Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Vận dụng quan điểm của Chủ nghĩa duy vật biện chứng về “Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức’’ để làm rõ việc xây dựng lối sống tích cực của sinh viên là vô cùng quan trọng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (243.16 KB, 22 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐẠI NAM
KHOA: THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ VÀ KINH TẾ SỐ
---🙠🕮🙢---

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài 1:
Vận dụng quan điểm của Chủ nghĩa duy vật biện chứng
về “Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức’’ để
làm rõ: việc xây dựng lối sống tích cực của sinh viên là vơ
cùng quan trọng. Liên hệ với sinh viên Lớp/Khoa và bản
thân?

Họ và tên

: Đặng Thanh Huyền

Ngành/Chuyên ngành : Thương mại điện tử
Lớp

: TMĐT 15-01

Giảng viên hướng dẫn : TS. Nguyễn Thị Hoàn


HÀ NỘI,2022
1


Mục Lục


I. PHẦN LÝ LUẬN

4

1. 1 Khái niệm về vật chất và ý thức

4

1.2. Nguồn gốc vật chất của ý thức và bản chất phản ánh sáng tạo của ý thức

7

1.3. Vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng.

9

1.3.1. Vật chất quyết định ý thức
1.3.2. Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất thể hiện

9
12

Phần thực tiễn - việc quan điểm của Chủ nghĩa duy vật biện chứng về “Mối quan hệ
biện chứng giữa vật chất và ý thức’’ xây dựng lối sống tích cực của sinh viên là vơ cùng
quan trọng. Liên hệ với sinh viên Lớp/Khoa và bản thân
16
II.

2.1. Việc vận dụng quan điểm của Chủ nghĩa duy vật biện chứng về “Mối quan hệ
biện chứng giữa vật chất và ý thức’’ xây dựng lối sống tích cực của sinh viên là vô cùng

quan trọng bởi
16
2.1.1. Hiểu rõ vật chất quyết định ý thức giúp sinh viên có thế giới quan khoa học và
tạo động lực phấn đấu trong cuộc sống. Từ đó xây dựng lối sống tích cực và mục tiêu
rõ ràng của sinh viên
16
2.1.2. Hiểu rõ ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất từ đó xây
dựng lối sống tích cực của sinh viên là vơ cùng quan trọng. Giúp sinh viên phát huy
tính năng động quan trọng của ý thức
17
2.2. Liên hệ với sinh viên khoa thương mại điện tử và bản thân
2.2.1. Phát huy tính năng động của ý thức trong việc thích nghi với hồn cảnh mới

18
18

2.2.2. Sinh viên khoa thương mại điện tử và bản thân tôi nâng cao ý thức học tập và
nghiên cứu khoa học bằng những hoạt động thực tế, ngược lại hoạt động thực tế rèn
luyện ý thức học tập
18
2.3. Không ngừng học hỏi và cố gắng học tập trong bối cảnh mới chúng tơi sẽ trở
thành người có bản lĩnh và thành công hơn trong hiện tại và tương lai

19

2.4. Xã hội ngày càng phát triển đòi hỏi chúng ta phải nâng cao ý thức học tập nghiên
cứu khoa học và rèn luyện bản thân
19
III. KẾT LUẬN


20

IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO

21

1. Giáo trình Triết học Mác – Lênin.(GS.TS Phạm Văn Đức chủ biên. Hà Nội,2019)

21


MỞ ĐẦU
Vấn đề quan hệ giữa vật chất và ý thức là vấn đề cơ bản của triết học. Đây
là vấn đề cơ sở, nền tảng, xuyên suốt mọi học thuyết triết học trong lịch sử, quyết
định sự tồn tại của triết học. Kết quả và thái độ của việc giải quyết vấn đề cơ bản
triết học quyết định sự hình thành thế giới quan và phương pháp luận của các triết
gia, xác định bản chất của các trường phái triết học. Giải quyết vấn đề này là cơ sở,
điểm xuất phát để giải quyết các vấn đề khác của triết học, đồng thời quyết định
cách xem xét các vấn đề khác trong đời sống xã hội. Các nhà kinh điển chủ nghĩa
Mác - Lênin do có lập trường duy vật, nắm vững phép biện chứng, kịp thời khái
quát những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên, nên đã khắc phục được
những sai lầm, hạn chế của các quan niệm duy tâm, siêu hình và nêu lên những
quan điểm khoa học, khái quát đúng đắn về mặt triết học hai lĩnh vực lớn nhất của
thế giới là vật chất, ý thức và mối quan hệ giữa chúng.
Vật chất và ý thức là hai hiện tượng đối lập nhau về bản chất, nhưng giữa
chúng ln có mối quan hệ biện chứng. Tính tương đối của sự đối lập giữa vật chất
và ý thức thể hiện qua mối quan hệ giữa thực thể vật chất đặc biệt - bộ óc người và
thuộc tính của chính nó. Do đó việc vận dụng quan điểm của Chủ nghĩa duy vật
biện chứng về “Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức’’ để làm rõ: việc
xây dựng lối sống tích cực của sinh viên là vô cùng quan trọng. Bởi vận dụng tích

cực linh hoạt “Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức’’ vào cuộc sống
chúng ta sẽ cải tạo hiệu quả của quá trình hoạt động thực tiễn, đem lại nhiều ý
nghĩa thiết thực với cuộc sống con người.


I. PHẦN LÝ LUẬN

1. 1 Khái niệm về vật chất và ý thức
Phạm trù vật chất được V.I.Lênin định nghĩa như sau: “Vật chất là một phạm
trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người ta trong
cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không
lệ thuộc vào cảm giác”. Ở định nghĩa này, như V.I.Lênin đã chỉ ra, khi vật chất đối
lập với ý thức trong nhận thức luận, thì cái quan trọng để nhận biết nó chính là
thuộc tính khách quan [1]. Khách quan, theo V.I.Lênin, nghĩa là “cái đang tồn tại
độc lập với loài người và với cảm giác của con người” [1] . Trong đời sống xã hội
thì “khách quan khơng phải theo ý nghĩa là một xã hội những sinh vật có ý thức,
những con người có thể tồn tại và phát triển không phụ thuộc vào sự tồn tại của
những sinh vật có ý thức, mà khách quan theo ý nghĩa là tồn tại xã hội không phụ
thuộc vào ý thức xã hội của con người.
Như vậy, định nghĩa vật chất của V.I.Lênin bao gồm những nội dung cơ bản
sau: Thứ nhất, vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngồi ý thức và khơng phụ
thuộc vào ý thức; Thứ hai, vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi bằng
cách nào đó (trực tiếp hoặc gián tiếp) tác động lên giác quan của con người; Thứ
ba, vật chất là cái mà cảm giác, tư duy, ý thức chẳng qua là sự phản ánh của nó. [1]
Với định nghĩa này, V.I.Lênin khẳng định thuộc tính chung nhất của vật chất là
sự tồn tại khách quan ở bên ngồi ý thức. Tất cả những gì tồn tại bên ngồi và
khơng phụ thuộc vào ý thức (con người và loài người) đều thuộc phạm trù vật chất.
Với những nội dung cơ bản như trên, định nghĩa vật chất của V.I.Lênin có nhiều ý
nghĩa to lớn: Thứ nhất, định nghĩa đã chỉ ra rằng vật chất là thực tại khách quan
không phụ thuộc vào ý thức con người, kiên định và triệt để quan điểm nhất

nguyên của chủ nghĩa duy vật, vạch ra đường ranh giới với chủ nghĩa duy tâm và
nhị nguyên luận [1]. Thứ hai, định nghĩa đã chỉ ra rằng vật chất có thể được ý thức


phản ánh, khẳng định năng lực nhận thức của con người, vạch ra đường ranh giới
với thuyết bất khả tri [1]. Thứ ba, định nghĩa đã chỉ ra đặc tính duy nhất của vật
chất là tính thực tại khách quan, khắc phục được hạn chế của chủ nghĩa duy vật cũ
đồng nhất vật chất với hình dạng cụ thể hoặc kết cấu của vật chất [1].
Trong quá tình khám phá thế giới khách quan, việc nhận thức sự vận động của
vật chất trong các dạng khác nhau của nó, về thực chất là đồng nghĩa với nhận thức
bản thân vật chất. “Các hình thức và các dạng khác nhau của vật chất chỉ có thể
nhận thức được thơng qua vận động; thuộc tính của vật thể chỉ bộc lộ qua vận
động; về một vật thể khơng vận động thì khơng có gì mà nói cả”.
Với tính cách là thuộc tính bên trong, vốn có của vật chất, theo quan điểm của
triết học Mác - Lênin, vận động là sự tự vận động của vật chất, được tạo nên do sự
tác động lẫn nhau của chính các thành tố nội tại trong cấu trúc của vật chất. Điều
này trái ngược hoàn tồn với các quan điểm duy tâm hoặc siêu hình về vận động.
Khơng có một sức mạnh nào nằm bên ngồi vật chất lại có thể khiến cho vật chất
vận động. Vật chất không do ai sáng tạo ra và khơng thể bị tiêu diệt, cho nên vận
động với tính cách là phương thức tồn tại tất yếu của vật chất cũng không thể bị
mất đi hoặc được sáng tạo ra.
Thế giới vật chất tồn tại trong sự vận động vĩnh cửu của nó, song khơng có
nghĩa là triết học Mác - Lênin phủ nhận hiện tượng đứng im của thế giới vật chất
[1]. Ngược lại, triết học Mác - Lênin cho rằng q trình vận động khơng ngừng của

thế giới vật chất chẳng những khơng loại trừ mà cịn bao hàm trong nó hiện tượng
đứng im tương đối; khơng có hiện tượng đứng im tương đối thì khơng có sự vật
nào tồn tại được [1]. “Nhưng bất kỳ sự vận động tương đối riêng biệt nào cũng đều
có xu hướng khôi phục lại sự đứng im tương đối, sự cân bằng. Khả năng đứng yên
tương đối của các vật thể, khả năng cân bằng tạm thời là những điều kiện chủ yếu



của sự phân hoá của vật chất” [1]. Ph.Ăngghen khẳng định: “Mọi sự cân bằng chỉ
là tương đối và tạm thời” trong sự vận động tuyệt đối và vĩnh viễn của thế giới vật
chất [1].
Có thể chia vận động thành 5 hình thức cơ bản sau:
Thứ nhất, vận động cơ học (sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian).
Thứ hai, vận động vật lý (vận động của các phân tử, các hạt cơ bản, vận động điện
tử, các quá trình nhiệt, điện, v.v.) [1]
Thứ ba, vận động hoá học (vận động của các nguyên tử, các q trình hố học và
phân giải chất) [1].
Thứ tư, vận động sinh học (trao đổi chất giữ cơ thể sống và môi trường).
Thứ năm, vận động xã hội (sự thay đổi, thay thế của các quá trình xã hội của các
hình thái kinh tế - xã hội).
Với sự phân loại vận động của vật chất thành các hình thức xác định như trên,
những hình thức này quan hệ với theo theo các nguyên tắc nhất định sau:
Thứ nhất, các hình thức vận động nói trên khác nhau về chất [1]. Từ vận động cơ
học đến vận động xã hội là sự khác nhau về trình độ của sự vận động. Những trình
độ này tương ứng với trình độ của các kết cấu vật chất.
Thứ hai, các hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động
thấp, bao hàm trong nó tất cả các hình thức vận động thấp hơn. Trong khi đó các
hình thức vận động thấp khơng có khả năng bao hàm các hình thức vận động ở
trình độ cao hơn. Bởi vậy, mọi sự quy giản các hình thức vận động cao về các hình
thức vận động thấp là sai lầm [1].


Thứ ba, trong sự tồn tại của mình, mỗi một sự vật đều có thể gắn liền với nhiều
hình thức vận động khác nhau [1].
1.2. Nguồn gốc vật chất của ý thức và bản chất phản ánh sáng tạo của ý thức
Ý thức là sự phản ánh của bộ óc con người đối với thế giới vật chất khách quan, là

tổng hồ các q trình tâm lý như cảm giác, tư duy, v.v., cũng là hạt nhân để con
người nhận thức về mình cũng như về thế giới. Nói cách khác, ý thức là sự phản
ánh thế giới vật chất khách quan vào bộ óc con người và có sự cải biến và sáng tạo.
- Nguồn gốc vật chất của ý thức
Triết học Mác-Lênin khẳng định rằng ý thức là một thuộc tính của vật chất nhưng
phải là của mọi dạng vật chất mà chỉ là thuộc tính của một dạng vật chất sống có tổ
chức cao là bộ óc người. Bộ óc người là cơ quan vật chất của ý thức. Ý thức là
chức năng của bộ óc người. Hoạt động ý thức của con người diễn ra trên cơ sở hoạt
động sinh lý thần kinh của bộ óc người, vì vậy khơng thể tách rời ý thức ra khỏi
hoạt động của bộ óc người.
Tuy nhiên, nếu chỉ có bộ óc khơng thơi mà khơng có sự tác động của thế giới bên
ngồi để bộ óc phản ánh lại tác động đó thì cũng khơng thể có ý thức.
Là hình thức cao nhất của sự phản ánh thế giới hiện thực, ý thức chỉ nảy sinh ở giai
đoạn phát triển cao của thế giới vật chất, cùng với sự xuất hiện của con người. Ý
thức là ý thức của con người, nằm trong con người, không thể tách rời con người.
Ý thức bắt nguồn từ một thuộc tính của vật chất - thuộc tính phản ánh - phát triển
thành. Ý thức ra đời là kết quả phát triển lâu dài của thuộc tính phản ánh của vật
chất, nội dung của nó là thơng tin về thế giới bên ngồi, về vật được phản ánh.
Như vậy, bộ óc người cùng với thế giới bên ngồi tác động lên bộ óc là nguồn gốc
tự nhiên của ý thức.


Để cho ý thức ra đời, những tiền đề, nguồn gốc tự nhiên rất quan trọng, không thể
thiếu được, song chưa đủ [1]. Điều kiện quyết định cho sự ra đời của ý thức là
những tiền đề, nguồn gốc xã hội. Ý thức ra đời cùng với quá trình hình thành bộ óc
người nhờ lao động, ngơn ngữ và những quan hệ xã hội. Ý thức là sản phẩm của sự
phát triển xã hội, và ngay từ đầu đã mang tính chất xã hội.
Ý thức được hình thành chủ yếu do hoạt động cải tạo, biến đổi thế giới khách quan
của con người. Quá trình hình thành ý thức là kết quả hoạt động chủ động của con
người. Con người chỉ có ý thức do tác động vào thế giới. Nói cách khác, ý thức chỉ

được hình thành thơng qua hoạt động thực tiễn của con người. Ph.Ăngghen viết:
“Đem so sánh con người với các loài vật, người ta sẽ thấy rõ rằng ngôn ngữ bắt
nguồn từ lao động và cùng phát triển với lao động, đó là cách giải thích duy nhất
đúng về nguồn gốc của ngơn ngữ”. Theo Mác, ngôn ngữ là vỏ vật chất của tư duy,
là hiện thực trực tiếp của tư tưởng, khơng có ngơn ngữ, con người khơng thể có ý
thức [1].
Như vậy, nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển
của ý thức là lao động, là thực tiễn xã hội. Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách
quan vào trong bộ óc người thơng qua lao động, ngôn ngữ và các quan hệ xã hội. Ý
thức là sản phẩm xã hội, là một hiện tượng xã hội.
- Bản chất phản ánh năng động sáng tạo của ý thức và kết cấu của ý
thức Bản chất phản ánh năng động sáng tạo của ý thức.
Triết học Mác - Lênin khẳng định ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào
trong bộ óc người một cách năng động, sáng tạo.
Điểm xuất phát để hiểu bản chất của ý thức là phải thừa nhận ý thức là sự phản
ánh, là cái phản ánh, còn vật chất là cái được phản ánh. Cái được phản ánh - tức


vật chất - tồn tại khách quan, ở ngoài và độc lập với cái phản ánh là ý thức. Ý thức
là cái phản ánh thế giới khách quan, nhưng nó là cái thuộc phạm vi chủ quan, là
thực tại chủ quan, khơng có tính vật chất.
Tuy nhiên, ý thức khơng phải là bản sao giản đơn, thụ động, máy móc của sự vật,
mà ngược lại, là sự phản ánh có tính năng động, sáng tạo [1]. Ý thức “chẳng qua
chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến đi ở
trong đó”. Nói cách khác, ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Kết cấu và chức năng của ý thức.
Ý thức có kết cấu phức tạp, bao gồm nhiều thành tố có quan hệ với nhau. Tuỳ theo
cách tiếp cận mà có thể chia kết cấu đó theo nhiều lát cắt khác nhau. Ở đây có thể
chia cấu trúc đó theo hai chiều sau đây:
Thứ nhất, theo chiều ngang: ý thức bao gồm các yếu tố cấu thành như tri thức, tình

cảm, niềm tin, lý trí, ý chí,… trong đó tri thức là nhân tố cơ bản, cốt lõi.
Thứ hai, theo chiều dọc: ý thức bao gồm các yếu tố như tự ý thức, tiềm thức, vô
thức, v.v.. Tất cả những yếu tố đó cùng với những yếu tố khác quy định tính chất
phong phú, phức tạp trong thế giới tinh thần và hoạt động tinh thần của con người.
gắn với đặc trưng của một hình thức vận động cơ bản.
1.3. Vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng.
Trong đó vật chất quyết định ý thức, cịn ý thức tác động tích cực trở lại vật
chất
1.3.1. Vật chất quyết định ý thức
Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin do có lập trường duy vật, nắm vững
phép biện chứng, kịp thời khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học tự
nhiên, nên đã khắc phục được những sai lầm, hạn chế của các quan niệm duy tâm,


siêu hình và nêu lên những quan điểm khoa học, khái quát đúng đắn về mặt triết
học hai lĩnh vực lớn nhất của thế giới là vật chất, ý thức và mối quan hệ giữa chúng
[1].

Vật chất và ý thức là hai hiện tượng đối lập nhau về bản chất, nhưng giữa chúng
ln có mối quan hệ biện chứng. Về mặt nhận thức luận, cần quán triệt sâu sắc tư
tưởng biện chứng của V.I. Lênin, rằng "sự đối lập giữa vật chất và ý thức chỉ có ý
nghĩa tuyệt đối trong những phạm vi hết sức hạn chế: trong trưởng hợp này chỉ giới
hạn trong vấn đề nhận thức luận cơ bản là thừa nhận cái gì có trước và cái gì là cái
có sau? Ngồi giới hạn đó, thì khơng cịn nghi ngờ gì nữa rằng sự đối lập đó là
tương đối". Ở đây, tính tương đối của sự đối lập giữa vật chất và ý thức thể hiện
qua mối quan hệ giữa thực thể vật chất đặc biệt - bộ óc người và thuộc tính của
chính nó.
Các thành tựu của khoa học tự nhiên hiện đại đã chứng minh được rằng, giới tự
nhiên có trước con người; vật chất là cái có trước, cịn ý thức là cái có sau; vật chất
là tính thứ nhất, cịn ý thức là tính thứ hai. Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với

ý thức và là nguồn gốc sinh ra ý thức. Bộ óc người là một dạng vật chất có tổ chức
cao nhất, là cơ quan phản ánh để hình thành ý thức. Ý thức tồn tại phụ thuộc vào
hoạt động thần kinh của bộ não trong quá trình phản ánh hiện thực khách quan. Sự
vận động của thế giới vật chất là yếu tố quyết định sự ra đời của cái vật chất có tư
duy là bộ óc người. Thế giới khách quan, mà trước hết và chủ yếu là hoạt động
thực tiễn có tính xã hội - lịch sử của loài người là yếu tố quyết định nội dung mà ý
thức phản ảnh.
"Ý thức không bao giờ có thể là cái gì khác hơn là sự tồn tại được ý thức". Ý
thức chỉ là hình ảnh của thế giới khách quan. Sự phát triển của hoạt động thực tiễn
cả về bề rộng và chiều sâu là động lực mạnh mẽ nhất quyết định tính phong phú và


độ sâu sắc của nội dung của tư duy, ý thức con người qua các thế hệ, qua các thời
đại từ mơng muội tới văn minh, hiện đại. Lồi người nguyên thuỷ sống bầy đàn
dựa vào sản vật của thiên nhiên thì tư duy của họ cũng đơn sơ, giản dị như cuộc
sống của họ. Cùng với mỗi bước phát triển của sản xuất, tư duy, ý thức của con
người cũng ngày càng mở rộng, đời sống tinh thần của con người ngày càng phong
phú. Con người không chỉ ý thức được hiện tại, mà còn ý thức được cả những vấn
đề trong quá khứ và dự kiến được cả trong tơng lai, trên cơ sở khái quát ngày càng
sâu sắc bản chất, quy luật vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy của
họ. Sự vận động, biến đổi không ngừng của thế giới vật chất, của thực tiễn là yếu
tố quyết định sự vận động, biến đổi của tư duy, ý thức của con người. Khi sản xuất
xã hội xuất hiện chế độ tư hữu, ý thức chính trị, pháp quyền cũng dần thay thế cho
ý thức quần cư, cộng đồng thời nguyên thuỷ. Trong nền sản xuất tư bản, tính chất
xã hội hố của sản xuất phát triển là cơ sở để ý thức xã hội chủ nghĩa ra đời, mà
đỉnh cao của nó là sự hình thành và phát triển khơng ngừng lý luận khoa học của
chủ nghĩa Mác - Lênin.
Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức. Vật chất “sinh”ra ý thức vì
ý thức xuất hiện gắn liền với sự xuất hiện của con người mà con người là sản phẩm
của q trình tiến hóa lâu dài. Con người do tự nhiên vật chất sinh ra nên ý thức là

1 thuộc tính do giới tự nhiên sinh ra. Giới tự nhiên có trước con người. Vật chất là
cái có trước cịn ý thức là cái có sau. Vật chất là tính thứ nhất cịn ý thức là tính thứ
hai.Vật chất tồn tại khách quan độc lập với ý thức là nguồn gốc sinh ra ý thức. Bộ
óc con người là dạng vật chất có tổ chức cao nhất là cơ quan phản ánh để hình
thành ý thức. Ý thức tồn tại dựa vào hoạt động thần kinh của bộ não trong quá trình
phản ánh hiện thực khách quan. Sự vận động của thế giới vật chất là yếu tố quyết
định sự ra đời của cái vật chất có tư duy là bộ óc người.


Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức. Ý thức dưới bất kì hình thức
nào suy cho cùng đều là phản ánh hiện thực khách quan. Ý thức mà trong nội dung
của nó là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong đầu óc con người. Thế giới
khách quan trước hết là hoạt động thực tiễn có tính xã hội lịch sử của lồi người là
yếu tố quyết định nội dung mà ý thức phản ánh. Ý thức chỉ là hình ảnh của thế giới
khách quan, sự phát triển của hoạt động thực tiễn là động lực quyết định sự phong
phú, sâu sắc của tư duy.
Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức. Phản ánh và sáng tạo là hai
thuộc tính khơng tách rời trong bản chất của ý thức. Sự phản ánh của con người
phản ánh tích cực tự giác sáng tạo thông qua thực tiễn. Chủ nghĩa duy vật biện
chứng xem xét thế giới vật chất là thế giới của con người hoạt động thực tiễn. Thực
tiễn là hoạt động vật chất có tính cải biến thế giới của con người, là cơ sở hình
thành phát triển ý thức. Trong đó ý thức của con người vừa phản ánh vừa sáng tạo,
phản ánh để sáng tạo và sáng tạo để phản ánh
Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động phát triển của ý thức mọi sự tồn tại
phát triển của ý thức đều gắn liền với quá trình biến đổi của vật chất. Vật chất thay
đổi thì ý thức thay đổi. Ý thức sẽ phát triển cùng với sự phát triển của con người.
Con người nhận thức được thế giới trong quá khứ hiện tại và cả tương lai.
Trên cơ sở khái quát sâu sắc bản chất quy luật vận động phát triển của tự nhiên
xã hội và tư duy của họ.Sự vận động biến đổi không ngừng của thế giới vật chất
của thực tiễn là yếu tố quyết định sự vận động bến đổi của tư duy ý thức của con

người. Trong đời sống xã hội vai trò quyết định của vật chất đối ý thức biểu hiện ở
vai trị của kinh tế đối với chính trị, đời sống vật chất đối với đời sống tinh thần,
tồn tại xã hội đối với ý thức xã hôi. Sự phát triển của kinh tế quy định sự phát triển
của văn hóa. Đời sống vật chất thay đổi thì đời sống tinh thần cũng thay đổi.


Vật chất và ý thức là hai hiện tượng đối lập về bản chất, nhưng về nhận thức
luận có ý nghĩa tuyệt đối trong phạm vi hạn chế, thừa nhận cái gì có trước có
sau....Tính tương đối của sự đối lập giữa vật chất và ý thức thể hiện giữa thực thể
vật chất đặc biệt – bộ óc con người và thuộc tính của chính nó
1.3.2. Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất thể hiện:
Nhưng sau khi ra đời, ý thức không tồn tại thụ động mà có tính độc lập tương
đối tác động trở lại đối với thế giới vật chất, thông qua hoạt động thực tiễn của con
người, chỉ đạo hoạt động cải tạo thế giới trong hiện thực theo nhu cầu của con
người. Theo chỉ dẫn của C.Mác: "Tư tưởng căn bản khơng thực hiện được gì hết,
muốn thực hiện được tư tưởng, thì cần có những con người sử dụng lực lượng thực
tiễn". Vai trò của ý thức cải tạo thế giới sẽ rất khác nhau, tuỳ thuộc vào chất lượng
phản ánh hiện thực khách quan là đúng đắn hoặc sai lầm. Ý thức phản ánh đúng
đắn hiện thực khách quan, có tác dụng thúc đẩy hoạt động thực tiễn của con người.
Ý thức phản ánh không đúng hiện thực khách quan, ở mức độ nhất định, có thể
kìm hãm hoạt động thực tiễn của con người trong cải tạo hiện thực khách quan.
Sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động của con
người. Con người dựa trên những tri thức về thế giới khách quan, hiểu biết những
quy luật khách quan, từ đó đề ra mục tiêu, phương hướng, biện pháp và ý chí quyết
tâm cao để thực hiện thắng lợi mục tiêu đã xác định. Tính năng động, sáng tạo của
ý thức mặc dù rất to lớn, nhưng nó khơng thể vượt quá tính quy định của những
tiền đề vật chất đã xác định, phải dựa vào các điều kiện khách quan và năng lực
chủ quan của các chủ thể hoạt động. Nếu quên điều đó chúng ta sẽ lại rơi vào vũng
bùn của chủ nghĩa chủ quan, duy tâm, duy ý chí, phiêu lưu và tất nhiên khơng tránh
khỏi thất bại trong hoạt động thực tiễn.

Nghiên cứu nắm vững nguồn gốc, bản chất về ý thức, mối quan hệ vật chất và ý
thức là cơ sở lý luận khoa học để khẳng định thế giới quan duy vật biện chứng,


chống chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật siêu hình trong giải quyết vấn đề cơ
bản của triết học. Trong hoạt động thực tiễn, con người biết vận dụng sáng tạo lý
luận khoa học đó vào giải quyết đúng đắn mối quan hệ khách quan và chủ quan
đem lại hiệu quả trong cơng việc.
Khẳng định tính độc lập và vai trò to lớn của ý thức, tinh thần, về thực chất là
để khẳng định vai trò to lớn của con người - chủ thể có ý thức đó. Thế giới không
thoả mãn con người, và con người quyết định biến đổi thế giới bằng hành động của
mình.

Do đó, về thực chất, sự tồn tại của đời sống xã hội là có tính chất thực

tiễn. Con người tích cực hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới, khi đó ý thức trở
thành tiền đề cơ bản hình thành mặt chủ quan của hoạt động với tính cách là mặt
đối lập với khách quan. Biện chứng khách quan - chủ quan là vấn đề mấu chốt của
mối quan hệ giữa hiện thực đang được nhận thức và cải tạo theo nhu cầu của con
người với bản thân con người - chủ thể của hoạt động đó. Con người lao động sáng
tạo để duy trì sự sống với chất lượng ngày càng cao của mình. Qua đó, dần dần ý
thức đầy đủ về những cái tồn tại đối diện, quy định hoạt động của mình và giới hạn
sức mạnh của bản thân mình.
Khi nhận thức và hành động phải xuất phát từ bản thân sự vật, hiện tượng của
thực tế khách quan, không được xuất phát từ ý muốn chủ quan, khơng lấy ý muốn
chủ quan của mình làm cơ sở định ra chính sách, khơng lấy ý chí áp đặt cho thực
tếThứ nhất. Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất vào đầu óc con người do vật
chất sinh ra. Nhưng khi đã ra đời thì ý thức có đời sống riêng có quy luật vận động
phát triển riêng khơng lệ thuộc máy móc vào vật chấtÝ thức có tính độc lập tương
đối và tác động trở lạ. Ý thức có thể thay đổi nhanh chậm đi song hành so với hiện

thực nhưng chậm so với sự biến đổi của vật chất


Thứ hai. Sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực
tiễn của con người nhờ hoạt động thực tiễn ý thức có thể biến đổi những điều kiện
hoàn cảnh vật chất ...Bản thân ý thức không biến đổi hiện thực. Con người dựa trên
những hiểu biết về thế giới khách quy luật khách quan. Từ đó, đề ra mục tiêu
phương hướng, biện pháp và ý chí quyết tâm thực hiện mục tiêu. Đặc biêt, ý thức
tiến bộ khi thâm nhập vào quần chúng nhân dân có vai trị to lớn .
Thứ ba, vai trò của ý thức chỉ đạo hoạt động hành động của con người, có thể
đúng hay sai, thành cơng hay thất bại. Khi phản ánh đúng hiện thực ý thức có thể
dự báo chính xác cho hiện thực. Hình thành định hướng, lý luận đúng đắn. Lý luận
được vào quần chúng sẽ động viên khai thác tiềm nawmg sáng tạo từ đó vật chất
được nâng lên. Ngược lại ý thức có thể tác động tiêu cưc khi nó phản ánh sai lệch
hiện thưc
Thứ tư, xã hội phát triển vai trò của ý thức ngày càng to lớn. Thời đại thông tin
kinh tế tri thức, cách mạng khoa học công nghệ hiện đại. Khi tri thức khoa học trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp vai trò tri thức khoa học ,tư tưởng chính trị nhân
văn rất quan trọng. Tính năng động sáng tạo của ý thức nhưng không vượt quá tính
quy định của tiền đề vật chất. Phải dựa vào điều kiện khách quan và năng lự chủ
quan của các chủ thể hoạt động.
Mối quan hệ vật chất và ý thức là vấn đề cơ bản của mọi triết học. Tuỳ theo lập
trường thế giới quan khác nhau khi giải quyết vấn đề này mà hình thành hai đường
lối cơ bản trong triết học là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm [1]. V.I.Lênin
đã viết: “Triết học hiện đại cũng có tính đảng như triết học hai nghìn năm về trước.
Những đảng phái đang đấu tranh với nhau, về thực chất, - mặc dù thực chất đó bị
che giấu bằng những nhãn hiệu mới của thủ đoạn lang băm hoặc tính phi đảng ngu
xuẩn - là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm”.



Phần thực tiễn - việc quan điểm của Chủ nghĩa duy vật biện chứng về
“Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức’’ xây dựng lối sống tích cực
của sinh viên là vô cùng quan trọng. Liên hệ với sinh viên Lớp/Khoa và bản
thân.
2.1. Việc vận dụng quan điểm của Chủ nghĩa duy vật biện chứng về “Mối
quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức’’ xây dựng lối sống tích cực của
sinh viên là vơ cùng quan trọng bởi:
2.1.1. Hiểu rõ vật chất quyết định ý thức giúp sinh viên có thế giới quan
khoa học và tạo động lực phấn đấu trong cuộc sống. Từ đó xây dựng lối sống
tích cực và mục tiêu rõ ràng của sinh viên.
Vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức giúp sinh viên có thế giới quan
II.

đúng đắn về thế giới. Vật chất “sinh”ra ý thức do đó muốn hạnh phúc mỗi quốc gia
mỗi con người cần nỗ lực xây dựng kinh tế . Vật chất là tính thứ nhất cịn ý thức là
tính thứ hai.Vật chất tồn tại khách quan độc lập với ý thức là nguồn gốc sinh ra ý
thức.Do đó kinh tế hay đời sống tinh thần của con người đều rất quan trọng với
mỗi cá nhân.
Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức giúp sinh viên hiểu được tầm
quan trọng của vật chất đối với việc xây dựng ý thức nếu cố gắng xây dựng gia
đình và đất nước phát triển về kinh tế thì ý thức cá nhân sẽ phát triển theo đặc
trưng kinh tế đó. Từ đó sinh viên có mục tiêu rõ ràng có động lực hơn trong cuộc
sống để vươn tới hạnh phúc.
Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức. Phản ánh và sáng tạo là hai
thuộc tính khơng tách rời trong bản chất của ý thức. Do đó sinh viên sẽ hiểu rõ về
vai trò của lịch sử của truyền thống đấu tranh hiểu rõ bản chất giai cấp được hình
thành trong tư duy, kế thừa trong tư duy. Và hiểu rõ bản chất nền kinh tế thị trường
định hướng CNXH tự hào về bản chất nhà nước bản chất nền kinh tế hướng tới
mục tiêu nhà nước của dân do dân vì dân. Từ đó tự hào tiếp bước cha anh và xây
dựng thế giới quan trên quan điểm chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí

Minh.


Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động phát triển của ý thức mọi sự tồn tại phát
triển của ý thức đều gắn liền với quá trình biến đổi của vật chất. Cũng giống như
quá trình phát triển kinh tế sẽ có những thay đổi gắn với bối cảnh như xu thế tồn
cầu hóa, buộc mỗi cá nhân phải vận động học tập và rèn luyện để phù hợp với yêu
cầu thời đại. Từ hiểu rõ sự vận động đó giúp sinh viên tự tin hơn rõ ràng hơn trong
mục tiêu phấn đấu.
2.1.2. Hiểu rõ ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất
từ đó xây dựng lối sống tích cực của sinh viên là vô cùng quan trọng. Giúp
sinh viên phát huy tính năng động quan trọng của ý thức.
Thứ nhất. Bởi y thức là sự phản ánh thế giới vật chất vào đầu óc con người do
vật chất sinh ra. Khơng lệ thuộc máy móc vào vật chất y thức có tính độc lập tương
đối và tác động trở lại. Do đó sinh viên hiểu rằng ý thức có sự linh hoạt để phù hợp
với các bối cảnh cụ thể. Nếu tích cực trong suy nghĩ lối sống sẽ nhanh chóng đạt
được quả ngọt trong cuộc sống.
Thứ hai, xây dựng lối sống tích cực của sinh viên là vơ cùng quan trọng vì nhờ
sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực tiễn của con
người nhờ hoạt động thực tiễn ý thức có thể biến đổi những điều kiện hoàn cảnh
vật chất. Giúp bản thân sinh viên cải thiện khả năng học tập rèn luyện và sống
hạnh phúc hơn...Sinh viên dựa trên những hiểu biết về thế giới khách quy luật
khách quan. Từ đó, đề ra mục tiêu phương hướng, biện pháp và ý chí quyết tâm
thực hiện mục tiêu trong học tập và cuộc sống.
Thứ ba, chúng ta hãy ln sống tích cực vì hoạt động hành động của con
người, có thể đúng hay sai, thành công hay thất bại. Nhưng khi không ngại khó
khăn tìm ra hướng đi phản ánh đúng hiện thực ý thức có thể dự báo chính xác cho
hiện thực thành công trong tương lai của chúng ta. Nếu chúng ta không hiểu rõ bản
thân và xã hội sống thiểu tích cực thì ý thức bị lệch lạc sẽ dẫn đến những sai lầm
đáng tiếc.



Thứ tư, sinh viên sống tích cực thực sự quan trọng bởi xã hội phát triển vai trò
của ý thức ngày càng to lớn. Thời đại thông tin kinh tế tri thức, cách mạng khoa
học công nghệ hiện đại. Khi tri thức khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp vai trị tri thức khoa học ,tư tưởng chính trị nhân văn rất quan trọng. Tính năng
động sáng tạo của ý thức nhưng khơng vượt q tính quy định của tiền đề vật chất.
Phải dựa vào điều kiện khách quan và năng lự chủ quan của các chủ thể hoạt động.

2.2. Liên hệ với sinh viên khoa thương mại điện tử và bản thân
2.2.1. Phát huy tính năng động của ý thức trong việc thích nghi với
hồn cảnh mới.
Do bối cảnh mới với sự bùng nổ của dịch Covid khiến cả xã hội nói chung
và sinh viên nói riêng sẽ hình thành những ý thức mới: như mức độ nguy hiểm của
đại dịch, phòng và chống bệnh như thế nào?Học tập làm việc thế nào cho hiệu
quả? Dịch bệnh tác động rất lớn lên hoạt động của mỗi con người nhưng khơng vì
những khó khăn trước mắt như phải dãn cách xã hội, thực hiện khẩu hiệu 5k hay
phải học online mà ý thức học tập của chúng ta sao nhãng hay ốm theo dịch bệnh.
Sinh viên khoa thương mại điện tử và bản thân tôi nuôi dưỡng ý thức quyết
tâm thích nghi và chiến thắng dịch bệnh, dù sự thay đổi ý thức của con người chậm
hơn hiện thực lây lan của dịch bệnh. Thích nghi với hồn cảnh nhận ra điểm tích
cực trong hồn cảnh khó khăn. Nhân cơ hội dãn cách đặt ra mục tiêu học tập, nâng
cao khả năng sử dụng cong nghệ trong học tập, có thời gian u thương gia đình và
mọi người nhiều hơn...


2.2.2. Sinh viên khoa thương mại điện tử và bản thân tôi nâng cao ý thức
học tập và nghiên cứu khoa học bằng những hoạt động thực tế, ngược lại
hoạt động thực tế rèn luyện ý thức học tập.
Thứ nhất, cần chấp hành nghiêm việc học online ở nhà, không học đối phó và

tìm cách tương tác với thầy cơ bạn bè để chiếm lĩnh tri thức, nâng cao khả năng tự
học và sử dụng công nghệ...
Thứ hai, nhờ những hoạt động thực tế thiết thực thông minh và trách nhiệm sẽ
rèn luyện ý chí bản lĩnh trước mọi sự thay đổi bất thường của cuộc sống. Qua đó
làm giàu thêm kiến thức tô đẹp thêm cho tâm hồn và tôi luyện cho ý thức tự giác..
Thứ ba, ý thức có thể biến đổi những điều kiện hồn cảnh vật chất có nghĩa ý
thức tự giác nghiêm túc, cố gắng sẽ đẩy lùi dịch bệnh và nâng cao kiến thức bản
lĩnh ứng phó cho bản thân
Thứ tư, nếu chỉ suy nghĩ mà không hành động chúng ta sẽ không thể đẩy lùi
dịch bệnh và có thêm kiến thức..
Thứ năm, tuyên truyền ý thức cộng đồng khẩu hiệu 5k để phòng chống covid,
đây là tư tưởng tiến bộ phù hợp nên chắc chắn mọi người sẽ chấp hành ở các mức
độ khác nhau. Tạo nên sức mạnh lớn lao để chiến thắng đại dịch
2.3. Không ngừng học hỏi và cố gắng học tập trong bối cảnh mới
chúng tôi sẽ trở thành người có bản lĩnh và thành cơng hơn trong hiện tại và
tương lai
Khi chúng ta tích cực học hỏi và thích nghi trong bất cứ bối cảnh nào chúng
ta sẽ thành công. Nếu chúng ta nghiêm túc học tập chúng ta sẽ chiếm lĩnh được tri
thức và trở thành người có ích cho xã hội. Nếu chúng ta cơ hội lười biếng, thì dù
bạn có đối phó được hiện tại nhưng tương lai nhất định sẽ trả giá cho sự lười biếng
ấy. Ý thức về các hành động đúng đắn chúng ta sẽ có hướng đi phù hợp. Chúng ta
cần lan truyền sự tích cực ấy đối với mọi người. Để sau này khi vượt qua đại dịch
chúng ta sẽ là những con người Việt Nam bản lĩnh tài giỏi và trắc ẩn hơn. Nếu


chúng ta lười biếng thì sau đại dịch sẽ khơng thể theo kịp chương trình học tập và ý
thức sẽ đi xuống khiến chúng ta dễ thất bại hơn.
2.4. Xã hội ngày càng phát triển đòi hỏi chúng ta phải nâng cao ý thức
học tập nghiên cứu khoa học và rèn luyện bản thân
Sinh viên khoa thương mại điện tử nói chung và bản thân tơi nói riêng . Đang

sống trong thời đại thông tin kinh tế tri thức, cách mạng khoa học công nghệ hiện
đại. Khi tri thức khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp nên vai trị tri thức
khoa học ,tư tưởng chính trị nhân văn rất quan trọng. Nếu chúng ta không năng
động linh hoạt chớp mọi cơ hội để phát triển, khơng nhìn thấy thời cơ trong thách
thức thì chúng ta sẽ rơi xuống đáy xã hội. Bởi lẽ xã hội cần những người trẻ năng
động có tri thức khoa học chứ khơng cần những người trẻ thiếu ý thức và sống bừa
bãi bê tha. Do đó nếu muốn bản thân phát triển hợp thời đại cần nỗ lực mỗi ngày
để nắm bắt cơ hội và linh hoạt trong suy nghĩ hành động. Sự phát triển không
ngừng về mọi mặt tạo tiền đề vật chất như công nghệ, tri thức số...sẽ giúp chúng ta
có cơ sở để sử dụng và hồn thiện bản thân khơng ngừng
Như vậy, việc trình bày mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức theo
quan điểm của Chủ nghĩa duy vật biện chứng tôi đã rút ra giải pháp để phát huy
tính năng động của ý thức đối với việc học tập trong bối cảnh dịch bệnh Covid 19
hiện nay. Chắc chắn điều này sẽ giúp đỡ tôi rất lớn trong công việc học tập sắp tới
dù ở bất cứ hoàn cảnh nào.
III. KẾT LUẬN

Như vậy, việc nghiên cứu phân tích vận dụng quan điểm của Chủ nghĩa duy
vật biện chứng về “Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức’’ để làm rõ:
việc xây dựng lối sống tích cực của sinh viên là vô cùng quan trọng đúng đắn,
khách quan, khoa học và sáng tạo. Khẳng định tính độc lập và vai trị to lớn của ý
thức, tinh thần, về thực chất là để khẳng định vai trò to lớn của con người - chủ


thể có ý thức đó. Thế giới khơng thoả mãn con người, và con người quyết định
biến đổi thế giới bằng hành động của mình. Do đó, về thực chất, sự tồn tại của đời
sống xã hội là có tính chất thực tiễn. Con người nói chung và sinh viên nói riêng
tích cực hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới, khi đó ý thức trở thành tiền đề cơ
bản (đức, 2019)


hình thành mặt chủ quan của hoạt động với tính cách là mặt đối

lập với khách quan. Sinh viên lao động sáng tạo để duy trì sự sống quá trình học
tập với chất lượng yêu cầu ngày càng cao của xã hội . Qua đó, dần dần ý thức đầy
đủ về những cái tồn tại đối diện, quy định hoạt động của mình và giới hạn sức
mạnh của bản thân mình.
Khi nhận thức và hành động chúng phải xuất phát từ bản thân sự vật, hiện
tượng của thực tế khách quan, không được xuất phát từ ý muốn chủ quan, khơng
lấy ý muốn chủ quan của mình làm cơ sở định ra chính sách, khơng lấy ý chí áp đặt
cho thực tế. Như vậy chắc chắn chúng ta sẽ cải tạo thực tiễn tốt hơn tránh những
sai lầm khơng đáng có trong cuộc sống và xây dựng tổ quốc.
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình Triết học Mác – Lênin.(GS.TS Phạm Văn Đức chủ biên.
Hà Nội,2019)



×