉ số trên
TTCK, người ta có thể đánh giá được tình trạng "sức khoẻ" của một doanh nghiệp nói
riêng cũng như của nền kinh tế nói chung cả trong hiện tại và tương lai.


Thị trường chứng khốn là cơng cụ hữu hiệu giúp Nhà nước thực hiện
chức năng điều tiết vĩ mô nền kinh tế
Các chỉ báo của TTCK phản ánh động thái của nền kinh tế một cách nhạy bén

và chính xác. Giá các chứng khốn tăng lên cho thấy đầu tư đang mở rộng, nền kinh tế
đang tăng trưởng và ngược lại, giá chứng khoán giảm sẽ cho thấy các dấu hiệu suy
thối của nền kinh tế. Vì thế, TTCK được coi là phong vũ biểu của nền kinh tế và là
một cơng cụ quan trọng giúp chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mơ. Thơng
qua TTCK, chính phủ có thể mua và bán trái phiếu chính phủ để tạo ra nguồn thu bù
đắp thiếu hụt ngân sách và quản lý lạm phát. Ngoài ra, chính phủ cũng có thể sử dụng
một số biện pháp, chính sách tác động vào TTCK nhằm định hướng đầu tư, đảm bảo
sự phát triển cân đối của nền kinh tế…


Thị trường chứng khốn là cơng cụ góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế
Thị trường chứng khốn là cơng cụ cho phép vừa thu hút, vừa kiểm sốt vốn

đầu tư nước ngồi một cách hữu hiệu, vì nó hoạt động theo ngun tắc cơng khai.
Nghĩa là mọi đối tượng tham gia mua bán chứng khoán phải cơng khai và cập nhật
tồn bộ những thơng tin liên quan đến giá trị chứng khốn, cơng khai khả năng tài
18


chính trong các giao dịch mua bán chứng khốn. Tính chun nghiệp của các nhà đầu

tư nước ngồi sẽ góp phần từng bước làm thay đổi tư duy trong đầu tư kinh doanh, đổi
mới cơ chế quản lý theo xu thế quản lý hiện đại, từng bước góp phần khắc phục tình
trạng đầu tư thiếu thơng tin hoặc thơng tin khơng trung thực, thiếu chính xác, đầu tư
theo tâm lý, theo trào lưu đám đông của các nhà đầu tư trong nước. Hoạt động mua
bán chứng khoán của các nhà đầu tư nước ngồi làm tăng tính sơi động của thị trường,
qua đó góp phần quan trọng vào sự phát triển của TTCK của các quốc gia, đặc biệt là
ở các TTCK mới nổi.
Như vậy TTCK không chỉ là công cụ cho phép thu hút và kiểm soát vốn đầu tư
nước ngồi; mà cịn góp phần thúc đẩy q trình hội nhập kinh tế quốc tế của các quốc
gia. Ngoài ra, TTCK cịn có các vai trị tích cực khác như: đảm bảo tính thanh khoản
cho chứng khốn, làm giảm áp lực lạm phát, thúc đẩy quá trình cổ phần hoá doanh
nghiệp nhà nước…

1.4. Quản lý Nhà nước về Thị trường chứng khốn.
Quản lý nhà nước ln được thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống,
kinh tế, xã hội. Nhà nước ln đóng vai trị quan trọng trong sự ổn định, phát triển của
chứng khoán và thị trường chứng khoán đối với đất nước. Quản lý Nhà nước đối với
thị trường chứng khoán của một quốc gia là sự quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với
các hoạt động xây dựng, vận hành và phát triển của thị trường chứng khoán.
Mục tiêu quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khốn bao gồm:


Thứ nhất, là đảm bảo sự trung thực của thị trường. Quản lý nhà nước là hoạt
động quản lý vĩ mô thuộc hệ thống tổ chức quốc gia, là sự quản lý của nhà
nước đối với các hoạt động kinh tế- chính trị- xã hội theo hướng điều tiết và

định hưởng.
• Thứ hai, là đảm bảo sự công bằng. TTCK là một thị trường cao cấp, nơi tập
trung nhiều đối tượng tham gia với mục đích, sự hiểu biết và lợi ích khác nhau;
các giao dịch và các sản phẩm tài chính được thực hiện với giá trị rất lớn. Đặc

tính này khiến TTCK là môi trường dễ xảy ra những hoạt động kiếm lời không
19


chính đáng, những hành vi gian lẫn, những cơng bằng gây tổn thất cho các nhà
đầu tư và nguy hiểm hơn đó chính là gây náo loạn thị trường, gây ảnh hưởng
đến tồn bộ nền kinh tế. Do đó, mà quản lý nhà nước đối với chứng khoán và
TTCK là tất yếu, xuất phát từ vai trò của nhà nước cũng như đặc tính của
chứng khốn và thị trường chứng khốn.
• Thứ ba, là đảm bảo hiệu quả. Quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường
chứng khoán là hoạt động quản lý ở tầm vĩ mô của cơ quan nhà nước đối với
loại hàng hóa đặc biệt, nhằm mục đích phát huy hiệu quả vai trị tích cực của
loại hình thị trường này, sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm năng, các cơ hội của
tổ chức để đạt mục tiêu đặt ra trong điều kiện biến động của môi trường.

Cơ quan quản lý nhà nước chuyên trách về chứng khoán và thị trường
chứng khoán:
Cơ quan quản lý nhà nước về chứng khốn và TTCK hay cịn gọi với tên gọi
khác là chủ thể quản lý chứng khoán và thị trường chứng khốn. Thơng thường, mỗi
quốc gia đều thành lập một cơ quan chuyên trách thực hiện chức năng quản lý nhà
nước về chứng khoán và thị trường chứng khốn. Tùy từng quốc gia, cơ quan này có
những tên gọi và mơ hình tổ chức, quản lý khác nhau.
Ở Việt Nam, cơ quan có chức năng quản lý chuyên ngành về chứng khoán là
Ủy ban Chứng khoán Nhà nước. Hiện nay, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước là cơ quan
trực thuộc Bộ Tài chính.
Quản lý là một hình thức đặc biệt của hoạt động điều hành, là sản phẩm của
tiến trình phân cơng lao động và chun mơn hóa việc quản lý, ở hầu hết các nước
đang phát triển, các chủ thể quản lý thị trường chứng khoán có 2 chức năng chính:




Duy trì hoạt động ổn định của thị trường.
Tạo điều kiện để phát triển thị trường, làm cho thị trường có thể cạnh tranh và
thích ứng với mọi sự thay đổi trong xã hội.
Hoạt động quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán được cụ thể

hóa ở một số nhiệm vụ (Nội dung) sau:
20




Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về thị trường chứng khốn; xây
dựng chiến lược, chính sách, kế hoạch hoạt động và phát triển thị trường chứng
khoán với từng bước đi cụ thể và thích hợp với điển kiện văn hóa, kinh tế,



chính trị, xã hội, dân trí và các điều kiện khác.
Cấp, gia hạn, đình chỉ, thu hồi các loại giấy phép liên quan đến việc phát hành,
niêm yết, kinh doanh và dịch vụ chứng khoán và thu lệ phí cấp giấy phép theo



quy định của pháp luật.
Tổ chức và quản lý thị trường giao dịch chứng khốn có tổ chức và các tổ chức

trung gian, tổ chức phụ trợ hoạt động trên thị trường chứng khốn.
• Xây dựng hệ thống tổ chức bộ máy của thị trường chứng khốn như: cơ quan



Quản lý nhà nước, Sở giao dịch chứng khốn, Cơng ty chứng khốn,…
Xây dựng sự phối hợp giữa các tổ chức, các cá nhân là thành viên tham gia thị
trường chứng khoán để tạo sự thống nhất trong mọi hoạt động của thị trường



chứng khốn.
Điều chỉnh, xử lý các hành vi sai phạm trên thị trường chứng khoán như bán
gian lận, đầu cơ,…Mặt khác, tạo các điều kiện thuận lợi, khuyến khích những

hoạt động tích cực trên thị trường.
• Đào tạo nghiệp vụ, tuyên truyền phổ biến kiến thức về chứng khoán, thị trường
chứng khoán. Hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng
khốn địi hỏi phải có một lượng kiến thức tương đối bởi nó chứa hàm nhiều
nguy cơ rủi ro. Việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ để đáp ứng công tác tổ
chức, vận hành thị trường cũng như tun truyền, phổ cập kiến thức về chứng


khốn và thị trường chứng khốn là hoạt động ln được chú trọng.
Hợp tác quốc tế về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Xu thế hội nhập
kinh tế quốc về đã được thừa nhận như một đòi hỏi tất yếu.
Trách nhiệm của các cơ quan trong quản lý nhà nước về chứng khoán và

TTCK:
Tại Điều 8 của Luật Chứng khoán năm 2019 đã nêu lên trách nhiệm của các cơ
quan nhà nước trong việc quản lý chứng khoán và thị trường chứng khốn. Theo đó,
thì đóng vai trị cao nhất là Chính phủ - cơ quan cao nhất trong việc quản lý chứng
khốn và thị trường chứng khốn, Chính Phủ chính là cơ quan ban hành các văn bản
quy phạm pháp luật về việc quản lý chứng khoán và thị trường chứng khoán đồng thời

21


đưa ra những quyết định quan trọng về thị trường chứng khốn trong những trường
hợp luật định.
Sau Chính Phủ chính thì cơ quan quản lý nhà nước về chứng khốn và thị
trường chứng khốn là Bộ Tài Chính. Bộ Tài chính chịu trách nhiệm trước Chính phủ
thực hiện quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Bộ Tài Chính
có nhiệm vụ trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành chiến lược, kế hoạch, đề
án, chính sách phát triển thị trường chứng khốn. Đóng vai trị là cơ quan quản lý Ủy
ban Chứng Khoán Nhà nước, thì Bộ Tài chính có trách nhiệm về sự phát triển, ổn định
của thị trường chứng khốn.
Bên cạnh đó, thì Bộ Tài chính cịn có nhiệm vụ trình cấp có thẩm quyền ban
hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp luật về chứng khoán
và thị trường chứng khoán; chỉ đạo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước thực hiện chiến
lược, kế hoạch, đề án, chính sách phát triển thị trường chứng khoán và các văn bản
quy phạm pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khốn.
Cuối cùng, thì điều 8 của Luật Chứng khốn năm 2019 còn quy định Bộ, cơ
quan ngang Bộ và Ủy ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của
mình, có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tài chính thực hiện quản lý nhà nước về chứng
khốn và thị trường chứng khoán. Như vậy, trách nhiệm về quản lý chứng khốn và
thị trường chứng khốn khơng chỉ dừng lại ở một cấp, hay chỉ do cơ quan chun
trách về quản lý chứng khốn thực hiện mà cịn được chia ra cho nhiều cơ quan khác
nhau.

22


CHƯƠNG II. CÁC KHÍA CẠNH TIÊU CỰC VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG
KHỐN

2.1. Các khía cạnh tích cực Thị Trường Chứng Khốn
Sự xuất hiện và tồn tại của thị trường chứng khoán có tác động vơ cùng lớn đến
sự phát triển của nền kinh tế, có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động quản lí của Nhà
nước cũng như sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Những tác động tích cực của
thị trường chứng khốn được biểu hiện như sau:


Một là, khuyến khích dân chúng tiết kiệm và thu hút mọi nguồn vốn nhàn
rỗi vào việc đầu tư sinh lợi nhuận. TTCK mở ra cho dân chúng các công cụ
đa dạng, phong phú phù hợp với từng đối tượng có tâm lý và suy nghĩ riêng. Cả
một hệ thống gồm hàng loạt các cổ phiếu và trái phiếu khác nhau của nhiều
ngành kinh tế, người có tiền vốn có thể lựa chọn hoặt thơng qua những nhà tài
chính chun mơn để lựa chọn các hình thức đầu tư phù hợp nhất.



Hai là, thị trường chứng khốn là cơng cụ giúp Nhà nước thực hiện
chương trình phát triển kinh tế xã hội. Nhà nước nào cũng có nhiệm vụ ổn
định và phát triển kinh tế. Nền kinh tế tăng trưởng hay suy thối trước hết phụ
thuộc vào các chính sách và các biện pháp can thiệp của Nhà nước. Để có vốn
chi tiêu, Nhà nước cần thực hiện chính sách thuế. Thơng thường, tiền thu từ
thuế không đủ cho chi tiêu, do đó cần phải có những nguồn thu khác như: trái
phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ, … các hình thức vay tiền từ dân.



Ba là, thị trường chứng khốn là cơng cụ thu hút và kiểm sốt vốn đầu tư
nước ngồi. Việc đầu tư thơng qua TTCK là đầu tư mua bán trên thị trường có
tổ chức. Trong mỗi loại chứng khốn theo luật định sẽ có một phần được bán
cho người nước ngoài. Chẳng hạn để khống chế một tỷ lệ nhất định mà cá nhân

tổ chức có thể mua nhằm chống sự tham gia quản lý và kiểm sốt cơng ty. Đó
là ưu điểm cơ bản của phương thức thu hút vốn đầu tư từ nước ngồi.



Bốn là, thị trường chứng khốn giúp lưu động hóa các nguồn vốn trong
nước. Các cổ phiếu, trái phiếu tượng trưng cho một số vốn đầu tư được mọi
23


người mua đi bán lại trên TTCK. Người có vốn khơng sợ vốn của thị trường bị
‘đơng’ vì khi cần họ có thể bán lại các cổ phiếu, trái phiếu đó và mua các cổ
phiếu của cơng ty khác. Trong TTCK vốn luôn được luân chuyển để tài trợ cho
các dự án đầu tư khác nhau qua đó làm cho nguồn vốn trở nên linh động hơn.


Năm là, thị trường chứng khốn là tiền đề cho q trình cổ phần hóa. Cổ
phần hóa là q trình chuyển từ doanh nghiệp nhà nước sang cơng ty cổ phần.
Cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp khác với mục
tiêu chủ yếu là thu hút những nguồn vốn trong tay quần chúng vào đầu tư.
TTCK là điều kiện tiền đề để thực hiện q trình cổ phần hóa.



Sáu là, thị trường chứng khốn kích thích các doanh nghiệp làm ăn, kinh
doanh đàng hồng. Nhờ có TTCK mà các doanh nghiệp mới có thể đem bán,
phát hành cổ phiếu trải phiếu. ban quản lý TTCK chỉ chấp nhận các cổ phiếu,
trái phiếu của các công ty đủ tiêu chuẩn về kinh doanh hợp pháp, tài chính lành
mạnh, kinh doanh có lợi,…Như vậy thì những nhà quản lý doanh nghiệp phải
làm ăn đàng hoàng. Hơn nữa, TTCK buộc các doanh nghiệp phải công bố công

khai các bán báo cáo cân đối tài chính do đó cơng chúng có thể đánh giá hoạt
động kinh doanh của công ty trước khi quyết định mua đầu tư.

2.2. Các khía cạnh tiêu cực Thị Trường Chứng Khoán
2.2.1. Thao túng thị trường
a, Đầu cơ chứng khoán
Khái niệm
Đầu cơ chứng khoán là việc những người mua bán chứng khốn để tìm kiếm
lợi nhuận từ chênh lệch giá chứng khoán qua những lần mua đi bán lại trên thị trường
chứng khốn. Hoạt động đầu cơ chứng khốn có đặc điểm là thường mang tính ngắn
hạn.
Các hình thức đầu cơ bị cấm:

24


Bán giả: là những hành động có giao dịch mua bán chứng khốn nhưng khơng
có việc chuyển giao sở hữu chứng khốn. Đó là hành động hai người đâu cơ bày ra
những vụ giao dịch, họ đưa ra một giá khác biệt với chiều hướng diễn biến của thị
trường mà cả hai đều chấp thuận nhưng khơng có việc thanh toán chứng khoán và
tiền. Một loại hành động khác: một người đầu cơ đưa ra những lệnh phối hợp cho hai
người môi giới, ông ta bán cổ phiếu cho người mơi giới này, rồi mua lại chính loại cổ
phiếu đó thông qua người môi giới kia với giá không phù hợp với giá thị trường. Hoặc
người đầu cơ bán đi một số chứng khoán nhờ một người khác thân quen có thể tin
tưởng được (thường là người trong gia đình hoặc bạn bè thường tin tưởng nhau hơn)
đồng lõa mua lại tồn bộ số chứng khốn đó theo giá như các hành động bán ra trên.
Mục đích của các hành động này là để kéo giá thị trường tới một mức giả tạo (không
phù hợp với chiều hướng và quan hệ cung cầu bình thường trên thị trường) tạo ra cơ
hội kiếm lời hoặc để tránh một mức lỗ.
Thu hút: Là hành động để đưa hầu hết số cổ phiếu một loại nào đó đang lưu

thơng trên thị trường tập trung vào một hoặc một vài người, khiến cho thị trường khan
hiếm, giá tăng. Khi giá đã lên tới đỉnh điểm, người đầu cơ cho rằng đó là mức lợi tối
đa thì họ sẽ bán ra. Họ bán số cổ phiếu của mình và vay cổ phiếu của người khác để
bán (bán khống). Thu hút là một hành động rất nguy hiểm đối với những người bán
khống trước đó (người đầu cơ trước bằng cách thu hút), vì những người bán khống
trước đó đã đến thời hạn cần mua để thanh toán.
Hùn vốn: Là hành vi liên kết tạm thời giữa hai hay nhiều người trong một vụ
mua bán chứng khoán để cùng mua cho giá tăng lên, để cùng bán cho giá hạ. Khi giá
đã tăng lên hoặc hạ xuống đến một điểm tối ưu, một người trong số đó mua vào hoặc
bán hết ra. Sự hùn vốn nếu có người “tay trong” là những người đang giữ những vị trí
quan trọng có thể tiếp cận hoặc những người nắm rõ thơng tin nội bộ nhanh nhất và
chính xác nhất để nhận và sử dụng thơng tin đó cho nhóm hùn vốn thực hiện mua bán
chứng khốn có lợi, thì sự hùn vốn này trở hành vi móc ngoặc.
Đối tượng thực hiện hành vi
Những nhà đầu từ ưa thích mạo hiểm bằng sự táo bạo của mình họ chớp lấy
thời cơ để mua hoặc bán chớp nhoáng các chứng khốn. và khi dự kiến giá cả sẽ có sự
25


×