Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

mở rộng cho vay tiêu dùng tại ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (888.28 KB, 76 trang )

Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng – Tài Chính
LỜI MỞ ĐẦU
Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã đánh dấu một bước ngoặt quan
trọng trong quá trình phát triển nền kinh tế nước ta. Đến nay, sau 20 năm đổi
mới Việt Nam đã gặt hái được những thành quả quan trọng trên nhiều lĩnh vực
kinh tế, văn hóa, xã hội…Bước vào trế kỷ 21, mục tiêu hội nhập kinh tế quốc tế,
gia nhập các tổ chức kinh tế toàn cầu và khu vực như WTO, AFTA , thích nghi
với xu thế cạnh tranh và hợp tác đã đặt ra cho chúng ta những thời cơ mới,
thách thức mới và nhiệm vụ mới. Ngành ngân hàng, với vai trò cực kỳ quan
trọng nền kinh tế cũng không nằm ngoài xu thế đó. Hơn nữa, các ngân hàng
thương mại còn phải tìm cho mình một hướng đi đúng đắn để có thể giữ vững vị
thế của mình, chiến thắng trong cuộc cạnh tranh đồng thời thúc đẩy nền kinh tế
phát triển.
Một hướng đi mà các ngân hàng thương mại Việt Nam đang nỗ lực theo
đuổi và bước đầu đạt được những kết quả đáng khích lệ là thực hiện hoạt động
cho vay tiêu dùng. Đó là một hướng đi đúng đắn và đang trở thành xu thế ngày
càng phổ biến của các ngân hàng thương mại hiện đại, bởi thị trường cho vay
tiêu dùng ở Việt Nam là hiện hữu và đem lại mức lợi nhuận hấp dẫn cho các
ngân hàng. Hoạt động cho vay tiêu dùng một mặt giúp các ngân hàng thương
mại hoạt động kinh doanh hiệu quả hơn và bớt rủi ro hơn, mặt khác nó còn
khuyến khích sản xuất và tiêu dùng, từ đó kích thích tăng trưởng kinh tế.
Ngân hàng Thương mại cổ phần Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Việt Nam bắt đầu triển khai nghiệp vụ này từ năm 2001. Đến nay, sau 5 năm
hoạt động cho vay tiêu dùng đã trở thành hoạt động kinh doanh chủ yếu và
mang lại không nhỏ cho ngân hàng.Tuy vậy, để thực hiện thành công loại hình
kinh doanh này đòi hỏi ngân hàng phải có sự đầu tư thích đáng về vốn, công
nghệ, nguồn nhân lực…kết hợp với môi trường kinh doanh thuận lợi.
Nhận thức được hướng kinh doanh đó của các ngân hàng thương mại nói
chung và Ngân hàng Thương mại cổ phần Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Việt Nam nói riêng, được sự hướng dẫn của thầy giáo – TS Hoàng Xuân Quế,
cùng với những kiến thức thực tiễn thu được trong quá trình thực tập tại Ngân


hàng Ngoài quốc doanh Việt Nam, em đã quyết định chọn đề tài: “Mở rộng cho
vay tiêu dùng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh Việt Nam”.
Trần Thị Minh Trang 1 Ngân Hàng 44A
Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng – Tài Chính
Kết cấu của chuyên đề, ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu
tham khảo gồm 3 phần:
Chương I: Một số vấn đề cơ bản về hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân
hàng thương mại.
Chương II: Thực trạng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Thương
mại cổ phần Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam
Chương III: Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng
Thương mại cổ phần Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt
Nam.
Do thời gian nghiên cứu không nhiều, những hạn chế nhất định về hiểu
biết, chuyên đề của em không tránh kkhỏi những thiếu xót, em rất mong được sự
quan tâm đóng góp của các thầy cô.
Em xin chân thành cảm ơn!
Trần Thị Minh Trang 2 Ngân Hàng 44A
Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng – Tài Chính
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU
DÙNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 . HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.1.1. Khái niệm cho vay.
Theo quyết định 1627/2001/QĐ – NHNN ngày 31/12/2001 của Thống
đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về việc ban hành quy chế cho vay của tổ
chức tín dụng đối với khách hàng thì hoạt động cho vay được hiểu như sau:
“Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao
cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian

nhất định theo thỏa thuận, với nguyên tắc có hoàn trả gốc và lãi.”
Cho vay được xem là hoạt động đặc trưng của ngân hàng, là hình thức
kinh doanh chủ yếu và đem lại nguồn thu lớn nhất cho ngân hàng. Chỉ có nguồn
thu từ hoạt động cho vay mới có thể bù đắp được các chi phí như: chi phí huy
động vốn, chi phí quản lý cũng như các chi phí khác và tạo ra lợi nhuận cho
ngân hàng.
1.1.2. Các hình thức cho vay của ngân hàng thương mại.
Tùy thuộc vào các tiêu thức khác nhau để phân chia các khoản cho vay
theo từng nhóm khác nhau, cụ thể:
• Theo mục đích sử dụng tiền vay:
 Cho vay thương mại: đây là hình thức cho vay của NHTM cho các
đối tượng chủ yếu là các doanh nghiệp, nhằm mục đích tài trợ cho
các dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh. Nó bao gồm các
hoạt động như cho vay công nghiệp, cho vay nông nghiệp
 Cho vay tiêu dùng: là các khoản cho vay nhằm phục vụ đời sống,
nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm hàng hóa dịch vụ của các cá nhân,
tổ chức.
• Theo khách hàng vay:
 Cho vay đối với các định chế tài chính như các ngân hàng, công ty
tài chính, công ty bảo hiểm, quỹ tín dụng và các định chế tài chính
khác.
 Cho vay đối với các tổ chức, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh.
 Cho vay các cá nhân, hộ gia đình.
Trần Thị Minh Trang 3 Ngân Hàng 44A
Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng – Tài Chính
• Theo thời hạn cho vay:
 Cho vay ngắn hạn: thời hạn từ 12 tháng trở xuống, chủ yếu để bù
đắp thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp hoặc cá nhu cầu
chi tiêu ngắn hạn của dân cư.
 Cho vay trung hạn: thời hạn từ trên 1 năm đến 5 năm, chủ yếu tài

trợ cho tài sản cố định hoặc xây dựng các dự án có quy mô nhỏ,
thời gian thu hồi vồn nhanh.
 Cho vay dài hạn: thời hạn trên 5 năm, chủ yếu tài trợ cho các công
trình xây dựng như nhà, sân bay, cầu đường, hoặc các máy móc có
giá trị lớn và thời gian sử dụng lâu dài.
• Theo hình thức đảm bảo:
 Đảm bảo đối vật: cho vay cầm cố, thế chấp, hoặc đảm bảo bằng tài
sản hình thành từ vốn vay.
 Đảm bảo đối nhân: tín chấp, bảo lãnh.
• Theo phương thức cho vay:
 Cho vay từng lần.
 Cho vay theo hạn mức.
 Cho vay thấu chi.
 Cho vay luân chuyển.
 Cho vay hợp vốn.
• Theo phương pháp hoàn trả:
 Cho vay có thời hạn: là hình thức cho vay mà trong hợp đồng tín
dụng đã thỏa thuận thời hạn trả nợ cụ thể. Các khoản cho vay có thể
chỉ có một kỳ hạn trả nợ, nhiều kỳ hạn trả nợ cụ thể hoặc trả nợ làm
nhiều lần nhưng không có kỳ hạn cụ thể mà việc trả nợ phụ thuộc
vào khả năng tài chính của người vay.
 Cho vay không có thời hạn cụ thể: ngân hàng có thể yêu cầu người
đi vay trả nợ vay bất cứ lúc nào nhưng phải báo trước cho họ trong
một khoảng thời gian hợp lý, thời gian này có thể được thỏa thuận
trong hợp đồng.
• Theo lãi suất cho vay:
 Cho vay theo lãi suất cố định: Lãi suất cho vay được cố định trong
suốt thời gian vay.
 Cho vay theo lãi suất thả nổi: lãi suất cho vay là lãi suất thị trường.
Trần Thị Minh Trang 4 Ngân Hàng 44A

Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng – Tài Chính
 Cho vay theo lãi suất cố định có điều chỉnh: chỉ áp dụng đối với
các khoản vay trung – dài hạn. Lãi suất được điều chỉnh định kỳ và
theo một biên độ nhất định để phù hợp với sự biến động lãi suất của
thị trường.
• Theo xuất xứ tín dụng:
 Cho vay trực tiếp: ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho khách hàng vay
vốn, khách hàng vay trực tiếp trả nợ cho ngân hàng.
 Cho vay gián tiếp: là khoản vay được thực hiện thông qua việc mua
lại các khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh nhưng vẫn trong thời
hạn thanh toán. Các ngân hàng thực hiện dưới hình thức chủ yếu là
chiết khấu thương phiếu, mua lại các phiếu bán hàng của các đại

1.2. HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI.
1.2.1. Khái niệm cho vay tiêu dùng.
Trong lịch sử, hầu hết các ngân hàng không tích cực cho vay đối với cá
nhân, hộ gia đình vì họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng nói chung có quy
mô rất nhỏ với rủi ro vỡ nợ tương đối cao và do đó làm cho chúng trở nên có
mức sinh lời thấp. Từ sau chiến tranh thế giới lần thứ 2 quan niệm này đã thay
đổi, các ngân hàng đã hướng tới người tiêu dùng như là một khách hàng trung
thành đầy tiềm năng. Cho vay tiêu dùng đã trở thành một trong những loại hình
tín dụng có mức tăng trưởng nhanh nhất và dần đóng vai trò chủ đạo trong lĩnh
vực kinh doanh ngân hàng.
Cho vay tiêu dùng ra đời thực chất nhằm giải quyết mâu thuẫn cơ bản đó
là nhu cầu và khả năng thanh toán của cá nhân người tiêu Hiện nay, có nhiều
ngân hàng thành công trên lĩnh vực cho vay tiêu dùng mà một trong những
nguyên nhân là họ đã tích cực khai thác nguồn tiền gửi trong dân cư và coi đó là
nguồn vốn hoạt động quan trọng nhất. Rất nhiều người dân gửi tiền vào ngân
hàng vì họ thấy rằng họ vừa có được một khoản thu nhập từ lãi của khoản tiền

gửi này, vừa có thể vay tiền lại từ ngân hàng khi cần thiết. Bên cạnh đó, chất
lượng cuộc sống của người dân ngày càng được cải thiện, các nhu cầu chi tiêu
của họ cũng phong phú và đa dạng hơn. Nhưng thực tế, nhu cầu và thu nhập của
họ không đến cùng một lúc nên không phải lúc nào họ cũng có thể thoả mãn
được những nhu cầu tiêu dùng này. dùng. Ngân hàng đã bù đắp những khoản
Trần Thị Minh Trang 5 Ngân Hàng 44A
Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng – Tài Chính
thiếu hụt đó rất nhanh chóng và kịp thời, tất nhiên với sự cam đoan hoàn trả
đúng hạn và đầy đủ của cá nhân người tiêu dùng. Hoạt động cho vay tiêu dùng
mở ra không những giải quyết được mâu thuẫn cơ bản truyền thống nêu trên mà
còn mang lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng.
Cho vay tiêu dùng giữ một vị trí quan trọng và ngày càng tỏ ra hữu ích
trong ngành ngân hàng nói riêng và trong nền kinh tế nói chung. Có nhiều cách
hiểu về cho vay tiêu dùng, nhưng xét về cơ bản nó là hoạt động tín dụng phục vụ
mục đích tiêu dùng mà đối tượng chủ yếu là các cá nhân và hộ gia đình. Có thể
định nghĩa:
“ Cho vay tiêu dùng là hình thức cấp tín dụng, trong đó ngân hàng thoả
thuận để khách hàng là cá nhân hay hộ gia đình sử dụng một khoản tiền với
mục đích tiêu dùng, với nguyên tắc hoàn trả gốc và lãi sau một thời gian nhất
định”.
Những khoản tiền vay này là nguồn tài chính quan trọng giúp người vay
trang trải nhu cầu về nhà ở, mua ô tô, hỗ trợ tài chính… và các nhu cầu khác.
Cùng với sự phát triển của thị trường, cho vay tiêu dùng đã trở thành hoạt động
kinh doanh chủ đạo và chiếm thị phần lớn trong hoạt động tín dụng của nhiều
ngân hàng trên thế giới.
Trong những năm tới đây, cho vay tiêu dùng sẽ tiếp tục đóng vai trò chủ
đạo trong dịch vụ ngân hàng, cũng như trong quản lý ngân hàng. Cho vay tiêu
dùng trong tương lai sẽ theo mục tiêu hướng vào sự thuận tiện, ngân hàng sẽ tạo
điều kiện cho khách hàng nhận được khoản vay sớm hơn trong khi vẫn duy trì
được sự kiểm soát đối với món vay tiêu dùng để tránh được những giảm sút

đáng kể về chất lượng tín dụng.
1.2.2. Đặc điểm của các khoản cho vay tiêu dùng.
1.2.2.1. Quy mô mỗi món vay nhỏ nhưng số lượng các món vay rất lớn.
Khi các khách hàng tìm đến ngân hàng nhằm thoả mãn nhu cầu vay tiêu
dùng của mình, thông thường nhu cầu vay vốn của họ không lớn, thậm chí khá
nhỏ. Điều này một phần do giá trị của hàng hoá, dịch vụ tiêu dùng không quá
đắt đỏ. Mặt khác đa số khách hàng vay vốn đã có được sự tích luỹ trước đối với
các tài sản có giá trị lớn, ngân hàng chỉ là người có tác động hỗ trợ cho hoạt
động tiêu dùng của họ. So với cho vay kinh doanh, giá trị của các món vay tiêu
dùng không lớn, nhưng trên thực tế tổng quy mô cho vay tiêu dùng của ngân
hàng lại rất lớn. Đó là vì tuy quy mô mỗi món vay tiêu dùng là nhỏ nhưng đây là
Trần Thị Minh Trang 6 Ngân Hàng 44A
Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng – Tài Chính
nhu cầu vay vốn phổ biến, đa dạng và thường xuyên đối với mọi tầng lớp dân
cư, số lượng khách hàng tìm đến ngân hàng vay vốn là rất lớn, khiến cho tổng
quy mô của cho vay tiêu dùng là rất lớn.
1.2.2.2. Các khoản cho vay tiêu dùng có lãi suất cứng nhắc.
Đối với các khoản cho vay tiêu dùng, thông thường người đi vay quan
tâm đến số tiền phải thanh toán hơn là lãi suất mà họ phải trả. Do đó, khác với
hầu hết các khoản cho vay kinh doanh hiện nay có lãi suất cho vay được điều
chỉnh theo lãi suất thị trường, lãi suất cho vay tiêu dùng thường được ấn định tại
một mức nhất định, mà phổ biến nhất là trong cho vay tiêu dùng trả góp. Đối với
những khoản cho vay ngắn hạn, lãi suất được ấn định ngay từ đầu và không thay
đổi cho đến hết thời hạn vay. Đối với những khoản vay trung dài hạn, lãi suất
cho vay thường được điều chỉnh mỗi năm một lần dựa trên cơ sở lãi suất huy
động cộng với một biên độ nhất định tuỳ theo từng ngân hàng.
1.2.2.3. Các khoản cho vay tiêu dùng có độ rủi ro cao.
Trên thực tế, cho vay tiêu dùng luôn chứa đựng những nguy cơ rủi ro khá
cao. Rủi ro trong cho vay tiêu dùng cao hơn trong cho vay kinh doanh, dưới cả 2
góc độ:

• Các rủi ro khách quan như: suy thoái kinh tế, mất mùa, thất nghiệp, …
Cho vay tiêu dùng có tính nhạy cảm theo chu kỳ kinh tế. Trong thời kỳ
nền kinh tế mở rộng, khi mà mọi người dân thấy lạc quan và tin tưởng
vào tương lai, họ sẽ có xu hướng tiêu dùng, do đó mà cho vay tiêu
dùng được mở rộng. Ngược lại, trong thời kỳ nền kinh tế suy thoái,
nhất là khi tình trạng thất nghiệp tăng lên, rất nhiều cá nhân và hộ gia
đình cảm thấy không tin tưởng, và họ sẽ hạn chế việc vay mượn từ
ngân hàng.
• Bên cạnh đó, cho vay tiêu dùng còn chịu một số rủi ro chủ quan như:
Tình trạng sức khoẻ hay tình trạng công việc của khách hàng, từ đó
ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực tài chính tài chính và khả năng trả nợ
của khách hàng, hoặc có thể là do sự ảnh hưởng của các tổ chức trung
gian, đặc biệt là đối với các khoản cho vay tiêu dùng tín chấp, không
có tài sản đảm bảo cũng đem lại rủi ro không nhỏ cho loại hình cho
vay này.
Trong cho vay tiêu dùng, hoạt động quản lý sau cho vay đối với khách
hàng cũng gặp phải nhiều khó khăn. Chỉ cần cán bộ tín dụng lơ là không theo sát
Trần Thị Minh Trang 7 Ngân Hàng 44A
Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng – Tài Chính
một thời gian, khách hàng sẽ trì hoãn hay cố ý không trả lãi, gốc đến hạn dẫn
đến tỉ lệ nợ quá hạn của ngân hàng tăng lên.
1.2.2.4. Chi phí cho một khoản vay tiêu dùng là khá lớn.
Cho vay tiêu dùng là một trong những khoản mục chiếm tỷ trọng lớn và
có chi phí lớn nhất trong danh mục tín dụng của ngân hàng. Tuy quy mô mỗi
món vay tiêu dùng thường nhỏ thậm chí không đáng kể, thời gian vay thường
không kéo dài, song số lượng các món vay tiêu dùng lại rất lớn. Hơn thế nữa các
thông tin mà ngân hàng có được về các cá nhân thường không được cập nhật
đầy đủ và chính xác hoàn toàn. Chính điều này đã khiến cho các ngân hàng phải
thực hiện rất nhiều bước trong quá trình cho vay, từ lúc tiếp nhận hồ sơ, thẩm
định khách hàng, giải ngân đến khi thu nợ. Do vậy mà việc thực hiên một khoản

cho vay tiêu dùng của ngân hàng đối với khách hàng là rất tốn kém, mất nhiều
chi phí cho các khoản cho vay này.
1.2.2.5. Lợi nhuận thu được từ các khoản cho vay tiêu dùng là khá lớn.
Tương ứng với mức rủi ro khá cao như vậy, các khoản cho vay tiêu dùng
đã mang lại mức lợi nhuận rất lớn trong các nguồn thu của ngân hàng. Thông
thường các khoản vay tiêu dùng được định giá rất cao (có mức lãi suất cao) để
có thể chi trả được chi phí huy động và bù đắp rủi ro. Thậm chí cao đến mức mà
cả lãi suất vay vốn trên thị trường lẫn tỉ lệ tổn thất tín dụng phải tăng lên đáng kể
thì các khoản cho vay tiêu dùng mới không mang lại lợi nhuận. Hơn nữa, so với
các khoản cho vay kinh doanh số lượng các khoản cho vay tiêu dùng lớn hơn rất
nhiều khiến cho tổng quy mô của cho vay tiêu dùng là khá lớn, laị có mức lợi
nhuận trên mỗi khoản vay tiêu dùng cao như vậy khiến cho toàn bộ lợi nhuận
thu về từ hoạt động này là rất đáng kể trong tổng thu nhập của ngân hàng.
Chính vì triển vọng về lợi nhuận cũng như phạm vi đối tượng khách hàng
trong lĩnh vực này mà đối với hầu hết các nước phát triển hiện nay, cho vay tiêu
dùng đã trở thành một trong những nguồn thu chủ yếu của các NHTM, đóng vai
trò chủ đạo trong dịch vụ ngân hàng cũng như trong quản lý ngân hàng và vẫn
còn tiếp tục hứa hẹn về triển vọng phát triển của loại hình cho vay này trong
tương lai. Ở các nước đang phát triển, loại hình cho vay nay cũng đang dần
khẳng định được vai trò của mình, đem lại những khoản lợi nhuận không nhỏ
trong hoạt động của ngân hàng.
Trần Thị Minh Trang 8 Ngân Hàng 44A
Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng – Tài Chính
1.2.3. Các phương thức cho vay tiêu dùng.
1.2.3.1. Theo mục đích vay.
Căn cứ theo mục đích vay của khách hàng có thể chia hoạt động cho vay
tiêu dùng như sau:
• Cho vay tiêu dùng cư trú: Là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho
nhu cầu mua sắm, xây dựng hoặc và cải tạo nhà ở của khách hàng là cá
nhân hoặc hộ gia đình.

• Cho vay tiêu dùng phi cư trú: Là các khoản cho vay tài trợ cho việc
trang trải các chi phí mua sắm xe cộ, đồ dùng gia đình, chi phí học
hành, giải trí, du lịch…
1.2.3.2. Theo phương thức hoàn trả.
Căn cứ vào phương thức hoàn trả, cho vay tiêu dùng có thể chia thành 3
loại như sau:
• Cho vay trả góp.
Đây là hình thức cho vay tiêu dùng phổ biến hiện nay. Với phương thức
này, ngân hàng thoả thuận để cho khách hàng chi trả một khoản tiền nhất định
định kỳ hàng tháng sao cho phù hợp với khả năng thanh toán của khách hàng.
Có thể hiểu: “Cho vay tiêu dùng trả góp là hình thức cho vay tiêu dùng trong đó
người đi vay trả nợ (gồm số tiền gốc và lãi) cho ngân hàng nhiều lần theo những
kì hạn nhất định trong thời hạn cho vay”. Phương thức này thường được áp dụng
cho các khoản vay có giá trị lớn như cho vay mua nhà, mua ôtô…hoặc thu nhập
từng kỳ của người vay không đủ khả năng thanh toán một lần hết số nợ vay.
Đối với cho vay tiêu dùng trả góp, các NHTM thường chú ý đến một số
vấn đề cơ bản sau:
Loại tài sản được tài trợ: Nếu tài sản hình thành từ vốn vay đáp ứng và
thỏa mãn được những nhu cầu của người tiêu dùng về lâu dài, thiện chí trả nợ
của họ sẽ tốt hơn. Vì thế, các ngân hàng thường chỉ tài trợ cho nhu cầu mua sắm
những tài sản có giá trị lớn hay có thời gian sử dụng lâu dài.
Số tiền phải trả trước: ngân hàng yêu cầu người đi vay phải thanh toán
trước một phần giá trị tài sản mà họ có nhu cầu, phần còn lại ngân hàng sẽ cho
vay. Số tiền trả trước cần phải đủ lớn để làm cho người đi vay nghĩ rằng họ
chính là chủ sở hữu của tài sản, khi đó họ sẽ có ý thức về việc trả nợ ngân hàng.
Mặt khác, nó còn giúp ngân hàng hạn chế được những rủi ro tín dụng khi khách
hàng không trả được nợ. Số tiền trả trước là nhiều hay ít phụ thuộc vào các yếu
Trần Thị Minh Trang 9 Ngân Hàng 44A
Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng – Tài Chính
tố: loại tài sản, năng lực tài chính của người đi vay, thị trường tiêu thụ lọai tài

sản đó sau khi đã sử dụng
Chi phí của khoản vay: là chi phí mà người đi vay phải trả cho ngân hàng
để được sử dụng vốn, chủ yếu bao gồm lãi vay và các chi phí khác có liên quan.
Chi phí này phải trang trải được chi phí huy động vốn, chi phí hoạt động, bù đắp
rủi ro đồng thời mang lại một phần lợi nhuận thỏa đáng cho ngân hàng.
Điều khoản thanh toán: khi xác định các điều khoản liên quan đến việc
thanh toán nợ của khách hàng, ngân hàng phải chú ý tới các vấn đề như:
 Số tiền thanh toán mỗi kỳ phải phù hợp với khả năng về thu nhập và các
nhu cầu chi tiêu khác của khách hàng. Số tiền này có thể được xác định
theo các phương pháp sau:
Phương pháp gộp: đây là phương pháp tính dễ hiểu, và thường
được áp dụng trong cho vay tiêu dùng trả góp. Công thức tính:
n
LV
T
+
=
Với
L = V x r x n
T: Số tiền phải thanh toán cho ngân hàng mỗi kỳ.
L: Chi phí của khoản vay bao gồm lãi vay phải thanh toán và các
chi phí khác liên quan. Để đơn giản ta giả sử chi phí này chỉ gồm có lãi
vay.
V: Vốn gốc
n: Số kỳ hạn trả nợ
r: Lãi suất tính cho mỗi kỳ hạn
Theo cách tính này thì lãi suất tính cho khách hàng vay không phải
là lãi suất thực mỗi khi họ đến thanh toán nợ. Vì vậy, ngân hàng phải tính
toán kỹ để đưa ra mức lãi suất hợp lý, đảm bảo cho cả ngân hàng và
khách hàng đều có lợi.

Phương pháp lãi đơn: theo phương pháp này người đi vay trả vốn
gốc từng kỳ đều nhau, lãi mỗi kỳ được tính theo dư nợ cho vay giảm dần.
Số tiền trả mỗi kỳ được tính như sau:
T
n
= (T – T
n-1
) x r
T
n
: Số tiền khách hàng phải trả trong kỳ thứ n
T
n-1
: Số tiền khách hàng đã trả trong kỳ thứ (n-1)
r: lãi suất khách hàng phải trả.
Trần Thị Minh Trang 10 Ngân Hàng 44A
Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng – Tài Chính
Với cách tính này, lãi suất được tính trên cơ sở lãi suất thực tế của
mỗi chu kỳ tính lãi, do vậy có lợi hơn cho khách hàng. Thường thì lãi suất
của ngân hàng được điều chỉnh theo lãi suất thị trường nên phương pháp
này phản ánh chính xác giá cả các món vay của khách hàng.
 Giá trị của tài sản tài trợ không được thấp hơn số tiền cho vay chưa được
thu hồi.
 Kỳ hạn trả nợ phải thuận lợi cho việc trả nợ của khách hàng. Kỳ hạn trả
nợ theo tháng bởi vì thông thường nguồn trả nợ chính của người vay tiêu
dùng là thu nhập nhận được hàng tháng.
 Thời hạn cho vay không nên quá dài. Do thời hạn cho vay bị giới hạn bởi
thời hạn hoạt động của tài sản tài trợ, nếu thời hạn này quá dài dễ làm cho
giá trị tài sản tài trợ bị giảm mạnh, đồng thời thiện chí trả nợ của người
vay cũng như việc thu hồi nợ gặp nhiều rắc rối, do đó mà rủi ro tín dụng

cũng tăng lên.
• Cho vay tiêu dùng phi trả góp.
Là các khoản cho vay ngắn hạn của ngân hàng đối với cá nhân và hộ gia
đình nhằm đáp ứng nhu cầu tiền mặt tức thời. Theo phương thức cho vay này, số
tiền gốc khách hàng sẽ phải thanh toán cho ngân hàng một lần vào cuối kỳ, còn
tiền lãi khách hàng trả hàng tháng. Lãi suất áp dụng được cố định trong hợp
đồng tín dụng trong suất kỳ hạn vay. Phương thức cho vay này thường áp dụng
với các khoản vay nhỏ, thời hạn ngắn, đặc biệt là khách hàng có khả năng thanh
toán một lần đối với khoản vay.
• Cho vay tuần hoàn
Cho vay tiêu dùng tuần hoàn là khoản cho vay tiêu dùng trong đó ngân
hàng cho phép khách hàng sử dụng thẻ tín dụng hoặc phát hành loại séc được
phép thấu chi dựa trên tài khoản vãng lai. Theo phương thức này, ngân hàng sẽ
căn cứ vào thu nhập và khả năng trả nợ của khách hàng để cho vay với một hạn
mức tín dụng nhất định và trong một thời hạn đã thoả thuận trước. Nếu khách
hàng chi vượt quá hạn mức, ngân hàng sẽ ngừng cung cấp sản phẩm dịch vụ cho
họ nhưng với điều kiện ngân hàng phải thông báo trước cho khách hàng trong
một thời gian nhất định để tránh tình trạng hiểu nhầm. Ưu điểm của phương
thức này là khách hàng chỉ cần phải làm thủ tục vay một lần nhưng có thể vay
ngân hàng nhiều lần với số tiền vay khác nhau. Nhờ đó mà chi phí vay của
khách hàng được giảm đáng kể so với việc thực hiện nhiều khoản vay khác. Tuy
Trần Thị Minh Trang 11 Ngân Hàng 44A
Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng – Tài Chính
nhiên hạn chế của phương thức này là khách hàng không thể vay một số tiền lớn
với thời hạn lâu được.
1.2.3.3. Theo phương thức tài trợ.
Căn cứ theo phương thức tài trợ, cho vay tiêu dùng được chia làm 2 loại
như sau:
• Cho vay gián tiếp.
Theo một cách đơn giản có thể hiểu cho vay gián tiếp là hình thức tín

dụng mà ngân hàng không trực tiếp tiếp xúc, cấp vốn cho khách hàng và khách
hàng cũng không trực tiếp trả nợ cho ngân hàng. Ngân hàng thông qua việc mua
lại các khoản nợ phát sinh từ những công ty chuyên cung cấp những sản phẩm
hoặc dịch vụ để cho vay với người tiêu dùng. Cho vay tiêu dùng gián tiếp phát
triển cùng với sự ra đời các phương thức tiếp thị mới và cách thức mà người tiêu
dùng mua sắm các hàng hoá lâu bền đã khuyến khích hoạt động này phát triển.
Người tiêu dùng thường có xu hướng mua sắm hàng hoá trước rồi sau đó mới
dàn xếp nguồn tài trợ. Nắm bắt được nhu cầu đó, những công ty bán lẻ và các
đại lý đã chấp nhận bán chịu hàng hoá cho khách hàng với điều kiện khách hàng
cam kết sẽ hoàn trả trong một khoảng thời gian nhất định. Tuy nhiên không phải
đại lý bán hàng nào cũng có đủ năng lực tài chính để giữ tất cả các khoản nợ này
và họ buộc phải tìm đến các ngân hàng để tìm nguồn tài trợ.
Sự tài trợ này đem lại cơ hội cho ngân hàng để tăng doanh số cho vay mà
không có sự gia tăng đáng kể trong chi phí nghiệp vụ. Hơn thế nữa, cho vay gián
tiếp tỏ ra an toàn hơn cho hoạt động ngân hàng trong trường hợp ngân hàng có
mối quan hệ với các công ty bán lẻ. Mặt khác, trong cho vay gián tiếp các công
ty bán lẻ cũng chịu trách nhiệm giám sát khoản vay trong một thời gian nhất
định, theo dõi các tài khoản không trả đúng hạn, …Tất cả những việc này giúp
cho ngân hàng tiết kiệm được lượng thời gian và chi phí không nhỏ.
Tuy vậy, việc tài trợ gián tiếp của ngân hàng cũng có những hạn chế nhất
định. Hầu như, ngân hàng gần như chỉ biết được các thông tin về khách hàng
thông qua công ty bán lẻ, vì vậy mà không có cơ sở để đánh giá khách hàng của
mình. một cách chính xác. Ngân hàng luôn phải đối mặt với các cơ hội lừa đảo,
giả mạo có thể xảy ra gây những tổn thất không nhỏ cho ngân hàng. Mặt khác,
khách hàng thường có tâm lý bất hợp tác với ngân hàng khi họ biết mình phải
chịu một khoản vay của ngân hàng, do những người mua hàng trả góp thường có
Trần Thị Minh Trang 12 Ngân Hàng 44A
Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng – Tài Chính
cảm giác món nợ có thể được xoá bằng việc trả lại hàng nếu hàng hoá không
thoả mãn họ, hoặc họ không có khả năng chi trả. Chính vì vậy mà ngân hàng đã

gặp rất nhiều khó khăn trong việc thu hồi nợ. Đây cũng là lý do mà nhiều ngân
hàng không tham gia vào hình thức tài trợ này, hoặc có tham gia thì cũng rất hạn
chế và phải luôn kiểm tra, giám sát chặt chẽ đối với tất cả các khoản vay.
• Cho vay trực tiếp.
Cho vay tiêu dùng trực tiếp là các khoản cho vay tiêu dùng trong đó ngân
hàng trực tiếp tiếp xúc, cho khách hàng vay và trực tiếp thu hồi nợ từ khách
hàng. Khác với cho vay gián tiếp cho vay trực tiếp phức tạp hơn, nó đòi hỏi
ngân hàng tiến hành cẩn trọng kỹ lưỡng trước khi đưa ra quyết định. Kể cả hoạt
động giám sát sau cho vay cũng đòi hỏi ngân hàng tiến hành đầy đủ để hạn chế
thấp nhất mức rủi ro tín dụng có thể xảy ra.
So với cho vay gián tiếp, cho vay trực tiếp tỏ ra linh hoạt hơn rất nhiều và
đã hạn chế được nhược điểm duy nhất là khách hàng và ngân hàng không có cơ
hội tiếp xúc trực tiếp với nhau. Mặt khác, các nhân viên tín dụng của ngân hàng
là những người được đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ, có nhiều kinh nghiệm
trong lĩnh vực tín dụng, nên các quyết định tín dụng trực tiếp của ngân hàng
thường có cơ sở và chất lượng cao hơn những công ty bán lẻ. Hơn thế nữa, khi
tiếp xúc với khách hàng, nhân viên tín dụng thường chỉ quan tâm là chất lượng
của các khoản tín dụng, trong khi các công ty bán lẻ thường chú trọng đến doanh
số bán hàng. Bên cạnh đó, nếu ngân hàng giữ được mối quan hệ tốt với khách
hàng trong quá trình cho vay, ngân hàng sẽ có cơ hội để gia tăng lượng khách
hàng tiềm năng của mình còn khách hàng cũng gặp những thuận lợi nhất định
với những khoản vay về sau.
1.2.4 Vai trò của hoạt động cho vay tiêu dùng.
1.2.4.1 Đối với người tiêu dùng.
Có thể nói, các cá nhân và hộ gia đình là người được lợi trực tiếp từ hoạt
động cho vay tiêu dùng. Thông qua hoạt động này, người tiêu dùng được sử
dụng những sản phẩm dịch vụ như mong muốn, từ đó thoả mãn nhu cầu của họ.
Thực tế nảy sinh rất nhiều nhu cầu tự nhiên, thiết yếu, nhưng khả năng tài chính
của người tiêu dùng lại có hạn do đó họ không thể có một khoản tiền lớn để đáp
ứng ngay lập tức. Chính vì vậy, người ta chỉ có thể thụ hưởng những nhu cầu đó

khi về già, sau một thời gian tích luỹ nhất định. Khi đó độ thoả dụng từ việc sử
dụng hàng hoá, dịch vụ đã giảm đi rất nhiều. Các khoản cho vay tiêu dùng của
Trần Thị Minh Trang 13 Ngân Hàng 44A
Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng – Tài Chính
ngân hàng đã giúp họ kết hợp được cả nhu cầu hiện tại với khả năng thanh toán
trong tương lai. Người tiêu dùng đã quen với việc tìm đến ngân hàng như một
địa chỉ tin cậy để đáp ứng nhu cầu của họ khi cần thiết, không chỉ để thanh toán,
gửi tiết kiệm mà còn để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của mình. Như vậy, chính
các cá nhân và hộ gia đình là những người được hưởng lợi nhiều nhất từ những
giá trị có được từ hoạt động cho vay tiêu dùng.
1.2.4.2 Đối với ngân hàng thương mại.
NHTM là một tổ chức tài chính trung gian, do vậy để có thể cho các cá
nhân, hộ gia đình hay các doanh nghiệp vay tiền, ngân hàng cần phải huy động
vốn từ dân cư và các tổ chức kinh tế xã hội. Hoạt động cho vay của ngân hàng
đòi hỏi ngân hàng phải cố gắng và nỗ lực rất nhiều để đảm bảo cho hoạt động
này diễn ra nhanh nhất, an toàn và hiệu quả nhất, đặc biệt nó phải bù đắp được
khoản chi phí huy động vốn và tạo ra nguồn thu cho ngân hàng từ khỏan chênh
lệch thu chi. Do hoạt động cho vay tiêu dùng đáp ứng được những yêu cầu đó,
thị trường cho vay tiêu dùng lại hiện hữu và sinh lời rất cao nên không có lý do
gì các ngân hàng lai từ chối cấp tín dụng tiêu dùng, và sẽ là sai lầm nếu các ngân
hàng bỏ qua thị trường này. Trên thực tế, cho vay tiêu dùng có lãi suất hấp dẫn
và ổn định hơn so với cho vay kinh doanh, đặc biệt là cho vay tiêu dùng trả góp.
Mặt khác, về nguyên tắc trong trường hợp khách hàng không trả nợ gốc và lãi
đúng hạn thì họ sẽ phải trả lãi suất phạt lớn hơn rất nhiều . Hơn nữa, số lượng
các món vay tiêu dùng lớn nên rủi ro sẽ được phân tán bớt. Vì thế thu nhập từ
hoạt động này tạo ra một nguồn thu không nhỏ và có thể bù đắp chi phí hoạt
động cho ngân hàng.
Hơn nữa, khi thực hiện họat động cho vay tiêu dùng, ngân hàng thương
mại có thể đa dạng hoá danh mục đầu tư của mình. Qua đó giúp cho ngân hàng
nâng cao thu nhập đồng thời phân tán rủi ro có thể gặp phải trong hoạt động tín

dụng.
Xu hướng phát triển của ngân hàng thương mại hiện nay là đa dạng hoá
các sản phẩm dịch vụ cung ứng. Việc mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng, vừa
mở rộng được khách hàng, vừa tận dụng được nguồn vốn huy động, vừa đa dạng
hoá các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng. Bằng cách đó ngân hàng có thể nâng
cao sức mạnh trong cạnh tranh, đồng thời tạo ra sự khác biệt trong sản phẩm
dịch vụ của mình.
Trần Thị Minh Trang 14 Ngân Hàng 44A
Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng – Tài Chính
1.2.4.3. Đối với nền kinh tế xã hội.
Khác với hoạt động cho vay kinh doanh, mặc dù hoạt động cho vay tiêu
dùng không tạo ra những tác động trực tiếp nhưng nó tạo ra “một cú hích” đối
với nền kinh tế. Thông qua việc cấp tín dụng cho người tiêu dùng, ngân hàng đã
góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của họ, tạo điều kiện để họ tái sản xuất
sức lao động, nâng cao khả năng làm việc từ đó nâng cao hiệu quả công việc mà
họ đảm nhiệm.
Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng góp một phần đáng kể trong chính
sách kích cầu của nhà nước. Bằng việc kính thích sản xuất và tiêu dùng trong
nền kinh tế, cho vay tiêu dùng góp phần giúp nhà nước đạt được một số mục
tiêu kinh tế xã hội nhất định như: tăng mức sống cho dân cư, tăng GDP, thúc
đẩy quá trình sản xuất kinh doanh.
Đối với các ngành kinh tế, việc mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng sẽ
khuyến khích các ngành sản suất, tăng sức mua trong nền kinh tế, từ đó tạo nên
sự sôi động cho thị trường hàng hoá tiêu dùng, tạo nguồn sống cho khu vực sản
xuất trong nước.
Nói tóm lại, hoạt động cho vay tiêu dùng có ý nghĩa quan trọng đối với
người tiêu dùng, đối với ngân hàng nói riêng và đối với nền kinh tế nói chung.
1.3 CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU
DÙNG CỦA NHTM.
1.3.1. Các nhân tố chủ quan.

Việc mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại
trước hết phụ thuộc vào những yếu tố bên trong, thuộc về bản thân ngân hàng.
1.3.1.1. Chính sách tín dụng của ngân hàng.
Hoạt động tín dụng là hoạt động chủ yếu và đem lại nguồn thu lớn nhất
đối với các NHTM. Do tầm quan trọng và quy mô hoạt động của nó nên mỗi
ngân hàng đều xây dựng một chính sách tín dụng sao cho phù hơp với chính
sách, định hướng phát triển chung của ngân hàng trong từng thời kỳ. Chính sách
tín dụng phản ánh hoạt động tài trợ của một ngân hàng, nó bao gồm các chính
sách cụ thể liên quan đến các vấn đề:
• Chính sách khách hàng.
• Chính sách quy mô và giới hạn tín dụng.
• Lãi suất và phí suất tín dụng.
Trần Thị Minh Trang 15 Ngân Hàng 44A
Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng – Tài Chính
• Thời hạn tín dụng và kỳ hạn trả nợ.
• Các khoản đảm bảo.
• Chính sách đối với các tài sản có vấn đề.
Hoạt động cho vay tiêu dùng chịu sự điều chỉnh mạnh mẽ và trực tiếp từ
chính sách tín dụng của ngân hàng. Nếu như chính sách tín dụng là thông thoáng
cởi mở, nó sẽ có tác dụng khuyến khích hoạt động cho vay tiêu dùng phát triển.
Ngược lại nếu chính sách tín dụng của ngân hàng quy định quá khắt khe về quy
trình, quy chế cho vay thì nó sẽ hạn chế hoạt động cho vay tiêu dùng phát triển.
Đồng thời, khi ngân hàng có một chế độ thưởng phạt phân minh, những khuyến
khích vật chất và khen thưởng kịp thời đối với cán bộ tín dụng cũng có tác động
rất nhiều đến hoạt động cho vay tiêu dùng nói riêng và hoạt động tín dụng nói
chung. Chính chế độ này sẽ tác động đến phong cách làm việc và hiệu quả công
việc của cán bộ ngân hàng, động viên cán bộ tín dụng quan tâm và dành nỗ lực
nhiều hơn, phát huy hết khả năng của mình.
1.3.1.2. Hoạt động Marketing của ngân hàng.
Trong tình hình cạnh tranh gay gắt trên thị trường tài chính hiện nay, nhất

là cạnh tranh về lãi suất và chất lượng dịch vụ cung ứng thì việc mở rộng và
phát triển hoạt động đặt ra cho các ngân hàng thách thức rất lớn. Điều này đòi
hỏi các ngân hàng phải xây dựng cho mình một chiến lược Marketing riêng biệt
và phù hợp với những điều kiện hiện có. Hoạt động Marketing tập trung vào
việc xây dựng các chiến lược cụ thể như phân tích thị trường, nắm bắt toàn bộ
các thông tin về khách hàng, môi trường kinh doanh … Trên cơ sở đó các ngân
hàng sẽ xây dựng một cách linh hoạt, mềm dẻo các chính sách để thoả mãn tốt
nhất nhu cầu khách hàng, từ đó đạt được các mục tiêu đề ra. Ở Việt Nam hiện
nay lĩnh vực cho vay tiêu dùng còn khá mới, hơn nữa đối tựơng khách hàng của
hoạt động này chủ yếu là các cá nhân, hộ gia đình… thường có tâm lý e dè khi
sử dụng sản phẩm dịch vụ của ngân hàng mà họ chưa biết đến. Do vậy thực hiện
tốt hoạt động Marketing là yếu tố quan trọng để các ngân hàng thành công trong
lĩnh vực cho vay tiêu dùng.
1.3.1.3. Hệ thống công nghệ của ngân hàng.
Trong cuộc cạnh tranh giành khách hàng, các ngân hàng thường chú trọng
đến chất lượng dịch vụ cung ứng. Thực tế, chất lượng của dịch vụ không phụ
thuộc hoàn toàn vào hệ thống công nghệ mà ngân hàng sử dụng, nhưng chính
công nghệ là yếu tố tác nghiệp để nâng cao chất lượng dịch vụ của ngân hàng.
Trần Thị Minh Trang 16 Ngân Hàng 44A
Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng – Tài Chính
Nếu hệ thống công nghệ của ngân hàng phát triển, hiện đại thì sẽ tiết kiệm được
rất nhiều thời gian, công sức của cán bộ tín dụng nói riêng và cán bộ ngân hàng
nói chung, tạo điều kiện cho họ tập trung vào việc phát triển và mở rộng thị
trường. Đặc biệt hoạt động tín dụng ngày càng đòi hỏi phải có một hệ thống
công nghệ phát triển, nhằm hạn chế tối đa sự nhầm lẫn, sai sót trong suốt quá
trình khách hàng có quan hệ với ngân hàng
1.3.2.3. Hệ thống mạng lưới chi nhánh của ngân hàng.
Yếu tố này tạo ra những tác động nhất định đối với hoạt động cho vay
tiêu dùng của ngân hàng. Trong môi trường cạnh tranh khốc liệt để giành khách
hàng, ngân hàng cần tạo ra những tiện ích cho khách hàng trong quá trình sử

dụng sản phẩm dịch vụ - điều mà khách hàng đặc biệt quan tâm. Với sự phát
triển nhanh chóng của công nghệ thông tin, các ngân hàng đã chú trọng việc xây
dựng ngân hàng trực tuyến với rất nhiều tiện ích, giúp khách hàng có thể tiến
hành kiểm tra tài khoản hay thực hiện giao dịch với ngân hàng tại bất kỳ nơi
nào. Tuy vậy hầu hết khách hàng đều muốn đến giao dịch trực tiếp với ngân
hàng. Do đó, ngân hàng cần chú trọng tới việc mở rộng phát triển mạng lưới chi
nhánh, phòng giao dịch nhằm phục vụ khách hàng tốt hơn nhất là trong điều
kiện công nghệ còn chưa đáp ứng được các yêu cầu của ngân hàng trực tuyến.
Trụ sở ngân hàng đặt ở những nơi trung tâm, đông dân cư và nhu cầu vay vốn
lớn sẽ tạo ra lợi thế rất lớn cho hoạt động ngân hàng, bởi khách hàng sẽ chú ý
đến họ trước những ngân hàng khác có cùng dịch vụ cung cấp. Đồng thời ngân
hàng sẽ dễ dàng hơn trong việc thẩm định khách hàng và tiến hành các hoạt
động cho vay, giải ngân… từ đó mở rộng hơn nữa hoạt động cho vay tiêu dùng.
1.3.1.4. Kỹ thuật và thủ tục khi tiến hành cho vay.
Đây là yếu tố có tác động trực tiếp đến hoạt động cho vay tiêu dùng của
ngân hàng. Nếu thủ tục cho vay quá phức tạp, rườm rà qua nhiều bước, khách
hàng sẽ cảm thấy không hài lòng, không an tâm và nản lòng vay. Tuy nhiên nếu
các thủ tục này quá sơ sài, nhất là trong quá trình kiểm tra cho vay sẽ dẫn đến
những rủi ro đáng tiếc có thể xảy ra đối với ngân hàng. Do đó vấn đề đặt ra với
một ngân hàng thương mại là phải xây dựng được một quy trình, quy chế cho
vay gọn nhẹ, chặt chẽ sao cho khách hàng cảm thấy thoải mái trong suốt quá
trình sử dụng dịch vụ ngân hàng, đồng thời ngân hàng không phải bỏ lỡ cơ hội
kinh doanh của mình và cũng không gặp phải những rủi ro đáng tiếc.
Trần Thị Minh Trang 17 Ngân Hàng 44A
Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng – Tài Chính
1.3.1.5. Chất lượng hoạt động của cán bộ tín dụng.
• Khả năng thẩm định ban đầu đối với khách hàng.
Đây là yếu tố quan trọng ban đầu và quyết định chất lượng hoạt động cho
vay của ngân hàng. Thông thường khi cán bộ tín dụng tiấp xúc lần đầu với
khách hàng, họ sẽ có những đánh giá ban đầu. Với những cán bộ tín dụng có

kinh nghiệm họ sẽ đánh giá được tương đối chính xác rằng khách hàng đó có
đáng tin cậy hay không và có thể cho vay được không. Tuy đây chỉ là những
cảm nhận ban đầu nhưng không phải người cán bộ tín dụng nào cũng có được,
mà nó thuộc về tố chất làm tín dụng của cán bộ đó. Nếu người cán bộ tín dụng
có được tố chất này thì hoạt động cho vay sẽ diễn ra một cách nhanh chóng, an
toàn và hiệu quả hơn rất nhiều.
• Thái độ phục vụ khách hàng.
Nhân viên ngân hàng là người đại diện cho ngân hàng, quyết định ấn tượng
của khách hàng về ngân hàng khi khách hàng lần đầu tiên đến với ngân hàng với
nhu cầu sử dụng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Do vậy mà ấn tượng của khách
hàng về ngân hàng là tốt hay xấu phụ thuộc rất nhiều bởi thái độ niềm nở, hết lòng
phục vụ, hướng dẫn tận tình của người cán bộ tín dụng. Đây cũng là một lợi thế
cạnh trnah quan trọng so với các ngân hàng khác trong lĩnh vực cho vay tiêu dùng,
Có thể nói chính những người cán bộ tín dụng với thái độ phục vụ hết sức tận tình
đã đóng góp không nhỏ vào sự thành công của mỗi hợp đồng tín dụng.
• Đạo đức nghề nghiệp của cán bộ tín dụng.
Đối với hoạt động tín dụng, đạo đức nghề nghiệp được đặt lên hàng đầu.
Một người cán bộ tín dụng trước hết cần phải có những đức tính trung thực, liêm
khiết từ đó mới đưa ra những quyết định đúng đắn vừa có lợi cho ngân hàng vừa
thuận tiện cho khách hàng.
• Khả năng tiếp thi và mở rộng thị trường.
Đây không phải là một yêu cầu bắt buộc đối với người cán bộ tín dụng,
và không phải ai cũng có được khả năng này. Tuy nhiên các ngân hàng đều
mong muốn nhân viên của mình có được khả năng trên bởi nếu không có nó
hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng khó có thể phát triển như mong đợi.
• Tinh thần trách nhiệm.
Sự đam mê, tinh thần trách nhiệm của người cán bộ tín dụng đối với công
việc có ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động cho vay tiêu dùng. Do đó, các cấp
lãnh đạo ngân hàng cần thiết phải tạo ra một môi trường làm việc phong phú tạo
Trần Thị Minh Trang 18 Ngân Hàng 44A

Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng – Tài Chính
sự đam mê hứng khởi, cạnh tranh lành mạnh giữa các nhân viên để họ có thể cống
hiến hết mình, làm cho hoạt động cho vay tiêu dùng diễn ra an toàn và hiệu quả.
1.3.2 Các nhân tố khách quan.
Bên cạnh những nhân tố chủ quan thuộc về bản thân ngân hàng, hoạt
động cho vay tiêu dùng còn chịu ảnh hưởng của một số nhân tố khách quan sau:
1.3.2.1. Nhân tố vĩ mô.
• Môi trường kinh tế, xã hội.
Đây là nhân tố được nhắc đến đầu tiên khi xem xét ảnh hưởng đối với
hoạt động cho vay tiêu dùng. Khi nền kinh tế tăng trưởng, phát triển, xã hội ổn
định, đời sống dân cư được cải thiện và họ có nhu cầu nâng cao chất lượng cuộc
sống. Với mức thu nhập cao và ổn định hơn trước, các nhu cầu về chi tiêu hay
sử dụng các sản phẩm dịch vụ có giá trị lớn,chất lượng cao cũng hình thành.
Hơn nữa, nền kinh tế phát triển ổn định còn có tác dụng khuyến khích đầu tư,
tiêu dùng trong dân cư, hạn chế tiết kiệm từ đó thúc đẩy hoạt động cho vay tiêu
dùng phát triển.
• Môi trường văn hoá.
Môi trường văn hóa cũng có những ảnh hưởng nhất định đối với hoạt
động cho vay tiêu dùng của ngân hàng. Mỗi nền văn hoá đều có những nét đặc
thù riêng biệt, nó ảnh hưởng không nhỏ đến việc tiêu dùng của các tầng lớp dân
cư bởi các quyết định tiêu dùng của người dân bị chi phối rất nhiều bởi thói
quen chi tiêu, mua sắm, trình độ văn hoá,….
• Môi trường pháp lý.
Tạo ra khuôn khổ pháp luật giúp cho hoạt động cho vay tiêu dùng diễn ra
trôi chảy, an toàn và hiệu quả theo một khuôn khổ thống nhất. Chính vì thế, môi
trường pháp lý ổn định sẽ tạo điều kiện rất lớn cho sự phát triển của hoạt động
cho vay tiêu dùng. Tại những nước phát triển, Luật tín dụng ra đời nhằm điều
chỉnh quyền lợi và nghĩa vụ các bên tham gia hoạt động tín dụng, đảm bảo cho
hoạt động này phát triển đồng thời tránh được những rắc rối, tổn thất đáng tiếc
có thể xảy ra. .

1.3.2.2. Nhân tố vi mô.
Ngoài những nhân tố vĩ mô, hoạt động cho vay tiêu dùng còn chịu sự chi
phối, ảnh hưởng của những nhân tố vi mô, đó là:
• Nhu cầu, thói quen và đạo đức khách hàng.
Trần Thị Minh Trang 19 Ngân Hàng 44A
Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng – Tài Chính
Khách hàng là nhân tố có ảnh hưởng rất lớn đến sự thành công của các
quan hệ tín dụng trong hoạt động tín dụng nói chung và cho vay tiêu dùng nói
riêng. Chính nhu cầu của khách hàng sẽ là độnh lực để họ tìm đến ngân hàng
nhằm thoả mãn nhu cầu của mình. Nếu ngân hàng đáp ứng một cách tốt nhất
nhu cầu và thoả mãn nhu cầu của khách hàng thì hoạt động tín dụng của ngân
hàng sẽ phát triển rất tốt.
Bên cạnh đó thói quen của người tiêu dùng cũng có tác động tích cực
hoặc tiêu cực đến ngân hàng. Khi khách hàng có thói quen sử dụng dịch vụ ở
một ngân hàng thì đó sẽ là lợi thế cạnh tranh rất lớn của ngân hàng đó đối với
những đối thủ khác.
Hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng sẽ diễn ra trôi chảy nếu tất cả
những khách hàng đều đáp ứng đầy đủ những yêu cầu tối thiểu mà ngân hàng đề
ra đồng thời thực hiện tốt các nghĩa vụ của mình. Đạo đức của khách hàng vay
được đánh giá dựa trên năng lực pháp lý và độ tín nhiệm của họ. Năng lực pháp
lý của khách hàng được đánh giá qua việc khách hàng không vi phạm các quy
định pháp luật trong, trước và sau quá trình xin vay. Còn mức độ tín nhiệm của
ngân hàng đối với khách hàng đó được đánh giá thông qua những yếu tố về thu
nhập, tài sản đảm bảo, sự sẵn lòng trả nợ của khách hàng.
• Năng lực tài chính của khách hàng.
Một khách hàng đáp ứng đầy đủ những yêu cầu của ngân hàng thì trước
hết phải có năng lực tài chính lành mạnh và đủ lớn để thực hiện nghĩa vụ trả nợ
đối với ngân hàng. Với mỗi cán bộ tín dụng vấn đè quan tâm đầu tiên về khách
hàng của mình chính là khả năng trả nợ. Nếu nguồn trả nợ đủ mạnh có thể đáp
ứng được yêu cầu của ngân hàng nhưng không lành mạnh và ổn định thì cũng

cần phải xem xét kỹ lưỡng.
• Các đối thủ cạnh tranh.
Ngoài các nhân tố thuộc về khách hàng, khả năng của các đối thủ cạnh
tranh cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động cho vay tiêu dùng. Mối ngân
hàng trong quá trình phát triển phải xác định được chỗ đứng của mình trong giới
ngành để có những chiến lược phát triển đúng đắn.
Những nhân tố khách quan và chủ quan trên có ảnh hưởng rất lớn đến
hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động cho vay tiêu dùng nói riêng của một
ngân hàng thương mại. Để có chiến lược phát triển đúng đắn thì mỗi ngân hàng
phải tự mình xem xét và đánh giá những điểm yếu và thế mạnh riêng của mình,
từ đó đưa ra những kế hoạch phát triển cụ thể trong từng thời kỳ.
Trần Thị Minh Trang 20 Ngân Hàng 44A
Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng – Tài Chính
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG TẠI
NGÂN HÀNG TMCP CÁC DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC
DOANH VIỆT NAM
2.1. KHÁI QUÁT VỀ NGÂN HÀNG TMCP CÁC DOANH NGHIỆP
NGOÀI QUỐC DOANH VIỆT NAM (VPBANK).
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của VPBank.
Ngân hàng Thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt
Nam (tên giao dịch là VPBank) được Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam
cấp giấp phép hoạt động số 0042/NH – GP ngày 12/08/1993 với thời gian hoạt
động 99 năm. Ngân hàng bắt đầu đi vào hoạt động từ ngày 04/09/1993 theo giấy
phép thành lập số 1535/QĐ - UB ngày 04/09/1993.
Vốn điều lệ khi mới thành lập của VPBank là 20 tỷ đồng, với 6 cổ đông
sáng lập là các pháp nhân, thể nhân Việt Nam.Sau đó do nhu cầu phát triển,
VPBank đã tăng vốn điều lệ lên 70 tỷ đồng theo quyết định số 193/ QĐ - NH5
ngày 12/09/1994 và tiếp tục tăng lên 174,9 tỷ đồng theo quyết định số 53/QĐ -
NH5 vào ngày 18/03/1996 của NHNN tương đương với 174.900 cổ phiếu thuộc

sở hữu của 102 cổ đông thể nhân và pháp nhân thuộc các thành phần kinh tế
ngoài quốc doanh, trong đó có một cổ đông nước ngoài là DRAGON CAPITAL
nắm giữ 10% vốn điều lệ. Đến cuối năm 2004, VPBank nhận được quyết định
số 689/NHNN_HAN của Ngân hàng Nhà nước chấp thuận cho VPBank được
nâng vốn điều lệ lên 198,4 tỷ đồng. Trong quý I năm 2005, theo công văn chấp
thuận số 134/ NHNN_HAN7 ngày 25/2/2005, NHNN đã chấp thuận cho
VPBank nâng vốn điều lệ lên 243,7 tỷ đồng, đã đáp ứng được quy mô và phạm
vị hoạt động ngày càng rộng của VPBank, đồng thời thể hiện được tiềm lực của
VPBank trong hiện tại và tương lai.
Ngày 21/03/2006, VPBank đã ký thỏa thuận hợp tác chiến lược với ngân
hàng OCBC Bank (Singapore). Với thỏa thuận này, OCBC Bank cam kết hỗ trợ
VPBank về mặt kỹ thuật, công nghệ, đào tạo trong các lĩnh vực: tín dụng, thẻ,
các biện pháp quản trị rủi ro và công nghệ thông tin OCBC Bank chính thức
trở thành cổ đông chiến lược lớn nhất của VPBank. Cũng theo thỏa thuận, ngay
khi vốn điều lệ của VPBank đạt 500 tỷ đồng OCBC Bank sẽ sử dụng vốn tự có
của mình để mua 10% cổ phần gia tăng của VPBank, tương đương với 250 tỷ
đồng. Việc lựa chọn OCBC Bank là cổ đông chiến lược sẽ giúp VPBank mở
Trần Thị Minh Trang 21 Ngân Hàng 44A
Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng – Tài Chính
rộng hợp tác với các ngân hàng nước ngoài, nhanh chóng tiếp nhận công nghệ
hiện đại. Đặc biệt nó tạo ra môi trường rất tốt cho cán bộ điều hành của VPBank
bắt nhịp được với công nghệ quản trị ngân hàng tiên tiến trên thế giới.
Trong suốt quá trình hình thành và phát triển, VPBank luôn chú ý đến
việc mở rộng quy mô, tăng cường mạng lưới hoạt động tại các thành phố lớn.
Cuối năm 1993, Thống đốc NHNN ký giấy phép số 0018-GCT ngày 16/12/1993
chấp thuận cho VPBank mở chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh. Ngày
19/11/1994, VPBank được phép mở thêm chi nhánh tại Hải Phòng theo giấy
phép số 0020/ GCT và ngày 20/7/1995, chi nhánh Đà Nẵng theo giấy phép số
0026/GCT. Đến cuối năm 2004, VPBank được NHNN cho phép mở thêm 3 chi
nhánh cấp 1 mới đó là Chi nhánh Hà Nội (trên cơ sở tách bộ phận trực tiếp kinh

doanh trên địa bàn Hà Nội ra khỏi hội sở) theo công văn chấp thuận số
1128/NHNN-CNH ngày 6/10/2004; chi nhánh Huế theo công văn chấp thuận số
1106/NHNN- CNH ngày 1/10/2004; chi nhánh Sài Gòn theo công văn chấp
thuận số 1350/NHNN-CNH ngày 23/11/2004. Đầu năm 2005, VPBank tiếp tục
mở thêm 4 chi nhánh cấp I là chi nhánh Cần Thơ (theo công văn chấp thuận số
227/NHNN-CNH ngày 23/3/2005): chi nhánh Quảng Ninh (theo công văn chấp
thuận số 227/NHNN-CNH ngày 23/3/2005); chi nhánh Vĩnh Phúc (theo công
văn chấp thuận số 682/NHNN-CNH ngày 16/5/2005); và chi nhánh bắc Giang
(theo công văn chấp thuận số 986/QĐ-NHNN ngày 06/7/2005)
Tính đến tháng 12 năm 2005, hệ thống VPBank có tổng cộng 31 điểm
giao dịch gồm có: Hội sở chính tại Hà Nội, 12 chi nhánh cấp I tại các tỉnh, thành
phố của đất nước là Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng,
Cần Thơ, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc và Bắc Giang, 15 chi nhánh cấp 2 và 4 phòng
giao dịch. Trong 2 năm 2005 và 2006 VPBank dự kiến mở thêm khoảng 20
điểm giao dịch mới tại các tỉnh, thành là trọng điểm kinh tế của đất nước.
Cho đến nay, lĩnh vực hoạt động của VPBank tương đối đa dạng, bao
gồm các hoạt động:
• Huy động vốn ngắn – trung – dài hạn của các tổ chức và cá nhân.
• Huy động gửi góp.
• Tiếp nhận vốn uỷ thác đàu tư và phát triển của các tổ chức trong nước.
• Tài trợ ngắn – trung – dài hạn cho các tổ chức và cá nhân
• Chiết khấu thương phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá.
• Hùn vốn liên doanh, mua cổ phần theo pháp luật hiện hành.
• Làm dịch vụ thanh toán giữa các khách hàng.
Trần Thị Minh Trang 22 Ngân Hàng 44A
Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng – Tài Chính
• Thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ, thanh toán quốc tế, huy
động các nguồn vốn từ nước ngoài và làm dịch vụ thanh toán quốc tế
khác.
• Thực hiện các dịch vụ chuyển tiền trong nước và quốc tế dưới nhiều

hình thức, đặc biệt là chuyển tiền nhanh Western Union.
Để có thể thực hiện tốt các họat động trên VPBank đã thu nhận một đội
ngũ đông đảo cán bộ công nhân viên với chính sách đãi ngộ hết sức ưu đãi. Tại
thời điểm ban đầu thành lập 12/08/1993 VPBank chỉ hoạt động với 18 người thì
tính đến thời điểm 01/2006 số lượng cán bộ, nhân viên của VPBank trên toàn hệ
thống là gần 782 người, tăng 298 người so với năm 2004, trong đó 440 nữ và
342 nam; về trình độ: có 15 người có trình độ trên đại học (tăng 12 người so với
năm 2004), 602 người có trình độ đại học (chiếm 78% tổng nhân sự của
VPBank); trong năm, có 30 cán bộ được đề bạt vào chức danh trưởng, phó
phòng. Với đội ngũ cán bộ, nhân viên năng động, nhiệt tình và có trình độ
nghiệp vụ cao, nguồn nhân lực của VPBank luôn được đánh giá cao và sẽ là một
trong những tiền đề cho sự phát triển của VPBank về sau.
VPBank hiện đang có 61 ngân hàng đại lý tại 31 quốc gia trên thế giới
trong đó có những ngân hàng danh tiếng như ABN ARMO Bank New York
(Mỹ), The Bank of New York (Mỹ), Standard Chartered Bank New York (Mỹ),
Citi Bank of N.A New York (Mỹ), The Bank of Tokyo–Mitsubishi Ltd (Nhật)…
Năm 2000 đã đánh dấu một bước chuyển biến quan trọng trong quá trình
phát triển của VPBank bằng việc Hội Đồng Quản Trị quyết định lựa chọn mục
tiêu chiến lược của VPBank trong 10 năm tới là xây dựng VPBank trở thành
ngân hàng bán lẻ điển hình hàng đầu của Việt Nam và trong khu vực. Với mục
tiêu đó, VPBank tiếp tục tập trung vào việc cung cấp các sản phẩm và dịch vụ
ngân hàng bán lẻ, hướng tới khách hàng mục tiêu là các doanh nghiệp vừa và
nhỏ, các cá nhân có nhu cầu kinh doanh và tiêu dùng…Hoạt động của VPBank
đã được mở rộng cả về số lượng và quy mô, uy tín của ngân hàng ngày càng
được nâng cao, VPBank dần dần từng bước chiếm lĩnh thị trường bán lẻ và trở
thành ngân hàng bán lẻ hàng đầu Việt Nam.
Trong năm 2006, VPBank sẽ triển khai dịch vụ thẻ. Đây là một bước đi
cần thiết, nó tạo ra một lợi thế cạnh tranh hết sức quan trọng trong cuộc đua
nhắm tới khối thị trường ngân hàng bán lẻ. Qua đó, VPBank sẽ mở rộng thị
phần, nâng cao vị thế và thương hiệu của mình nhằm thực hiện mục tiêu ngân

hàng bán lẻ.
Trần Thị Minh Trang 23 Ngân Hàng 44A
Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng – Tài Chính
2.1.2 Cơ cấu tổ chức của VPBank.
2.1.2.1 Cơ cấu tổ chức.
Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức của VPBank.
Trần Thị Minh Trang 24 Ngân Hàng 44A
Đại hội Cổ đông
CN Hà Nội
CN Hải Phòng
CN Quảng Ninh
CN Vĩnh Phúc
CN Bắc Giang
CN Cần Thơ
CN Sài Gòn
CN Huế
CN TP. HCM
CN Đà Nẵng
CN Thăng Long
Ban kiểm soát
P.KTKT nội bộ
Phòng thu hồi nợ
Phòng Ngân Quỹ
Phòng Kế toán
Phòng Tổng hợp & Quản
Lý CN
Phòng TTQT & Kiều hối
Trung tâm đào tạo
Trung tâm tin học
TTDV chuyển tiền

WesternUnion
Văn phòng của VPBank
Các
chi
nhánh
cấpII

phòng
giao
dịch
Ban điều hành
Hội sở Hà Nội
Hội đồng quản trịHội đồng Tín dụng
Các ban Tín dụng
Luận văn tốt nghiệp Khoa Ngân Hàng – Tài Chính
2.1.2.2 Cơ cấu quản trị.
Hội đồng quản trị (HĐQT) được bầu tại Đại hội cổ đông (ĐHCĐ) ngày
02/02/2002 với nhiệm kỳ 4 năm, gồm 5 thành viên trong đó có 3 uỷ viên thường
trực gồm có Chủ tịch, Phó chủ tịch thứ nhất và một uỷ viên thường trực. Các uỷ
ban trực thuộc HĐQT
• Ban kiểm sóat : Do ĐHCĐ bầu gồm 3 thành viên, trong đó 1 thành
viên là cổ đông, 2 thành viên còn lại là thành viên chuyên trách.
• Hội đồng tín dụng là tổ chức do HĐQT thành lập (Tại Hội sở do Phó
chủ tịch thứ nhất làm chủ tịch; tại chi nhánh Hồ Chí Minh do Chủ tịch
Hội đồng quản trị làm chủ tịch)
• Ban tín dụng các chi nhánh cấp I.
• Hội đồng quản lý tài sản nợ, tài sản có do Tổng Giám Đốc làm chủ tịch
Hội đồng tín dụng và ban tín dụng đều có nhiệm vụ xem xét phê duyệt
các quyết định cấp tín dụng cho khách hàng nhưng với các giới hạn tín
dụng khác nhau.

2.1.3 Tình hình hoạt động kinh doanh của VPBank trong những năm gần
đây.
Trong 2 năm gần đây 2004 – 2005 bối cảnh kinh tế quốc tế và trong nước
đã có không ít biến động đã tạo ra những điều kiện thuận lợi và cũng không ít
khó khăn đối với khu vực tài chính. Hệ thống ngân hàng tiếp tục gặt hái được
nhiều thành công trong các lĩnh vực hoạt động. Hầu hết các ngân hàng thương
mại cổ phần đều gia tăng vốn điều lệ, và đã có một số ngân hàng bán cổ phần
cho cổ đông nước ngoài. Mức độ cạnh tranh trên thị trường tài chính ngày càng
gay gắt, cac ngân hàng đua nhau tăng lãi suất huy động, mở rộng hệ thống mạng
lưới chi nhánh trên khắp cả nước, đưa ra các chương trình khuyến mại huy động
lên tới hàng tỷ đồng, gia tăng các tiện ích của sản phẩm dịch vụ… Trong bối
cảnh đó, mặc dù vừa trải qua giai đoạn khủng hoảng kéo dài (1997 - 2004)
VPBank đã đạt được những thành tích đáng kể, vươn lên khẳng định được mình
với uy tín thương hiệu ngày càng vững mạnh, tình hình tài chính lành mạnh và
chất lượng hoạt động được kiểm soát rất tốt.
Trần Thị Minh Trang 25 Ngân Hàng 44A

×