BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Phạm Hồng Châu
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ
GIÁO DỤC MẦM NON
QUA MẠNG INTERNET
Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh – 2010
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Phạm Hồng Châu
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ
GIÁO DỤC MẦM NON
QUA MẠNG INTERNET
Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Mã số: 60 14 05
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. HỒ VĂN LIÊN
Thành phố Hồ Chí Minh – 201
LỜI CÁM ƠN
Với tình cảm chân thành, tác giả kính bày tỏ lòng biết ơn đến:
- Ban Tổ chức Thành ủy TPHCM,
- Quý thầy cô đã giảng dạy lớp cao học QLGD khóa 20,
- Phòng Sau đại học – trường ĐHSP TPHCM,
- Khoa Tâm lý Giáo dục - trường ĐHSP TPHCM,
- Lãnh đạo Sở Giáo dục và Đào tạo TPHCM,
- Phòng Giáo dục Mầm non,
- Phòng Khảo thí và Kiểm định Chất lượng Giáo dục,
- Phòng Giáo dục và Đào tạo 24 quận huyện,
- Tổ Mầm non 24 quận huyện,
- BGH, GV, PH ở 24 trường mầm non công lập,
- Gia đình, bạn bè…đã tạo điều kiện thuận lợi, giúp đỡ, động viên để tác giả hoàn
thành luận văn. Đặc biệt kính bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Tiến sĩ Hồ Văn Liên đã tận
tình hướng dẫn, giúp đỡ tác giả trong suốt thời gian thực hiện luận văn thạc sĩ.
TP. Hồ Chí Minh, ngày 31 tháng 12 năm 2010
Phạm Hồng Châu
MỤC LỤC
6TLỜI CÁM ƠN6T 3
6TMỤC LỤC6T 4
6TMỞ ĐẦU6T 7
6T1. Lý do chọn đề tài6T 7
6T2. Mục đích nghiên cứu6T 9
6T3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu6T 9
6T4. Phạm vi và giới hạn nghiên cứu6T 9
6T5. Giả thuyết khoa học6T 9
6T6. Nhiệm vụ nghiên cứu6T 10
6T7. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu6T 10
6T8. Bố cục của đề tài6T 11
6TCHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU6T 12
6T1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề6T 12
6T1.1.1. Ở nước ngoài6T 12
6T1.1.2. Ở Việt Nam6T 14
6T1.2. Các khái niệm6T 17
6T1.2.1. Giáo dục và Giáo dục mầm non6T 17
6T1.2.2. Ngành GDMN, trường mầm non6T 18
6T1.2.3. Quản lý, quản lý giáo dục, quản lý trường học6T 21
6T1.3. Quản lý giáo dục mầm non6T 28
6T1.3.1. Cơ cấu tổ chức quản lý GDMN6T 28
6T1.3.2. Phòng GD-ĐT và công tác quản lý GDMN6T 30
6T1.3.3. Sở GD&ĐT và công tác quản lý GDMN6T 30
6T1.4. Quản lý GDMN qua mạng internet6T 32
6T1.4.1. Mục tiêu quản lý GDMN qua mạng internet6T 36
6T1.4.2. Nội dung quản lý GDMN qua mạng internet6T 37
6T1.4.3. Chức năng quản lý GDMN qua mạng internet6T 41
6T1.4.4. Nguyên tắc, phương pháp, phương tiện QLGDMN qua mạng internet6T 43
6T1.4.5. Sự phối hợp quản lý và QL sự phối hợp GDMN qua mạng internet6T 48
6TCHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ GIÁO DỤC MẦM NON QUA MẠNG
INTERNET Ở TP. HỒ CHÍ MINH
6T 50
6T2.1. Khái quát về tình hình kinh tế - xã hội - giáo dục TP.HCM6T 50
6T2.1.1. Khái quát về tình hình kinh tế - xã hội TP.HCM6T 50
6T2.1.2. Khái quát về tình hình giáo dục TP.HCM6T 51
6T2.2. Giáo dục mầm non ở TP.HCM hiện nay6T 55
6T2.2.1. Quy mô phát triển GDMN TP.HCM6T 55
6T2.2.2. Công tác nuôi dưỡng và chăm sóc bảo vệ sức khỏe6T 55
6T2.2.3. Công tác giáo dục6T 56
6T2.2.4. Công tác xây dựng môi trường thân thiện trong trường mầm non6T 56
6T2.2.5. Công tác giáo dục bảo vệ môi trường6T 57
6T2.2.6. Công tác giáo dục về an toàn giao thông6T 57
6T2.2.7. Công tác ứng dụng công nghệ thông tin6T 57
6T2.2.8. Công tác xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ quản lý và GV6T 59
6T2.2.9. Cơ sở vật chất, thiết bị và kinh phí cho giáo dục mầm non6T 60
6T2.2.10. Công tác giáo dục trẻ khuyết tật6T 60
6T2.2.11. Công tác phổ biến kiến thức cho phụ huynh và cộng đồng6T 60
6T2.3. Thực trạng quản lý GDMN qua mạng internet ở TP. HCM6T 60
6T2.3.1. Khái quát quá trình điều tra thực trạng6T 61
6T2.3.2. Thực trạng nhận thức về vai trò của công tác quản lý GDMN qua mạng internet
trong công cuộc đổi mới quản lý hiện nay
6T 64
6T2.3.3. Thực trạng sử dụng các hình thức / phương tiện quản lý6T 67
6T2.3.4. Thực trạng trang thiết bị đáp ứng yêu cầu cho công tác quản lý GDMN qua
mạng internet
6T 73
6T2.3.5. Thực trạng thực hiện các nội dung QLGDMN qua mạng internet6T 74
6T2.3.6. Thực trạng sử dụng internet của các cán bộ quản lý GDMN6T 79
6T2.4. Kết luận thực trạng QLGDMN qua mạng internet ở TPHCM6T 83
6T2.4.1. Ưu điểm6T 83
6T2.4.2. Hạn chế6T 83
6T2.4.3. Nguyên nhân6T 84
6T2.4.4. Ý kiến của các đối tượng tham gia điều tra (PMN, TMN, BGH, GV, PH) đối với
việc quản lý GDMN qua mạng internet
6T 88
6TCHƯƠNG 3: ĐỀ XUẤT CÁC BIỆN PHÁP QUẢN LÝ GIÁO DỤC MẦM NON
QUA MẠNG INTERNET Ở TP. HỒ CHÍ MINH
6T 90
6T3.1. Cơ sở đề xuất các biện pháp6T 90
6T3.1.1. Cơ sở pháp lý6T 90
6T3.1.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn6T 94
6T3.2. Các biện pháp6T 96
6T3.2.1. Đề xuất các biện pháp6T 96
6T3.2.2. Tính cấp thiết và khả thi của các biện pháp6T 118
6TPHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ6T 123
6T1. Kết luận6T 123
6T2. Kiến nghị6T 125
6TTÀI LIỆU THAM KHẢO6T 130
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử phát triển giáo dục của nước ta, giáo dục luôn phải đương đầu liên tục
với sự biến đổi của quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Giáo dục luôn phải thích ứng với
những yêu cầu đòi hỏi khác nhau của từng giai đoạn phát triển của xã hội. Từ thập niên cuối
của thế kỷ XX đến nay, Việt Nam đang thực hiện bước chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch
hóa, tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mô hình kinh tế
chuyển đổi này đòi hỏi một nguồn nhân lực có chất lượng được đào tạo hệ thống ở tất cả các
lĩnh vực: kinh tế, sản xuất, dịch vụ… đáp ứng sự thay đổi nhanh, mạnh của thị trường trong
nước và quốc tế. Điều này đặt ra yêu cầu cấp thiết phải phát triển nền giáo dục theo hướng
dân tộc, hiện đại và chất lượng.
Bên cạnh đó, xu thế phát triển giáo dục của thế giới đang tác động sâu sắc đến giáo
dục Việt Nam, yêu cầu hội nhập quốc tế và khu vực đang đặt ra những yêu cầu mới về cải
cách nội dung chương trình giáo dục, thay đổi phương pháp dạy học trong nhà trường các
cấp để xây dựng một nền giáo dục chất lượng… Vì thế, vấn đề không ngừng nâng cao chất
lượng giáo dục là vấn đề cần được quan tâm và là yêu cầu cấp bách của tất cả những nhà
quản lý giáo dục, cán bộ giảng dạy và của toàn xã hội.
Các thành tựu nghiên cứu giáo dục đã thừa nhận quản lý giáo dục là nhân tố then chốt
đảm bảo sự thành công của phát triển giáo dục. Đặc biệt, đối với việc quản lý chất lượng
giáo dục, Nghị quyết số 37/2004/QH11 đã đặt ra yêu cầu: “Đổi mới toàn diện công tác
quản lý nhà nước về giáo dục, lấy việc quản lý chất lượng làm nhiệm vụ trọng tâm” Và
trong năm học 2009-2010, Bộ trưởng Bộ GD-ĐT cũng đã công bố Chỉ thị về nhiệm vụ
trọng tâm năm học với chủ đề “Năm học đổi mới quản lý và nâng cao chất lượng giáo dục”.
Quản lý là một hoạt động rất cần thiết cho tất cả các lĩnh vực của đời sống con người.
Ở đâu con người tạo nên nhóm xã hội là ở đó cần đến quản lý, dù cho đó là nhóm không
chính thức hay chính thức, nhóm nhỏ hay nhóm lớn, nhóm bạn bè hay nhóm gia đình hay
các đoàn thể, tổ chức xã hội; dù cho nhóm đó hoạt động với bất kỳ mục đích, nội dung gì.
Quản lý là một hoạt động trí tuệ mang tính sáng tạo cao, vừa là một khoa học vừa là một
nghệ thuật đặc biệt trong thời đại công nghệ thông tin như hiện nay, nhiệm vụ đổi mới quản
lý và nâng cao chất lượng giáo dục không thể không bị tác động bởi các thành tựu của công
nghệ thông tin.
Công nghệ thông tin là một trong các động lực quan trọng nhất của sự phát triển, cùng
với một số ngành công nghệ cao khác đang làm biến đổi sâu sắc đời sống kinh tế, văn hoá,
xã hội của thế giới hiện đại. Ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin nhằm góp phần giải
phóng sức mạnh vật chất, trí tuệ và tinh thần của toàn dân tộc, thúc đẩy công cuộc đổi mới,
phát triển nhanh và hiện đại hoá các ngành kinh tế, tăng cường năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp, hỗ trợ có hiệu quả cho quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao
chất lượng cuộc sống của nhân dân, đảm bảo an ninh, quốc phòng và tạo khả năng đi tắt đón
đầu để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Ngay từ thời kỳ chống Mỹ cứu nước, Đảng và Nhà nước ta đã có chủ trương vận dụng
công nghệ thông tin trong một số lĩnh vực. Bước sang thời kỳ đổi mới, chủ trương ấy đã
được nhấn mạnh và cụ thể hoá trong nhiều Nghị quyết của Đảng và Chính phủ như: nghị
quyết số 26-NQ/TW, ngày 30-3-1991 của Bộ Chính trị về khoa học và công nghệ trong sự
nghiệp đổi mới đã nêu: "Tập trung sức phát triển một số ngành khoa học công nghệ mũi
nhọn như điện tử, tin học "; Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương
(khoá VII) ngày 30-7-1994 xác định: "Ưu tiên ứng dụng và phát triển các công nghệ tiên
tiến, như công nghệ thông tin phục vụ yêu cầu điện tử hoá và tin học hoá nền kinh tế quốc
dân"; Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VIII nhấn mạnh: "Ứng dụng công
nghệ thông tin trong tất cả các lĩnh vực kinh tế quốc dân, tạo ra sự chuyển biến rõ rệt về
năng suất, chất lượng và hiệu quả của nền kinh tế…". Để thể chế hoá về mặt Nhà nước,
Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 49/CP ngày 04 tháng 8 năm 1993 về "Phát triển công
nghệ thông tin ở Việt Nam trong những năm 90".
Năm học 2008 - 2009 là năm học đầu tiên triển khai thực hiện Chỉ thị số 55/2008/CT-
BGDĐT ngày 30/9/2008 của Bộ trưởng Bộ GD-ĐT về tăng cường giảng dạy, đào tạo và
ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong ngành giáo dục giai đoạn 2008 - 2012. Năm
học 2008 - 2009 được chọn là “Năm học đẩy mạnh ứng dụng CNTT, đổi mới quản lý tài
chính và xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực …”. Trong công văn số
9772/BGDĐT-CNTT ngày 20/10/2008, Bộ GD&ĐT đã hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm
học 2008 - 2009 về CNTT như sau: Đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong điều hành và quản lý
giáo dục, quản lý hành chính tại các Sở GD-ĐT và các trường học: thực hiện việc chuyển
phát công văn, tài liệu qua mạng điện tử, kết nối thông tin và điều hành bằng văn bản điện
tử giữa Sở và các trường, giữa Sở và Bộ; triển khai tin học hoá quản lý trong trường học
Thực hiện chủ đề năm học “Năm học đẩy mạnh ứng dụng CNTT ”, Phòng GDMN
của Sở GD-ĐT TP.HCM đã triển khai công tác quản lý GDMN qua mạng internet. Với việc
ứng dụng mạng internet trong quản lý đầy mới mẻ như thế, Phòng GDMN đã dựa vào
những căn cứ nào để lựa chọn được các biện pháp quản lý phù hợp, đã gặp phải những khó
khăn gì và hiệu quả của việc quản lý công tác này như thế nào?
Để trả lời được các câu hỏi trên, tôi chọn nghiên cứu đề tài: “Thực trạng quản lý
Giáo dục Mầm non qua mạng internet ở TP. Hồ Chí Minh”.
2. Mục đích nghiên cứu
Từ nghiên cứu thực trạng, đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý Giáo
dục Mầm non qua mạng internet ở TP. Hồ Chí Minh.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Công tác quản lý GDMN ở TP.HCM.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Thực trạng quản lý GDMN qua mạng internet ở TP. Hồ Chí Minh.
4. Phạm vi và giới hạn nghiên cứu
Công tác quản lý GDMN qua mạng internet của các trường công lập (12 trường nội
thành và 12 trường ngoại thành), 24 Tổ Mầm non của 24 Phòng GD-ĐT các quận huyện và
Phòng GDMN - Sở GD&ĐT ở TP. Hồ Chí Minh.
5. Giả thuyết khoa học
Quản lý GDMN qua mạng internet ở TP. Hồ Chí Minh đã được thực hiện ở các trường
mầm non công lập, bên cạnh những ưu điểm như: giảm tải công việc, tiết kiệm được các
nguồn lực và thời gian, tăng cường sự giám sát đối với chất lượng công việc, cung cấp
thông tin mở cho cộng đồng còn tồn tại một số hạn chế như là chất lượng mạng internet
yếu, trình độ tin học của đội ngũ cán bộ, nhân viên chưa phù hợp, hiệu quả quản lý chưa
cao
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng, có thể đề xuất được các biện pháp quản lý
nhằm tăng cường công tác quản lý GDMN qua mạng internet ở TP.HCM.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
6.1. Hệ thống hóa cơ sở lý luận của đề tài.
6.2. Khảo sát thực trạng quản lý GDMN qua mạng internet ở TP. HCM.
6.3. Đề xuất các biện pháp góp phần nâng cao hiệu quả quản lý GDMN qua mạng
internet ở TP. Hồ Chí Minh.
7. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp luận
7.1.1. Quan điểm hệ thống - cấu trúc
Tiếp cận quan điểm hệ thống - cấu trúc, người nghiên cứu thấy thực trạng quản lý
Giáo dục Mầm non qua mạng internet ở TP. Hồ Chí Minh bao gồm những yếu tố sau đây:
mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện, chủ thể, đối tượng và kết quả quản lý có mối
quan hệ biện chứng với nhau; cần phải quan tâm giải quyết tốt các mối quan hệ này.
- Tổ MN quản lý các trường / nhóm / lớp GDMN qua mạng internet gồm các mảng cơ
bản sau: số lượng trường / nhóm / lớp, số trẻ nhà trẻ / mẫu giáo; tình trạng dinh dưỡng của
trẻ; chất lượng chăm sóc - giáo dục trẻ; số cán bộ quản lý - giáo viên - công nhân viên; trình
độ của CBQL - GV - CNV; cơ sở vật chất; kinh phí…
- Phòng GDMN quản lý Tổ MN và quản lý việc quản lý của Tổ MN đối với các đơn vị
GDMN.
7.1.2. Quan điểm thực tiễn
Xuất phát từ thực trạng quản lý Giáo dục Mầm non qua mạng internet ở TP. Hồ Chí
Minh còn gặp nhiều khó khăn do đó cần tìm hiểu các nguyên nhân và đề xuất các biện pháp
nhằm nâng cao hiệu quả quản lý.
7.1.3. Quan điểm lịch sử
Thực trạng được khảo sát cần làm sáng tỏ những vấn đề quản lý Giáo dục Mầm non
qua mạng internet ở TP. Hồ Chí Minh hiện nay.
7.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
7.2.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Gồm các phương pháp phân tích, tổng hợp, phân loại, hệ thống hóa thông tin.
7.2.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp điều tra viết: Sử dụng bảng hỏi nhằm thu thập dữ kiện phục vụ cho việc
chứng minh giả thuyết của đề tài.
- Quan sát một số hoạt động quản lý GDMN qua mạng internet để thu thập chứng cứ
phục vụ nghiên cứu. Phương tiện quan sát: máy chụp hình, máy vi tính…
- Phương pháp nghiên cứu sản phẩm: nghiên cứu trang web và các văn bản chỉ đạo
việc quản lý GDMN qua mạng.
- Phương pháp trưng cầu ý kiến chuyên gia.
7.2.3. Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng phương pháp thống kê để xử lý số liệu điều tra.
8. Bố cục của đề tài
- Được trình bày theo 3 phần:
+ Phần mở đầu.
+ Nội dung chính: gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu.
Chương 2: Thực trạng quản lý Giáo dục Mầm non qua mạng internet ở TP. Hồ
Chí Minh.
Chương 3: Đề xuất các biện pháp quản lý Giáo dục Mầm non qua mạng
internet ở TP. Hồ Chí Minh.
+ Phần kết luận.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Ở nước ngoài
* Vấn đề UDCNTT trong QL nhận được sự quan tâm ở rất nhiều nước trên thế giới.
Đặc biệt, việc UDCNTT trong các hoạt động Uquản lý hành chính nhà nướcU, hướng đến xây
dựng một chính phủ hiện đại và hiệu quả là một trong những điểm trọng tâm trong quá trình
xã hội hóa thông tin, phát triển dân chủ và củng cố bộ máy chính quyền các cấp, và hiện nay
mô hình Chính phủ điện tử (e-government) đã và đang được áp dụng rộng rãi tại nhiều nước
trên thế giới và mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho xã hội.
Ở nước Nga, trong vòng ba năm tới Nga sẽ tinh giản hơn 100.000 công chức và sẽ lập
chính phủ điện tử. Tổng thống Dmitry Medvedev đã nhấn mạnh mô hình chính phủ điện tử
sẽ tạo điều kiện để xác định một tỉ lệ công chức phù hợp nhất, giảm bớt lượng công việc
giấy tờ và loại bỏ việc xếp hàng dài dằng dặc của người dân tại các cơ quan công quyền.
Nga hiện đứng ở vị trí 59 trong danh sách xếp hạng chính phủ điện tử năm 2010 của Liên
Hiệp Quốc (Việt Nam hạng 90). Năm 2009, Tổng thống Medvedev từng phàn nàn: “Chúng
ta lạc hậu về vấn đề chính phủ điện tử quá! Giao dịch nội bộ giữa các cơ quan công quyền,
giữa người dân với cơ quan công quyền vẫn là trên giấy tờ, máy tính chẳng hơn máy đánh
chữ là mấy!”. [43]
“Giảm giá thành, tăng hiệu quả, minh bạch và tính giải trình về các dịch vụ” được xem
là nền tảng để đánh giá về chính phủ điện tử ở mọi quốc gia. Một trong những lý do thành
công cho một dự án chính phủ điện tử của Hàn Quốc - nước hiện đang xếp hạng 1 trong
danh sách xếp hạng chính phủ điện tử năm 2010 của Liên Hiệp Quốc - là “tìm giải pháp cho
người dân tham gia nhiều hơn vào quá trình điều hành của chính quyền”, trong đó có việc
cho ra mắt hệ thống cung cấp các thông tin hành chính theo yêu cầu của công dân và hệ
thống “Nhân dân điện tử” (e-People) để giải quyết đơn thư khiếu nại.
* Đối với lĩnh vực Ugiáo dụcU, ở các nước Đông Á, CNTT có một vị trí quan trọng trong
chương trình đổi mới giáo dục. Các chính sách mới về đổi mới giáo dục được xây dựng dựa
trên các tiền đề và triển vọng ứng dụng hiệu quả CNTT vào dạy và học (Richards, 2004).
Tuy nhiên, trên thực tế ứng dụng CNTT vào dạy học vẫn còn hạn chế. Phân tích việc ứng
dụng CNTT trong giáo dục không có khả năng loại bỏ máy tính khỏi các thay đổi xã hội và
chính trị như là một bối cảnh trường học lớn hơn (Selwyn, 1999). Các chính sách chiến lược
có thể đưa ra cơ sở lý luận, các mục đích và tầm nhìn của hệ thống giáo dục khi ứng dụng
CNTT (Kozma, 2008). Pick và Azari (2008) cũng nhận xét rằng các kết quả mà một dân tộc
muốn nâng cao CNTT phụ thuộc vào ý chí chính trị và cách các nhà lãnh đạo đánh giá sự
cần thiết của việc kết hợp các yếu tố đa chiều vào quá trình phát triển.
Trong vài thập kỉ gần đây, ở nhiều nước trên thế giới, máy vi tính đã được đưa vào sử
dụng trong trường như một phương tiện dạy học hữu hiệu, chẳng hạn như:
- Đề án “Tin học cho mọi người” (Informatique pour tous) – Pháp, 1970.
- Chương trình MEP (Microelectronics Education Program) – Anh, 1980.
- Các chương trình và phần mềm các môn học cho trường trung học được cung cấp bởi
NSCU (National Software-Cadination Unit) – Australia, 1984.
- Đề án CLASS (Computer Literacy And Studies in School) - Ấn Độ, 1985.
Ngoài ra, còn rất nhiều chương trình, phần mềm hỗ trợ khác có thể khai thác và ứng
dụng trong chương trình dạy học ở trường phổ thông.
* Vấn đề Uquản lý GDMNU qua mạng internet ở các nước trên thế giới đã có từ khi
ngành CNTT ở nước đó bắt đầu hình thành và phát triển. Vì thế, vấn đề quản lý GDMN qua
mạng internet là một vấn đề hết sức bình thường và tự nhiên ở các nước trên thế giới. Họ có
đầy đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị cũng như một hệ thống bộ máy quản lý chặt chẽ phối
hợp với nhau để vận hành một cách trơn tru, thuận lợi. Ví dụ như ở Autralia, họ không gọi
là quản lý qua internet mà gọi là vận dụng công nghệ thông tin trong quản lý (ICT:
information and communication technologies in educational management); họ đã vận dụng
ICT trong QLGD từ rất lâu và hiện nay rất phổ biến. Mỗi giáo viên đều có địa chỉ email
chính thống để trao đổi với nhau (…edu.au) không dùng yahoo hay gmail. Mỗi thông tin về
mục tiêu, nội dung bậc học, lớp học đều được update lên mạng và GV tự download về xem.
Bên cạnh đó, các thông tin hỗ trợ như lựa chọn phương pháp dạy học, phương tiện dạy học,
cách kiểm tra đánh giá… cũng được đưa lên mạng, GV có thể trao đổi với cố vấn chuyên
môn qua email và được hồi đáp nhanh chóng. Các trường được trang bị cơ sở vật chất, GV
được tập huấn tốt.
1.1.2. Ở Việt Nam
Tại Việt Nam, mô hình "chính phủ điện tử" đã được đưa vào ứng dụng nhằm cải thiện
phương thức quản lý hành chính, giúp mọi người tiếp cận được với các chính sách, cơ chế
của Đảng và Nhà nước một cách nhanh nhất.
Các bài viết và các công trình nghiên cứu đã có về việc UDCNTT nói chung và sử
dụng mạng internet để quản lý rất phong phú và đa dạng. Mỗi công trình mỗi bài viết đều
thể hiện sự tìm tòi khám phá công phu của người viết.
Nhìn từ góc độ UDCNTT, internet trong Utất cả các lĩnh vực nói chung,U có rất nhiều các
công trình, các bài viết như: “UDCNTT trong nghiệp vụ thanh toán liên kho bạc tại kho bạc
nhà nước tỉnh Hà Giang”; “Phát triển loại hình doanh nghiệp hỗ trợ dịch vụ công thông
qua khảo sát dịch vụ internet” (2000-2006) của ngành Bưu chính viễn thông; “Nghiên cứu
những điều kiện cần thiết để ứng dụng công nghệ internet vào giao dịch chứng khoán ở Việt
Nam” (2004) của Nguyễn Mạnh Tuấn; “Thử nghiệm kê khai thuế giá trị gia tăng qua mạng
internet” mã số đề tài LA1176; “Hạn chế rủi ro giao dịch trong Internet banking tại các
Ngân hàng thương mại Việt Nam” mã số đề tài LA1969; “Một số giải pháp chiến lược kinh
doanh sản phẩm dịch vụ Viễn thông và Internet nhằm nâng cao vị thế của Tập đoàn Bưu
chính Viễn thông Việt Nam trong giai đoạn cạnh tranh hội nhập” mã số đề tài LA2101;
“Nghiên cứu các giải pháp thúc đẩy ứng dụng Internet và thương mại điện tử để nâng cao
năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Nam Định” mã số đề tài
LA2272; “Ứng dụng Intelligent mobile agent trong công tác đào tạo trên mạng Internet tại
Học viện công nghệ Bưu chính Viễn Thông” mã số đề tài LA3036; “Đẩy mạnh hoạt động
bán hàng qua mạng Internet tại Công ty TNHH đầu tư - thương mại - dịch vụ Minh Anh”
mã số đề tài 11522; “Công nghệ tin học ngành chứng khoán Việt Nam với vấn đề giao dịch
trực tuyến” (2002) của Thạc sĩ Đoàn Thanh Tùng; “Nghiên cứu xây dựng hệ thống kiểm
soát truy cập mạng và an ninh thông tin dựa trên sinh trắc học sử dụng công nghệ nhúng”
(2008-2010) của PGS.TS Nguyễn Thị Hoàng Lan và TS. Vũ Thị Hương Giang; “Xây dựng
thử nghiệm mô hình trang thông tin điện tử có tích hợp dịch vụ hỗ trợ người khiếm thị tiếp
cận và sử dụng thông tin” (2009) của ThS. Nguyễn Thị Thu Trang; “Các tiêu chuẩn thiết kế
website dễ tiếp cận và phương pháp sử dụng thông tin “nói” hỗ trợ người khiếm thị Việt
Nam tiếp cận, định hướng và khai thác thông tin trên website; ứng dụng vào triển khai
trang thông tin điện tử dành cho người khiếm thị” mã số đề tài: B2010–01–359; “Nghiên
cứu, phát triển các hệ thống thông tin phục vụ giáo dục và y tế cộng đồng” (2007-2009) của
PGS.TS Đặng Văn Chuyết; “Hệ thống lưu trữ và kiểm soát tài liệu điện tử ứng dụng trong
quản trị tri thức về khoa học và công nghệ” (2008-2009) của PGS. TS Trần Đình Khang;
“Hệ thống tìm kiếm trên Internet” (2006) của PGS. Huỳnh Quyết Thắng, PGS. Nguyễn
Ngọc Bình, Ths. Lê Tấn Hùng; “Nghiên cứu phát triển các kiến trúc và giải pháp điều khiển
QL mạng thế hệ mới” (2006-2007) mã số đề tài KHCB.2.014.06; “Hoạt động marketing
qua internet tại các doanh nghiệp Việt Nam - Thực trạng và giải pháp” của Nguyễn Thị Phi
Nga; “UDCNTT vào công tác xây dựng” mã số đề tài DAN147…
Nhìn từ góc độ UDCNTT, internet Utrong quản lý nói chungU, có rất nhiều các công
trình, các bài viết như: “UDCNTT vào hoạt động QL khoa học và công nghệ tại tỉnh Vĩnh
Long” (2009) của ThS Trần Văn Nô; “Nghiên cứu, phát triển hệ thống lọc nội dung hỗ trợ
QL và đảm bảo an toàn – an ninh thông tin trên mạng Internet” của TS. Nguyễn Viết Thế;
“UDCNTT địa lý trong QL cấp thoát nước thành phố Tuy Hòa” (2010) của KS Lê Tỷ
Khánh; “UDCNTT trong QL hành chính nhà nước Sở Khoa học và Công nghệ giai đoạn
2002-2005”; “Ứng dụng tin học môi trường quản lý chất thải rắn đô thị cho quận Bình
Thạnh” (2007) của Trương Thị Ánh Nga;”Ứng dụng công nghệ hệ thông tin địa lý hỗ trợ
công tác quản lý tình trạng nước dưới đất vùng Hà Nội” (2010) của Đỗ Thị Hằng, Đỗ Minh
Khoa, Dương Văn Tuyền; “Ứng dụng thông tin địa lý phục vụ công tác quản lý tài nguyên
khoáng sản và môi trường của hệ thống dòng chảy tỉnh Bến Tre” (2009) của Sở Khoa học
và Công nghệ; trong phương hướng phát triển Bệnh Viện Răng Hàm Mặt Trung
Ương TPHCM cũng đã nhấn mạnh việc duy trì và phát triển Website của bệnh viện, triển
khai Hội chẩn từ xa và quản lý qua mạng Internet…
Nhìn từ góc độ UDCNTT, internet trong Ugiáo dục và quản lý giáo dụcU nói chung, có
rất nhiều các công trình, các bài viết như: “Một số biện pháp chỉ đạo của hiệu trưởng để đổi
mới phương pháp dạy học bằng sử dụng CNTT ở các trường THPT vùng ven TP.HCM”
(2004) của Trần Phước Đức; “Ứng dụng CNTT hỗ trợ đổi mới phương pháp dạy học các
môn khoa học Mác – Lênin” của Ths Nguyễn Thị Thanh Hải; “Ứng dụng CNTT vào dạy –
học và nghiên cứu môn Hán Nôm ở trường đại học” của Nguyễn Hoàng Thân; “Thiết kế và
sử dụng website trong dạy học phần "dao động điện - dòng điện xoay chiều, dao động điện
từ" lớp 12 THPT nhằm phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo của học sinh” (2007) của
Mai Hoàng Phương; “Một số biện pháp nâng cao khả năng sử dụng Internet trong dạy học
Vật Lý ở trường THPT” mã số đề tài LA7268; “Khai thác và sử dụng Internet trong dạy
học phần "Từ trường và cảm ứng điện tử" Vật lí lớp 11” mã số đề tài LA7610; “UDCNTT
trong GDĐT và công tác đào tạo nguồn nhân lực CNTT ở trường CĐSP Quảng Trị” của
TS Lê Thị Xuân Liên; “UDNTT trong chương trình đào tạo” (2008) của Nguyễn Kim
Dung; “UDCNTT trong dạy học ở trường phổ thông VN” (2003-2005) của Đào Thái Lai;
“CNTT hỗ trợ đổi mới phương pháp dạy học, hướng mới trong nâng cao chất lượng đào
tạo – bồi dưỡng ở trường cao đẳng, đại học” (2008) của Lê Thị Xuân Liên, Nguyễn Hồng
Phương; “Xây dựng và triển khai hệ quản trị nội dung website mở dành cho giảng viên”
(2010); “Hệ thống phân phối dữ liệu đa phương tiện an toàn cho lớp học trên mạng” của
TS Nguyễn Linh Giang; “UDCNTT trong việc thiết lập thư viện dữ liệu phục vụ giảng dạy
môn sinh học ở trường THPT Hậu Giang” (2010) của nhóm tác giả Trường THPT chuyên
Vị Thanh; “Nghiên cứu và UDCNTT trong dạy và học môn toán các lớp THCS (lớp 6-7-8)”
(2006-2008) của TS Đỗ Văn Nhơn; “UDCNTT vào giảng dạy một số môn học lớp 2”
(2007-2008) của Trần Thị Vân Anh; “UDCNTT trong dạy học địa lí kinh tế - xã hội thế giới
lớp 11-THPT” của trường THPT chuyên Thoại Ngọc Hầu; “Giải pháp nâng cao hiệu quả
QL đào tạo đại học hình thức vừa làm vừa học thông UDCNTT tại Trung tâm GDTX tỉnh
Thái Nguyên” (2009) của Hoàng Văn Thể; “UDCNTT trong công tác giảng dạy và QL” của
Phan Nguyễn Ý Nhi, Nguyễn Thị Mỹ Hà; “UDCNTT trong dạy học có hiệu quả” của Lê
Văn Thịnh; “Một số ứng dụng cơ bản của CNTT trong dạy học Vật lý” (2010) của Lê Duy
Giáp; “UDCNTT trong giáo dục VN: từ chính sách tới thực tế” của Jet Peeraer và Trần Nữ
Mai Thy; “Ứng dụng tin học ở một số nước Tây Âu nhân chuyến đi công tác tìm hiểu tình
hình giáo dục ở nước ngoài” (1996) của NGƯT Đào Thiện Hải; “Sử dụng máy vi tính trong
nghiên cứu và giảng dạy Địa lí” (1996) của GS. Nguyễn Dược; “Sử dụng máy vi tính làm
phương tiện hội thoại trong dạy học Vật lí” (1998) của PGS. PTS. Nguyễn Lạc; “Phần mềm
PC Fact với giảng dạy Địa lí” (1998) của GS. Nguyễn Dược; “Phần mềm Db-Map trong
dạy học Địa lí” (1998) của TS. Đặng Văn Đức…
Nhìn từ góc độ UDCNTT, internet trong UGDMN và quản lý GDMNU, có các công trình,
bài viết sau: “Đề tài nghiên cứu cấp Bộ đưa tin học vào GDMN” của Thạc sĩ Nguyễn Thị
Ngọc Châm – Phó Vụ trưởng Vụ MN (đây là căn cứ khoa học để UDCNTT trong GDMN);
"Quản lý GDMN qua internet ở TPHCM" (2009) của Phạm Bảo Quốc; “UDCNTT trong bậc
học mầm non” của Trần Thị Tuyết Dung…
Nhìn từ góc độ sử dụng internet trong việc quản lý GDMN cũng có nhiều bài viết bàn
đến vấn đề này, đây là một vấn đề thực sự thu hút được mối quan tâm của nhiều người, đặc
biệt là những người quan tâm đến công tác đổi mới, cải cách thủ tục hành chánh. Tuy nhiên,
đa số những bài viết này chỉ tập trung vào mặt CNTT, ứng dụng các phần mềm để hỗ trợ
một mặt nào đó của công tác quản lý (dạy, học, chăm sóc, tính khẩu phần ăn, IMAX (kế
toán), PMIS (QL nhân sự),…) như: “UDCNTT trong GDMN” của trường MNTT Lê Quý
Đôn với mục đích của đề tài là dạy trẻ làm quen với phương pháp học mới: Vừa học - vừa
chơi và học trên máy tính, giúp trẻ rèn luyện trí tuệ, củng cố kiến thức, kỹ năng; giúp trẻ
làm quen với một phương pháp học tập mới, hiện đại, nhanh chóng và đem lại hiệu quả; bài
giảng - trò chơi của giáo viên thiết kế trên máy được lấy ý tưởng từ những phần mềm ứng
dụng của chương trình Kidsmart, Bé vui học toán, Quả táo mầu nhiệm, Bút chì thông minh,
Happy Kids hay lấy từ mạng internet…
Có những công trình, bài viết nói về việc UDCNTT trong GDMN nhưng những nội
dung quản lý được nêu lẫn vào nhau, khó nhận diện, khó thấy rõ, khó hình dung rõ toàn bộ
thực trạng quản lý GDMN qua mạng internet.
Những công trình và những bài viết về việc ứng dụng CNTT trong QL đã nói ở trên là
những đóng góp hết sức quý báu, tuy nhiên nhiều công trình bài viết chỉ mới đi vào những
vấn đề chung của việc QL, đi sâu vào vấn đề công nghệ, phần mềm… chứ chưa đi sâu vào
mặt QL đặc biệt là quản lý GDMN. Luận văn này học tập, kế thừa thành tựu của người đi
trước, cố gắng đi sâu vào vấn đề quản lý GDMN qua mạng internet để từ đó có một cái nhìn
toàn diện về thực trạng quản lý GDMN qua mạng internet trong công cuộc đổi mới công tác
quản lý giáo dục hiện nay.
1.2. Các khái niệm
1.2.1. Giáo dục và Giáo dục mầm non
1.2.1.1. Giáo dục
Theo từ “Giáo dục” tiếng Anh – “Education” – vốn có gốc từ tiếng La tinh “Educare”
có nghĩa là “làm bộc lộ ra”. Có thể hiểu giáo dục là quá trình, cách thức làm bộc lộ ra những
khả năng tiềm ẩn của người được giáo dục.
Giáo dục bao gồm việc dạy học và giáo dục (nghĩa hẹp). Dạy học là một hình thức
giáo dục đặc biệt quan trọng và cần thiết cho sự phát triển trí tuệ, hoàn thiện nhân cách học
sinh.
Quá trình dạy học nói riêng và quá trình giáo dục nói chung luôn gồm các thành tố có
quan hệ biện chứng với nhau: mục tiêu giáo dục, nội dung giáo dục, phương pháp giáo dục,
phương tiện, hình thức tổ chức và kiểm tra đánh giá.
Sự giáo dục của mỗi cá nhân bắt đầu từ khi sinh ra (thậm chí bắt đầu trước khi sinh ra,
gọi là “thai giáo”) và tiếp tục trong suốt cuộc đời. Các cá nhân trong gia đình có ảnh hưởng
lớn đến kết quả giáo dục mầm non.
1.2.1.2. Giáo dục mầm non
Giáo dục mầm non hay giáo dục tuổi ấu thơ là việc giáo dục trong những năm tháng
đầu đời. GDMN là giai đoạn đầu tiên của việc hình thành và phát triển nhân cách của con
người, giữ vị trí mở đầu cho toàn bộ quá trình giáo dục và đào tạo, là bậc học đầu tiên trong
hệ thống GD quốc dân, do đó GDMN có vị trí đặc biệt quan trọng trong toàn bộ sự nghiệp
giáo dục con người.
GDMN là khái niệm chung về việc giáo dục trẻ em trước khi vào học tiểu học, bao
gồm các hoạt động tại các cơ sở chính quy, như trường mầm non, nhà trẻ hay mẫu giáo, tại
các cơ sở không chính quy, hoặc tại gia đình giữa cha mẹ và trẻ nhỏ. Nhiệm vụ trọng tâm
của GDMN là xây dựng cơ sở đầu tiên (nền móng) cho sự nghiệp giáo dục nhân cách con
người. Sự phát triển nhân cách của trẻ em sau này phụ thuộc khá lớn vào công tác GDMN.
GDMN là việc hỗ trợ trẻ để trẻ phát triển tốt nhất theo hướng phát triển toàn diện, lồng
ghép, bằng cách tập trung vào các kỹ năng khác nhau về xã hội, tình cảm và nhận thức,
những kỹ năng này giúp trẻ sẵn sàng cho việc học hỏi, chuẩn bị vào học tiểu học, và tham
gia đời sống xã hội.
1.2.2. Ngành GDMN, trường mầm non
1.2.2.1. Ngành giáo dục mầm non
Theo từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học do Hoàng Phê chủ biên xuất bản năm
1997 thì “ngành” là hệ thống cơ quan chuyên môn của nhà nước từ trung ương đến địa
phương, vậy “ngành giáo dục mầm non” là hệ thống cơ quan phụ trách về giáo dục mầm
non của nhà nước từ trung ương đến địa phương. [50]
1.2.2.2. Trường mầm non
Nhà trường là một tổ chức nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân, có đầy đủ tư cách
pháp nhân của một tổ chức giáo dục, trong đó người giáo viên, CBQL, tập thể sư phạm giữ
vai trò quyết định đến việc đảm bảo chất lượng giáo dục toàn diện, đến việc thực hiện thắng
lợi nhiệm vụ, mục tiêu, nội dung kế hoạch giáo dục của nhà trường.
Hệ thống trường lớp của bậc học mầm non bao gồm các loại hình trường lớp công lập,
bán công, dân lập và tư thục (trong đó có cả loại hình chuyên biệt và hoà nhập dành cho trẻ
khuyết tật), cụ thể như sau:
Nhóm trẻ độc lập là các nhóm trẻ hoạt động không phụ thuộc bất cứ một nhà trẻ,
trường mẫu giáo nào. Nó có thể nằm trong các trường phổ thông, công ty, xí nghiệp hoặc ở
các gia đình có nhận trông trẻ từ 3 tháng đến 3 tuổi.
Lớp mẫu giáo độc lập là các lớp mẫu giáo hoạt động không phụ thuộc vào bất cứ một
trường mầm non, trường mẫu giáo nào. Nó có thể nằm trong các trường phổ thông, công ty,
xí nghiệp hoặc ở các gia đình có nhận trông trẻ từ 3 tuổi đến 6 tuổi.
Trường học là đơn vị cơ sở giáo dục, nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân được
thành lập theo qui hoạch của Nhà nước; thực hiện chương trình giáo dục dạy học do Bộ
Giáo dục và Đào tạo qui định. Trường học phải đảm bảo đủ các điều kiện như: cán bộ quản
lý, giáo viên dạy các môn học, nhân viên hành chính, bảo vệ, y tế có cơ sở vật chất, trang
thiết bị phục vụ giảng dạy và học tập; có đủ những điều kiện về tài chính theo qui định của
Bộ Tài chính.
Nhà trẻ là đơn vị giáo dục cơ sở của ngành học mầm non, có chức năng thu nhận các
cháu từ 3 tháng tuổi đến 3 tuổi để nuôi, dạy và chăm sóc theo phương pháp khoa học, nhằm
phát triển toàn diện cho trẻ. Nhà trẻ chia thành nhiều nhóm trẻ. Nhà trẻ do một Ban giám
hiệu có hiệu trưởng phụ trách.
Trường mẫu giáo là đơn vị giáo dục cơ sở của ngành học mầm non, có chức năng thu
nhận để chăm sóc giáo dục trẻ em từ 3 tuổi đến 6 tuổi, chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1. Trường
mẫu giáo gồm có các lớp mẫu giáo và có thể có cả nhóm trẻ. Trường do một Ban giám hiệu
có hiệu trưởng phụ trách.
Trường mầm non là đơn vị cơ sở của giáo dục quốc dân, là đơn vị giáo dục cơ sở của
ngành học mầm non, là trường được liên hợp giữa nhà trẻ và mẫu giáo, có tư cách pháp
nhân và có con dấu riêng. Trường mầm non có chức năng thu nhận để chăm sóc và giáo dục
trẻ em từ 3 tháng đến 6 tuổi, nhằm giúp trẻ hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách;
chuẩn bị cho trẻ em vào lớp 1. Trường mầm non có các lớp mẫu giáo và các nhóm trẻ.
Trường do một Ban giám hiệu có hiệu trưởng phụ trách.
Trường mầm non thực hiện quá trình giáo dục trẻ song song với quá trình chăm sóc,
nuôi dưỡng trẻ. Điều 2 trong Điều lệ trường mầm non (năm 2008) quy định rõ: “Trường
Mầm non đảm nhận việc nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ em nhằm giúp trẻ em hình
thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ em vào lớp một”. Cũng trong
điều lệ này, điều 24 khoản 3 quy định việc giáo dục trẻ được tiến hành thông qua các hoạt
động theo quy định của chương trình: hoạt động vui chơi; hoạt động học tập; ngày hội, ngày
lễ; dạo chơi và tham quan.
Trường MN là một tổ chức xã hội được xây dựng trên cơ sở tự nguyện, với sự hỗ trợ
của Nhà nước, nhân dân về vật chất cũng như tinh thần. Trường mầm non do cơ quan cấp
huyện hoặc quận quản lý và chỉ đạo mọi mặt, trường được thành lập theo đơn vị hành chính
xã, phường hoặc cơ quan hành chính. Đây là một môi trường sư phạm đặc biệt: trường được
xây dựng, bố trí vừa mang tính chất của trường học, vừa mang tính chất nhà ở (gia đình),
quan hệ giữa cô giáo mầm non với trẻ vừa mang tính thầy – trò, vừa mang tính mẫu – tử,
vừa mang tính bạn bè cùng học cùng chơi, mọi hoạt động của trẻ hoà quyện vào nhau “học
mà chơi, chơi mà học”. Trẻ từ 3 tháng đến 36 tháng được tổ chức thành các nhóm trẻ; trẻ từ
37 tháng đến 6 tuổi được tổ chức thành các lớp mẫu giáo. Trong trường MN, giáo viên mầm
non thực hiện việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em từ 3 tháng đến 6 tuổi nhằm đạt
được mục tiêu của GDMN là giúp trẻ phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình
thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1. GVMN thực hiện
nghiêm chỉnh nội quy, quy chế của nhà trẻ, trường mẫu giáo, thực hiện đầy đủ chương trình,
kế hoạch giáo dục do Bộ GD&ĐT ban hành; chịu trách nhiệm quản lý số lượng trẻ trong
nhóm, lớp được phân công; thực hiện các yêu cầu về nội dung, phương pháp giáo dục mầm
non, nhiệm vụ của nhà giáo theo quy định của Luật Giáo dục. GVMN được tổ chức thành
chuyên môn theo khối hoặc theo lớp; được cử đi học nâng cao trình độ, bồi dưỡng chuyên
môn nghiệp vụ, được hưởng lương phụ cấp nghề nghiệp và các phụ cấp khác theo quy định
của Chính phủ; có trình độ chuẩn được đào tạo là trung học sư phạm mầm non.
Trường MN là đơn vị cơ sở của ngành GDMN, đây là đơn vị quan trọng nhất trong
công tác QL GDMN. Chất lượng giáo dục của nhà trường phản ánh hiệu quả công tác chỉ
đạo quản lý của ngành. Do vậy, quản lý trường MN là một nhiệm vụ, một thành phần quan
trọng trong công tác giáo dục mầm non.
Quản lý trường MN là tập hợp những tác động tối ưu của chủ thể quản lý đến tập thể
cán bộ, giáo viên, công nhân viên của nhà trường, nhằm thực hiện có chất lượng mục tiêu,
kế hoạch giáo dục của nhà trường, trên cơ sở tận dụng các tiềm lực vật chất và tinh thần của
xã hội, nhà trường và gia đình. Hiệu trưởng là chủ thể quản lý giữ vai trò chủ đạo, có thẩm
quyền cao nhất về hoạt động chuyên môn và hành chính trong nhà trường. Hiệu trưởng quản
lý toàn diện nhà trường theo chế độ thủ trưởng và có hiệu phó giúp việc được phân công
một số mặt công tác do hiệu trưởng quyết định, có giáo viên mầm non làm nhiệm vụ nuôi
dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em từ 3 tháng đến 6 tuổi.
Hoạt động của trường MN rất đa đạng và phức tạp. Người hiệu trưởng làm tốt công tác
QL sẽ góp phần thực hiện tốt các mục tiêu cơ bản của nhà trường: thu hút ngày càng đông
số trẻ em trong độ tuổi đến trường trên địa bàn hành chính nơi trường đóng; đảm bảo chất
lượng chăm sóc và giáo dục trẻ theo mục tiêu đã đề ra; xây dựng tập thể sư phạm lành mạnh
đủ sức để hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra; xây dựng, sử dụng và bảo quản tốt cơ sở
vật chất, trang thiết bị của nhà trường; thu hút các tổ chức xã hội tham gia vào việc xây
dựng, QL và phát triển nhà trường, tạo ra sự thống nhất các lực lượng giáo dục trong việc
chăm sóc, GD trẻ.
1.2.3. Quản lý, quản lý giáo dục, quản lý trường học
1.2.3.1. Quản lý
Theo Từ điển Tiếng Việt thông dụng (NXB Giáo dục, 1998) quản lý là: tổ chức, điều
khiển hoạt động của một đơn vị, cơ quan. [50]
Quản lí có nghĩa là:
+ Trông coi và giữ gìn theo những yêu cầu nhất định
+ Tổ chức và điều khiển các họat động theo những yêu cầu nhất định. [79, tr. 201-203]
Quản lý là khái niệm được xem xét theo hai góc độ:
+ Theo góc độ chính trị - xã hội: quản lý được hiểu là sự kết hợp giữa tri thức với lao
động. Vận hành sự kết hợp này cần có một cơ chế quản lý phù hợp. Cơ chế đúng, hợp lý thì
xã hội phát triển, ngược lại thì xã hội phát triển chậm hoặc rối ren.
+ Theo góc độ hành động: quản lý được hiểu là chỉ huy, điều khiển, điều hành.
Do đó, QL có thể được hiểu là sự tác động có ý thức của chủ thể QL lên đối tượng QL
nhằm chỉ huy, điều hành, hướng dẫn các quá trình xã hội và hành vi của cá nhân hướng đến
mục đích hoạt động chung và phù hợp với quy luật khách quan.
Tóm lại, QL là sự tác động có mục đích của chủ thể QL đến đối tượng và khách thể QL
trong một tổ chức bằng một hệ thống các giải pháp nhằm thay đổi trạng thái của đối tượng
QL, làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích với hiệu quả cao.
Hoạt động quản lí bao gồm hai quá trình “Quản” và “Lí” tích hợp vào nhau:
+ “Quản” có nghĩa là duy trì, ổn định hệ
+ “Lí” có nghĩa là đổi mới, phát triển hệ
Hoạt động QL là sự tác động qua lại một cách tích cực giữa chủ thể và đối tượng quản
lý qua con đường tổ chức; là sự tác động, điều khiển, điều chỉnh tâm lý và hành động của
các đối tượng quản lý, lãnh đạo cùng hướng vào việc hoàn thành những mục tiêu nhất định
của tập thể. Cần lưu ý một số điểm sau:
- Quản lý bao giờ cũng là một tác động hướng đích, có mục tiêu xác định.
- Quản lý thể hiện mối quan hệ giữa hai bộ phận: chủ thể quản lý và đối tượng quản lý,
đây là quan hệ ra lệnh – phục tùng, không đồng cấp và có tính bắt buộc.
- Quản lý bao giờ cũng là quản lý con người.
- Quản lý là sự tác động mang tính chủ quan nhưng phải phù hợp với quy luật khách
quan.
- Quản lý xét về mặt công nghệ là sự vận động của thông tin.
- Quản lý có khả năng thích nghi giữa chủ thể với đối tượng QL và ngược lại.
Chủ thể quản lý là tác nhân tạo ra các tác động và đối tượng bị quản lý tiếp nhận trực
tiếp các tác động của chủ thể quản lý và các khách thể khác chịu các tác động gián tiếp từ
chủ thể quản lý. Muốn quản lý thành công, trước tiên cần phải xác định rõ chủ thể, đối
tượng và khách thể quản lý. Chủ thể quản lý phải thực hiện việc tác động và phải biết tác
động, vì thế chủ thể phải hiểu đối tượng và điều khiển đối tượng một cách có hiệu quả - đó
được gọi là phong cách quản lý của chủ thể. Phong cách quản lý là hệ thống những nguyên
tắc, phương pháp, biện pháp, cách thức tiêu biểu và tương đối ổn định mà một người cán bộ
quản lý thường sử dụng trong hoạt động của họ. QL đúng đắn dẫn đến thành công, tồn tại,
ổn định và phát triển bền vững, quản lý sai dẫn đến thất bại, diệt vong của tổ chức. QL đúng
đắn sẽ giúp cho tổ chức hạn chế được các nhược điểm của mình, liên kết gắn bó mọi người
trong tổ chức, tạo ra niềm tin, sức mạnh và truyền thống, tận dụng được mọi cơ hội, sức
mạnh tổng hợp của tổ chức qua sự kết hợp sức mạnh của các cá nhân trong tổ chức.
U* Quản lý có những chức năng sau đây:
Chức năng quản lý là hình thức biểu thị sự tác động có chủ đích của chủ thể quản lý
lên đối tượng quản lý và khách thể quản lý, là những nội dung và phương thức hoạt động cơ
bản mà nhờ đó chủ thể quản lý tác động lên đối tượng quản lý trong quá trình quản lý nhằm
thực hiện mục tiêu quản lý, là tập hợp những nhiệm vụ khác nhau mà chủ thể quản lý phải
tiến hành trong suốt quá trình quản lý, chức năng quản lý có thể coi là những nhiệm vụ có
tính nghề nghiệp mà các nhà quản lý của bất cứ ngành nào cũng phải thực hiện trong quá
trình quản lý.
Theo các nhà nghiên cứu về khoa học quản lý, quá trình quản lý có 4 chức năng cơ
bản. Các chức năng này quan hệ mật thiết với nhau để đưa tổ chức đạt đến mục tiêu đề ra
với kết quả tốt nhất và chi phí nhỏ nhất. Bốn chức năng đó là: kế hoạch hóa (planing), tổ
chức (organizing), chỉ đạo (leading), kiểm tra (controlling). Các chức năng này có quan hệ
khăng khít với nhau tạo thành chu trình quản lý.
Sơ đồ 1.1. Sơ đồ mối liên hệ của các chức năng quản lý
U- Chức năng kế hoạch hóaU: là hoạt động căn cứ thực trạng ban đầu của tổ chức, bao
gồm xác định mục tiêu, mục đích của tổ chức trong từng giai đoạn, thời kỳ và từ đó định ra
biện pháp hay cách thức để đạt được mục tiêu, mục đích đó. Kế hoạch hóa là việc làm cho
tổ chức phát triển theo kế hoạch, là quá trình xác định hình thành các mục tiêu phát triển của
nhà trường, đồng thời xác định, đảm bảo các nguồn lực và quyết định những biện pháp tốt
nhất để thực hiện mục tiêu đó. Sản phẩm quan trọng của chức năng kế hoạch hóa là kế
hoạch. Có ba loại kế hoạch: kế hoạch chiến lược (giải quyết mục tiêu chiến lược); kế hoạch
chiến thuật (giải quyết mục tiêu chiến thuật) và kế hoạch tác nghiệp (giải quyết mục tiêu tác
nghiệp).
Việc lập kế hoạch là phải trả lời được các câu hỏi là làm những gì (nội dung công
việc), làm như thế nào (cách thức thực hiện, phương án thực hiện, cách làm), làm khi nào
(thời gian thực hiện), ai làm (phân công con người cụ thể). Lập kế hoạch là công việc phải
có sự suy tính, đòi hỏi có sự bàn bạc, cân nhắc của nhiều người, càng có nhiều người tham
gia suy nghĩ thì ý thức tập thể và tinh thần trách nhiệm chung càng được nâng cao. Lập kế
hoạch trước sẽ tránh được các hoạt động rời rạc, tùy tiện, không cân nhắc trước và nó sẽ là
cơ sở đảm bảo cho quá trình quản lý đạt được hiệu quả cao. Có thể coi kế hoạch hóa là quá
trình xác định mục tiêu và phương pháp tốt nhất để đạt mục tiêu đó. Mục tiêu càng cụ thể,
càng rõ ràng, càng có cơ sở khoa học để thực hiện tốt các công việc của tổ chức. Đây chính
là việc quan trọng nhất của kế hoạch.
U- Chức năng tổ chức:U được tiến hành sau khi xây dựng kế hoạch nhằm thực hiện kế
hoạch đã đề ra. Là sự hình thành nên cấu trúc các mối quan hệ giữa các thành viên, giữa các
bộ phận trong tổ chức với nhau mà nhờ cấu trúc đó, chủ thể quản lý tác động lên đối tượng
quản lý một cách hiệu quả nhất nhằm thực hiện thành công kế hoạch, tức là đạt được mục
tiêu, mục đích mà kế hoạch đã đặt ra. Tổ chức là thực hiện những việc đã được lãnh đạo xác
định trong thực tiễn. Nếu tổ chức có hiệu quả, người quản lý có thể phối hợp, điều phối tốt
hơn các nguồn lực.
Chức năng tổ chức trong quản lý gồm 4 nội dung cơ bản:
+ Xây dựng cơ cấu tổ chức hay bộ máy tổ chức trong đơn vị QL: chủ thể QL phải nắm
bắt được những công việc mà đơn vị cần phải thực hiện để đạt được mục tiêu chung. Thông
qua yêu cầu, tính chất của công việc, chủ thể QL phải xây dựng cho được cơ cấu bộ máy để
thực hiện tốt, có hiệu quả các nhiệm vụ nhằm đưa tổ chức đến được mục đích đề ra: xác
định các bộ phận cần có, thiết lập các mối quan hệ hàng ngang và dọc của các bộ phận, xác
định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng thành viên, từng bộ phận (xây dựng qui chế
hoạt động); QL nhân sự bao gồm tuyển dụng, đào tạo, bố trí, sắp xếp, đề bạt, sa thải, tổ chức
các hoạt động.
+ Xây dựng cơ chế vận hành bộ máy: các kiểu quan hệ QL, các quyền hạn, các vấn đề
phân quyền và ủy quyền trong QL. Trong QL đội ngũ công chức hiện nay có năm loại hình
quan hệ QL, đó là: quan hệ chỉ huy - phục tùng, quan hệ chức năng, quan hệ tham mưu,
quan hệ hợp tác và quan hệ đại diện. Người QL cần lựa và sử dụng phối hợp các kiểu quan
hệ cho phù hợp với đối tượng và yêu cầu của cơ cấu tổ chức, của công việc cụ thể thì quá
trình QL mới có hiệu quả tốt.
Công tác nhân sự là một khâu trong công tác quản lý con người thể hiện ở tuyển dụng,
lựa chọn cán bộ cho bộ máy theo phương châm “đúng người, đúng việc”, áp dụng đúng chế
độ chính sách đối với người lao động, biểu hiện cụ thể ở hoạch định, tuyển chọn, đánh giá
cán bộ, duy trì, phát triển, sử dụng nhân sự và cán bộ. Tạo điều kiện cho tài nguyên nhân sự
phát triển thông qua cơ cấu tổ chức nhằm đạt tốt hơn mục tiêu của tổ chức.
Tổ chức công việc khoa học theo trình tự từ công việc tới các bộ phận trong cơ quan.
Tổ chức lao động theo khoa học là thực hiện công việc sao cho đạt năng suất cao, đồng thời
bảo vệ sức khỏe, tạo ra niềm vui, cảm giác hạnh phúc, sự hứng thú cho con người trong lao
động, đồng thời giúp cho đơn vị phát triển bền vững.
Cơ cấu tổ chức là tổng hợp các bộ phận (đơn vị và cá nhân) khác nhau, có mối quan hệ
phụ thuộc lẫn nhau, được chuyên môn hóa và có những trách nhiệm, quyền hạn nhất định,
được bố trí theo những cấp, những khâu nhằm đảm bảo thực hiện các chức năng QL và
phục vụ mục đích của tổ chức. Cơ cấu tổ chức còn là hình thức phân công nhiệm vụ trong
lĩnh vực quản lý, có tác động đến quá trình hoạt động của tổ chức. Cơ cấu tổ chức, một mặt
phản ánh cơ cấu trách nhiệm của mỗi người trong hệ thống, mặt khác tác động tích cực trở
lại đến việc phát triển của tổ chức.
Chức năng tổ chức là chức năng quan trọng tiếp sau chức năng kế hoạch.
U- Chức năng chỉ đạo:U là phương thức tác động của chủ thể quản lý nhằm điều hành
sao cho các thành viên, các bộ phận liên kết nhất trí cao, động viên cổ vũ họ vận hành theo
đúng kế hoạch để thực hiện mục tiêu, mục đích của quản lý.
Chỉ đạo là nhìn cho rõ những “việc phải làm”. Lãnh đạo là một quá trình, một nghệ
thuật tác động vào con người sao cho họ không những chỉ tuân thủ các mệnh lệnh mà còn tự
nguyện và hăng hái làm việc để đạt các mục tiêu của tổ chức. Lãnh đạo làm sao cho cán bộ
dưới quyền tự nguyện tuân thủ mới là quan trọng, làm sao tạo ra động lực thúc đẩy con
người hoạt động theo mục tiêu của tổ chức một cách tự nguyện và hết lòng.
U- Chức năng kiểm tra:U là hoạt động của chủ thể quản lý tác động lên khách thể quản
lý, đối tượng quản lý nhằm đánh giá và xử lý các kết quả vận hành của tổ chức. Kiểm tra là
quá trình xác định kết quả đạt được trên thực tế, đối chiếu với các tiêu chuẩn đã xây dựng,
thu các thông tin phản hồi, phát hiện những sai lệch và đề ra một chương trình hành động
nhằm khắc phục các sai lệch để thực hiện các mục tiêu của kế hoạch đề ra.
Kiểm tra là nhằm chủ động ngăn chặn các nhầm lẫn, sai phạm có thể xảy ra trong quá
trình quản lý tổ chức. Kiểm tra là nhu cầu của mọi thành viên đúng mực trong hệ thống, là
nhu cầu nhằm hoàn thiện các quy định về nhiều mặt, nhiều lĩnh vực của hệ thống để khẳng
định được sự đúng sai của đường lối.
Kiểm tra là chức năng làm cho hoạt động quản lý đảm bảo tính phù hợp, thích ứng với
môi trường, đảm bảo tính khả thi và tính thực tiễn của kế hoạch, tiến tới hoàn thiện mục
tiêu, mục đích của tổ chức trong môi trường biến đổi không ngừng. Kiểm tra giúp cho người
lãnh đạo nắm được trạng thái cụ thể của tổ chức, biết được công việc của tổ chức đang được
thực hiện ở mức độ nào, chất lượng công việc như thế nào, công việc đang thực hiện đến